Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

những vẫn đề kinh tế mang tính toàn cầu và ảnh hưởng tới việt nam (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.03 KB, 40 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
NĂM 2013

TÊN ĐỀ TÀI:
NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ TOÀN CẦU
VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆT NAM
Nhóm 3:
1. Vũ Hoàng Lan (Nhóm
trưởng)
7. Nguyễn Quốc Bình
2. Trần Đức Chung 8. Tô Văn Hoan
3. Nguyễn Thị Như Quỳnh 9. Nguyễn Tiến Phương
4. Phan Bảo Ngọc 10. Nguyễn Phương Duy
5. Trương Thị Phương 11. Nguyễn Hữu Toàn
6. Nguyễn Thanh Thủy 12. Vũ Sơn Thái
13. Nguyễn Quang Tuấn
HÀ NỘI - 2013
MỤC LỤC
1. CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ CÓ TÍNH TOÀN CẦU 4
1.1 – Khái quát về những vấn đề có tính toàn cầu 4
1.1.1 – Khái niệm 4
1.1.2 – Những vấn đề có tính toàn cầu nổi bật trong các lĩnh vực 4
1.2 – Những vấn đề kinh tế có tính toàn cầu đáng chú ý hiện nay 5
1.2.1 – Suy thoái và khủng hoảng kinh tế 5
1.2.1.1 – Khái niệm và đặc điểm 5
1.2.1.2 – Thực trạng suy thoái và khủng hoảng kinh tế trên thế giới 6
1.2.1.2.1 – Thực trạng cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 6
1.2.1.2.2 – Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đến nền kinh tế toàn cầu 8
1.2.2 – Lạm phát 10
1.2.2.1 – Khái niệm và đặc điểm 10


1.2.2.2 – Thực trạng của vấn đề lạm phát trên thế giới từ năm 2010 đến nay 11
1.2.3 – Thất nghiệp 13
1.2.3.1 – Khái niệm, đặc điểm 13
1.2.3.2 – Thực trạng thất nghiệp trên thế giới những năm gần đây 15
1.2.4 – Khủng hoảng nợ công và nợ nước ngoài 17
1.2.4.1 – Khái niệm và đặc điểm 17
1.2.4.2 – Thực trạng vấn đề nợ công trên thế giới 18
1.2.5 – Những vấn đề khác 20
1.2.5.1 – Chiến tranh thương mại 20
1.2.5.2 – Chiến tranh tiền tệ 21
2. ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH TOÀN CẦU ĐẾN VIỆT NAM 22
2.1 – Vài nét về nền kinh tế Việt Nam thời gian qua 22
2.1.1 – Thời kì trước đổi mới (1975 – 1986) 22
2.1.2 – Thời kì sau đổi mới (từ 1986 đến nay) 24
2.2 – Những cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam khi hội
nhập 26
2.2.1 – Cơ hội 27
2.2.2 – Thách thức 28
2.3 - Ảnh hưởng của một số vấn đề kinh tế có tính toàn cầu đối với Việt
Nam 29
2.3.1 - Ảnh hưởng của khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế
giới 29
2.3.2 - Ảnh hưởng của lạm phát đến Việt Nam 33
2.3.3 - Ảnh hưởng của thất nghiệp tới xã hội và nền kinh tế 34
2.3.4 - Ảnh hưởng của nợ nước ngoài đến Việt Nam 35
2.4 – Một số kiến nghị nhằm giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực từ những vấn đề kinh tế
có tính toàn cầu đối với Việt Nam 36
2.4.1 – Nhóm giải pháp hành chính 36
2.4.2 – Nhóm giải pháp về vốn và hợp tác quốc tế 37
2.4.3 – Nhóm giải pháp về xã hội 37


1. CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ CÓ TÍNH TOÀN CẦU
1.1 – Khái quát về những vấn đề có tính toàn cầu
1.1.1 – Khái niệm
Vấn đề có tính toàn cầu là hệ quả của quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên thế giới nói
chung và của xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa và quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới nói
riêng. Khi khoa học công nghệ phát triển, phân công lao động quốc tế, quan hệ kinh tế quốc
tế mở rộng sẽ dẫn đến sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và xã hội giữa các quốc gia
Vấn đề có tính toàn cầu là những vấn đề có liên quan đến lợi ích và sự sống còn của tất cả
các quốc gia trên thế giới. Nó hình thành và phát triển một cách khách quan trên cơ sở sự
phát huy tác dụng của các quy luật tự nhiên và cả các quy luật kinh tế - xã hội. Nó không
phụ thuộc vào ý muốn cá nhân của từng người, nhưng chính hoạt động của con người nói
chung lại là một tác nhân quan trọng đưa tới sự hình thành và phát triển của các vấn đề có
tính chất toàn cầu.
1.1.2 – Những vấn đề có tính toàn cầu nổi bật trong các lĩnh vực
Có thể kể ra ngày càng nhiều các vấn đề kinh tế toàn cầu như: thương mại, đầu tư, tiền tệ,
dân số, lương thực, năng lượng, môi trường v.v. Môi trường toàn cầu ngày càng bị phá hoại;
các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng bị cạn kiệt; dân số thế giới đang gia tăng nhanh
chóng trở thành một thách thức toàn cầu; các dòng vốn toàn cầu vận động tự do không có
sự phối hợp điều tiết tốt đã gây ra các cuộc khủng hoảng liên tiếp ở Châu Âu, châu Mỹ, và
châu Á trong thập niên 90 của thế kỷ XX
Những vấn đề toàn cầu đáng chú ý hiện nay như: Biến đổi khí hậu toàn cầu, khủng hoảng tài
chính, khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng lương thực, suy thoái tài nguyên
Vấn đề có tính toàn cầu hết sức đa dạng và tồn tại trong các lĩnh vực khác nhau. Theo quan
điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, có 4 vấn đề toàn cầu nổi bật:
- Giữ vững hòa bình và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh.
- Bảo vệ môi trường sống
- Hạn chế sự bùng nổ dân số
- Phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo.
Tuy nhiên, bên cạnh 4 vấn đề nêu trên, còn xuất hiện rất nhiều những vấn đề mang tính toàn

cầu khác trong thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội, trên các lĩnh vực khác nhau như: dân số,
chính trị - xã hội, kinh tế, môi trường
- Các vấn đề toàn cầu liên quan đến nguồn lực phát triển: vấn đề dân số, lương thực,
vệ sinh an toàn thực phẩm, vấn đề năng lượng, nguyên liệu
- Các vấn đề toàn cầu liên quan đến môi trường sinh thái: sự nóng lên của trái đất,
hiệu ứng nhà kính biến đổi khí hậu, ô nhiễm nguồn nước, nạn cháy rừng
- Các vấn đề toàn cầu liên quan đến tăng trưởng và phát triển kinh tế: khủng hoảng và
suy thoái kinh tế, vấn đề nợ nước ngoài, lạm phát thất nghiệp, chiến tranh thương
mại, chiến tranh tiền tệ
- Các vấn đề toàn cầu liên quan đến khía cạnh xã hội: khoảng cách giàu nghèo, phân
biệt đối xử, bệnh dịch, bành trướng tôn giáo, xung đột sắc tộc và chủng tộc
Bao quát, rộng lớn hơn những vấn đề kể trên đó là vấn đề về chiến tranh và hòa bình. Ngày
nay, có thể một cuộc chiến tranh về quân sự khó xảy ra nhưng trên các mặt trận khác như
thương mại, tiền tệ, chủ quyền đã diễn ra âm thầm và ngày một công khai, gay gắt, gây ảnh
hưởng không chỉ tới các nước liên quan mà còn tác động trên toàn thế giới. Hơn thế, số
lượng các vấn đề có tính toàn cầu ngày càng nảy sinh nhiều hơn, cũng như quy mô, phạm vi
ảnh hưởng và tính chất của nó ngày càng phức tạp hơn, đòi hỏi không chỉ một số nước có
trách nhiệm giải quyết mà tất cả mọi quốc gia phải đối mặt. Những vấn đề có tính toàn cầu
là một đòi hỏi cấp bách mà toàn thế giới phải quan tâm trong điều kiện ngày nay.
1.2 – Những vấn đề kinh tế có tính toàn cầu đáng chú ý hiện nay
Từ những năm 80 của thế kỷ XX, sự phát triển của nền kinh tế thế giới đã chịu tác động của
một loạt những xu thế mới. Một trong số đó, nổi bật lên là xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa
và quốc tế hóa đời sống kinh tế xã hội.
Toàn cầu hóa kinh tế ngày nay là vấn đề trọng tâm, cốt lõi trong xu toàn cầu hóa nói chung
và có xu hướng ngày càng gia tăng với các biểu hiện mới về vai trò ngày càng lớn của hoạt
động tài chính- tiền tệ. Sự gia tăng của thương mại quốc tế có tốc độ nhanh hơn tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Hàng loạt các tổ chức liên kết quốc tế về kinh tế, các liên minh khu vực hợp
tác cùng phát triển ra đời, và làn sóng sáp nhập các công ty xuyên quốc gia là những minh
chứng cho xu thế toàn cầu hóa kinh tế hiện nay trở nên vô cùng cần thiết và hữu ích.
Quá trình toàn cầu hóa kinh tế diễn ra cả bề rộng và bề sâu, một mặt đưa tới cơ hội mới cho

