Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

THỰC TRẠNG CHÍNH PHỦ điện tử ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.84 KB, 15 trang )

Nhóm 6 – Thương mại điện tử
THỰC TRẠNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
I. Xếp hạng Chính phủ điện tử Việt Nam năm 2012:
(Nguồn: E – Government Survey 2012 – United Nations)
Theo xếp hạng Chính phủ điện tử của LHQ năm 2012: VN xếp thứ
83/190, tăng 7 bậc so với thứ hạng 90/190 của năm 2010, vươn lên xếp
thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á (sau Singapo, Malaysia, Bruney). VN
cũng nằm trong 50 nước có ứng dụng trong hoạt động của Chính phủ tốt
nhất.
II. Định nghĩa về Chính phủ điện tử của VN. Các cấp bậc phát
triển CPĐT của VN: (Nguồn: Wikipedia và egov.org.vn – website
của CPĐT VN)
1. Định nghĩa về CPĐT của VN:
a. CPĐT là gì?
Chính phủ Điện tử (e-Government) là tên gọi của một chính phủ mà
mọi hoạt động của nhà nước được "điện tử hóa", "mạng hóa". Tuy nhiên,
chính phủ điện tử không đơn thuần là máy tính, mạng Internet; mà là sự
đổi mới toàn diện các quan hệ (đặc biệt là quan hệ giữa chính quyền và
công dân), các nguồn lực, các quy trình, phương thức hoạt động và bản
thân nội dung các hoạt động của chính quyền trung ương và địa phương,
và ngay cả các quan niệm về các hoạt động đó.
Chính phủ Điện tử là ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông
(ICT) để các cơ quan của Chính quyền từ trung ương và địa phương đổi
mới, làm việc có hiệu lực, hiệu quả và minh bạch hơn; cung cấp thông
tin, dịch vụ tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp và các tổ chức; và tạo
điều kiện thuận lợi hơn cho người dân thực hiện quyền dân chủ và tham
gia quản lý Nhà nước.
b. Mục tiêu của CPĐT:
- Tạo môi trường kinh doanh tốt hơn;
- Khách hàng trực tuyến, không phải xếp hàng;
- Tăng cường sự điều hành có hiệu quả của chính phủ và sự tham gia rộng


rãi của người dân;
- Nâng cao năng suất và tính hiệu quả của các cơ quan chính phủ;
- Nâng cao chất lượng cuộc sống cho các cộng đồng vùng sâu vùng xa.
Nhóm 6 – Thương mại điện tử
c. Các dạng giao dịch của CPĐT:
- Chính phủ với Công dân (G2C);
- Chính phủ với Doanh nghiệp (G2B);
- Chính phủ với người lao động (G2E);
- Chính phủ với Chính phủ (G2G).
d. CPĐT tại VN:
Hiện nhiệm vụ xây dựng và thực hiện Chính phủ Điện tử ở Việt
nam được giao cho Bộ Thông tin và Truyền thông phụ trách, đứng đầu là
Thứ trưởng Nguyễn Minh Hồng trên cơ sở thừa kế những thành công và
khắc phục những thất bại của Đề án 112 ( Đề án Tin học hóa hành chính
nhà nước của Chính phủ Việt Nam nhằm mục đích xây dựng chính phủ
điện tử ở Việt Nam. Đây là một chương trình hiện đại hóa hành chính của
chính quyền Việt Nam giai đoạn từ 2001 - 2010 về cải cách thủ tục hành
chính nhà nước.)
2. Các cấp bậc phát triển CPĐT của VN:
Trải qua 10 năm kể từ khi bắt đầu xây dựng và đưa vào hoạt động,
CPĐT của VN đã có nhiều bước phát triển, gắn với từng thời kì cụ thể:
a. Năm 2003 – 2005:
- Đây là giai đoạn sơ khai đưa ứng dụng CNTT vào bộ máy quản lý
của chính quyền, từng bước xây dựng CPĐT tại Việt Nam.
- Sau năm 2003, chính phủ và hầu hết các bộ ngành đều đã có cổng
thông tin điện tử riêng, cung cấp lượng lớn các văn bản pháp quy riêng
cũng như các thông tin cập nhật trong khu vực bộ - ngành trực tiếp quản
lý, thu được nhiều kết quả tốt đẹp.
b. Năm 2006:
- Quốc hội chính thức ban hành Luật Công nghệ thông tin quy định cụ

