Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Tập đoàn kinh tế và mô hình công ty mẹ công ty con

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.53 KB, 65 trang )

1.1. TỔNG QUAN VỀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ
1.1.1. Khái niệm:
“Tập đoàn kinh tế là một cơ cấu sở hữu, tổ chức và kinh doanh đa dạng, có
quy mô lớn, nó vừa có chức năng sản xuất kinh doanh, vừa có chức năng liên kết
kinh tế nhằm tăng cường khả năng tích tụ, tập trung cao nhất các nguồn lực ban
đầu (vốn, sức lao động, công nghệ…) để tăng khả năng cạnh tranh trên thò trường
và tối đa hóa lợi nhuận. Trong đó có các Tập đoàn kinh tế là tổ hợp các doanh
nghiệp thành viên (công ty con) do một công ty mẹ nắm quyền lãnh đạo, chi phối
về nguồn lực ban đầu, chiến lược phát triển và hoạt động tại nhiều ngành, lónh
vực ở nhiều lãnh thổ khác nhau”
(1)

Bên cạnh đó, có khái niệm khác đơn giản hơn cho rằng “Tập đoàn kinh tế


bao gồm nhiều công ty liên kết với nhau trên cơ sở cùng góp vốn sản xuất, kinh
doanh dưới sự chi phối của một cổ đông duy nhất, được tổ chức dưới hình thức
công ty (Công ty mẹ hoặc Tổng công ty) có nhiệm vụ quản lý và đònh hướng chiến
lược phát triển của các công ty thuộc tập đoàn.”
(2)

Nhìn chung Tập đoàn kinh tế được đònh nghóa theo cách này hoặc cách
khác nhưng có những đặc trưng cơ bản sau:
- Tập đoàn có cơ cấu tổ chức nhiều tầng nấc;
- Giữa các thành viên trong tập đoàn có mối liên kết nhất đònh;
- Trong tập đoàn có một hạt nhân đóng vai trò nòng cốt;
- Tập đoàn là một liên hiệp các pháp nhân chứ không phải là một pháp

nhân. Tổ chức thành lập tập đoàn phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện,
cùng có lợi, tích cực giúp đỡ nhau, tối ưu hóa tổ hợp, kết cấu hợp lý,
dựa vào khoa học kỹ thuật, làm tăng sức mạnh cho lớp sau. Vì vậy,
(1) GS.TSKH Vũ Huy Từ (2002): Mô hình Tập đoàn kinh tế trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa. NXB
Chính trò Quốc gia, Hà Nội. Trang 19.
(2) Minh Châu (2005), “Tập Đoàn Kinh Tế và Một Số Vấn Đề Xây Dựng Tập Đoàn Kinh Tế Ở Việt
Nam”, Nhà xuất bản Bưu Điện, Hà Nội. Trang 7.
1
trong cơ cấu tổ chức của tập đoàn sẽ bao gồm công ty mẹ đóng vai trò
là hạt nhân và các công ty con.
1.1.2. Các phương thức hình thành tập đoàn kinh tế trên thế giới
Phương thức hình thành các TĐKT diễn ra thông qua hai hình thức cơ

bản là phân nhánh và thâu tóm.
1.1.2.1. Phương thức phân nhánh
Khi CTM phát triển mạnh về mô hình, có tiềm lực về tài chính mạnh và
muốn mở rộng phạm vi HĐSXKD trên nhiều quốc gia để bành trướng về quy
mô HĐSXKD, CTM đầu tư thành lập các CTC có tư cách pháp nhân phù hợp với
ngành nghề kinh doanh của CTM.
1.1.2.2. Phương thức thâu tóm
Khi CTM có tiềm lực lớn về tài chính, muốn thâu tóm dần quyền lực
kiểm soát của các công ty khác thông qua các phương thức sau:
Phương thức sát nhập (Merger): Khi một hoặc nhiều công ty từ bỏ pháp
nhân của mình (gọi là công ty bán) để gia nhập vào công ty khác có điều kiện
tốt hơn và sử dụng pháp nhân của công ty này để hoạt động (gọi là công ty mua)

nhằm các mục tiêu như tập trung vốn hoạt động, giảm số lượng công ty để tập
trung hỗ trợ cần thiết, tăng lợi nhuận do giảm chi phí quản lý, tăng hiệu năng
trong SXKD nhờ lợi thế về quy mô, tăng cường khả năng cạnh tranh trên thương
trường,...Công ty mua sẽ thu nhận các tài sản và công nợ của công ty bán với
một giá nhất đònh nào đó. Công ty sẽ trả cho chủ sở hữu của công ty bán bằng
tiền mặt hoặc bằng chứng khoán của chính công ty mua.

Sơ đồ 1.1: Mô hình sát nhập
2
Công ty X
Công ty Y
Công ty X

Phương thức hợp nhất (Unification): khi các công ty có sức mạnh ngang
nhau sẽ từ bỏ pháp nhân của mình để hình thành một pháp nhân mới để thực
hiện những hoạt động của công ty hợp nhất nhằm các mục tiêu như tập trung
vốn hoạt động, giảm số lượng công ty để tập trung hỗ trợ cần thiết, tăng lợi
nhuận do giảm chi phí quản lý, tăng hiệu năng trong sản xuất kinh doanh nhờ lợi
thế về qui mô, tăng cường khả năng cạnh tranh trên thương trường...

Sơ đồ 1.2: Mô hình hợp nhất
Phương thức mua lại (Acquisition): việc mua lại sẽ không tạo ra một
công ty mới và diễn ra dưới hai phương thức:
 Phương thức mua lại cổ phần: công ty mua lại cổ phần của công ty
bán trực tiếp từ các cổ đông của công ty bán. Việc mua bán này

không phụ thuộc vào sự đồng ý hay không đồng ý của lãnh đạo
công ty bán và thường khó dẫn đến sự sát nhập hay hợp nhất hoàn
toàn vì công ty bán vẫn hoạt động với tư cách pháp nhân của mình.
Quyền lợi của công ty mua lúc này là quyền lợi của nhà đầu tư.
 Phương thức mua lại tài sản: công ty mua lại tài sản trực tiếp từ
công ty bán. Với hình thức mua lại tài sản, công ty mua không cần
thiết phải đánh giá lại nợ của công ty bán, vì nó không phụ thuộc
trách nhiệm của công ty mua.
Hình thức phổ biến của các nước trên thế giới là mua lại cổ phần. Nếu
công ty mua mua lại trên 50% số cổ phần của công ty bán thì quan hệ giữa hai
công ty là quan hệ công ty mẹ- công ty con. Công ty mẹ là công ty thu nhận,
3