sự phát triển kinh tế của từng quốc gia, cũng như của toàn thế giới, thúc đẩy các quốc gia
tham gia mạnh mẽ, tích cực và hiệu quả hơn vào các định chế kinh tế quốc tế và các liên kết
kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, chính toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt các quốc
gia cùng đối mặt với các vấn đề toàn cầu, đặc biệt là vấn đề kinh tế toàn cầu.
Các vấn đề kinh tế toàn cầu ở đây được hiểu là những khó khăn, rủi ro, thách thức trên lĩnh
vực kinh tế có liên quan đến lợi ích và sự sống còn của tất cả các quốc gia trên thế giới do
mặt trái của xu thế toàn cầu hóa kinh tế quốc tế mang lại. Đó là vấn đề nợ nước ngoài,
khủng hoảng tài chính – tiền tệ, suy thoái kinh tế, vấn đề lạm phát, thất nghiệp, vấn đề chiến
tranh thương mại, chiến tranh tiền tệ
1.2.1 – Suy thoái và khủng hoảng kinh tế
1.2.1.1 – Khái niệm và đặc điểm
Khái niệm:
Suy thoái kinh tế và khủng hoảng kinh tế là hai khái niệm khác nhau
Suy thoái kinh tế: là sự suy giảm tổng sản phẩm quốc nội thực (thu nhập) trong thời gian hai
hoặc hơn hai quý liên tiếp trong năm(tốc độ tăng trưởng kt âm liên tục trong 2 quý liên tiếp)
Khủng hoảng kinh tế: là sự suy thoái kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn suy thoái kinh tế.
Đặc điểm:
Suy thoái kinh tế:
- Các chỉ số GDP, CPI giảm
- Thất nghiệp gia tăng,đầu tư trong nước và nước ngoài giảm
- Lạm phát hoặc giảm phát gia tăng:khi chính phủ thực hiện các gói kích thích thích kinh
tế như bơm tiền có thể gây ra tình trạng lạm phát,hoặc khi chính phủ thực hiện chính
sách thặt lưng buộc bụng cắt giảm chi tiêu,người dân cũng giảm chi tiêu có thể gây ra
tình trạng giảm phát.
- Cán cân thương mại của các nước bị ảnh hưởng do tình hình sản xuất khó khăn,thu
nhập giảm và lạm phát,ảnh hưởng đến tình trạng xuất nhập khẩu giữa nước này với
nước khác…
- Đầu tư nước ngoài giảm …
Khủng hoảng kinh tế
- Các công ty,doanh nghiệp,các tổ chức tài chính bị giảm lợi nhuận,sản xuất kinh doanh

trì trệ hoặc phá sản.
- Tình trạng thất nghiệp,lạm phát ngày càng gia tăng thêm trầm trọng.
- Thâm hụt ngân sách cao do phải chi tiêu để kích thích tăng trưởng kinh tế.
- Nợ quốc gia tăng cao,khủng hoảng tài chính lan rộng…
- Thị trường tài chính ,thị trường chứng khoán bị ảnh hưởng nặng nề do tính thanh khoản
yếu kém,các khoản nợ xấu gia tăng,niềm tin của các nhà đầu tư giảm sút.
- Bong bóng bất động sản nổ tung do tình trạng mất giá liên tiếp.
- Mất cân bằng cán cân thương mại giữa các nước.
1.2.1.2 – Thực trạng suy thoái và khủng hoảng kinh tế trên thế giới
Lịch sử thế giới đã chứng kiến bao cuộc đại khủng hoảng, suy thoái kinh tế và những hậu quả
nặng nề mà nó mang lại. Điển hình là cuộc đại khủng hoảng năm 1929 – 1933 bắt đầu nổ ra ở
Mỹ và nhanh chóng lan rộng ra toàn Châu Âu và mọi nơi trên thế giới. Sau đó phải kể đến cuộc
khủng hoảng Đông Á năm 1997, cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ Thái Lan, nơi đồng baht
không thể trụ vững Và trong những năm gần đây, cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008
đã khiến toàn bộ nền kinh tế thế giới chao đảo. Nhất là trong thời đại toàn cầu hóa, chấn động
của nền kinh tế lớn này đã làm rung chuyển hầu hết các khu vực trên thế giới.
1.2.1.2.1 – Thực trạng cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008
Nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng này là do sự suy sụp của thị trường bất động sản
Bong bóng nhà ở vỡ làm nhiều người vay tiền ngân hàng đầu tư nhà không trả được nợ dẫn tới
bị tịch biên nhà thế chấp. Nhưng giá nhà xuống khiến cho tài sản tịch biên không bù đắp nổi
khoản ngân hàng cho vay, khiến các ngân hàng rơi vào khó khăn.
Tốc độ tăng trưởng GDP :
Vào quý 3/2008, nền kinh tế Mỹ bắt đầu nhận thấy rõ ràng nhất ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tài chính tín dụng lên nền kinh tế vật chất. Tốc độ tăng trưởng GDP của quý 3/2008 so
với quý 2/2008 giảm 0,5%. Nền kinh tế Mỹ chính thức bước vào giai đoạn suy thoái. Và kết
quả công bố sắp tới của quý 4/2008 cũng như 2 quý đầu năm 2009, chúng ta sẽ còn chứng kiến
sự suy giảm mạnh mẽ hơn nữa của nền kinh tế lớn nhất thế giới này. Theo nhiều dự đoán, trong
quý 4/2008 tốc độ tăng trưởng GDP của Mỹ sẽ giảm tới 5% so với quý 3/2008. 2 quý đầu năm
2009 sẽ tiếp tục chứng kiến sự suy giảm của nền kinh tế, tính chung cả năm 2009, dự đoán
kinh tế Mỹ suy giảm khoảng -0,8%

Tỷ lệ lạm phát
Tỷ lệ lạm phát của Mỹ giảm dần vào các tháng cuối năm 2008 khi mà cầu tiêu dùng sụt giảm.
Tháng 11, chỉ số giá tiêu dùng Mỹ chỉ còn tăng 1,07% so với cùng kỳ năm 2007, mức giảm
tương đối lớn nếu so với thời kỳ tháng 7,8 khi mà tỷ lệ lạm phát lên tới trên 5%. Trong tháng
12 chỉ số giá tiêu dùng Mỹ chỉ tăng nhẹ 0,3% so với cùng kỳ và rất có thể các tháng đầu năm
2009, chúng ta sẽ chứng kiến chỉ số giá tiêu dùng tại Mỹ suy giảm so với cùng kỳ năm 2008.
Tỷ lệ thất nghiệp
Tính đến hết tháng 12/2008, tổng số việc làm bị cắt giảm trong năm 2008 ở Mỹ đã lên tới 2,6
triệu, đẩy tỷ lệ thất nghiệp lên mức 7,2%. Đây là mức cao nhất trong khoảng 10 năm trở lại
đây. Số người thất nghiệp của Mỹ tăng dần đều trong suốt 12 tháng năm 2008 và dự báo tiếp
tục tăng trong năm 2009 do các tập đoàn tài chính, công nghiệp hàng đầu nước Mỹ vẫn tiếp tục
kế hoạch cắt giảm nhân công.
Đầu tư và tiêu dùng tư nhân
Tiêu dùng cá nhân, một yếu tố đóng góp lớn vào sự tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ, trong quý
3/2008 đã sụt giảm tới 3,8% so với quý trước đó. Trong đó, hàng hóa lâu bền như nhà cửa, ôtô,
máy móc đã sụt giảm rất mạnh trong quý 3/2008 lên tới 14,8% sau khi đã giảm liên tiếp từ quý
1 và quý 2/2008 với mức giảm tương ứng là 4,3% và 2,8% so với quý liền trước đó. Dịch vụ là
khoản chi tiêu ít bị ảnh hưởng hơn cả, chỉ giảm 0,1% vào quý 3, trong khi hàng hóa khác giảm
tới 7,1% trong quý 3/2008. Trong quý 4/2008, chúng tôi dự đoán tiêu dùng cá nhân tiếp tục
suy giảm do doanh số tại các cửa hàng bán lẻ Mỹ đã giảm 6 tháng liên tiếp. Riêng trong tháng
12/2008, doanh số bán lẻ ở Mỹ giảm gấp đôi so với dự báo của các chuyên gia và ở mức giảm
2,7% bởi tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, người Mỹ thắt chặt chi tiêu với mọi mặt hàng.
Đầu tư tư nhân nội địa của Mỹ đã tăng nhẹ trở lại vào quý 3 sau khi sụt giảm 3 quý liên tiếp
tính từ quý 4/2007. Tuy nhiên đầu tư xây dựng nhà ở của khu vực tư nhân vẫn sụt giảm mạnh
trong quý 3 ở mức -16% sau khi đã giảm 25,1% và 13,3% trong 2 quý trước đó. Đầu tư tài sản
cố định giảm tới 5,3% trong quý 3 và dự báo trong quý 4/2008 và 2 quý đầu năm 2009, đầu tư
nội địa Mỹ tiếp tục suy giảm ở mức độ sâu hơn.
Xuất nhập khẩu
Trong các năm qua, xuất khẩu và tiêu dùng đóng góp rất lớn vào sự phát triển của nền kinh tế
Mỹ. Xuất khẩu của Mỹ vẫn đạt được sự tăng trưởng trong suốt 3 quý đầu năm 2008 mặc dù