thể về nguyên tắc, điều kiện, nội dung ứng dụng CNTT trong hoạt động
cơ quan nhà nước.
c. Năm 2007:
- Sau 5 năm liên tục góp phần thúc đẩy tiến trình triển khai các dự án,
đề án tin học hướng tới việc xây dựng chính phủ điện tử, nhiều các hoạt
động ứng dụng CNTT trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước có
những bước thay đổi mạnh mẽ.
Nhóm 6 – Thương mại điện tử
- Chính phủ lên kế hoạch triển khai Đề án Chương trình ứng dụng
CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2007-2010
(Chương trình 64) thể hiện quyết tâm của chính phủ trong việc đẩy mạnh
ứng dụng CNTT trong các hoạt động của cơ quan chính phủ và là nền
tảng pháp lý quan trọng ban đầu cho việc xây dựng CPĐT trong tương
lai.
d. Năm 2008
- Nếu trong giai đoạn trước đây, việc triển khai CPĐT mới chỉ dừng
lại ở mức “tin học hóa hoạt động hành chính” thì bước sang năm 2008,
việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia và cải cách các thủ tục hành chính
theo hướng xây dựng dịch vụ công trực tuyến (Đề án 30) mới là hướng
phát triển chủ đạo.
e. Năm 2009:
- Hoạt động ứng dụng CNTT trong khối cơ quan chính phủ đã có bước
thay đổi lớn, dựa trên kế hoạch chủ động của các bộ ngành và địa phương
thay vì dựa theo kế hoạch thống nhất từ Trung ương xuống như cách làm
trước đây. Đây chính là bước tiến quan trọng trong tầm nhìn của Chính
phủ đối với vấn đề CPĐT khi đặt người dân vào vị trí trung tâm bởi lẽ
muốn thực hiện CPĐT thành công phải tìm hiểu nhu cầu thực của người
dân trong từng địa phương khác nhau.
f. Năm 2010
- Năm 2010 được coi là một mốc quan trọng trong việc triển khai

CPĐT tại Việt Nam. Cùng với việc đánh giá việc triển khai Quyết định số
48/2009/QĐ-TTg về “Ứng dụng CNTT –TT trong các cơ quan Nhà nước
giai đoạn 2009-2010” và tổng kết thực hiện chỉ thị số 58/CT-TW của Bộ
Chính trị, kế hoạch quốc gia về “Ứng dụng CNTT-TT trong các cơ quan
Nhà nước giai đoạn 2011-2015” với tổng đầu tư hơn 40 triệu USD vào 20
dự án quốc gia cũng sẽ được thông qua.
 Tổng kết lại giai đoạn 2008-2010, tiến trình triển khai CPĐT đã
đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận, trong năm 2010, tỷ lệ bộ có
website đạt 100%, đối với cấp tỉnh, thành phố; con số này cũng đạt đến
98.4%. Bên cạnh đó, tỷ lệ trung bình dịch vụ công trực tuyến ở cấp Bộ
cũng đạt 76.6%, tăng mạnh so với mức 46.9% của năm 2009; ở cấp địa
phương, con số này tuy khiêm tốn hơn nhưng cũng rất đáng khích lệ đó là
55.6%.
g. Năm 2011
- Mặc dù theo báo cáo xếp hạng của Liên hiệp Quốc (2010), Việt Nam
đã có những bước tiến vượt bậc trong việc ứng dụng CNTT tại các cơ
Nhóm 6 – Thương mại điện tử
quan chính phủ, cung cấp các dịch vụ của chính phủ cho công dân (cải
thiện vị trí từ 126 năm 2006 lên 90 trong năm 2010; xếp thứ 6/10 trong
các nước ASEAN), và việc đánh giá xếp hạng dựa trên các chỉ số chính
như sự sẵn sang điện tử, đánh giá web, nhân lực và hạ tầng cơ sở trong
nước cũng rất khả quan; thực tế lại cho thấy việc triển khai CPĐT –
CCHC vẫn còn nhiều chống chéo, khúc mắc, thủ tục hành chính còn phức
tạp, ở nhiều địa phương, CNTT –TT vẫn chưa thể phát huy tối đa vai trò
của mình.
h. Năm 2012
Năm 2012 tiếp tục đánh dấu sự phát triển ứng dụng CNTT vào các
hoạt động hành chính cũng như xây dựng chính phủ điện tử (CPĐT) tại
Việt Nam. Điều này được thể hiện qua các con số khá ấn tượng như
96,6% các bộ ngành có website riêng, 100% các tỉnh thành phố có cổng

thông tin điện tử, 83.6% các thông tin chỉ đạo ban hành được đưa lên
mạng (theo báo cáo của IDG về chính phủ điện tử 2012). Đồng thời,
chính phủ cũng đã đưa ra các mục tiêu cho giai đoạn 2011 – 2015 về
CPĐT, hướng tới bảo đảm hạ tầng kỹ thuật phục vụ ứng dụng công nghệ
thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước trên quy mô quốc gia,
xây dựng hệ thống thông tin quốc gia, hoàn thiện hệ thống thông tin
chuyên ngành quy mô quốc gia thiết yếu, phục vụ cung cấp dịch vụ cho
người dân và doanh nghiệp, thực hiện hiệu quả, định hướng đồng bộ và
thống nhất việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà
nước.
Báo cáo xếp hạng năm 2012 của Liên hợp quốc về chính phủ điện tử
cũng thể hiện sự cải thiện thứ bậc của của Việt Nam khi từ vị trí thứ 90
năm 2010 tiến lên vị trí thứ 83 năm 2012, đứng thứ 4 trong khu vực Đông
Nam Á chỉ sau Singapore, Malaysia và Brunei. Phần lớn các chỉ số đánh
giá của Việt Nam đều đạt cao hơn so với mức trung bình của thế giới
cũng như trong khu vực, nổi bật là chỉ số về cơ sở hạ tầng, nguồn lực con
người hay chỉ số CPĐT.
i. Năm 2013
Năm 2013 được coi là năm bản lề trong triển khai Chương trình Quốc
gia về Ứng dụng CNTT trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước (2011
– 2015). Mục tiêu trong giai đoạn này là tiếp tục tăng cường ứng dụng
công nghệ hiện đại trong việc nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ
quan Chính phủ; thiết lập hệ thống thông tin quốc gia toàn diện, minh
bạch; cải tiến dịch vụ công và gắn kết với người dân, doanh nghiệp,
hướng tới xây dựng một Chính phủ điện tử hiệu quả hơn.
Nhóm 6 – Thương mại điện tử
III. Giới thiệu các dịch vụ công trực tuyến của VN:
1. Dịch vụ công trực tuyến là gì?
Dịch vụ hành chính công là những dịch vụ liên quan đến hoạt động
thực thi pháp luật, không nhằm mục tiêu lợi nhuận, do cơ quan nhà nước