Công ty X
Công ty Y
Công ty Z
công ty con là công ty bò thu nhận. Với hình thức mua lại, các công ty con không
bò mất tư cách pháp nhân, sau khi mua lại, công ty mẹ và công ty con cùng tồn
tại và cùng hoạt động với hai tư cánh pháp nhân khác nhau, nhưng có quan hệ
với nhau về sở hữu vốn.
Sơ đồ 1.3 Mô hình mua lại (Mô hình công ty mẹ – công ty con)
1.1.3. Các hình thức liên kết của các tập đoàn kinh tế trên thế giới
1.1.3.1. Tập đoàn kinh tế liên kết theo hàng ngang
TĐKT liên kết theo hàng ngang là TĐKT liên kết các những công ty
trong cùng một ngành nhằm hạn chế sự cạnh tranh bằng thỏa thuận thống nhất

về giá cả, phân chia thò trường tiêu thụ, … Hình thức liên kết này thường dẫn đến
độc quyền hạn chế cạnh tranh, đi ngược với xu thế của cơ chế thò trường. Hình
thức liên kết này thể hiện rõ nét trong Cartel, Syndicate, Trust
(1)
...Chúng xuất
hiện phổ biến ở các nước phát triển vào thế kỷ thứ XIX đến những năm 20 của
thế kỷ XX. Hiện nay hình thức liên kết này không được phổ biến nữa, do nguồn
vốn tập trung vào một ngành thường có rủi ro lớn và nhà nước ngăn cấm, hạn
chế vì nó tạo độc quyền, hạn chế cạnh tranh, đi ngược với một nguyên tắc cơ
bản của kinh tế thò trường.
(1)
Phụ lục 1

Công ty mẹ A
Công ty con B
(Công ty mẹ sở
hữu 100% vốn)
Công ty con C
(Công ty mẹ sở
hữu 75% vốn)
Công ty con D
(Công ty mẹ sở
hữu 51% vốn)
4
1.1.3.2. Tập đoàn kinh tế liên kết hàng dọc

TĐKT liên kết theo hàng dọc là TĐKT liên kết giữa các ngành trong
cùng một dây chuyền công nghệ. Cùng với sự phát triển của thò trường và nhu
cầu ngày càng gia tăng của người tiêu dùng, các doanh nghiệp sản xuất trong
cùng ngành kinh tế – kỹ thuật có xu hướng ngày càng gia tăng quy mô sản xuất.
Vì vậy tất yếu xảy ra sự liên kết, tập hợp của các doanh nghiệp sản xuất cùng
ngành. Lúc này hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất liên kết với nhau lại
tiếp tục gặp khó khăn trong việc đáp ứng các nhu cầu về các đầu vào của quy
trình sản xuất và việc tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Vì vậy, các doanh nghiệp
thương mại được liên kết chuyên đảm nhận các chức năng cung ứng sản phẩm
đầu vào và đảm nhận chức năng tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Sự liên kết các doanh
nghiệp theo quy trình trên, hình thành TĐKT liên kết theo hàng dọc. Trên thế
giới có rất nhiều tập đoàn lớn thuộc dạng này như Concern, Conglomenrate,

Cheabol…
(1)
Chúng vẫn còn phổ biến trong giai đoạn hiện nay và bành trướng
hoạt động SXKD sang hầu hết các nước trên thế giới.
1.1.3.3. Tập đoàn kinh tế liên kết hỗn hợp
TĐKT liên kết hỗn hợp là TĐKT đa ngành liên kết các doanh nghiệp
không cùng lónh vực hoạt động SXKD, không cạnh tranh lẫn nhau và không
cùng dây chuyền công nghệ. Hình thức TĐKT này đang được ưa chuộng và trở
thành xu hướng chính hiện nay, có cơ cấu gồm có ngân hàng hoặc công ty tài
chính, công ty thương mại và công ty sản xuất công nghiệp. Hoạt động tài chính
ngân hàng là một bộ phận rất quan trọng, nó là hoạt động không thể tách rời
trong cơ cấu kinh doanh của các TĐKT lớn.

(1)
Phụ lục 1
5
1.1.4. Đặc điểm của tập đoàn kinh tế
Qua nghiên cứu về các TĐKT trên thế giới
(1)
, dù tên gọi khác nhau với
phương thức hình thành và nội dung liên kết hoạt động không giống nhau, nhưng
các TĐKT có một số đặc điểm cơ bản sau:
1.1.4.1. Quy mô rất lớn về vốn, doanh thu, lao động, phạm vi hoạt động:
Hầu hết các TĐKT lớn ngày nay đều là các TĐKT đa quốc gia, hoạt động
SXKD mang tính toàn cầu với mạng lưới chi nhánh rộng khắp thế giới với Quy

mô rất lớn về vốn, doanh thu, lao động:
Quy mô vốn: Trong TĐKT vốn được tập trung từ nhiều nguồn khác
nhau, cả trong và ngoài nước, được bảo toàn và phát triển không ngừng, đẩy
nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn cho tập đoàn. Xem xét quá trình phát
triển của các TĐKT trên thế giới ta thấy rằng, tích tụ vốn, đầu tư có hiệu quả và
đa dạng hoá đầu tư vốn theo lãnh thổ đòa lý, ngành nghề kinh doanh là nền tảng
để một doanh nghiệp không ngừng phát triển, từ một công ty thành một TĐKT
hùng mạnh. Điều căn bản nhất là TĐKT có thể tự tạo ra vốn để hoạt động.
Doanh thu: Nhờ ưu thế về vốn, TĐKT có khả năng chi phối và cạnh
tranh trên thò trường, mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, ứng dụng công nghệ
hiện đại, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, do đó đạt doanh thu
lớn.

Lực lượng lao động: Lực lượng lao động trong tập đoàn không chỉ lớn về
số lượng mà còn mạnh về chất lượng, được tuyển chọn và đào tạo rất nghiêm
ngặt.
Phạm vi hoạt động: TĐKT có phạm vi hoạt động rất rộng, không chỉ ở
phạm vò lãnh thổ một quốc gia, mà nhiều quốc gia hoặc phạm vi toàn cầu. Nhờ
ưu thế về vốn, nguồn nhân lực, áp dụng sự tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại...
TĐKT đã phân công lao động trong nội bộ trên phạm vi toàn cầu. TĐKT thực
(1)
Phụ lục 2
6
hiện chiến lược cạnh tranh, chiếm lónh thò trường quốc tế, mở rộng quy mô bằng
cách thành lập chi nhánh ra nước ngoài tăng cường hợp tác, liên doanh liên kết