đồng USD đã lên giá so với hầu hết các đồng tiền khác (trừ Yên Nhật). Tuy nhiên tốc độ tăng
của quý 3 đã sụt giảm mạnh so với quý 2 từ mức 12,3% xuống còn 3,0%. Trong đó xuất khẩu
hàng hóa chỉ còn đạt mức tăng 3,7% so với mức 16,3% trong quý 2.
Nhập khẩu của Mỹ trong năm 2008 đã suy giảm 3 quý liên tiếp, trong đó quý 2/2008 là giảm
mạnh nhất với mức giảm -7,3% so với quý 1. Rõ ràng sự suy giảm trong tiêu dùng và đầu tưcá
nhân đã làm giảm mạnh nhu cầu hàng hóa dịch vụ nhập khẩu của người dân Mỹ. Trong đó
nhập khẩu hàng hóa suy giảm 4 quý liên tiếp tính từ quý 4/2007, và đang ở mức -4,7% vào quý
3/2008. Riêng dịch vụ có sự tăng trưởng trở lại với mức tăng 3,3% trong quý 3. Rõ ràng việc
suy giảm hàng hóa nhập khẩu của Mỹ đã ảnh hưởng trực tiếp tới các doanh nghiệp xuất khẩu
của Việt Nam vì Mỹ là thị trường nhập khẩu hàng đầu của Việt Nam và chiếm 25% tổng kim
ngạch xuất khẩu. Các mặt hàng như giầy da, dệt may, thủy sản, đồ gỗ, linh kiện điện tử sẽ gặp
nhiều khó khăn trong năm 2009 khi mà nhu cầu nhập khẩu từ thịtrường hàng đầu này suy giảm.
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp
Sản xuất công nghiệp của Mỹ suy giảm 4 quý liên tiếp tính từ quý 4/2007. Mức độ sụt giảm
càng về cuối năm 2008 càng mạnh hơn, nếu như quý 1/2008 mới chỉ giảm nhẹ 0,1% thì tới quý
3/2008 đã giảm 1,3% và dự đoán quý 4/2008 và 2 quý đầu năm 2009 tiếp tục sụt giảm do các
ngành công nghiệp hàng đầu Mỹ như ôtô, điện tử, khai khoáng đều đang gặp rất nhiều khó
khăn.
1.2.1.2.2 – Tác động của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế toàn cầu
Kinh tế toàn cầu khó tìm lại sự cân bằng
Năm 2008, khủng hoảng tài chính lan rộng trên phạm vi toàn cầu , tầm ảnh hưởng và mức độ
tàn khốc của nó được đánh giá là chỉ sau cuộc Đại suy thoái những năm 30 của thế kỉ trước.
Theo nhận định của các chuyên gia , nền kinh tế toàn cầu thật khó có thể tìm lại được cán cân
cân bằng
Dự tính đến cuối năm 2008, GDP toàn cầu giảm thêm 1,3% mức GDP dự tính của kinh tế toàn
cầu năm 2009 sẽ đứng mức 2,6%. Đối mặt với tình hình kinh tế vĩ mô đang khó khăn như vậy ,
các nhà đầu tư cũng chưa đưa ra được những hướng đi cụ thể . Và nền kinh tế toàn cầu thật khó
xác định được lại cán cân cân bằng cho mình
Các tác động của cuộc khủng hoảng này đã lan trên diện rộng không chỉ hoạt động các ngân
hàng mà tất cả các nền kinh tế , các thị trường bước vào thời kì suy thoái nghiêm trọng

Một là, hệ thống tài chính bị đổ vỡ hàng loạt với số lượng các ngân hàng bị đổ vỡ , sáp nhập,
giải thể, hoặc quốc hữu hóa tăng nhanh chóng. Từ 15/9/2008 đến 6/1/2009 ở Mỹ đã có 14 ngân
hàng , tính chung các nước như Mỹ, Châu Âu và Nhật là 23 ngân hàng.
Hai là, thị trường chứng khoán suy giảm mạnh mẽ, chỉ tính riêng từ khi bắt đầu khủng hoảng
các thị trường chứng khoán toàn cầu suy giảm mạnh. Trong 2008, cũng do tác động cuộc
khủng hoảng nên thị trường chứng khoán toàn cầu đã mất khoảng 17000 tỷ USD. Thị trường
chứng khoán các nước mới nổi giảm 54,72%, thị trường các nước phát triển giảm 42,72%.
Mức sụt giảm cao nhất rơi vào các nước Brazil, Ấn Độ, Nga, và Trung Quốc khoảng hơn 70%
Ba là , giá cả bất động sản suy giảm mạnh mẽ. Tính riêng tại Mỹ, trong tháng 11 giá bất động
sản giảm từ 21-50%, số lượng nhà giao bán tăng do có nhiều người không có khả năng thanh
toán khiến các ngân hàng bán ra mạnh hơn
Bốn là, cuộc khủng hoảng khiến cho giá cả của hầu hết các mặt hàng trên thế giới đều sụt giảm
mạnh. Giá dầu giảm mạnh do nhu cầu suy yếu trước bối cảnh kinh tế toàn cầu rơi vào suy
thoái, đồng USD hồi phục so với các đồng tiền chủ chốt khác, hoạt động đầu cơ cũng phần nào
giảm trước bối cảnh không sang sủa của nền kinh tế thế giới. Mức thấp nhất của giá dầu trong
thời kì này là 30,28USD/thùng vào ngày 23/12/2008, tình hình suy giảm nghiêm trọng kéo
theo đó là hàng loạt các mặt hàng khác cũng sụt giảm theo. Chỉ tính riêng giá vàng có diễn biến
tăng trong thời kì trên là do tâm lí của nhà đầu tư lựa chọn chuyển đổi sang kênh đầu tư an toàn
hơn
Năm là, lãi suất biến động mạnh do các điều kiện trên thị trường tài chính thế giới bước vào
giai đoạn khủng hoảng sâu sắc nhất trong nhiều thập kỉ qua buộc 1 loạt NHTW các nước thực
hiện nới lỏng bằng cách liên tục cắt giảm lãi suất để đối phó với suy thoái kinh tế và bơm thanh
khoản vào hệ thống ngân hàng . Lãi suất SIBOR kì hạn qua đêm ngày 17/9 tăng lên kỉ lục
6,75% năm , ngày 5/1/2009 giảm xuống mức thấp kỉ lục 0,105% năm, lãi suất Libor kì hạn qua
đêm tăng kỉ lục 6,87%/năm ngày 30/9/2008 giảm xuống mức thấp kỉ lục là o,11%/năm vào
ngày 19/12/2008
Sáu là, những diễn biến ngoài dự đoán của thị trường tài chính làm bùng nổ khủng hoảng tài
chinh toàn cầu đã khiến nhu cầu thanh khoản USD của các ngân hàng trên toàn thế giới tăng
đột biến ,đẩy đồng USD tăng giá mạnh so với các đồng tiền khác. Diễn biến đồng USD từ lúc
bắt đầu khủng hoảng đến 12/1 lên giá 6,99% so với EUR , lên giá 18,06% so với GBP nhưng

giảm giá 17,3% so với JPY và ổn định so với CNY
Bảy là, tình hình suy thoái kinh tế diễn ra trên diện rộng , suy thoái kinh tế là tốc độ tăng
trưởng của GDP âm liên tục trong 2 quý. Suy giảm kinh tế là tốc độ tăng của GDP bị giảm sút
trong nhiều quý(3, 4 quý). Có ít nhất 20 nước chính thức tuyên bố rơi vào suy thoái gồm những
nền kinh tê hàng đầu như Nhật Bản, Thụy Điển, Hồng Kong, Singapore, 14 nước khu vực đồng
EUR(trừ Pháp)…các nền kinh tế mới nổi cũng bị tác động tiêu cực với tốc độ tăng trưởng qua
các quý sụt giảm như Trung Quốc( Q1/08: 10,6%, Q2/08: 10,1%, Q3/08: 9%,), Ấn Độ ( 8,8%-
7,9%), Hàn Quốc ( 5,86%-4,75%-3,63%)….
1.2.2 – Lạm phát
1.2.2.1 – Khái niệm và đặc điểm
Khái niệm:
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế
hoạc cũng ccó thể định nghĩa là sự suy giảm sức mua trong nước của đồng nội tệ. Trong một
nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh
với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại
tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ
trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm
phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành
phần này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô. Ngược lại với lạm
phát là giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi
là sự "ổn định giá cả".
Đặc điểm:
- Lạm phát xuát hiện ở cả nước phát triển và nước đang phát triển
Nếu chính phủ in tiền ra để chi tiêu thì lạm phát xảy ra là điều không thể tránh khỏi. Mở rộng
hơn: Chỉ những sự tăng trưởng tín dụng do in tiền ra để cho vay tiêu xài, xây dựng cơ bản,…
mới gây ra lạm phát, còn việc tăng trưởng tín dụng do in tiền ra để cho vay phát triển thương
mại để giúp cho sự trao đổi hàng hóa của mọi cho nhau được dể dàng và thuận tiện hơn thì
không gây ra lạm phát. Việc tăng trưởng tín dụng thông qua cho các doanh nghiệp thương mại
vay để thực hiện việc mua bán do luôn có được hàng hóa làm vật đối chứng luôn đảm bảo được
sự cân đối Tiền- Hàng nên không gây ra lạm phát. Trong khi đó nhiều quốc gia trên thế giới có