(hoặc tổ chức, doanh nghiệp được ủy quyền) có thẩm quyền cấp cho tổ
chức, cá nhân dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý trong các
lĩnh vực mà cơ quan nhà nước đó quản lý.
Dịch vụ công trực tuyến là dịch vụ hành chính công và các dịch vụ
khác của cơ quan nhà nước được cung cấp cho tổ chức, cá nhân trên môi
trường mạng.
Theo hướng dẫn của Bộ Thông tin và Truyền thông tại Thông tư số
26/2009/TT-BTTTT ngày 31/07/2009 về việc cung cấp thông tin và đảm
bảo khả năng truy cập thuận tiện đối với trang thông tin điện tử của cơ
quan nhà nước, dịch vụ công trực tuyến được đánh giá theo 4 mức độ như
sau:
Mức độ 1: dịch vụ đảm bảo cung cấp đầy đủ các thông tin về quy
trình, thủ tục; hồ sơ; thời hạn; phí và lệ phí thực hiện dịch vụ.
Mức độ 2: dịch vụ công trực tuyến đã đáp ứng mức độ 1 và cho phép
người sử dụng tải về các mẫu văn bản và khai báo để hoàn thiện hồ sơ
theo yêu cầu. Hồ sơ sau khi hoàn thiện được gửi trực tiếp hoặc qua đường
bưu điện đến cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ.
Mức độ 3: dịch vụ công trực tuyến mức đã đáp ứng mức độ 2 và cho
phép người sử dụng điền và gửi trực tuyến các mẫu văn bản đến cơ quan,
tổ chức cung cấp dịch vụ. Các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ và
cung cấp dịch vụ được thực hiện trên môi trường mạng. Việc thanh toán
lệ phí (nếu có) và nhận kết quả được thực hiện trực tiếp tại cơ quan, tổ
chức cung cấp dịch vụ.
Mức độ 4: dịch vụ công trực tuyến đã đáp ứng mức độ 3 và cho phép
người sử dụng thanh toán lệ phí (nếu có) được thực hiện trực tuyến. Việc
trả kết quả có thể được thực hiện trực tuyến, gửi trực tiếp hoặc qua đường
bưu điện đến người sử dụng.
2. Một số dịch vụ công trực tuyến của VN:
a. Cấp giấy chứng nhận Đăng kí tàu cá đối với tàu cá đóng mới của Tổng
cục Thủy sản VN: (mức độ 2)

* Nội dung:
Nhóm 6 – Thương mại điện tử
+ Bước 1: Tổ chức/Cá nhân đăng ký tài khoản người dùng để đăng nhập
sử dụng hệ thống, điền và nộp hồ sơ điện tử.
Tổ chức/Cá nhân điền toàn bộ thông tin cần thiết trên biểu mẫu hồ sơ
điện tử và đính kèm các tệp bản quét/bản mềm đối với những văn bản, tài
liệu đi kèm hồ sơ.
+ Bước 2: Sau khi điền đầy đủ thông tin, Tổ chức/Cá nhân nhấp vào nút
Gửi hồ sơ để gửi hồ sơ điện tử.
Hồ sơ sẽ được chuyển về đơn vị tiếp nhận và xử lý hồ sơ nêu trên và sẽ
được đơn vị này thẩm định, giải quyết.
+Bước 3: Khi hồ sơ hợp lệ và đầy đủ điều kiện giải quyết, Tổ chức/Cá
nhân sẽ in và gửi toàn bộ hồ sơ trực tiếp tới bộ phận “một cửa” – Văn
phòng Tổng cục Thủy sản hoặc gửi qua đường bưu điện
+Bước 4: Trường hợp cá nhân, tổ chức nộp hồ sơ trực tiếp, cơ quan Cấp
giấy chứng nhận phải xem xét, hướng dẫn cá nhân, tổ chức bổ sung
những nội dung còn thiếu hay chưa đúng quy định ngay khi nhận được hồ
sơ. Trong trường hợp cá nhân, tổ chức nộp hồ sơ qua đường bưu điện, cơ
quan Cấp giấy chứng nhận phải xem xét, hướng dẫn cá nhân, tổ chức bổ
sung những nội dung còn thiếu hoặc chưa đúng quy định trong thời hạn
03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ. Nếu nộp hồ sơ hợp lệ theo
quy định, Tổng cục Thủy sản xem xét và cấp lại Giấy chứng nhận đăng kí
tàu cá
+Bước 5: Sau khi giải quyết xong, Tổng cục Thủy sản trả kết quả trực
tiếp tại bộ phân “một cửa” hoặc gửi kết quả theo đường bưu điện cho cá
nhân, tổ chức
* Ưu, nhược điểm:
- Ưu điểm:
+ Tạo điều kiện thuận lợi, nhanh chóng, dễ dàng cho các cá nhân, tổ chức
tìm hiểu thông tin, làm hồ sơ và các bộ phận có thẩm quyền giải quyết hồ