và phân công quốc tế.
1.1.4.2. Hoạt động kinh doanh đa ngành nghề, đa lónh vực
Các tập đoàn hầu hết đều hoạt động kinh doanh đa ngành, đa lónh vực.
Ban đầu các tập đoàn có thể hoạt động trong một hoặc một số ngành nghề, trong
quá trình phát triển thì chiến lược phát triển và hướng đầu tư luôn thay đổi để
phù hợp với sự phát triển của tập đoàn và môi trường kinh doanh quốc tế, nhưng
mỗi ngành nghề đều có đònh hướng chủ đạo, lónh vực đầu tư mũi nhọn với những
sản phẩm đặc trưng của tập đoàn.
Bên cạnh các đơn vò sản xuất, thường có các tổ chức tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm, thương mại, dòch vụ, nghiên cứu khoa học và đào tạo,... Ví dụ
tập đoàn Mitsubishi- là một trong những TĐKT lớn của Nhật Bản, các hoạt động
kinh doanh của nó trải rộng trên nhiều lónh vực như sắt thép, cơ khí đóng tàu,

hoá chất và các dòch vụ ngân hàng, bảo hiểm, ngoại thương, vận tải,... Trong đó
ngành mũi nhọn là công nghiệp nặng và phát triển tài nguyên. Tập đoàn
Petronas (Malaysia) hoạt động đa dạng trong nhiều lónh vực như: thăm dò và
khai thác dầu khí, lọc dầu, hoá dầu, kinh doanh thương mại các sản phẩm dầu
khí hàng hải, kinh doanh bất động sản, siêu thò, vui chơi giải trí,… có cả học viện
công nghệ, Học viện hàng hải và Trung tâm đào tạo kỹ thuật công nghệ… Xu
hướng chung là các tổ chức tài chính, ngân hàng và nghiên cứu ứng dụng ngày
càng được chú ý hơn, vì đó là đòn bẩy cho sự phát triển TĐKT.
Hoạt động đa ngành đã góp phần phân tán rủi ro của các tập đoàn, bảo
đảm cho hoạt động của các tập đoàn được an toàn và hiệu quả hơn trên thương
trường kinh doanh quốc tế.
7

1.1.4.3. Về cơ cấu tổ chức
Đa số các tập đoàn được tổ chức theo mô hình công ty mẹ – công ty con.
Công ty mẹ sở hữu số lượng lớn vốn cổ phần trong các công ty con. Nó chi phối
các công ty con về phương diện tài chính, công nghệ và trên cơ sở đó chi phối về
chiến lược phát triển. Công ty mẹ thường là công ty cổ phần được thành lập và
hoạt động theo luật công ty của nước sở tại, có thể có vốn góp của chính phủ.
Công ty con cũng thường được tổ chức dưới dạng công ty cổ phần, có tư cách
pháp nhân riêng. Công ty mẹ sở hữu 100% hoặc ít nhất 50% cổ phần có quyền
biểu quyết trong Công ty con, hoặc Công ty mẹ có khả năng kiểm soát, khống
chế mặc dù không nắm trên 50% cổ phần của Công ty con.
Công ty mẹ thành lập hoặc tham gia góp vốn hay mua cổ phần của các
công ty con. Các công ty con lại đi đầu tư vào các công ty khác (gọi là công ty

cháu). Phần lớn các công ty con, công ty cháu mang họ của công ty mẹ.
1.1.4.4. Về quản lý, điều hành:
Công ty mẹ thông qua quyền lực tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp của
mình để tham gia vào hội đồng quản trò của công ty con nhằm thực hiện việc
điều hòa, huy động vốn, quản lý vốn, xây dựng chiến lược phát triển, chiến lược
thò trường, chiến lược sản phẩm, chiến lược đầu tư, đào tạo nhân sự... cho tập
đoàn. Các chiến lược của tập đoàn được soạn thảo từ cơ quan đầu não của CTM
và thực hiện thống nhất cho các CTC. Nhờ việc thực hiện chiến lược tổng quát
như vậy mà tập đoàn vừa tạo được sức mạnh thống nhất tập trung lại vừa tạo ra
sự năng động, linh hoạt cho các công ty con trong việc lựa chọn chiến lược phát
triển cho riêng mình và tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.1.4.5. Về quan hệ nội bộ trong tập đoàn

CTM và các CTC có mối quan hệ phụ thuộc, hỗ trợ về mặt chiến lược, tài
chính, tín dụng. Giữa các Công ty thành viên có mối quan hệ ràng buộc, phụ
8
thuộc chặc chẽ với nhau và phụ thuộc vào CTM nhằm phục vụ mục tiêu chung
của tập đoàn. Mục tiêu của CTC thường trùng với CTM. Tập đoàn chỉ tồn tại và
phát triển vững mạnh khi xây dựng cơ chế hoạt động dựa trên sự thống nhất lợi
ích kinh tế của từng CTC với lợi ích chung của cả tập đoàn và thực hiện chủ yếu
bằng hợp đồng kinh tế.
Các công ty thành viên trong tập đoàn được phân công hoạt động SXKD
theo từng phân đoạn chuyên ngành, theo sản phẩm đầu ra hoặc theo khu vực
hoạt động không trùng lắp và không cạnh tranh nội bộ.
1.1.5. Vai trò của tập đoàn kinh tế

Các tập đoàn kinh tế là lực lượng chủ đạo trong việc thực hiện quốc tế
hóa sản xuất với sự phân công chuyên môn hóa và hợp tác. Điều này biểu hiện
rõ nét trong ngành công nghiệp điện tử, bán dẫn, ô tô, xe máy mà các Công ty
đa quốc gia (MNC) của Nhật, Mỹ, Tây u thực hiện như quy trình công nghệ
của hãng ô tô Ford được phân chia thành Nhà sản xuất khung xe, chi nhánh ở
Pháp sản xuất hộp số... còn chi nhánh ở Đức sản xuất động cơ và lắp ráp. Chính
quá trình sản xuất được hợp lý hóa trên phạm vi quốc tế, nên các tập đoàn kinh
tế đã khai thác được tiềm năng của nhiều nước, hạ giá thành sản phẩm, làm tăng
sức cạnh tranh trên thò trường quốc tế và do đó làm tăng lợi nhuận của TĐKT.
Các tập đoàn còn là những cầu nối giữa các nền kinh tế khác nhau, ở
đâu có các TĐKT hoạt động, ở đó nền kinh tế cấp tự túc bò phá vỡ và từng bước
chuyển thành nền kinh tế hàng hóa để rồi sản phẩm gia nhập thò trường quốc tế.