lượng chi tiêu lớn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất vào nhiều lĩnh vực do vậy việc in
thêm tiền để chi tiêu là không thể tránh khỏi, điều đó khiến lạm phát xuất hiện ở cả quốc gia
phát triển hay đang phát triển. Tuy nhiên có thể khống chế được mức lạm phát ở mức độ phù
hợp tùy thuộc vào mục đích chi tiêu của Chính phủ.
Lạm phát đang cùng xuất hiện ở cả các nước phát triển và đang phát triển và gần như không có
ngoại lệ, đó là một đặc trưng hết sức nổi trội.
- Lạm phát của các nước đang phát triển trầm trọng hơn các nước phát triển
Mức lạm phát cao nhất ở các nước phát triển chưa tới 5% trong khi mức lạm phát thấp nhất của
các nước đang phát triển cũng đã sớm bỏ xa con số 5% này. Lý do cho đặc điểm này phải kể
đến căn nguyên của lạm phát toàn cầu là do giá dầu thô (năng lượng) và giá lương thực tăng,
các nước đang phát triển có tỷ suất tiêu hao năng lượng cao, tỷ lệ chi cho tiêu dùng thực phẩm
trong tổng tiêu dùng cũng cao và do đó mức lạm phát của họ đều vượt các nước phát triển.
Cách giải thích này có lý trong một chừng mực nhất định, nhưng không hoàn toàn. Mức lạm
phát của các nước đang phát triển cao hơn các nước phát triển cần phải tìm nguyên nhân chủ
yếu từ cơ chế vận hành của hệ thống tiền tệ quốc tế mà đặc biệt là luồng di chuyển của nguồn
vốn đầu cơ quốc tế.
- Các nước có đồng tiền lên giá và các nước có đồng tiền xuống giá đều cùng xảy ra lạm
phát. Hơn thế, lạm phát của các nước có đồng tiền tăng giá còn nghiêm trọng hơn ở
các nước có đồng tiền mất giá.
Nhiều quốc gia sử dụng chính sách tỷ giá để khống chế lạm phát. Ví dụ việc điều chỉnh tỷ giá
sao cho đồng nội tệ tăng giá so với ngoại tệ sẽ làm hàng hóa nhập khẩu rẻ đi 1 cách tương đối,
hạn chế xuất khẩu, khuyến khích nhập khẩu, giảm nhu cầu nội tệ, tăng cầu ngoại tệ => lạm
phát khó xảy ra. Tuy nhiên, để đạt được sự khống chế lạm phát như vậy buộc phải điều chỉnh
tỷ giá cho đồng nội tệ tăng giá với biên độ lớn, và phải tăng một cách nhanh chóng. Mà điều
kiện này là không khả thi. Có thể dùng chính sách tỷ giá để hạn chế lạm phát chứ không thể
triệt tiêu lạm phát.
- Lạm phát xuất hiện ở cả những nước thâm hụt ngân sách và thặng dư ngân sách
Kinh tế học thông thường cho rằng: một quốc gia có thặng dư ngân sách và không có biến
động về in tiền thì có thể khống chế được lạm phát. Ngược lại, một quốc gia có ngân sách thâm
hụt sẽ luôn đi kèm với lạm phát. Các nước đang phát triển càng đúng như vậy, ngân hàng trung

ương của họ không độc lập và thường phải tăng lượng in tiền để bù đắp vào những khoản bội
chi. Thế nhưng, tình hình ngày nay đã không còn là như vậy: các nước như Trung Quốc hay
Nga đều có thặng dư ngân sách trong đó thặng dư ngân sách của Nga khá khả quan (chiếm
8,8% GDP) nhưng lạm phát vẫn nghiêm trọng. Tất nhiên, cũng là lẽ thường khi các nước đang
phát triển lại có thâm hụt ngân sách phải đối mặt với lạm phát nghiêm trọng
1.2.2.2 – Thực trạng của vấn đề lạm phát trên thế giới từ năm 2010 tới nay
Kể từ cuối năm 2009, lạm phát thế giới đã có xu hướng tăng. Tỷ lệ lạm phát thế giới năm 2010
đã đạt tới mức trung bình của giai đoạn trước khủng hoảng 2000-2007. Cụ thể là tỷ lệ lạm phát
thế giới đã tăng từ 1,3% trong quý III/2009 lên tới 3,7% trong quý IV/2010.
Lạm phát gia tăng ở tất cả các nước mới nổi, đang phát triển lẫn các nước phát triển.
Lạm phát ở các nước đang phát triển
Trong các nước đang phát triển, Ấn Độ với những nỗ lực chống lạm phát khi tỷ lệ lạm phát
liên tục giảm trong năm 2010, sau một thời gian dài liên tục tăng từ 2003-2009 (từ 2,9%
lên 15%). Trong khi lạm phát thế giới có xu hướng gia tăng, tỷ lệ lạm phát của Ấn Độ đã
giảm xuống còn 8,6% trong năm 2010 và 9,3% trong tháng 1/2011.
Các nước Nam Mỹ có mức lạm phát tương đối ổn định ở mức dưới 2 con số trong cả thập
niên 2000. Tuy nhiên, các nước Mỹ Latinh vẫn chịu sức ép lạm phát trong năm 2011, như
Brazil có tỷ lệ lạm phát tăng từ 4,3% trong năm 2009 lên 5,2% trong năm 2010 và 6% trong
2 tháng đầu năm 2011.
Lam phát của Argentina tăng từ 7,7% trong năm 2009 lên 10,9% trong năm 2010 và 10,6%
trong tháng 1/2011. Trong khi đó, Chile, Mexico và Peru vẫn duy trì được tỷ lệ lạm phát
thấp hơn năm 2010, tương ứng là 2,7%, 3,6% và 2,2%.
Lạm phát của các nước ASEAN liên tục tăng từ quý III/2009 đến quý IV/2010, từ 0,4% lên
5,3%. Tuy nhiên, sức ép lạm phát ở các nước ASEAN trong năm 2010 không quá lớn.
Tỷ lệ lạm phát của Malaysia, Philippines và Thái Lan cho đến năm 2010 và đầu năm 2011
vẫn chỉ ở khoảng 3%. Tỷ lệ lạm phát của Indonesia tăng từ 5,9% năm 2009 lên 7% năm
2010 và giữ ở tốc độ 6,8% trong 2 tháng đầu năm 2011, do nước này đã thực hiện việc điều
chỉnh tăng giá điện trong năm 2011. Lạm phát của Malaysia tăng từ 2,2% trong năm 2010
lên 2,4% trong tháng 1-2011; Singapore tăng từ 4,1% trong năm 2010 lên 5,54% trong
tháng 1-2011.

Tỷ lệ lạm phát của Trung Quốc đã lên tới 3,5% trong năm 2010 và 4,9% trong 2 tháng đầu
năm 2011.
Lạm phát ở các nước phát triển
Không chỉ các nước mới nổi và đang phát triển, các nước phát triển cũng đối mặt với lạm
phát gia tăng, nhất là Hàn Quốc, Anh và Mỹ. So với năm 2010, tỷ lệ lạm phát tháng 1/2011
của các nước này đã tăng tương ứng từ 3,0% lên 4,1%, 2,6% lên 4,0% và 0,5% lên 1,6%.
Lạm phát của khu vực đồng Euro có xu hướng tăng kể từ quý III/2009, tỷ lệ lạm phát đã
tăng từ 0,4% trong quý IV/2009 lên tới 2,0% trong quý IV/2010, 2,4% trong tháng 1/2011
và 2,5% trong tháng 2/2011. Lạm phát khu vực đồng Euro tăng chủ yếu do giá lương thực
và năng lượng tăng cao. Chính sách nới lỏng tiền tệ cũng là một nhân tố gây lạm phát ở khu
vực này
So với các nước phát triển khác, Hàn Quốc chịu sức ép gia tăng lạm phát lớn hơn. Sau khủng
hoảng kinh tế thế giới 2008, lạm phát cũng có dấu hiệu tăng trở lại một cách nhanh chóng
kể từ quý III/2009, từ 2% lên 3,6% trong quý IV/2010. Trong tháng 1 và 2/2011, lạm phát
của Hàn Quốc đã lên tới 4,1% và 4,5%, mức cao nhất trong 25 tháng gần đây.
- Khoảng 6 tháng đầu năm 2011, lạm phát trên thế giới, đặc biệt tại nhóm thị trường mới
nổi tăng nóng. Nguyên nhân chính bởi nhu cầu tiêu thụ hàng hóa tăng cao, tác động từ các
gói kích thích kinh tế.
Tại Ấn Độ, lạm phát tháng 5/2011 chạm mức 9,6%; lạm phát tại Trung Quốc lập đỉnh 6,4%
vào tháng 6/2011; tại Nga, lạm phát lập đỉnh trên 9% Lạm phát tại eurozone cũng vượt
mức mục tiêu 2% của ECB…
Trong những tháng cuối năm 2011, lạm phát tại nhiều nền kinh tế hạ nhiệt khi nhu cầu yếu
đi, khủng hoảng châu Âu căng thẳng hơn khiến đồng USD tăng mạnh, giá hàng hóa giảm
theo.
-Theo báo cáo của WB, lạm phát của các nền kinh tế trên thế giới đã giảm mạnh trong nửa
cuối năm 2011 và nửa đầu năm 2012
Ở các nước phát triển, mức độ giảm lạm phát không nhiều, từ2,7% xuống còn 2,5% cùng kì.
Còn tại các nước đang phát triển, lạm phát giảm mạnh xuống còn 5% trong 3 tháng đầu
năm 2012 từ mức trung bình 7,2 % của năm 2011.
Lạm phát trong khu vực Đông Á và Châu Á- Thái Bình Dương giảm từ 8% từ đầu 2011

