bên cạnh nghệ thuật tả người, nghệ thật tả cảnh là một thành công đặc
biệt của "Truyện Kiều". Bút pháp ước lệ tuy nghiêng về sự gợi tả,
kích thích trí tưởng tượng của người đọc nhưng vẫn giú ta hình dung
rất rõ về bức tranh thiên nhiên mùa xuân tười đẹp và tâm trạng của
người du xuân trong giây phút trở về. Đoạn thơ có kết cấu theo trình
tự thời gian của một cuộc du xuân. Bốn dòng thơ đầu là khung cảnh
mùa xuân. Tám dòng thơ tiếp theo là cảnh lễ hội trong tiết Thanh
minh. Và sáu dòng thơ cuối là cảnh và nỗi lòng của chị em Thúy Kiều
lúc bóng chiều bng xuống.
Mở đầu, Nguyễn Du đã phác họa một bức tranh mùa xuân thật ấn
tượng. Không gian, thời gian hiện ra trong hai dòng thơ khơi gợi trí
tưởng tượng của người đọc:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngồi sáu mươi.
Khung cảnh thiên nhiên mang vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Giữa bầu
trời cao rộng, từng đàn chim én rộn ràng bay lượn như chiếc thoi trên
khung dệt vải. Hình ảnh "con én đưa thoi" gợi bước đi của mùa xuân
tương tự cách nói trong dân gian "Thời giờ thấm thoắt thoi đưa / Hết
mưa lại nắng, hết ngày lại đêm". Xung quanh tràn ngập "ánh thiều
quang" - ánh sáng tươi đẹp - đang rọi chiếu lên tồn cảnh vật. Ánh
nắng mùa xn có nét riêng, khơng nóng bức như mùa hè cũng khơng
dịu buồn như mùa thu mà trái lại, tạo một cảm giác tươi vui, trẻ trung,
mới mẻ trong sự nồng ấm của những ngay đầu năm. Thời gian đầu
năm trôi qua thạt nhanh làm sao! Cho nên cả hai câu thơ vừa miêu tả
cảnh thiên nhiên tươi sáng đồng thời thể hiện niềm tiêc nuối trước sự
trôi nhanh của thời gian. Thoắt một cái đã cuối xuân rồi, cái đẹp của
mùa mở đầu một năm sắp hết.
Chỉ bằng một câu thơ lục bát, bức họa xuân hiện ra đẹp đến không
ngờ:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Cách viết của Nguyễn Du khiến ta không phân biệt được đâu là thơ,
đâu là họa nữa. Thảm cỏ xanh non trải ra mênh mang đến "tận chân
trời" là gam màu nền cho bức tranh xuân. Trên nền xanh mượt mà ấy
được điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Đây chính là cái hồn, cái
thần, là nét vẽ trung tâm của bức tranh. Tiếp thu từ câu thơ cổ trung
Quốc: "Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa" (Cỏ thơm
liền với trời xanh / Trên cành lê có mấy bơng hoa), Nguyễn Du đã vận
dụng sáng tạo khi thêm màu trắng vào câu thơ. Cả một khơng gian
xn hiện lên khống đạt, trong trẻo vơ cùng. Màu sắc có sự hài hịa
đến mức tuyệt diệu. Chỉ hai màu thơi mà có thể gợi nên vẻ mới mẻ,
tinh khôi, tươi sáng, trẻ trung đầy thanh khiết đến như vậy. Tính từ
"trắng" kết hợp với động từ "điểm" đã thể hiện được cái đẹp, cái sống
động của câu thơ lẫn bức tranh xuân, gợi hình ảnh lay động của hoa
làm cho cảnh vật trở nên sinh động, có hồn chứ không tĩnh lại. Những
đường nét mềm mại, thanh nhẹ, sắc màu khơng sặc sỡ mà hài hịa,
khơng tả nhiều mà vẫn gợi được vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Phải là
người sống chan hòa với thiên nhiên, cỏ cây và nhất là có tâm hồn
rung động tinh tế, thi nhân mới có thể viết được những câu thơ nhẹ
nhàng mà đầy biểu cảm tuyệt vời đến thế. Dường như Nguyễn Du đã
thay mặt tạo hóa dùng ngịi bút để chấm phá bức tranh nghệ thuật cho
riêng mình. Nhà thơ Hàn Mặc Tử trong bài "Mùa xuân chín" cũng đã
ít nhiều ảnh hưởng Nguyễn Du khi vẽ cảnh mùa xn:
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cơ thiếu nữ hát trên đồi.