sơ, làm thủ tục
+ Cách đăng kí, đăng nhập hệ thống, làm và xử lí hồ sơ nhanh chóng, dễ
dàng theo những quyền hạn cụ thể đã được cấp phép
+ Tài liệu hướng dẫn và hệ thống văn bản pháp lý cung cấp qua website
đầy đủ, chi tiết
+ Thiết kế website rõ ràng ,dễ nhìn
b. Cấp giấy phép xây dựng công trình và nhà ở đô thị của UBND quận Cẩm
Lệ - thành phố Đà Nẵng (nguồn: danangcity.gov.vn)
* Nội dung:
+ 2 bước đầu giống với dịch vụ công ở trên
Nhóm 6 – Thương mại điện tử
+ Bước 3: Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả thuộc văn phòng UBND cấp
huyện tiếp nhận hồ sơ: kiểm tra tính hợp lệ và đầy đủ của các giấy tờ có
trong hồ sơ; yêu cầu bổ sung, hoàn thiện nếu hồ sơ chưa đầy đủ, chưa
hợp lệ và chuyển cho phòng Quản lý đô thị.
+ Bước 4: Công chức chuyên môn phòng Quản lý đô thị thụ lý hồ sơ,
kiểm tra trình lãnh đạo phòng, trình lãnh đạo UBND cấp huyện ký và
chuyển giấy phép cho Bộ phận tổ một cửa để giao cho cá nhân, tổ chức.
* Ưu, nhược điểm:
- Ưu điểm:
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân tổ chức có nhu cầu giải quyết
các thủ tục hành chính một cách nhanh chóng tại một địa chỉ truy cấp duy
nhất
+ Cung cấp thông tin một cách tự động và trực tuyến về tình trạng giải
quyết hồ sơ, cấp phép. Người dân có thể thông qua mạng internet kiểm
tra, giám sát về tình trạng giải quyết hồ sơ.
+ Hệ thống cung cấp một nền tảng ứng dụng để từng bước cho phép các
cơ quan hành chính nhà nước phối hợp giải quyết thủ tục hành chính trên
môi trường mạng một cách xuyên suốt, nhất quán theo tinh thần “một cửa
liên thông”.

c. Dịch vụ công trực tuyến về cấp phép họp báo, hội thảo, hội nghị có yếu tố
nước ngoài tại TP. Hồ Chí Minh ( mức độ 4)
(nguồn: baodientu.chinhphu.vn)
* Nội dung:
Dịch vụ này được chính thức triển khai trên trang tin điện tử của sở
Thông tin và Truyền thông TP. Hồ Chí Minh tại địa chỉ -
hcm.gov.vn. Người dân và doanh nghiệp có thể nộp hồ sơ và nhận giấy
phép hoàn toàn qua Internet mà không cần liên hệ trực tiếp, kể cả các
giao dịch phát sinh trong quá trình xử lý cũng như các yêu cầu bổ túc hồ
sơ. Mô hình này được tiếp tục triển khai tại các quận, huyện, sở, ngành
trên địa bàn thành phố từ năm 2010.
* Ưu, nhược điểm:
- Ưu điểm: Giảm thời gian, chi phí trong hoạt động đề nghị cấp giấy xác
nhận khai báo, nâng cao khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp, đồng
thời giúp cơ quan quản lý nhà nước có số liệu, báo cáo chính xác, kịp
thời. Vấn đề an toàn thông tin sẽ được đảm bảo với công nghệ chữ kí số.
IV. Chính phủ điện tử một cửa.
1. Khái niệm:
Nhóm 6 – Thương mại điện tử
Chính phủ điện tử một cửa là cơ chế giải quyết công việc của tổ chức,
công dân thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước từ tiếp
nhận yêu cầu, hồ sơ trực tuyến đến trả lại kết quả chỉ thông qua một đầu
mối là “Bộ phận tiếp nhận và trả lại kết quả” trên các trang thông tin của
cơ quan hành chính nhà nước
Cơ chế một cửa quốc gia Việt Nam là hệ thống tích hợp cho phép:
- Các bên tham gia hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh nộp/gửi
thông tin và chứng từ chuẩn hóa tới một điểm tiếp nhận duy nhất.
- Các cơ quan chính phủ xử lý dữ liệu, thông tin và ra quyết định dựa
trên hệ thống các quy trình, thủ tục thống nhất và đồng bộ; ra quyết định
và gửi quyết định này tới hệ thống dựa trên thỏa thuận cung cấp và trao