xuống còn 1,6% vào tháng 4 năm 2012.
Lạm phát ở châu Âu và Trung Á giảm xuống còn 3,1%. Lạm phát khu vực Nam Á giảm xuống
còn 3% vào tháng 3/2012.
Mặc dù lạm phát giảm là xu hướng chung nhưng ở 1 số quốc gia vẫn phải đối mặt với lạm
phát gia tăng. Nguyên nhân là do phát triển quá nóng( như Braxin, Argentina, Ấn Độ, Ghana
và Thổ Nhĩ Kì)
Tháng 9/2012, các chuyên gia của tờ báo The Economist nhận định tỉ lệ lạm phát trung bình
nhiều khả năng sẽ thấp hơn cùng kì năm ngoái, riêng tại các nền kinh tế phát triển lạm phát
sẽ duy trì ở mức thấp từ 2-3% đến hết năm 2012
Lạm phát ở Zimbabue
Lạm phát đã tăng từ một tỷ lệ hàng năm 32% năm 1998, lên mức ước tính chính thức cao
tới 11.200.000.000% vào tháng 8 năm 2008 theo Văn phòng Thống kê Trung Ương. Đây là
một tình trạng siêu lạm phát, và ngân hàng trung ương đã đưa ra một đồng tiền 100 tỷ
dollar mới. Ở thời điểm tháng 11 năm 2008, các con số không chính thức đưa ra tỷ lệ lạm
phát hàng năm của Zimbabwe là 516 nhân 10 mũ 18 phần trăm, với giá cả tăng gấp đôi sau
mỗi 1.3 ngày
Tháng 8 năm 2006, một đồng dollar zimbabwe mới đã được đánh giá lại được phát hành
tương đương với 1.000 dollar trước kia. Tỷ lệ trao đổi đã giảm từ 24 dollar Zimbabwe cũ
trêndollar Mỹ năm 1998 tới 250.000 dollar trước kia hay 250 dollar Zimbabwe mới trên 1
dollar Mỹ theo tỷ giá chính thức
Tháng 1 năm, 2009, Zimbabwe đưa ra đồng tiền giấy $100 nghìn tỷ (10
14
). Ngày 29 tháng 1,
trong một nỗ lực đối phó với tình trạng lạm phát của đất nước, quyền Bộ trưởng Tài
chính thông báo rằng người dân Zimbabwe sẽ được phép sử dụng các đồng tiền tệ khác, ổn
định hơn (ví dụ Sterling, Euro, Rand Nam Phi và Dollar Mỹ) trong trao đổi, bên cạnh đồng
dollar Zimbabwe.
Ngày 2 tháng 2 năm 2009, RBZ thông báo thêm 12 số không nữa sẽ bị bỏ khỏi đồng tiền tệ,
với 1.000.000.000.000 dollar (thế hệ ba) Zimbabwe đổi được một dollar mới. Các đồng tiền
mới (thế hệ bốn) được đưa ra với mệnh giá mới Z$1, Z$5, Z$10, Z$20, Z$50, Z$100 và Z$500.

Các đồng tiền thế hệ bốn được lưu hành cùng với các đồng thế hệ ba, vẫn được sử dụng cho
tới ngày 30 tháng 6 năm 2009.
1.2.3 – Thất nghiệp
1.2.3.1 – Khái niêm, đặc điểm
Khái niệm:
Thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động có khả năng làm việc, mong muốn làm
việc nhưng lại không tìm được việc làm.
Phân loại:
Thất nghiệp tự nhiên: là thất nghiệp đáng mong muốn, không thay đổi theo thời gian hoặc
không bị ảnh hưởng bởi chính sách kinh tế. Trong đói có: thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp
cơ cấu, thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển.
Thất nghiệp chu kỳ: là tình trạng thất nghiệp khi nền kinh tế lâm vào suy thoái. Dấu hiệu
của thất nghiệp chu kỳ đó là tình trạng thất nghiệp xảy ra tràn lan ở khắp mọi nơi, mọi
ngành nghề và gắn với sự lên xuống ngắn hạn của chu kỳ kinh doanh.
Điều này được giải thích như sau:
Khi nền kinh tế trong giai đoạn suy thoái, tổng cầu giảm xuống làm giảm mức giá vì vậy
mức lương thực tế sẽ tăng lên. Với mức lương thực tế tăng lên, doanh nghiệp sẽ thuê ít lao
động đi thất nghiệp sẽ tăng.
Đặc điểm
Thất nghiệp tác động đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát
Thất nghiệp tăng có nghĩa lực lượng lao động xã hội không được huy động vào hoạt động
sản xuất kinh doanh tăng lên; là sự lãng phí lao động xã hội- nhân tố cơ bản để phát triển
kinh tế – xã hội. Thất nghiệp tăng lên cũng có nghĩa là nền kinh tế đang suy thoái- suy thoái
do tổng thu nhập quốc gia thực tế thấp hơn tiềm năng; suy thoái do thiếu vốn đầu tư ( vì vốn
ngân sách vị thu hẹp do thất thu thuế, do phải hỗ trợ người lao động mất việc làm…) Thất
nghiệp tăng lên cũng là nguyên nhân đẩy nền kinh tế đến bờ vực của lạm phát.
Tăng trưởng, lạm phát và thất nghiệp là 3 mục tiêu của chính sách tiền tệ, đòi hỏi phải có sự
đánh đổi. Để tăng trưởng kinh tế, Chính phủ thực hiện kích cầu, tạo nhiều việc làm cho
người lao động. Tuy nhiên sẽ xảy ra hiện tượng lạm phát do cầu kéo.
Thất nghiệp ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của người lao động.

Người lao động bị thất nghiệp, tức mất việc làm, sẽ mất nguồn thu nhập. Do đó, đời sống
bản thân người lao động và gia đình họ se khó khăn. Điều đó ảnh hưởng đến khả năng tự
đào tạo lại để chuyển đổi nghề nghiệp, trở lại thị trường lao động; con cái họ sẽ gặp khó
khăn khi đến trường; sức khỏe họ sẽ giảm sút do thiếu kinh tế để bồi dưỡng, chăm sóc y tế…
Có thể nói, thất nghiệp “đẩy” người lao động đến bần cùng, đến chán nản với cuộc sống, với
xã hội; dẫn họ đến những sai phạm đáng tiếc…
Thất nghiệp ảnh hưởng đến trật tự xã hội, an toàn xã hội.
Thất nghiệp gia tăng làm trật tự xã hội không ổn định; hiện tượng bãi công, biểu tình đòi
quyền làm việc, quyền sống…tăng lên; hiện tượng tiêu cực xã hội cũng phát sinh nhiều lên
như trộm cắp, cờ bạc, nghiện hút, mại dâm…Sự ủng hộ của người lao động đối với nhà cầm
quyền cũng bị suy giảm…Từ đó, có thể có những xáo trộn về xã hội, thậm chí dẫn đến biến
động về chính trị.
Thất nghiệp là hiện tượng kinh tế – xã hội khó khăn và nan giải của quốc gia, có ảnh hưởng
và tác động đến nhiều mặt đời sống kinh tế – xã hội
1.2.3.2 – Thực trạng thất nghiệp trên thế giới những năm gần đây
Thất nghiệp toàn cầu sau cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2007
Một trong số các hậu quả nguy hại nhất từ cuộc khủng hoảng tài chính là nạn thất nghiệp,
tỷ lệ thất nghiệp đang ở mức cao chóng mặt tại nhiều nước trên thế giới.
- Theo số liệu của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), năm 2007, số lượng những người thất
nghiệp trên thế giới đã tăng thêm 2,9 triệu người, lên tới con số 189,9 triệu người so với
năm 2006. Năm 2007, tỉ lệ thất nghiệp cao nhất là ở khu vực Trung Đông là 11,8% và Bắc
Phi là 10,9%. Tại các nước công nghiệp phát triển ở châu Âu và Bắc Mỹ, tỉ lệ thất nghiệp
năm 2007 là 6,2%.
Ước tính trên thế giới có khoảng 210 triệu người bị thất nghiệp, tăng hơn 30 triệu người kể
từ đầu cuộc Đại suy thoái năm 2007; ¾ con số này thuộc về các nền kinh tế đang phát triển.
Đặc biệt phải kể tới Mỹ, tâm điểm của cuộc Đại suy thoái với tỷ lệ thất nghiệp tăng cao nhất
- 7,5 triệu người kể từ năm 2007
- Đến năm 2008, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính đối với vấn đề thất nghiệp
được bộc lộ rõ hơn. Cụ thể:
* Bức tranh thất nghiệp nhìn chung không có gì cải thiện nhiều. Theo số liệu của ILO, tỷ lệ

thất nghiệp cao nhất (10,3%) năm 2008 là ở Bắc Phi; Còn theo số liệu của Liên hợp quốc thì
tỉ lệ thất nghiệp cao nhất trong năm 2008 lại là ở Zimbabwe với 94% số người đang ở trong
độ tuổi lao động không có việc làm, dân số Zimbabwe là 11,35 triệu người và chỉ có hơn 600
nghìn người có việc làm.
* Tại Mỹ trong năm 2008 đã có tới 2,6 triệu người bị mất việc làm. Theo số liệu của Bộ Lao
động, tính cho tới tháng 11/2008 đã có 6,7% số người trong độ tuổi lao động không có việc
làm.
* Tại các nước công nghiệp phát triển tỉ lệ tăng trưởng của các chỗ làm mới ở mức độ âm,
tức là số chỗ làm mới được tạo ra ít hơn số những chỗ làm vừa bị xoá bỏ. Trong khu vực sử
dụng đồng euro, theo số liệu của hãng Eurostat, tỉ lệ thất nghiệp trong tháng 12/2008 đã
lên tới 8%, cao nhất kể từ tháng 11/2006. Số lượng những người thất nghiệp trong Liên
minh châu Âu (EU) tháng 12/2008 là 17,91 triệu người.
* Tại Tây Ban Nha, nước có nền kinh tế đứng thứ năm ở châu Âu, trong quý IV năm 2008, tỉ
lệ thất nghiệp là 13,91%. Số người thất nghiệp trong năm qua ở nước này là 3,2 triệu.
Tháng 1/2009, số người thất nghiệp ở Tây Ban Nha đã tăng thêm 6,35% so với tháng
12/2008, cao nhất trong vòng 12 năm qua có tới hơn 3,3 triệu người Tây Ban Nha thất
nghiệp.
* Ở vùng Trung Đông trong năm 2008,tỷ lệ thất nghiệp là 9,4%. Các nước Đông Âu và Trung
Âu (không nằm trong Liên minh châu Âu) và các nước thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập
(SNG)3 đạt tỷ lệ thất nghiệp cao thứ 3 thế giới. Tại đó tỉ lệ thất nghiệp là 8,8% trong số dân
có khả năng lao động.
*Tỉ lệ thất nghiệp thấp nhất trong năm 2008 là ở khu vực Đông Nam Á: 3,8%. Cũng cần
phải thấy rằng, trong năm 2008 đã có tới 57% chỗ làm mới trên thế giới được tạo ra ở châu
Á.
Một thực trang đáng lo ngại đối với nền kinh tế toàn cầu đó là tỷ lệ thất nghiệp ở giới
trẻ các nước đang ngày càng tăng cao.
Tỷ lệ thất nghiệp của giới trẻ trên toàn cầu và trong các khu vực.
Trong báo cáo của ILO mang tên "Xu hướng toàn cầu về việc làm của thanh niên 2010" đã
thống kê, trong số 620 triệu thanh niên ở độ tuổi 15-24, có tới 81 triệu người không có việc
làm vào thời điểm cuối năm ngoái. Đây là con số cao nhất từ trước tới nay, tăng 7,8 triệu so