Đoạn thơ có sự chuyển tiếp nhịp nhàng, tự nhiên. Từ khung cảnh mùa
xuân tươi mới, êm đềm ấy, nét bút của Nguyễn Du bắt đầu tập trung
khắc họa những hoạt động của con người. Họ là những người đi tảo
mộ, đi chơi xuân ở miền quê kiểng. Và trong lễ hội dập dìu đó có
những nhân vật của Nguyễn Du - chị em Thúy Kiều - đang thong thả
chơi xuân:
Thanh minh trong tiết tráng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Tiết Thanh minh vào đầu tháng ba, khí trời mát mẻ, trong trẻo. Người
người đi viếng, quét dọn, sửa sang và lễ bái, khấn nguyện trước phần
mộ tổ tiên. Sau "lễ tảo mộ" là đến "hội đạp thanh", khách du xuân
giẫm lên cỏ xanh - một hình ảnh quen thuộc trong các cuộc chơi xuân
đầy vui thú ở chốn làng quê. Cách sử dụng điệp từ "lễ là", "hội là" gợi
ấn tượng về sự diễn ra liên tiếp của các lễ hội dân gian, niềm vui tiếp
nối niềm vui.
Khơng khí lễ hội rộn ràng, huyên náo bỗng hiện ra thật sinh động
trong từng dịng thơ giàu hình ảnh và nhạc điệu:
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngừa xe như nước áo quần như nêm.
Tài năng của Nguyễn Du được thể hiện qua cahs sử dụng ngôn từ. Sự
xuất hiện của hàng loạt các từ ngữ hai âm tiết bao gồm danh từ, động
từ, tính từ như: gần xa, yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, nô nức, sắm
sửa, dập dìu,... đã gợi lên bầu khơng khí rộn ràng của lễ hội đồng thời
làm rõ hơn tâm trạng của người đi trẩy hội. Hầu hết các câu thơ đều
được ngắt nhịp đơi (2/2) cũng góp phần gợi tả khơng khí nhộn nhịp,
đơng vui của lễ hội. Cách nói ẩn dụ "nơ nức yến anh" gợi hình ảnh
từng đồn người náo nức du xuân như chim én, chim oanh bay ríu rít.
Câu thơ "Chị em sắm sửa bộ hành chơi xn", Nguyễn Du khơng chỉ
nói lên một lờithoong báo mà cịn giúp người đọc cảm nhận được
những trơng mong, chờ đợi của chị em Kiều. Trong lễ hội mùa xuân,
nhộn nhịp nhát là những am thanh nữ tú, trai thanh gái lịch vai sánh
vai, chận nối chân nhịp bước. Họ chính là linh hồn của ngày hội. Cặp
tiểu đối "tài tử"/"giai nhân", "ngựa xe như nước"/"áo quần như nêm"
đã khắc họa rõ nét sự hăm hở của tuổi trẻ. Họ đến với hội xuân bằng
tất cả niềm vui sống của tuổi xuân. Trong đám tài tử giai nhân ấy có
ba chị em Thúy Kiều. Có lẽ, Nguyễn Du đã miêu tả cảnh lễ hội bằng
đôi mắt và tâm trạng của hai cô gái "đến tuổi cập kê" trước cánh cửa
cuộc đời rộng mở nên cái náo nức, dập diu từ đó mà ra. Tồn bộ dịng
người đơng vui, tưng bừng đó tấp nập ngựa xe như dịng nước cuốn,
áo quần đẹp đẽ, thướt tha đống đúc "như nêm" trên các nẻo đường.
Thật là một lễ hội tưng bừng, sang trọng và phong lưu.