đổi thông tin thống nhất giữa các cơ quan chính phủ.
- Cơ quan hải quan ra quyết định cuối cùng về việc thông quan và giải
phóng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh; phương tiện vận tải xuất
cảnh, nhập cảnh, quá cảnh căn cứ trên các quyết định của các cơ quan
chính phủ có liên quan được hệ thống chuyển tới một cách kịp thời dựa
trên quy định về cung cấp dịch vụ công của các cơ quan chính phủ.
(Nguồn: “Kế hoạch tổng thể triển khai Cơ chế một cửa quốc gia giai đoạn
2008-2012” do Ban chỉđạo quốc gia phê duyệt tại Quyết định số
2599/QĐ-BCĐASW ngày 21/10/2009)
2. Mục đích:
-Giảm phiền hà cho tổ chức, công dân khi có yêu cầu giải quyết công việc
trên các website của các cơ quan hành chính nhà nước.
- Nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần, thái độ phục vụ tổ chức, công
dân của đội ngũ cán bộ, công chức.
-Nâng cao chất lượng công vụ; hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cơ quan
hành chính nhà nước.
-Làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước các
cấp trong giải quyết công việc liên quan đến tổ chức, công dân.
-Đổi mới cơ bản phương thức hoạt động của chính phủ điện tử trên cơ sở
sắp xếp lại tổ chức theo hướng gọn nhẹ, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
3. Nguyên tắc
Việc áp dụng thực hiện cơ chế “Chính phủ điện tử một cửa” cần đảm
bảo các nguyên tắc sau:
-Thủ tục đơn giản, rõ ràng, đúng pháp luật.
- Công khai các thủ tục hành chính, phí, lệ phí và thời gian giải quyết
công việc của tổ chức, công dân trên website, diễn đàn.
Nhận yêu cầu và trả kết quả tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả.
Nhóm 6 – Thương mại điện tử
- Việc phối hợp các bộ phận có liên quan trong bộ máy công quyền nhằm
giải công việc của tổ chức, công dân là trách nhiệm của cơ quan hành

chính nhà nước.
-Bảo đảm giải quyết công việc nhanh chóng,thuận tiện,đúng thời gian cho
tổ chức, công dân.
4. Kinh nghiệm triển khai CPĐT một cửa của một số nước ASEAN:
TT Quốc gia
Xếp hạng năm
2012
Xếp hạng năm
2010
1 Singapore 10 11
2 Malaysia 40 32
3 Brunei Darussalam 54 68
4 Viet Nam 83 90
5 Philippines 88 78
6 Thailand 92 76
7 Indonesia 97 109
8
Lao People’s Demcratic
Republic
153 151
9 Cambodia 155 140
10 Myanmar 160 141
11 Timor-Leste 170 162
Nhóm 6 – Thương mại điện tử
a. Singapore:
Singapore là quốc gia ASEAN được đánh giá là quốc gia phát
triển nhanh và mạnh nhất về việc thực hiện chính phủ điện tử. Năm 2000,
chính phủ Singapore đã đề ra kế hoạch hành động CPĐT lần 1, mục đích
nhằm định hướng cho hoạt động và đầu tư về CNTT đối với các dịch vụ
công. Mục tiêu của kế hoạch này là đưa toàn bộ dịch vụ công trở thành

dịch vụ công trực tuyến. Kế hoạch này được đầu tư khoảng 01 tỷ USD,
tập trung phục vụ tương tác giữa chính phủ và doanh nghiệp (G2B), chính
phủ với công dân (G2C) và chính phủ với người lao động (G2E). Kết quả
là đến năm 2007, đã có khoảng 1.600 dịch vụ công trực tuyến được xây
dựng. Người dân Singapore có thể truy cập những dịch vụ này thông qua
một cổng duy nhất, sử dụng một mật khẩu và một mã nhận dạng chung
cho tất cả các dịch vụ. Để đảm bảo người dân có thể truy cập dịch vụ
công trực tuyến của chính phủ, Singapore đã xây dựng một mạng lưới các
ki-ốt cung cập truy cập Internet miễn phí cho người dân. Đồng thời nhiều
kế hoạch giúp đỡ những người dân có thu nhập thấp nâng cao trình độ
cũng như nhận thức về ứng dụng CNTT. Một số dịch vụ công trực tuyến
đã được triển khai như đăng ký giấy phép lái xe, khai thuế thu nhập, đặt
chỗ, đăng ký thương hiệu. Các dịch vụ này luôn sẵn sàng ở chế độ 24/7
tại các ki-ốt và có sự trợ giúp của chuyên gia nếu cần. Một số quỹ phục
vụ nghiên cứu được thành lập, cung cấp kinh phí cho các cơ quan chính
phủ thử nghiệm công nghệ mới, công bố thành công và chia sẻ kinh
nghiệm với tất cả tổ chức khác. Song song với đó, chính phủ Singapore
cũng thực hiện chương trình các dịch vụ Web với mục đích xây dựng và
triển khai các dịch vụ trên nền Web trong lĩnh vực hành chính công,
khuyến khích các cơ quan chính phủ đưa thông tin và dịch vụ lên môi
trường Internet (1). Chương trình được đầu tư để cải cách cách thức cung
cấp và thực hiện dịch vụ trong lĩnh vực quản lý nhà nước, nâng cao hiệu
quả chia sẻ thông tin và dịch vụ giữa các cơ quan trong chính phủ nhằm
đem lại chất lượng dịch vụ tốt hơn. Chương trình dịch vụ cung cấp giấy
phép kinh doanh trực tuyến nhằm khuyến khích việc đầu tư vào
Singapore thông qua cơ chế đăng ký một cửa thông thoáng, gọn nhẹ.
Điển hình như:
* Giao dịch G2C
Thông qua cổng giao diện Công dân điện tử của Chính phủ
Singapore (www.ecitizen.gov.sg), người dân Singapore có thể truy cập