Các tập đoàn kinh tế là lực lượng chủ yếu và đi đầu trong thực hiện
cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, bởi vì ngoài đầu tư của nhà nước, các
TĐKT là đầu tư lớn nhất cho những công trình nghiên cứu và phát triển. Những
công trình nghiên cứu khoa học –kỹ thuật, tiết kiệm năng lượng, vật liệu mới,
9
nghiên cứu các phương pháp điều kiển từ xa trong lónh vực tự động hóa... đều có
sự tham gia của các tập đoàn kinh tế trên thế giới.
Ngoài ra, trong nền kinh tế của một nước, tập đoàn kinh tế cũng thể
hiện vai trò rất to lớn:
Cho phép các nhà quản lý kinh doanh huy động các nguồn lực trong nền
kinh tế để phục vụ việc phát triển kinh tế. Việc tập trung các công ty vào trong
một đầu mối làm cho họ có điều kiện thuận lợi trong việc cạnh tranh với các tập

đoàn nước ngoài.
Khắc phục khả năng hạn chế về vốn của từng công ty riêng lẻ. Các tập
đoàn hình thành các công ty tài chính và ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho
việc tài trợ vốn cho các công ty con. Khi có những dự án cần nguồn vốn đầu tư
lớn thì việc huy động vốn của các công ty này được thực hiện dễ dàng hơn, từ đó
sẽ góp phần tăng nguồn thu và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Cung cấp trao đổi thông tin và những kinh nghiệm quan trọng trong tổ
chức nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất, nhờ đó các công
ty giảm được chi phí đầu vào. Tập đoàn kinh tế là cầu nối để tiếp thu nhanh
chóng các thành tựu khoa học kỹ thuật trên thế giới, từ đó thu hẹp khoảng cách
về trình độ giữa các nước chậm phát triển và các nước phát triển, làm thúc đẩy
công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế.

Việc thành lập các Tập đoàn kinh tế lớn sẽ làm thay đổi bộ mặt xã hội
của từng đòa phương, hay một quốc gia, giải quyết được việc làm cho một phần
dân cư tại khu vực, làm chuyển dòch cơ cấu kinh tế và chuyên môn hóa các
ngành nghề thúc đẩy phát triển các đặc khu kinh tế, các khu công nghiệp làm
tăng khả năng lớn mạnh của nền kinh tế.
10
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MÔ HÌNH CTM-CTC Ở CÁC TẬP
ĐOÀN KINH TẾ
1.2.1. Khái niệm về mô hình công ty mẹ – công ty con.
Qua nghiên cứu khái niệm về mô hình công ty mẹ – công ty con ở một
số nước trên thế giới
(1)

, có thể nêu khái niệm chung về mô hình công ty mẹ-
công ty con như sau: Công ty mẹ-công ty con là một tổ hợp gồm nhiều doanh
nghiệp có tư cách pháp nhân độc lập, trong đó doanh nghiệp có tiềm lực mạnh
nhất về vốn, công nghệ, thò trường đầu tư và chi phối doanh nghiệp khác trở
thành công ty mẹ; doanh nghiệp nhận vốn đầu tư và bò doanh nghiệp khác chi
phối trở thành công ty con. Việc chi phối, kiểm soát chủ yếu là về vốn, công nghệ,
thò trường, thương hiệu.
Một công ty mẹ với nhiều công ty con họat động trong nhiều lónh vực khác
nhau, nhiều đòa bàn khác nhau, tạo nên một thế mạnh chung gọi là “tập đoàn”.
Các mối quan hệ về vốn, về quyền, nghóa vụ, lợi ích giữa công ty mẹ và cách công
ty con được xác đònh rõ ràng trên cơ sở vốn đầu tư. Đây là điểm mấu chốt trong
mô hình công ty mẹ-công ty con.

Ở Việt Nam theo Điều 18 Nghò đònh số 153/2004/NĐ-CP ngày 9/8/2004
của Chính phủ: “TCT theo MH TCM-CTC là hình thức liên kết và chi phối lẫn
nhau bằng đầu tư, góp vốn, bí quyết công nghệ, thương hiệu, thò trường giữa các
DN có tư cách pháp nhân, trong đó có một CTNN giữ quyền chi phối các DNTV
khác gọi là CTM và các DNTV khác bò CTM chi phối gọi là CTC hoặc có một
phần VGKCP của CTM gọi là CTLK.”
Theo Điều 3 Luật DNNN thì “CTNN giữ quyền chi phối DN khác là
công ty sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp trên 50% vốn điều
lệ của DN khác, giữ quyền chi phối đối với DN đó” và “Quyền chi phối đối với
DN là
(1)
Phụ lục 3

11
quyền đònh đoạt đối với ĐL hoạt động, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các
chức danh quản lý chủ chốt, việc tổ chức quản lý và quyết đònh quản lý quan
trọng khác của DN đó”.
1.2.2. Đặc trưng của mô hình công ty mẹ – công ty con.
Tuy cách diễn giải khác nhau nhưng có thể rút ra một số đặc trưng của
quan hệ công ty mẹ – công ty con như sau:
- Công ty mẹ và công ty con đều là doanh nghiệp độc lập, có tư cách
pháp nhân đầy đủ, có vốn và tài sản riêng, bình đẳng với nhau về đòa vò
pháp lý.
- Mối quan hệ giữa công ty mẹ – công ty con không mang tính cấp trên
cấp dưới, mà là mối quan hệ về sở hữu vốn với doanh nghiệp có vốn

đầu tư của mình và được xác đònh theo các quy đònh của pháp luật và
điều lệ của công ty. Ngoài mối quan hệ về sở hữu thì các mối quan hệ
khác về kinh tế như mua – bán, thuê-cho thuê đều là mối quan hệ giữa
hai pháp nhân kinh tế.
- Công ty mẹ thực hiện quyền kiểm soát, chi phối công ty con tương ứng
với tỷ lệ vốn góp, vốn cổ phần đầu tư ở công ty con và bằng hình thức
như quyền bỏ phiếu chi phối đối với các quyết đònh của công ty con,
quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm HĐQT, Ban lãnh đạo hoặc quyền tham
gia quản lý, điều hành.
- Vò trí công ty mẹ và công ty con chỉ trong mối quan hệ giữa hai công ty
với nhau và mang tính tương đối, nghóa là công ty con này hôm nay là
công ty con của công ty mẹ song ngày mai có thể chỉ là công ty liên kết

hoặc hoàn toàn độc lập với công ty mẹ.
- Trách nhiệm của công ty mẹ đối với công ty con là trách nhiệm hữu hạn
trong phạm vi phần vốn góp hay cổ phần của công ty mẹ ở công ty con.
12
- Cấu trúc trong mô hình quan hệ này thường có nhiều cấp: công ty mẹ,
công ty con, công ty cháu… Ở mỗi cấp đều có các đơn vò hạch toán độc
lập và phụ thuộc.
1.2.3. Những ưu và nhược điểm của mô hình công ty mẹ – công ty con
1.2.3.1. Ưu điểm
Các nghiên cứu về mô hình CTM-CTC ở các Tập đoàn kinh tế trên thế
giới cho thấy mô hình này có những ưu điểm sau:
-Mô hình này không hạn chế dòng vốn đầu tư trong một khuôn khổ tổ chức