Cái hay, cái khéo của Nguyễn Du còn được thể hiện ở chỗ chỉ bằng
vài nét phác thảo, nhà thơ đã làm sống lại những nét đẹp văn hóa ngàn
đời của người Phương Đơng nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng.
Lễ tảo mộ, hội đạp thanh khơng chỉ là biểu hiện đẹp của lịng biết ơn
tổ tiên, của tình yêu con người trước cảnh sắc quê hương, đất nước
mà còn gợi lên một vẻ đẹp của đời sống tâm linh với phong tục dân
gian cổ truyền:
ngổn ngang gị đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
Người đã khuất và người đang sống, quá khứ và hiện tại như được
kéo gần lại. Ta nhận ra một niềm cảm thông sâu sắc mà Nguyễn Du
đã gởi vào những dịng thơ: có thể hơm nay, sau hơn hai trăm năm,
suy nghĩ của chúng ta có ít nhiều thay đổi trước cảnh: "Thoi vàng vó
rắc tro tiền giấy bay" thế nhưng giá trị nhân đạo được gửi gắm vào
những vần thơ của Nguyễn Du vẫn làm ta thực sự xúc động.
"Ngày vui ngắn chẳng tày gang". Cuộc vui nào rồi cũng đến lúc tàn.
Buổi du xuân vui vẻ cũng dã tới chỗ phải nói lời tạm biệt. Vẫn là cảnh
mùa xn, vẫn là khơng khí của ngày hội lễ, nhưng bây giờ là giây
phút cuối ngày:
Tà tà bóng ngả về tây,
............
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Nếu câu thơ mở đầu của "Cảnh ngày xuân" chan hịa ánh sáng "thiều
quang" thì đến đây, hồng hơn dường như bắt đầu nhuốm dần xuống
phong cảnh và con người. Hội đã hết, ngày đã tàn nên nhịp thơ khơng
cịn cái rộn ràng, giục giã mà trái lại thật chậm rãi, khoan thai. Cảnh
vật vì thế mang cái vẻ nên thơ, diu êm, vắng lặng trong ánh nắng nhạt
dần. Dịng khe có chiếc cầu nho nhỏ cuối ghềnh tạo thành đường nét
thể hiện linh hồn của bức tranh một buổi chiều xuân. Nhịp chân có
chút tâm tình man mác nên "thơ thẩn" và đến đây là "bước dần",
chẳng có gì nao nức, vội vàng. Các từ láy "tà tà", "thanh thanh", "nho
nhỏ", "nao nao" góp phần làm nên sự yên ắng và nỗi buồn của cảnh
vật, của con người. Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút phá
ước lệ cổ điển nhưng vẫn gợi cho người đọc cảm giác gần gũi, thân
quen vì nó đã thấm hồn dân tộc, mang bóng dáng cảnh sắc quê hương
Việt Nam.
Rõ ràng, cảnh ở đây được nhìn qua tâm trạng nhân vật tham gia vào lễ
hội. Hai chữ "nao nao" (Nao nao dòng nước uốn quanh) đã nhuốm
màu tâm trạng lên cảnh vật. Dòng nước nao nao, trôi chậm lưu luyến
bên chân cầu nho nhỏ, phải chăng cũng là nỗi lưu luyến, tiếc nuối của
lòng người khi ngày vui chóng qua? Nguyễn Du đã từng viết: "Người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ?". Vì vậy, khi vào lễ hội, người vui thì
cảnh sắc rộn ràng tười mới. Lúc lễ hội tan rồi, người về sao tránh khỏi
sự xao xuyến, cảnh sắc sao tránh khỏi màu ảm đạm! Dường như có
một nỗi niềm man mác, bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn
vốn đa tình, đa cảm như Thúy Kiều. Và ở sáu dòng cuối này, Nguyễn
Du khơng chỉ nhằm nói tâm trạng buồn tiếc khi lễ hội vừa tàn, mà
hình như, ơng chuẩn bị đưa nhân vật của mình vào một cuộc gặp gỡ
khác, một thế giới khác. Như ta đã biết, ngay sau buổi Thanh minh,
Nguyễn Du đã sắp đặt để Thúy Kiều gặp Đạm Tiên và Kim Trọng. Vì
thế, cảnh vật trong hồng hôn này cũng là một dự báo, một linh cảm
cho đoạn trường mà đời kiều sắp phải bước qua. Tả cảnh, tả tình như
thế thật khéo, cách chuyển ý cũng thật tinh tế, tự nhiên.