với năm 2007.
- Báo cáo của ILO cho rằng tình trạng thất nghiệp giới trẻ sẽ không thể cải thiện trong thời
gian ngắn. Tỷ lệ thất nghiệp của những người trẻ tuổi trên thế giới sẽ tiếp tục leo cao trong
năm 2014 và lên tới 12,9% trong năm 2017. Con số này gần chạm đỉnh 75,4 triệu người trẻ
tuổi thất nghiệp ở giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn cấu năm 2009
Khảo sát của ILO cho biết, số người thất nghiệp trong độ tuổi từ 15-24 trên thế giới là gần
75 triệu người, hay chiếm 12,7% dân số trong độ tuổi này, tăng so với 12,6% năm 2011.
- Năm 2011, tỷ lệ thất nghiệp ở giới trẻ ở Nam Phi là gần 28%, trong khi Trung Đông là
26,5%, khu vực Trung Âu và Đông Nam châu Âu giảm nhẹ xuống 17,6%, Mỹ Latinh và Bắc
Âu giảm xuống 14,3%, Đông Nam Á và Thái Bình Dương là 13,5%.
Thất nghiệp có xu hướng tăng cao trong năm 2013
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) ngày 22-1 phát hành báo cáo cho biết năm 2012 tỷ lệ thất
nghiệp tăng 4,2% , trong đó 1/4 số tăng tại các nước phát triển, 3/4 tại các nước đang phát
triển. Bên cạnh đó, thời gian thất nghiệp trung bình cũng tăng đáng kể với 1/3 người thất
nghiệp từ một năm trở lên.
Giám đốc ILO, ông Guy Ryder, dự báo năm 2013 sẽ có thêm 5,1 triệu người thất nghiệp và
năm 2014 tiếp tục có thêm 3 triệu người thất nghiệp. Ông Ryder cho rằng hai năm tới, tốc
độ phục hồi kinh tế không đủ mạnh để đưa tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống cách nhanh chóng
và thị trường lao động đặc biệt u ám với giới trẻ.
1.2.4 – Khủng hoảng nợ công và nợ nước ngoài
1.2.4.1 – Khái niệm và đặc điểm
Khái niệm:
Nợ công:
Một cách khái quát nhất, có thể hiểu “nợ chính phủ, nợ công hoặc nợ quốc gia là tổng giá trị
các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm tài
trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách, vì thế, nợ chính phủ, nói cách khác, là thâm hụt ngân
sách luỹ kế tính đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của nợ chính phủ, người
ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) .
Nợ chính phủ thường được phân thành: Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay

trong nước) và nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước).
Việc đi vay của chính phủ có thể được thực hiện thông qua phát hành trái phiếu chính phủ
để vay từ các tổ chức, cá nhân. Ngoài việc vay bằng cách phát hành trái phiếu nói trên, chính
phủ cũng có thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại , các thể chế tài chính quốc
tế, chẳng hạn Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), WB . Hình thức vay này thường được chính phủ của
các nước có độ tin cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức phát
hành trái phiếu chính phủ của họ không cao.
Nợ nước ngoài:
nợ nước ngoài là tổng số tiền mà 1 quốc gia có trách nhiệm và bị ràng buộc phải thanh toán
cho các chủ thể có quyền sở hữu chính thức đối với khoản tiền đó.
Phân loại: Căn cứ vào chủ thể đứng ra vay nợ, được chia thành:
- Nợ nhà nước (nợ chính phủ): là nợ do nhà nước và các tổ chức nhà nước đứng ra vay
hoặc bảo lãnh.
- Nợ tư nhân: là các khoản nợ do các DN tư nhân đứng ra vay ko cần có sự bảo lãnh của
CP. Các DN này thường là các ngân hàng, các DN công thương có nhiều hoạt động trong
quan hệ kinh tế.
*, Khoản tiền vay chủ yếu bằng các ngoại tệ mạnh: USD, EURO, JPY…
Đặc điểm:
- Một là, khủng hoảng nợ công mang bản chất là khủng hoảng kinh tế, làm suy giảm các
hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế.
- Hai là, khủng hoảng nợ công không phân biệt quốc gia phát triển hay quốc gia đang phát
triển. Điều này có nghĩa là, bên cạnh vấn đề thiếu nợ thường xuyên tái diễn ở các quốc gia
thuộc “Thế giới thứ ba”, khủng hoảng nợ hoàn toàn có khả năng xảy ra ở những nước phát
triển, nơi nền kinh tế tăng trưởng một cách tương đối cao và ổn định.
- Ba là, khủng hoảng nợ công một khi đã diễn ra thường kéo dài trong một thời gian, kéo
theo nhiều hệ lụy không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn trong chính trị - văn hóa - xã hội.
- Bốn là, khủng hoảng nợ công gắn liền với mức độ tín nhiệm của chính phủ quốc gia xảy ra
sự kiện. Khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo cáo của các
tổ chức chuyên đánh giá tín nhiệm công ty và quốc gia, niềm tin của người dân và giới đầu
tư bị lung lay; khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc

tế.
1.2.4.2 – Thực trạng vấn đề nợ công trên thế giới
Khủng hoảng kinh tế thế giới đã và đang được khắc phục nhưng kéo theo nhiều bất ổn kinh
tế vĩ mô trong thời kỳ hậu khủng hoảng. Những khoản nợ công khổng lồ đang là vấn đề nan
giải của nhiều quốc gia trên thế giới. Thời gian qua, các nước giàu đã vay nợ với tốc độ
chóng mặt do suy thoái kinh tế, các khoản chi tăng vùn vụt bởi các hoạt động giải cứu, hỗ
trợ thất nghiệp và những nỗ lực kích thích kinh tế.
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ công của 10 quốc gia giàu nhất thế giới sẽ tăng từ mức
78% GDP vào năm 2007 lên mức 114% GDP vào năm 2014. Theo ước tính của Tổ chức Hợp
tác và Phát triển kinh tế (OECD), nợ công của các nước thành viên đã tăng vọt từ khoảng
hai mươi năm nay, từ 59% GDP vào năm 1987 lên 75% GDP vào năm 2007; nợ công sẽ tăng
30% từ năm 2007 đến năm 2017. Tại Mỹ, nợ công sẽ từ 63% GDP vào năm 2007 lên 103%
GDP vào năm 2017. Tại Anh, con số này từ 47% lên 125%, ở Nhật 170,6% tăng lên 208%
Tại Mỹ
Quyết định khó khăn vào phút chót của QH Mỹ nâng trần nợ công và việc để mất định mức
tín nhiệm "ba chữ A" lần đầu trong lịch sử, kể từ khi nền kinh tế số một thế giới này nhận
được đánh giá "AAA" từ năm 1917, được coi là thất bại lớn nhất của Mỹ năm 2011. Nợ công
vượt 100% GDP, cùng với cuộc tranh cãi kéo dài giữa hai phe Dân chủ và Cộng hòa tại QH
Mỹ là lý do hãng xếp hạng tín dụng Standard & Poors đánh tụt hạng tín nhiệm kinh tế Mỹ.
Các số liệu thống kê cho thấy, nợ công của Mỹ lập kỷ lục tới 15 nghìn tỷ USD, thâm hụt
ngân sách tài khóa kết thúc ngày 30-9-2011 là 1.300 tỷ USD. Mặc dù Tổng thống B.Ô-ba-ma
công bố dự án tạo việc làm trị giá hàng trăm tỷ USD đầy tham vọng, nhưng bế tắc chính trị
do tranh giành quyền lực tại QH đã khiến các nỗ lực của Nhà trắng nhằm giảm tỷ lệ thất
nghiệp tới 8,6% chưa đem lại kết quả
Tại EU
Khủng hoảng nợ tại các nước thành viên EU đang đe dọa đến sự ổn định và phát triển toàn
EU. Những lo ngại về nguy cơ vỡ nợ chính phủ thời gian qua đã đổ dồn về những quốc gia bị
xem là yếu thế hơn trong khu vực sử dụng đồng Euro, đặc biệt là các nước Hy Lạp, Ireland,
Italy, Bồ Đào Nha, và Tây Ban Nha. Ở những nước này, việc sử dụng đồng tiền chung đã loại
bỏ lựa chọn in tiền đơn phương. Tại khu vực đồng Euro, sau khi Hy Lạp gặp khủng hoảng nợ

công, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha cũng đang đứng trước nguy cơ này. Hy Lạp hiện đang
được EU giám sát đặc biệt, với nhiều biện pháp khẩn cấp nhằm giảm thâm hụt ngân sách
đang ở mức kỷ lục là 12,7% GDP. Tây Ban Nha cũng đang có tỷ lệ thâm hụt là 9,3%, cao nhất
từ năm 1974.
"Cơn giận dữ đường phố" ở Hy Lạp, Tây Ban Nha bùng nổ từ hệ lụy chính sách "thắt lưng
buộc bụng" mà các chính phủ Eurozone buộc phải thực thi để đổi lấy các gói giải cứu khổng
lồ từ EU và IMF. Người lao động, người nghèo và giới trẻ Tây Ban Nha, Hy Lạp hay I-ta-li-a
trở thành đối tượng chịu thiệt thòi, sẵn sàng tham gia các cuộc "tuần hành giận dữ". Làn
sóng bạo loạn ở Anh là dấu hiệu cơn thịnh nộ âm ỉ trong xã hội bất bình với các biện pháp
cắt giảm phúc lợi xã hội.
Tại Nhật Bản
Nợ công (nợ quốc gia) Nhật Bản bao gồm trái phiếu chính phủ do nhà nước phát hành, các
khoản vay và chứng khoán ngắn hạn nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách. Từ
thập kỷ 1990, tài chính công của Nhật Bản ngày càng đi xuống và Nhật Bản trở thành một
trong những quốc gia có vấn đề tài chính đáng lo ngại nhất trong số các nền kinh tế phát
triển. Theo IMF, tổng nợ công của chính phủ Nhật Bản hiện đã lên đến 229% GDP (7/2011).
So với nợ công châu Âu, nợ công Nhật Bản có sức công phá và lan tỏa gấp bội. Nợ công
Nhật Bản không chỉ ở mức vài trăm triệu USD như ở Hy Lạp, Ailen và Bồ Đào Nha mà đã lên
tới mức cao kỷ lục 924.000 tỉ yên (khoảng hơn 11.354 tỉ USD) tính đến tháng 3/2011
Ảnh hưởng của tình hình nợ công đến nền kinh tế thế giới
Từ khi nổi lên vấn đề khủng hoảng nợ Hy Lạp vào cuối năm ngoái, đồng Euro đã liên tục
trượt giá so với USD, khiến các cơ quan chức năng của Mỹ và EU lo ngại có bàn tay của các
quỹ đầu cơ lớn. Cuộc khủng hoảng nợ ở châu Âu cũng đe dọa đảo lộn trật tự tài chính, chính
trị và quyền lực ở châu lục này. Đức và Pháp là những quốc gia có khả năng giải cứu cao
nhất, các nhà lãnh đạo ở 2 nước này có thể sẽ là những người quyết định chính sách tài
khóa cho Bồ Đào Nha, Ireland, Italy, Hy Lạp và Tây Ban Nha. Tuy nhiên, hai nước này cũng
đang phải đương đầu với nhiều khó khăn về tăng trưởng và ngân sách. Thâm hụt ngân sách
của Đức và Pháp lần lượt ở mức 6,3% và 7,5% GDP.
Châu Á - Thái Bình Dương, "điểm sáng kinh tế"
Với các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, khủng

hoảng nợ ở phương Tây được ví như một hành tinh đang lao về phía Trái đất, rất khó để có
thể né tránh và cũng khó xác định thiệt hại nếu xảy ra va chạm. Thương mại và đầu tư ở các
nền kinh tế châu Á dựa chủ yếu vào xuất khẩu đã "cảm nhận" rõ tác động của khủng hoảng
nợ ở châu Âu và Mỹ. Mỹ và EU, quốc gia và khối kinh tế lớn nhất thế giới, tổng cộng chiếm
hơn 50% GDP toàn cầu, vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của châu Á. Dòng vốn từ Mỹ và
Eurozone cũng là kênh đầu tư quan trọng vào châu Á. Vì thế, không thể phủ nhận sự đi
xuống của các nền kinh tế quan trọng này sẽ kéo theo sự sụt giảm thương mại, đầu tư của
châu Á. Nhiều nhà kinh tế ví von, có một "cơn bão thầm lặng" tràn qua các nền kinh tế mới
nổi ở châu Á - Thái Bình Dương, khi xuất hiện làn sóng rút vốn từ Mỹ và châu Âu!
Nhận xét về vấn đề nợ công
Nợ công của các quốc gia phương Tây đã khá nghiêm trọng, trong Diễn đàn kinh tế thế giới
(WEF) tại Davos, Thụy Sỹ, 2400 chuyên gia kinh tế cùng chọn “nợ công” làm vấn đề kinh tế
chủ yếu mà toàn cầu cùng đối mặt, tiếp theo là “chủ nghĩa bảo hộ thương mại” và “giám sát
tài chính”. Theo phân tích của WEF, trong năm 2009, nhiều nước trên thế giới đã triển khai
hàng loạt biện pháp kinh tế chưa từng có (như bơm tiền để cải thiện tính thanh khoản của
hệ thống tài chính - ngân hàng), hay triển khai nhiều biện pháp kích thích kinh tế (nhằm
ngăn chặn, hạn chế ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới)
đã khiến ngân sách của nhiều nước bị thâm hụt nặng nề.
1.2.5 – Những vấn đề khác
1.2.5.1 – Chiến tranh thương mại
- Khái niệm: Theo nghĩa cổ điển, chiến tranh thương mại là hành vi hai quốc gia lập các
hàng rào thương mại chống lại nhau theo một cái vòng luẩn quẩn của chủ nghĩa bảo hộ và
trả đũa. Như vậy, nếu chiến tranh thương mại xảy ra, hàng loạt công cụ như áp dụng thuế
bán phá giá, trợ cấp thương mại trong nước, “cấm vận” hàng hóa,… sẽ được hai nước sử
dụng triệt để.
- Thực trạng: Điển hình phải nói đến tình hình thương mại căng thẳng đang diễn ra giữa
Nhật Bản và Trung Quốc. Nguyên nhân cơ bản nhất chính là do xung đột tranh chấp tại
quần đảo Senkaku/Điếu Ngư trên biển Hoa Đông. Chính phủ Trung Quốc đe dọa trừng phạt
thương mại Nhật Bản. Trung Quốc có thể đình chỉ xuất khẩu sang Nhật Bản nhiều loại
nguyên vật liệu quan trọng, trong khi các phần tử cực đoan kêu gọi Bắc Kinh đối đầu quân

sự với Tokyo.
Tuy cuộc chiến chưa bùng nổ, những con số thiệt hại đã xuất hiện sau những cuộc biểu tình
chống Nhật kèm theo đập phá, hôi của tại hàng chục đô thị lớn nhỏ ở Trung Quốc. Các
doanh nghiệp Nhật Bản có cơ sở hoạt động ở Trung Quốc đã báo cáo với các hãng bảo hiểm
rằng họ đã bị thiệt hại gần 130 triệu USD.
Việc thua lỗ trong kinh doanh của các hãng xe hơi Nhật ở Trung Quốc cũng không nhỏ. Chỉ
tính đến hết tháng 9/2012, các đại lý của 3 hãng xe Toyota, Nissan và Honda ở Trung Quốc
bị thiệt hại khoảng 250 triệu USD, tương đương 14.000 chiếc (giá trung bình 18.000
USD/chiếc. Mức độ thiệt hại đang tiếp tục gia tăng lên bởi chưa có dấu hiệu người tiêu dùng
Trung Quốc thôi tẩy chay xe hơi Nhật.
Nhiều lĩnh vực chiến lược khác của Nhật ở Trung Quốc cũng bị thiệt hại khá nặng. Các hãng
Sony, Canon và Panasonic đã ngưng hoạt động tại nước đông dân nhất thế giới. Nhiều cửa
hàng bán lẻ hàng hóa Nhật đóng cửa vì lo sợ bị tấn công đập phá và cướp của. Chuỗi cửa
hàng Fast Retailing, chủ sở hữu nhãn hiệu quần áo Uniqlo, đã đóng cửa 42/145 cửa hàng
khiến 200 nhân viên thất nghiệp; hai chuỗi cửa hàng Seven & I và Jusco của Nhật cũng đóng
cửa.
Tại sao nó là vấn đề toàn cầu?
Nếu xảy ra chiến tranh thương mại Nhật - Trung, kinh tế thế giới sẽ đứng trước một đợt
“sóng thần” với những hậu quả khó lường - Bà Janet Hunter, nhà sử học kinh tế ở trường
Đại học London nhận định. Toàn bộ nền kinh tế thế giới sẽ gánh lấy hậu quả. Bởi, theo bà
Janet Hunter, tăng trưởng kinh tế thế giới hiện nay phụ thuộc vào châu Á, vùng đất duy nhất
còn giữ tốc độ tăng trưởng khá. Trung Quốc và Nhật Bản lại là cường quốc kinh tế thứ hai
và thứ ba thế giới.
Nhật báo Mỹ The Wall Street Journal (WSJ) cũng cho rằng hoạt động kinh tế của hai cường
quốc kinh tế châu Á sụt giảm thì chưa biết chừng nào thế giới mới có thể thoát khỏi cuộc
khủng hoảng kinh tế - tài chính kéo dài từ năm 2008.
Greg Nance, một doanh nhân Mỹ ở Thượng Hải, chuyên nghiên cứu về chiến lược đồng minh
Mỹ ở Đại học Chicago, đánh giá trên tờ The Seattle Times rằng cuộc xung đột chính trị, kinh
tế hiện nay giữa Trung Quốc và Nhật Bản giống như một trận cuồng phong có thể tàn phá
nền kinh tế châu Á. Nếu giao thương giữa 2 “đại gia” châu Á bị tê liệt thì đồng thời kinh tế