– hành chính, trong một lónh vực ngành nghề được quy đònh trước hay trên một
đòa bàn khép kín nào đó. Vì vậy, CTM có thể đầu tư vào nhiều CTC với nhiều
lónh vực kinh doanh khác nhau, do đó có thể phân tán rủi ro trong hoạt động
SXKD và đầu tư tài chính của CTM.
-Do tính linh động trong đầu tư vốn, CTM có thể chủ động tái cấu trúc lại
cơ cấu đầu tư vốn của mình để phù hợp với chiến lược phát triển kinh doanh và
mang lại hiệu quả đầu tư cao nhất bằng cách mua hoặc bán cổ phần sở hữu tại
các CTC.
-CTM dễ dàng điều chỉnh quy mô của tập đoàn phù hợp với từng thời kỳ
của nền kinh tế.
-Cơ cấu tổ chức công ty mẹ – công ty con cho phép công ty mẹ kiểm soát
một cách hiệu quả các công ty con mà không cần phải sở hữu 100% vốn điều lệ

của công ty con. Hơn nữa CTM có vốn góp chi phối ở CTC, có thể thông qua
CTC đó để đầu tư vốn vào công ty cháu và CTM có thể nắm quyền chi phối ở
các công ty cháu đó. Với kiểu quan hệ nhiều tầng bậc như thế CTM có thể
khống chế và điều tiết được một lượng vốn lớn hơn rất nhiều lần so với vốn điều
lệ của CTM.
13
-Thông qua công ty tài chính trong tập đoàn, tập đoàn có thể tập trung, điều
hòa vốn, khắc phục được tình trạng hạn chế vốn ở từng đơn vò riêng lẻ. Các công
ty trong tập đoàn có thể huy động vốn trong nội bộ tập đoàn dể dàng, nhanh
chóng và giảm chi phí sử dụng vốn hơn so với huy động vốn trên thò trường.
-Mô hình này làm tăng sức mạnh và khả năng cạnh tranh của các công ty
trong tập đoàn. Mối quan hệ trong các công ty thành viên hạn chế tối đa sự cạnh

tranh giữa các công ty thành viên trong tập đoàn, tạo điều kiện thống nhất
phương hướng, chiến lược SXKD của cả tập đoàn.
-Mô hình TCM-CTC góp phần đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, ứng
dụng kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh của cả tập đoàn. Vì việc
nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật, đòi hỏi khả năng tài chính lớn với đội
ngũ cán bộ nghiên cứu chuyên môn cao mà mỗi công ty thành viên không có khả
năng thực hiện được.
1.2.3.2. Nhược điểm:
Tuy mô hình công ty mẹ công ty con có những ưu điểm trên nhưng cũng
phát sinh một số nhược điểm:
Khi công ty mẹ tái bố trí lại cơ cấu đầu tư thì công ty con có thể bò gạt
bỏ ra khỏi tập đoàn thông qua việc bán phần vốn góp của công ty mẹ.

Có thể nảy sinh một số mâu thuẫn giữa các công ty con và cả tập đoàn.
Một số hoạt động của một công ty con sẽ có lợi cho công ty đó, nhưng lại bất lợi
cho cả tập đoàn. Một công ty con có thể muốn đầu tư phát triển sản phẩm mới,
vì có thể các hoạt động này được thực hiện ở công ty khác có lợi hơn.
Mô hình này thường dẫn đến độc quyền, hạn chế cạnh tranh, nên có thể
gây tổn thất cho nền kinh tế. Vì thế chính phủ các quốc gia phải thực hiện tốt vai
trò quản lý vó mô của mình để hạn chế những mặt trái này.
14
Tuy nhiên, với những ưu điểm vượt trội nên công ty mẹ – công ty con là
mô hình hoạt động chủ yếu của các doanh nghiệp trong các nước theo nền KTTT
và nhất là các tập đoàn kinh tế.
1.3. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TẬP ĐOÀN KINH TẾ

THEO MÔ HÌNH CÔNG TY MẸ-CÔNG TY CON Ở VIỆT NAM
1.3.1. Sự ra đời TĐKT ở Việt Nam
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước chủ trương hình
thành một số tập đoàn kinh doanh đa ngành trong đó có ngành kinh doanh chính,
chuyên môn hóa cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc dân, có
quy mô rất lớn về vốn, hoạt động cả trong và ngoài nước, có trình độ công nghệ
cao và quản lý hiện đại, có sự gắn kết trực tiếp, chặt chẽ giữa khoa học công
nghệ, đào tạo nghiên cứu triển khai với sản xuất kinh doanh.
Ở Việt Nam, mô hình TĐKT liên kết theo hàng ngang đã có mầm mống
hình thành từ những năm giữa của thập kỷ 90; Ví dụ cụ thể là ngân hàng thương
mại cổ phần Á Châu có một số công ty xoay quanh như công ty xây dựng An Cư,
Công ty xây dựng Tam Thắng, công ty thương mại Việt – Trung, công ty thương

mại Việt – Mỹ,... Mặc dù quy mô của chúng còn khá khiêm tốn, nhưng một số
chuyên gia cho rằng từ mô hình này có thể phát triển hiệu quả thành một TĐKT
thực thụ với trung tâm điểm (công ty mẹ) là ngân hàng thương mại cổ phần Á
Châu và các vệ tinh (công ty con) là công ty thương mại Việt – Trung, công ty
thương mại Việt – Mỹ.
Mô hình tập đoàn kinh tế liên kết hàng dọc được phát triển rộng rãi với
việc hình thành một số TCT như TCT nhựa lấy công ty nhựa Bình Minh làm
nòng cốt, TCT rượu bia trong đó công ty bia Sài Gòn là công ty chủ chốt...
Mô hình tập đoàn liên kết hỗn hợp ở nước ta hình thành trên cơ sở kinh
doanh và phân phối nhiều loại hàng khác nhau không nhất thiết do chính tập
15
đoàn này sản xuất. Đó là dạng mô hình TCT thương mại Sài Gòn có trên 20

công ty là thành viên.
Thời gian gần đây, với sự phát triển của nền kinh tế thò trường, đặc biệt
là sự phát triển của thò trường chứng khoán, khá nhiều các TĐKT tư nhân hình
thành và phát triển mạnh như: tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai, tập đoàn Hoà Phát,
tập đoàn Gạch Đồng Tâm, tập đoàn Mai Linh… Bên cạnh đó, các tập đoàn kinh
tế Nhà nước hàng đầu cũng đã được hình thành từ việc chuyển đổi các TCT Nhà
nước như: tập đoàn Điện Lực, tập đoàn Bưu Chính Viễn Thông, tập đoàn Dầu
Khí, …
1.3.2. Những thành quả và hạn chế.
1.3.2.1. Những thành quả đạt được
Sau năm năm, kể từ năm 2001, vừa làm vừa rút kinh nghiệm các TĐKT
theo mô hình CTM-CTC, chúng ta đã đạt được những kết quả tích cực. Theo như

sơ kết của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, tính đến tháng
9/2005, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép 52 DN thí điểm mô hình CTM-CTC,
trong đó, thành phố Hồ Chí Minh là nơi thí điểm nhiều nhất 15DN, trong đó Bộ
Giao Thông vận tải có 06DN; Hà Nội cũng có 5DN. Sau khi nghò đònh số
153/2004/NĐ-CP ngày 09/08/2004 về việc tổ chức quản lý TCT Nhà nước và
chuyển đổi TCT Nhà nước được ban hành, 15DN khác đã và đang tiếp tục triển
khai theo mô hình này.
Theo như sơ kết của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, mặc
dù chưa đủ thời gian để đánh giá hiệu quả kinh doanh của mô hình CTM-CTC,
nhưng sau một thời gian chuyển đổi kết quả bước đầu về sản suất, kinh doanh
của các CTM đạt khá tốt. Doanh thu tăng bình qn 48%, lợi nhuận tăng 24% so
với trước khi chuyển đổi. Tỷ suất lợi nhuận bình qn trên vốn của các cơng ty mẹ