tới 1.600 dịch vụ bao gồm từ kinh doanh, y tế, giáo dục, giải trí đến việc
làm và gia đình. Trong đó, 1.300 dịch vụ điện tử đã được giao dịch trực
tuyến giữa người dân với chính phủ. Cổng giao diện Công dân điện tử
được chia theo từng danh mục dựa trên nhu cầu thực tế cuộc sống của
Nhóm 6 – Thương mại điện tử
từng cá nhân, trong đó từng bộ và ủy ban luật pháp cung cấp dịch vụ điện
tử thông qua cùng một cổng. Qua đó, người dân Singapore có thể truy cập
một cửa đến các dịch vụ của chính phủ: Điều này giúp cho họ không phải
đi qua một rừng các thủ tục hành chính. Một vài dịch vụ điện tử thông
dụng nhất thường được cung cấp là: nộp đơn xin mua nhà, tìm kiếm
thông tin về các trường học, tìm kiếm việc làm, phát triển nghề nghiệp và
đăng ký bầu cử. Tới tháng 6 năm 2002, khoảng 77% dịch vụ công đã trở
nên khả thi để có thể cung cấp trực tuyến.
* Tăng cường đầu tư thông qua CPĐT: Cổng giao diện mua sắm điện
tửGeBiZ của Singapore.
Trung tâm kinh doanh điện tử của chính phủSingapore (GeBiZ)
được thành lập vào tháng 6 năm 2000 nhằm đơn giản hoá các hoạt động
mua sắm và đấu thầu của chính phủ. Đây có thể coi như là một mô hình
mẫu của CPĐT. So với những dự án đầu tư khác tại Singapore, mục tiêu
phát triển GeBiZ mang tính chiến lược và vượt ra ngoài những lợi ích
trực tiếp như tính hiệu quả và khả năng tích kiệm chi phí. GeBiZ còn có
nghĩa là sự nhất quán trong các thủ tục mua sắm và tạo ra sự minh bạch
hơn trong các giao dịch, qua đó nó hoạt động như một chất xúc tác để
phát triển thương mại điện tử tại Singapore. Với hệ thống mua sắm điện
tử tích hợp được xây dựng dưới dạng web này, các nhà cung cấp và
những người tham gia thầu có thể truy cập và tham gia rộng rãi hơn vào
các cuộc đấu thầu và chào giá của chính phủ. Những ngành phục vụ công
cộng cũng có thể hưởng lợi từ việc mua sắm điện tử các mặt hàng thông
dụng theo các hợp đồng chung có thời hạn.Tới tháng 9 năm 2001, tổng
giá trị các giao dịch do GeBiZ tiến hành đã đạt 50 triệu USD với số lượng

người sử dụng trong những ngành công cộng đã vượt quá 3000 người. Số
lần thông báo thầu đã đạt con số 3000 lượt với tổng giá trị vượt hơn 1,7
tỷUSD.
* Chính phủ điện tử tập trung vào người dân: Trung tâm giúp đỡ
công dân điện tử của Singapore
Cổng công dân điện tử của Singapore mỗi tháng có khoảng 3,1
triệu người truy cập, tăng đáng kể so với 200.000 lần truy cập mỗi tháng
khi nó lần đầu tiên được đưa vào khai thác năm 1999. Làm sao một đất
nước phát triển với 4 triệu người dân có thể phát triển việc sử dụng trực
tuyến một cách bùng nổ chỉ trong thời gian chưa đến 3 năm? Để đảm bảo
ở khắp mọi nơi người dân đồng thời có thể truy cập vào các dịch vụ điện
tử của chính phủ, Singapore đã xây dựng một mạng lưới trung tâm giúp
đỡ công dân điện tử từtháng 11/2001. Các trung tâm này được trang bị
các kiosk Internet cung cấp truy nhập Internet miễn phí cho người dân. Ở
đó có các nhân viên sẵn sàng giúp đỡ những người chưa thông thạo về
Internet. Ngày nay, có 24 trung tâm giúp đỡ công dân điện tử được xây
dựng một cách chiến lược ở các Uỷ ban Phát triển Cộng đồng (với chức
năng như một đơn vị hành chính địa phương của huyện chuyên xử lý các
Nhóm 6 – Thương mại điện tử
chương trình cộng đồng và các dịch vụ hỗ trợ về mặt xã hội từ phía các
bộ) và các Trung tâm Cộng đồng (các câu lạc bộ của cộng đồng chuyên
tổ chức các hoạt động văn hoá, xã hội và giáo dục, các hoạt động vui chơi
giải trí nhằm tăng cường sự hài hoà về sắc tộc và liên kết xã hội)
b. Thái Lan:
Việc trao đổi và xử lý thông tin với công dân tại Thái Lan tiến thêm một
bước khi chính phủ nước này khánh thành website Thaigov.net. Một
bước đi trong kế hoạch phát triển chính phủ điện tử.
Thaigov.net đóng vai trò một cơ sở dữ liệu cho tất cả các cơ quan chính
phủ, đồng thời là cổng trao đổi thông tin với công chúng. Website này sẽ
giữ vai trò trung tâm, cung cấp dữ liệu và thúc đẩy các hoạt động liên lạc