thế giới cũng bị vạ lây
Tuy nhiên không phải chỉ riêng Nhật Bản mà tất cả các đối tác thương mại đều từng phải
chịu hậu quả khi chẳng may động chạm đến quyền lợi của Trung Quốc như cuộc chiến chuối
với Philipin (2012), cuộc chiến cá hồi với Nauy (2011), chống bán hàng hóa phá giá với Mỹ
và EU (kéo dài nhiều năm cho tới nay), Cuộc chiến dầu đậu nành từ Argentina (2010), chiến
tranh sữa với Ấn Độ (2008)
1.2.5.2 – Chiến tranh tiền tệ
- Khái niệm: Chiến tranh tiền tệ là việc một tổ chức kinh tế hay chính phủ của một quốc gia
sử dụng cồng cụ tiền tệ để thu lợi cho quốc gia hay một thế lực kinh tế của quốc gia đó, và
làm suy yếu nền kinh tế - tài chính; dùng đồng tiền để chi phối nền tài chính của các đối tác
bên ngoài, và có thể nghiêm trọng hơn khi chính trị của các quốc gia là nạn nhân cũng bị chi
phối bởi cuộc chiến tiền tệ này
- Thực trạng:
Những năm gần đây, hạ giá đồng nội tệ được coi là công cụ hữu hiệu để giành ưu thế trong
cạnh tranh xuất khẩu. Chẳng hạn như Trung Quốc, mặc dù đồng nhân dân tệ liên tục tăng giá
so với đồng USD nhưng Bắc Kinh vẫn duy trì tỷ giá thấp của đồng nhân dân tệ. Nếu so với
đồng USD, hàng Trung Quốc sản xuất ra giá sẽ rẻ đi, nhờ đó mà nước này gia tăng được khối
lượng xuất khẩu, luôn đạt mức thặng dư thương mại với nước khác.
Không chịu thiệt thòi, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cũng khuyến khích đồng USD yếu để kích
thích xuất khẩu, ngăn đà thâm hụt thương mại với các đối thủ, đặc biệt là Trung Quốc. Thời
gian gần đây, để kích thích tăng trưởng và tiêu dùng, FED đã bơm thêm hàng trăm tỷ USD vào
nền kinh tế nước này. FED đã tung ra gói QE3 vào tháng 9/2012. QE3 không xác định giá trị
tuyệt đối như QE2 (600 tỷ USD) mà tất cả đều được mở. Theo đó, Fed sẽ mua vào 40 tỷ USD
tài sản mỗi tháng cho tới bao giờ “thị trường lao động được cải thiện 1 cách bền vững”. Lãi
suất gần 0% được duy trì cho tới giữa 2015 (thay vì tới cuối 2014 như trước đó) và tiếp tục
thực hiện chương trình hoán đổi trái phiếu (Operation Twist). Tổng cộng, cả 2 chương trình
này sẽ làm tăng lượng trái phiếu dài hạn Fed nắm giữ lên thêm 85 tỷ USD mỗi tháng và QE3
có thể là một trong số những nguyên nhân khiến chiến tranh tiền tệ xảy ra.
Báo chí Canađa dẫn ý kiến của hai chuyên gia kinh tế thuộc Ngân hàng Hoàng gia Canađa
(CIBC) cho rằng, một năm sau khi các nước đang phát triển như Braxin cáo buộc Mỹ và một

số nền kinh tế phát triển khác thao túng tỷ giá thông qua làn sóng nới lỏng định lượng, các
ngân hàng trung ương thuộc nhóm 10 quốc gia thành viên của Hiệp ước những dàn xếp chung
về cho vay (G-10) cũng nỗ lực hơn nhằm ghìm giá nội tệ. Các thành viên G-10 gồm Bỉ,
Canađa, Pháp, Đức, Italia, Nhật Bản, Hà Lan, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Anh và Mỹ đã phát ra
những tín hiệu rằng họ sẽ can thiệp thị trường nhằm ghìm giá nội tệ trước làn sóng nới lỏng
định lượng toàn cầu.
Thực tế khảo sát cho thấy:
+ Ngân hàng Trung ương Thụy Sỹ áp trần tỷ giá đồng franc với euro
+ Ngân hàng Trung ương Na Uy có chỉ số can thiệp cao nhất khi luôn đưa ra liên hệ giữa đồng
krone mạnh với khả năng hạ lãi suất để ghìm giá nội tệ.
+ Ngân hàng Trung ương Niu Dilân nhạy cảm nhất với những biến động của nội tệ ngược với
Ngân hàng Trung ương Ôxtrâylia có mức độ lo ngại thấp nhất.
+ Ngân hàng Trung ương châu Âu và hiện thị trường đang trong tình trạng cảnh giác cao khi
tân Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe chủ trương nới lỏng tiền tệ mạnh mẽ để ghìm giá đồng
yên.
Trước đó, Thống đốc Ngân hàng Trung ương Anh Mervyn King đã cảnh báo rằng các nền kinh
tế hàng đầu thế giới có nguy cơ rơi vào cuộc chiến tranh tiền tệ mới khi nhiều nước tìm cách
giải quyết vấn đề kinh tế bằng cách thao túng tiền tệ nhằm đạt được lợi thế thương mại. Ông
King cũng cho rằng, các nước có thặng dư thương mại lớn như Trung Quốc, Đức nên chấp
nhận để đồng nội tệ mạnh hơn và hành động để thúc đẩy nhu cầu nội địa và nhập khẩu. “Bóng
ma” chiến tranh tiền tệ vẫn luôn tiềm tàng trong năm 2013.
2. ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH TOÀN CẦU ĐẾN VIỆT NAM
2.1 – Vài nét về nền kinh tế Việt Nam thời gian qua
2.1.1 – Thời kì trước đổi mới (1975 – 1986)
Mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp bộc lộ nhiều khuyết điểm yếu kém. Nền kinh tế
đất nước rơi vào tình trạng trì trệ, lạc hậu, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn
diện, lạm phát tăng phi mã (774,7%) năm 1986, nền công nghiệp lạc hậu, nông nghiệp đình
đốn. Công nghiệp yếu kém, manh mún thiếu rất nhiều ngành công nghiệp tiêu dùng Nền
nông nghiệp không đủ chi dùng trong nước, phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm và hàng
tiêu dùng thường xuyên khiến cho cán cân xuất nhập khẩu luôn thâm hụt mất cân đối, thu

không đủ chi, dẫn đến phải đi vay từ nước ngoài.
Trong năm 5 1981 - 1985, nguồn vay từ nước ngoài chiếm 22,4% thu ngân sách quốc gia.
Do bội chi nhiều như vậy nên Chính phủ buộc phải phát hành thêm tiền mặt để bù đắp. Cùng
với việc không cân đối được từ thu và chi, do nguồn thu không có vì không có sản phẩm công
nghiệp xuất khẩu. Cộng vào đó là sai lầm về chính sách cải cách giá, lương, tiền đã làm cho
nền kinh tế rơi tự do không kiểm soát được dẫn đến xuất hiện siêu lạm phát ở mức 774,7%
(1986), kéo theo giá cả leo thang vô phương kiểm soát.

Chỉ số lạm phát của Việt Nam giai đoạn 1975-1986 (Nguồn Internet)
Cuối những năm 80, tình hình kinh tế - xã hội ở Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa cũng hết sức khó khăn và diễn ra ngày càng phức tạp. Tình hình thế giới có
nhiều thay đổi, cuộc chạy đua phát triển kinh tế đã lôi kéo các nước vào cuộc. Trong bối
cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta nhận biết được xu thế của thế giới và nhìn thấy nguy cơ tụt
hậu ngày càng xa về kinh tế so với thế giới nếu không phát triển đất nước.
Vì vậy qua tình hình thực tiễn tình hình trong nước và quốc tế đặt ra một yêu cầu
khách quan, bức xúc có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp các mạng nước ta, là để làm xoay
chuyển được tình thế, tạo ra một sự chuyển biến có ý nghĩa quyết định trên bước đường đi
lên.
Với ý nghĩa đó, chính sách đối ngoại đổi mới phải phá thế bao vây cấm vận, cô lập
của các thế lực thù địch từ đó lấy lại vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện thuận
lợi cho đất nước phát triển, góp sức mình vào sự nghiệp chung của đất nước.
2.1.2 – Kinh tế Việt Nam sau Đổi mới ( từ 1986 đến nay)
Sau hơn hai mươi năm đổi mới, cuộc đổi mới của Việt Nam đã đạt được những thành tựu to
lớn, nền kinh tế Việt Nam luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao liên tục trongnhiều
năm. Việc trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thúc đẩy nền kinh
tế Việt Nam hội nhập sâu, rộng hơn vào kinh tế thế giới, cơ hội tranh thủ các nguồn lực bên
ngoài để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Việt Nam đặt mục tiêu phấn đấu đến năm
2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Cùng với việc xây dựng luật, các thể chế thị trường ở Việt Nam cũng từng bước được hình
thành. Chính phủ đã chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung, bao cấp, nhấn mạnh quan hệ hàng

hóa - tiền tệ, tập trung vào các biện pháp quản lý kinh tế, thành lập hàng loạt các tổ chức tài
chính, ngân hàng, hình thành các thị trường cơ bản như thị trường tiền tệ, thị trường lao

×