đạt 10,83%, trong đó tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư tài chính
16
đạt 16,39%, tỷ suất lợi nhuận từ trực tiếp sản xuất, kinh doanh đạt 8,44%. Lợi nhuận
từ đầu tư tài chính chiếm 40,67% tổng lợi nhuận hoạt động của cơng ty mẹ - cơng ty
con, trong khi đó, vốn đem thực hiện đầu tư tài chính chỉ chiếm 26,16% tổng vốn nhà
nước tại các cơng ty mẹ - con
.(1)
Phương thức hình thành tổ hợp CTM-CTC ở nước ta thời điểm qua đã
thể hiện rất rõ sự đa dạng, có trường hợp hình thành từ Viện nghiên cứu khoa
học (trường hợp Viện máy và dụng cụ công nghiệp). Từ công ty thành viên hạch
toán độc lập của TCT Nhà nước; từ công ty Nhà nước độc lập; từ TCT Nhà nước.
Đa số các trường hợp là chuyển đổi, tổ chức từ mô hình TCT cũ như TCT Công

nghiệp tàu thủy, TCT Bia – Rượu – Nước giải khác Hà Nội, TCT Điện Lực Việt
nam, TCT Bảo Hiểm Việt Nam, TCT Bưu Chính Viễn Thông… Một số trường
hợp lại do DNNN chủ động góp vốn với các DN khác để thành lập những pháp
nhân mới và hoạt động theo Luật doanh nghiệp mà điển hình là Công ty may
Việt Tiến đã góp vốn với DNNN của tỉnh Cần Thơ để hình thành công ty may
Tây Đô, với DNNN của tỉnh Đồng Nai để thành lập công ty may Đồng Tiến.
Hiện nay Việt Tiến là CTM trong TCT may Việt Nam, điều hành tới 33 đầu mối
sản xuất kinh doanh trong tổng hợp của mình.
Trên thực tế, nhìn chung các đơn vò thí điểm đều hình thành CTM vừa
trực tiếp SXKD một lónh vực chính, vừa đầu tư tài chính vào DN khác. Điều này
cũng là hợp lý vì trong giai đoạn đầu, CTM cần phải nắm giữ một số hoạt động
SXKD chính nhằm duy trì vò thế và khả năng chi phối và hỗ trợ đối với CTC,

đặc biệt là bảo lãnh tín dụng và sử dụng thương hiệu chung. Sau khi mô hình đã
vận hành trôi chảy. CTM sẽ tăng dần tỷ trọng hoạt động đầu tư tài chính so với
hoạt động trực tiếp SXKD. Khi tập trung hoạt động đầu tư tài chính, CTM có
điều kiện tập trung đối đa hóa hiệu quả đầu tư phát triển, tập trung vào đònh
hướng chiến lược hoạt động cho tổ hợp nghiên cứu đổi mới công nghệ, cơ cấu
(1) www.mof.gov.vn , ngày 03/01/2006
17
sản phẩm, phát triển thò trường, phát huy được lợi thế so sánh về vốn, công
nghệ, thương hiệu và khả năng cạnh tranh trên thò trường.
Tổ hợp mẹ – con còn tạo điều kiện cho các đơn vò giảm chi phí sản xuất
do giảm được chi phí kinh doanh trung gian, thay chi phí giáo dục bằng các chi
phí giao dòch nội bộ, giảm lao động gián tiếp do bớt một số đầu mối, phòng ban

chuyên môn trước đây có ở tất cả các thành viên nay chỉ tồn tại ở CTM. Các
TCT Bia, rượu, nước giải khát đã rất hiệu quả xét trên khía cạnh này.
Mô hình CTM-CTC cũng làm thay đổi căn bản quan hệ, trách nhiệm,
quyền hạn, lợi ích giữa CTM với các CTC, công ty liên kết từ điều hành quản lý
kiểu CTM tham gia quản lý CTC với tư cách là cổ đông, thành viên góp vốn,
nhận cổ tức từ CTC theo tỷ lệ vốn góp, xóa bỏ việc thu phụ phí quản lý từ các
CTC, CTC tự chủ trong hoạt động kinh doanh, mọi quan hệ về thương mại với
CTM đều thông qua hợp đồng kinh tế, từ đó tạo ra sự liên kết chặc chẽ giữa các
thành viên trong tổ hợp với CTM đó là sự gắn kết bằng lợi ích kinh tế.
Về phía mình, các công ty thành viên đã được cổ phần hoá và hoạt động
theo mô hình mới, là pháp nhân độc lập, tự chủ, tự chòu trách nhiệm trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, đã khắc phục được tình trạng trông chờ, ỷ lại vào

CTM về mọi vấn đề sản xuất kinh doanh như trước kia. Các CTC đã thật sự linh
hoạt trong quản lý, điều hành, chuyên môn hóa sản phẩm để tối đa hóa lợi
nhuận, tự do nâng cao năng lực cạnh tranh cho cả tổ hợp.
Chuyển đổi sang hoạt động theo mô hình CTM-CTC, tạo điều kiện cho các
công ty Nhà nước độc lập làm ăn có hiệu quả có thể mở rộng hoạt động kinh
doanh của mình bằng cách tách các bộ phận độc lập tương đối để hình thành
những thực thể kinh doanh mới và qua đó cho phép các công ty có tiềm lực có
thể vươn lên để thành những tổ hợp tập đoàn lớn có sức cạnh tranh mạnh.
18
Mô hình CTM-CTC tạo động lực và điều kiện để các TCT Nhà nước
đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa công ty thành viên. Trước đó các TCT còn rất e
ngại cổ phần hóa, vì càng cổ phần hóa càng giảm bớt doanh nghiệp thành viên.