giữa nhà nước và nhân dân.
Thaigov.net cung cấp đường link tới 16 bộ và rất nhiều ban ngành, cũng
như 6 doanh nghiệp nhà nước chính. Các đơn vị tổ chức này hầu như đều
có website và các hình thức thông tin riêng. Nhưng vấn đề nảy sinh khi
có nhu cầu tìm kiếm thông tin, bởi các nguồn cung cấp nằm phân tán và
không có đầu mối để truy xuất. Hơn nữa, các địa chỉ website hoàn toàn
khác biệt, đòi hỏi người truy cập phải ghi nhớ rất nhiều.
Chính vì thế, Thaigov.net trở thành trung tâm thông tin cho chính phủ.
Sự phát triển của nó được chia thành nhiều giai đoạn. Ban đầu,
Thaigov.net sẽ là “i-government”, cung cấp thông tin về chính phủ, và
sau đó sẽ phát triển các hoạt động giao dịch với một công cụ thanh toán lệ
phí, cũng như các trình tự được điện tử hoá.
Trong giai đoạn đầu, Thaigov.net cung cấp một dịch vụ cơ bản, bao gồm
tin về chính phủ, danh sách các bộ ngành và một số cơ sở nghiên cứu.
Giai đoạn tiếp theo XML sẽ được sử dụng với công cụ quản lý và hệ
thống thành viên. Ngân sách dành cho Thaigov.net khoảng 45.000 USD.
c. Bruney:
Thứ trưởng Bộ Giáo dục Dato Awang Haji Suyoi cho biết chính phủ
nước này vừa thành lập trung tâm đào tạo tin học quốc gia mang tên
Seameo Voctech. Theo đó, người dân Brunei sẽ được nâng cao trình độ
CNTT thông qua các chương trình mới của trung tâm và chứng chỉ tin
học sẽ có giá trị quốc tế.
Brunei đang nỗ lực đẩy mạnh lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn
thông (ICT) bằng dự án chính phủ điện tử mới trị giá 580 triệu USD
Nhóm 6 – Thương mại điện tử
=>Chính phủ Brunei hy vọng dự án sẽ tạo thêm nhiều cơ hội việc làm
cho người dân.
d. Malaysia: Hệ thống mua sắm điện tửquốc gia của Malaysia Tài trợtài
chính cho CPĐT thông qua BOT:
E-Perolehan là chợ điện tử an toàn và dịch vụ mua sắm điện tử trị giá 71

triệu USD cho phép chính phủ Malaysia mua sắm hàng hoá và dịch vụ
trên Internet. Dịch vụ này, được bắt đầu triển khai từ tháng 7/1999 cho
phép tiến hành chu trình giao dịch khép kín, từ mua sắm trực tiếp đến mời
thầu, yêu cầu chào giá và thông báo trúng thầu. Dự án này được thực hiện
theo 3 giai đoạn trong vòng 8 năm với việc phát triển và triển khai trên
phạm vi toàn quốc trong vòng 34 tháng bao gồm 4.288 trung tâm mua
sắm của chính phủ với 35.000 nhà cung cấp và khoảng 350.000 sản
phẩm.
E-Perolehan được tài trợ dưới hình thức BOT với sự tham gia của công
ty Thương mại Dot.com Sdn.Bhd., một công ty liên doanh thương mại
điện tử giữa công ty Puncak Semangat Sdn. Bhd và công ty Truyền số
liệu NTT. Công ty Thương mại Dot Com Sdn. Bhd sẽ cấp vốn toàn bộ
cho dự án này để đổi lại quyền khai thác dịch vụ độc quyền đối với
những nhà cung cấp Malaysia. Các nhà cung cấp có thể cung cấp các sản
phẩm và dịch vụ của họ trực tuyến một cách miễn phí, qua đó giảm được
các chi phí hành chính của mình. Mặt khác, chính phủ có thể được hưởng
lợi từ việc quá trình mua sắm trở nên thuận tiện hơn. Các văn phòng
chính
quyền khác trên toàn đất nước sẽ có khả năng truy cập các thông tin về
giá cả một cách trực tuyến. Lệ phí tối thiểu của một giao dịch E-
Perolehan là 0,8% và tối đa 9.600 RM (tương đương 2526 USD) sẽ được
thu khi tiến hành bán hàng. Thông qua E-Perolehan, các chi phí giao dịch
giảm từ 250USD một giao dịch xuống trung bình còn 17 USD. Công ty
Thương mại Dot Com Sdn. Bhd ước tính việc thu hồi đầu tư (ROI) vào
khoảng 15%-20% hàng năm. Họ cũng hy vọng thu hồi toàn bộ
vốn đầu tư trong năm thứ 3, với doanh thu 50-100 triệu RM (khoảng
13.158-26.316 triệu USD) hàng năm.
Ngoài ra, để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ và tăng cường tính
cạnh tranh, trong năm 2001, chính phủ Malaysia đã lắp đặt một mạng
lưới các trung tâm bán hàng từ xa trên toàn nước nhằm tạo điều kiện cho