nhà thơ, ngôn ngữ như chạm khắc, như thốt khỏi khn khổ trói
buộc của cơng thức, ước lệ để làm sống lại bức tranh xuân và tâm
trạng con người. Cả một khung cảnh xuân thơ mộng, tràn đầy ấy như
hiện ra trước mắt. Ta bỗng nhớ đến những ngày ngây thơ, trong sáng
của kiều rồi ngẫm lại chẵng đường trôi dạt mười lăm năm của người
phụ nữ tài sắc ấy mà cảm thương cho số phận một con người. Bỗng
nhớ tới lời thơ của Chế Lan Viên đến nao lịng:
Ta u những Hịch, những Bình Ngơ gọi lịng ra hỏa tuyến,
Nhưng khơng qn ngọn lau trắng bên đường Kiều thồi lại tự xa xưa.
***********
Phân tích đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”:
Khi khẳng định giá trị của “Truyện Kiều”, nhà thơ Chế Lan Viên đã
từng ca ngợi: “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”. Có thể
nói, Đoạn Trường Tân Thanh với những dòng lục bát tuyệt diệu là
niềm tự hào cho nền văn chương Việt Nam. Dưới ngòi bút tài hoa của
Nguyễn Du, những phong cảnh tuyệt vời trong thiên nhiên, cỏ cây,
những bức tranh tâm trạng đã hiện ra tạo thành một thế giới thơ đầy
quyến rũ. Bằng tấm lòng và sự nâng niu, trân trọng, mến yêu nhân vật
chân thành, ông đã để lại cho đời những rung cảm nghệ thuật trước
cái đẹp thật sâu sắc.Đến với đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, một lần
nữa ta hiểu thêm về nghệ thuật miêu tả của Tố Như thần tình ra sao và
trái tim Nguyễn chan chứa yêu thương biết nhường nào!
Đầu lịng hai ả tố nga,
………
Tường đơng ong bướm đi về mặc ai.
Song song với nghệ thuật tả cảnh, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật
dã đạt dến trình độ điêu luyện và là một thành công đặc biệt ở Truyện
Kiều. Tuy sử dụng bút pháp ước lệ mà vẫ giúp người đọc hình dung
rõ bức chân dung tuyệt mĩ của hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều, gây
một ấn tượng khó phai trong lịng mỗi chúng ta.
Đoạn trích có kết cấu chặt chẽ như một truyện ngắn cổ điển. Mở đầu
là bốn câu giới thiệu chung về hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều:
Đầu lòng hai ả tố nga
………
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Hai cô con gái đầu lịng của ơng bà Vương viên ngoại đi vào trang
viết của Nguyễn Du đều xinh đẹp, tươi tắn cả hai, hệt như những nàng
“tố nga”. Lời giới thiệu chng về hai chị em đã khắc họa vẻ thanh cao,
trong trắng từ hình dáng bên ngồi cho đến tam hồn bên trong. Thứ
bậc trong gia đình cũng đã được Nguyễn Du thể hiên qua lời giới
thiệu khá giản dị: “Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân”. Đặc biệt, ông
chú trọng gây ấn tượng ở tinh thần, cốt cách của hai Kiều: cốt cách
thanh tao, duyên dáng như mai và tâm hồn, phẩm hạnh trắng trong,
thuần khiết như tuyết. Hình ảnh ẩn dụ nằm trong phép tiểu đối không
chỉ đặc tả được cái thần của bức tranh thiếu nữ: cả hai đều trinh trắng,
sáng trong mà còn khơi gợi xúc cảm thẩm mỹ cho người đọc về vẻ
kiều diễm của hai chị em. Hai người họ với những vẻ đẹp khơng hồn
tồn như nhau mà là mỗi người đẹp theo một vẻ nhưng đều là những
vẻ đẹp hồn mỹ. Từ vóc dáng cho đến tâm hồn, Thúy Kiều và Thúy
Vân đều đạt đến mức vẹn toàn thật là tuyệt đối như tác giả đã nhận
định: “mười phân vẹn mười”. Mấy chữ ấy cho thấy ý thức lí tưởng
hóa cao đọ của nhà thơ. Bởi lẽ, ở đời mấy ai được “mười phân vẹn
mười”. Câu thơ khơng chỉ nhằm thống báo vẻ đẹp hồn thiện của
Thúy Vân, Thúy Kiều mà còn chất chứa niềm ngưỡng mộ trước cái
đẹp rất riêng của mỗi người.