Mô hình mới tạo điều kiện cho các TCT, công ty Nhà nước thực hiện việc đa
dạng hóa các khoản vốn đầu tư nhằm phân tán rủi ro, linh hoạt hơn trong điều
chỉnh vốn từ những nơi kém hiệu quả từ công ty con, công ty liên kết thua lỗ
chuyển sang doanh nghiệp có hiệu quả hơn, huy động rộng rãi tiềm năng về vốn
ngoài xã hội cho sự phát triển của cả TCT.
Việc thí điểm cho thấy những mặt được và tác dụng của chuyển đổi sang
mô hình mới, không chỉ là đối với các doanh nghiệp chuyển đổi, mà quan trọng
hơn là nhờ đó rút ra được những kinh nghiệm đối với các cơ quan Nhà nước.
Việc chuyển đổi các TCT, các công ty thành viên TCT xác đònh rõ được
đòa vò pháp lý, tư cách pháp nhân, tránh tình trạng pháp nhân trong pháp nhân
như hiện nay giữa TCT Nhà nước và công ty thành viên hạch toán độc lập.
Tóm lại, các kết quả đạt được của mô hình CTM-CTC tại các đơn vò thực

hiện chuyển đổi trong thời gian vừa qua chỉ dừng lại ở kết quả của việc thực hiện
cổ phần hoá các DNNN. Cho đến nay, hiệu quả của TĐKT là chưa có, vì các
doanh nghiệp đang trong quá trình quá độ để phát triển thành TĐKT. Vì vậy, để
các tổ hợp CTM-CTC trở thành TĐKT cần phải có thời gian hoà nhập và những
giải pháp đònh hướng để các DNNN nói riêng và TĐKT tại Việt Nam nói chung
phát triển thành TĐKT thực thụ.
1.3.2.2. Những hạn chế cần khắc phục
Chuyển đổi tổng công ty Nhà nước sang mô hình công ty mẹ - công ty
con là một hướng đi phù hợp với xu thế phát triển của doanh nghiệp theo cơ chế
thò trường. Tuy nhiên, đây là giai đoạn quá độ hình thành các ĐTKT nên phát
19
sinh một số vấn đề cần tháo gỡ để quá trình chuyển đổi mang lại hiệu quả cao

nhất cho doanh nghiệp và Nhà nước:
Vấn đề năng lực và cách điều hành của CTM
Mặc dù chuyển sang mô hình CTM - CTC một số doanh nghiệp vẫn giữ
thói quen điều hành bằng mệnh lệnh hành chính trong mối quan hệ giữa “mẹ”
với “con”. Điều lệ hoạt động của khá nhiều công ty mẹ – con chưa thể hiện sự
bình đẳng các doanh nghiệp pháp nhân độc lập, dành quyền cho công ty mẹ quá
nhiều và cho công ty con quá ít.
CTM hầu hết vẫn là công ty 100% vốn Nhà nước. Chưa dám cổ phần
hóa nên nguồn lực tài chính của CTM còn yếu, vì vậy chưa thực sự làm được vai
trò của CTM.
Nhiều CTM chưa xác đònh và thực hiện đầy đủ quyền, nghóa vụ, trách
nhiệm của người chủ sở hữu đối với phần vốn góp chi phối tại các CTC. Quy chế

hoạt động và báo cáo của người đại diện chủ sở hữu chưa rõ, dẫn đến CTM
không nắm chắc được toàn bộ hoạt động kinh doanh của CTC.
Hiện nay, ở nước ta chưa có CTM chuyên kinh doanh tài chính, đầu tư
vốn vào một CTC, mà chỉ có CTM vừa đầu tư vốn vừa kinh doanh. Bộ máy
chuyên môn nghiệp vụ của CTM ở một số TCT, công ty chưa theo kòp yêu cầu
thực hiện đồng thời 2 chức năng của CTM là vừa trực tiếp sản xuất kinh doanh,
vừa đầu tư tài chính. Do đó CTM lúng túng trong việc tìm ra phương pháp để có
thể vừa hỗ trợ các CTC, công ty liên kết về thò trường, thương hiệu, cán bộ, tín
dụng, vừa đảm bảo sự bình đẳng, không can thiệp vào công việc điều hành của
CTC, đặc biệt là chưa phát huy được hiệu quả của việc đầu tư tài chính vào
doanh nghiệp khác. Đa số CTM chưa tổ chức được bộ phận nghiệp vụ để chuyên
theo dõi việc đầu tư vốn vào các CTC, CTLK.

20
Đặc biệt là chưa tạo ra được cơ chế thay đổi đội ngũ cán bộ điều hành
nhất là cán bộ chủ chốt, khi chuyển sang mô hình tổ chức kinh tế mới. Đây cũng
là tình trạng thường thấy khi cổ phần hóa doanh nghiệp. Những cán bộ cũ tuy có
kinh nghiệm nhưng đã đònh hình quá lâu trong lối suy nghó về điều hành của cơ
chế cũ nên vừa bảo thủ vừa kém năng động, hiện đang là một lực cản cho mô
hình kinh tế mới.
Nhiều CTM chưa đủ vốn điều lệ theo yêu cầu. Một số CTM tuy tiềm
lực tài chính yếu nhưng vẫn cứ duy trì là công ty Nhà nước giữ 100% vốn điều lệ
nên khả năng chi phối, hỗ trợ các công ty con rất hạn chế, làm cho hiệu quả hoạt
động chung của tổ hợp không cao. Trong một vài trường hợp, khi các CTC có
nhu cầu nâng quy mô vốn để đầu tư phát triển bằng cách phát hành thêm cổ

phiếu thì công ty mẹ không đủ khả năng tiếp tục đầu tư vốn mua cổ phần để chi
phối CTC. Khi đó, CTM có thể sẽ dùng quyền phủ quyết để không tăng vốn.
Đây là một nguy cơ cản trở CTC phát triển đã diễn ra trong thực tế.
Vấn đề cơ cấu tổ chức của CTM
Hiện nay tại Việt Nam mô hình CTM có HĐQT được áp dụng phổ biến
nhất và cũng là mô hình được quy đònh trong Luật DNNN 2003. Tuy nhiên, theo
mô hình này, cơ cấu tổ chức không khác gì, cơ cấu tổ chức của TCT. Vẫn là cơ
cấu tổ chức ấy, vẫn những con người ấy và vẫn cách điều hành ấy, có nghóa là
trên phương diện giấy tờ văn bản thì một tổ chức mới đã thay thế cho tổ chức cũ,
nhưng bộ máy hoạt động thì chưa thực sự có những đổi mới cần thiết.
Mâu thuẫn về thẩm quyền và lợi ích.
Trong mô hình CTM-CTC sẽ tồn tại hai dòng thẩm quyền và hai lợi ích:

thẩm quyền và lợi ích của cả tập đoàn và thẩm quyền và lợi ích nội bộ của các
công ty thành viên. Khi hai dòng thẩm quyền cùng tác động tạo ra khó khăn
trong quản lý điều hành và khi hai loại lợi ích không thống nhất sẽ tạo ra mâu
21
thuẫn giữa các chủ thể. Một thành viên HĐQT của một công ty thành viên cũng
có hai loại bổn phận và trách nhiệm. Thứ nhất, người đó phải trung thành với lợi
ích của các cổ đông của công ty, những người đã ủy thác tài sản cho họ. Thứ hai,
họ phải trung thành với những lợi ích của cả tập đoàn.
Mâu thuẫn về lợi ích có thể nảy sinh giữa các công ty thành viên và cả
tập đoàn. Một số hoạt động của một công ty thành viên sẽ có lợi cho công ty đó,
nhưng lại bất lợi cho cả tập đoàn. Một công ty thành viên có thể muốn đầu tư
phát triển sản phẩm mới, mua thêm máy móc thiết bò, tăng số lượng công nhân

nhưng xét trên bình diện cả tập đoàn thì điều này lại không có lợi, vì có thể các
hoạt động này được thực hiện ở các công ty khác sẽ phù hợp hơn. Một CTC có
thể muốn theo chiến lược phát triển nhanh, nhưng CTM tại muốn CTC đó theo
chiến lược duy trì, vì đã có một số CTC khác triển vọng phát triển tốt hơn theo
chiến lược phát triển nhanh.
Nếu CTM sở hữu toàn bộ CTC thì vấn đề này dễ giải quyết, vì lợi ích
của cả tập đoàn là mục tiêu cuối cùng, nhưng nếu CTC còn có các cổ đông nhỏ
khác thì đây là một vấn đề nan giải, vì trong quan hệ lợi ích người này được thì
người kia sẽ mất.
22
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong xu hướng toàn cầu hoá của nền kinh tế thế giới, sự phát triển của

mỗi quốc gia trong các lónh vực kinh tế, chính trò, văn hoá,… đều có sự chi phối, tác
động ảnh hưởng của nền kinh tế các nước trong khu vực và thế giới. Trong bối cảnh
đó, việc hình thành các TĐKT mạnh trong các ngành kinh tế mũi nhọn, xương sống
của nền kinh tế là điều kiện cần thiết để đảm bảo cho mỗi quốc gia có thể tồn tại
và tiếp cận được các nguồn vốn, công nghệ từ bên ngoài tận dụng được các cơ hội
hợp tác và phân công quốc tế trong kinh doanh để phát triển và hội nhập thành
công với nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới.
Việc thành lập mới các TĐKT hoặc hình thành TĐKT trên cơ sở chuyển đổi
các Tổng Công ty hiện có thành TĐKT mạnh có sức cạnh tranh cao, đạt hiệu quả và
thực sự là chỗ dựa của nền kinh tế, đòi hỏi phải được xây dựng, thực hiện và điều
chỉnh một cách hợp lý về ngành nghề, quy mô trên cơ sở chiến lược phát triển kinh
tế xã hội của đất nước. Đặc biệt trong giai đoạn thí điểm cần phải được thực hiện

một cách chắc chắn, tránh hiện tượng vội vã, mang tính phong trào và thiếu sự
chuẩn bò. Luận văn sẽ đi vào phân tích thực trạng hoạt động của TCT Xây Dựng Số
1 – Đơn vò trực thuộc Bộ Xây Dựng.
23
2.1. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA TỔNG CÔNG TY
XÂY DỰNG SỐ 1 THỜI KỲ 2002-2005
2.1.1. Giới thiệu khái quát Tổng Công Ty Xây Dựng Số 1
Ngày 20/11/1995 theo sự ủy quyền của Thủ Tướng Chính Phủ, Bộ
Trưởng Bộ Xây Dựng ký quyết đònh số 995/BXD-TCLD thành lập Tổng Công
Ty Xây Dựng Số 1 trên cơ sở tổ chức, sắp xếp lại các đơn vò của Tổng Công Ty
Xây Dựng Số 1 và một số đơn vò khác thuộc Bộ Xây Dựng.
Tên Doanh Nghiệp : Tổng Công Ty Xây Dựng Số 1

Tên giao dòch : Construction Corporation No.1
Tên viết tắt : CCN
o
1
Trụ sở chính : 51 Nguyễn Thò Minh Khai, Quận 1, TP.HCM
Hình thức sở hữu : Doanh Nghiệp Nhà Nước
Vốn điều lệ : 364.216.000.000 VNĐ
Chức năng nhiệm vụ
Các lónh vực hoạt động chính gồm:
1. Xây lắp 5. Sản Xuất Công Nghiệp
2. Đầu Tư 6. Sản Xuất Vật Liệu Xây Dựng
3. Tư Vấn – Thiết Kế 7. Kinh Doanh Bất Động Sản

4. Xuất Nhập Khẩu 8. Kinh Doanh Vật Liệu Xây Dựng
Trong đó, thế mạnh vượt trội của Tổng Công ty là về lónh vực Xây lắp và
Đầu Tư.
Về lónh vực Xây lắp, Tổng Công ty đã và đang thực hiện nhiều dự án có
tầm cỡ quốc gia trong nhiều lónh vực từ ngành công nghiệp nhẹ đến công nghiệp
nặng, các công trình dân dụng, nhà cao tầng, cơ sở hạ tầng, cầu, đường, cảng, hệ
thống cung cấp và thoát nước… Như Công trình nhà máy điện Phú Mỹ, Công
24
trình Cầu Thủ Thiêm, Công Trình nhà máy Nhiệt Điện Nhơn Trạch, Công trình
Nhiệt điện Ô môn, Công Trình Đài truyền hình TP.HCM, …
Về lónh vực Đầu Tư, với xu hướng kinh doanh đa dạng, Tổng Công Ty
cũng đã và đang đầu tư vào các lónh vực như bất động sản, Khu vui chơi giải trí,

các dự án về năng lượng, nhà máy, cơ sở hạ tầng…Như Dự án Nhà máy thủy
điện ĐăkRti’h, Dự án Công viên nước Cần Thơ, Dự án Trung tâm thương mại và
căn hộ cao cấp Salling Tower, Dự án chung cư cao cấp Hạnh Phúc, …
2.1.2. Cơ cấu tổ chức quản lý của Tổng Công Ty Xây Dựng Số 1:
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ tổ chức quản lý của Tổng Công Ty Xây Dựng Số 1 giai đoạn
trước khi tổ chức quản lý theo mô hình CTM-CTC


25
1.1 Phó Tổng Giám đốc
1.1.1 Ô. Nguyễn Trung
Nhương

CÁC CÔNG TY
PHỤ THUỘC
CÁC PHÒNG BAN
CHỨC NĂNG
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
BAN TỔNG GIÁM ĐỐC
BAN KIỂM SOÁT
CÁC CÔNG TY THÀNH VIÊN

×