các nhà cung cấp có quy mô nhỏ hơn có thể tiến hành thương mại trực
tuyến với tất cả các trung tâm mua sắm của chính phủ. Tất cả các trung
tâm từ xa, có vị trí tại thủ phủ tại tất cả các bang và quận, sẽ giúp cho các
nhà cung cấp không chuyên về ICT có thể tiến hành các giao dịch trực
tuyến như trình xin cấp phép, cung cấp chi tiết về catalogue hoặc chỉ đơn
Nhóm 6 – Thương mại điện tử
giản là kết nối vào Internet. Các nhà cung cấp sẽ tích kiệm được 50% chi
phí đăng ký qua việc sử dụng hệ thống này.
(Nguồn: Nhóm công tác E-ASEAN UNDP – APDIP)
5. Tổng kết:
Qua một số thông tin nêu trên, có thể rút ra một số đặc điểm chính trong
xu hướng phát triển chính phủ điện tử chính có thể điểm qua như sau:
• Phát triển chính phủ điện tử lấy người dân làm trọng tâm, rút ngắn
khoảng cách giữa người dân với các cơ quan nhà nước thông qua việc
ứng dụng CNTT nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống.
• Thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng vào phát triển chính phủ điện tử
nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và huy động năng lực của mỗi
người dân vào việc phát triển xã hội đồng thời nâng cao hiệu suất phục vụ
của cơ quan nhà nước. Xã hội hóa hoạt động đầu tư các dự án chính phủ
điện tử thông qua hợp tác giữa chính phủ và doanh nghiệp.
• Cung cấp nhiều kênh truy cập thông tin và sử dụng thuận tiện dịch vụ
hướng “chính phủ mọi nơi”, từ trang thông tin điện tử đơn thuần cung cấp
thông tin đến cổng thông tin tích hợp dịch vụ trực tuyến cho phép tương
tác hai chiều, cho phép ngoài hình thức Internet, thông tin và dịch vụ
công được truy cập thông qua các kênh như điện thoại, ki-ốt, các trung
tâm dịch vụ ứng dụng công nghệ thiết bị không dây và thiết bị di động.
• Nâng cao chất lượng dịch vụ thông qua tái cơ cấu và hoàn thiện mô
hình nghiệp vụ. Nâng cao hiệu quả hỗ trợ của Chính phủ đối với các
doanh nghiệp, giảm bớt các thủ tục rườm rà để thu hút đầu tư, tạo môi
trường kinh doanh tốt hơn. Đẩy mạnh phòng chống tham nhũng thông

qua việc tăng cường các thủ tục trực tuyến trong hoạt động dân sự và
chính phủ. Tạo ra môi trường cộng tác điện tử, kết nối chính phủ toàn
diện tăng cường tính tích hợp trong cung cấp dịch vụ hành chính công,
xây dựng nền tảng đồng nhất về hạ tầng ứng dụng, chia sẻ về dữ liệu và
các quy trình nghiệp vụ. Phát triển rộng rãi số lượng các dịch vụ ra bên
ngoài cho cộng đồng trong khi cố gắng thu gọn và biến các quy trình
nghiệp vụ hỗ trợ phía sau trở nên thông minh hơn.
• Ban hành tiêu chuẩn về CNTT thúc đẩy tương tác liên thông, công nghệ
được chuẩn hóa, thông tin được cấu trúc và lưu thống nhất, qua đó hình
thành một môi trường tích hợp các thành phần dữ liệu, hệ thống và tiến
trình trong các cơ quan khác nhau có thể nói chuyện với nhau, hỗ trợ lẫn
nhau, loại trừ các thành phần trùng lặp.
• Đầu tư mạnh mẽ vào xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao, có
chính sách đãi ngộ phù hợp, xây dựng hạ tầng viễn thông tiên tiến kết nối
đầy đủ giữa các cơ quan nhà nước với người dân và doanh nghiệp, cung
cấp các dịch vụ dùng chung cho phép tối ưu hóa hiệu quả đầu tư và
nguồn lực chính phủ.
Nhóm 6 – Thương mại điện tử
• Đảm bảo an toàn thông tin, bảo vệ tính riêng tư và nâng cao độ tin cậy
dịch vụ. Xây dựng những giải pháp có tính pháp lý, giảm thiểu lo ngại về
thiếu tính minh bạch trong việc sử dụng và trao đổi thông tin cá nhân trên
các trang thông tin điện tử, theo dõi và quản lý hoạt động của người sử
dụng trên trang thông tin điện tử cũng như lo ngại về thất thoát dữ liệu,
tính an toàn thông tin trên môi trường Internet.

×