Những ước lệ của văn chương cổ đi vào câu chữ của Nguyễn Du với
biết bao tình cảm mến yêu, trân trọng. Lời khen chia đều cho cả hai,
nét bút muốn đặc tả “mỗi người một vẻ”. Chính vì thế mà liền sau đó,
thi sĩ tập trung khắc họa từng người. Đầu tiên, chân dung Thúy Vân
hiện ra với bốn câu thơ:
Vân xem trang trọng khác vời,
………
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Vẻn vẹn bốn dòng thơ, Nguyễn Du đã thể hiện thật tài hoa vẻ đẹp tươi
tắn, trẻ trung của một cô gái đang độ trăng tròn. Ở Vân cũng khẳng
định ngay từ câu thơ đầu cái điểm hơn người: vẻ đẹp của Vân là vẻ
đẹp phúc hậu, đoan trang nhưng cũng là sự “trang trọng khác vời”. Để
rồi, sau đó là sự cụ thể hóa ở khn mặt trịn đầy, ngời sáng như vầng
trăng đêm rằm, đôi lông mày cân đối, sắc nét như con ngài. Hiện diện
trên khuôn mặt tươi sáng ấy là nụ cười tươi thắm như hoa, giọng nói
trong trẻo như ngọc. Hay là phải chăng “ngọc thốt” ở đây là để chỉ
những lời nói của nàng quý giá và đáng trân trọng như ngọc ngà? Một
từ “thốt “ thơi mà có thể giúp ta nhận ra vẻ dịu dàng , hiền thục hiếm
thấy của Thúy Vân. Thật là tài tình! Khơng những thế, nàng cịn sở
hữu cả một mái tóc đen óng, nhẹ hơn mây và làn da mịn màng, trắng
hơn cả tuyết. Quả là một vẻ đẹp hoàn hảo, cao sang, quý phái! Sắc
đẹp của Thúy Vân sánh ngang với những nét kiều diễm, sáng trong
của trăng hoa, ngọc vàng, mây tuyết,… tồn những báu vật tinh khơi,
trong trẻo của đất trời. Chỉ thống nhìn hình dáng, thống nghe Vân
chuyện trị, chũng ta cũng dễ dàng cảm nhận được tất cả sự dịu dàng,
đoan trang của một cô gái khuê các. Có lẽ, Nguyễn Du cũng đã rất có
dụng ý khi sử dụng những tính từ chỉ độ trịn đầy, viên mãn để miêu tả
vẻ đẹp của Thúy Vân: “đầy đặn”, “nở nang”. Một vẻ đẹp căng tròn
của tuổi trẻ! Chắc chắn, Thúy Vân sẽ làm tròn thiên chức một người
mẹ, người vợ sau này. Về mặt này, con mắt nhìn của Nguyễn Du cũng
thật “tinh đời”! Dựng lên hình ảnh của Thúy Vân với một vẻ đẹp phúc
hậu, quý phái khiến thiên nhiên, tạo vật cũng phải “thua”, “nhường”,
nhà thơ đã giúp ta nhận ra đấy là một vẻ đẹp có được sự hịa hợp, êm
đềm với thế giới chung quanh. Thêm vào đó là giọng thơ nhẹ nhàng,
êm dịu nên Thúy Vân là hiện thân của cuộc đời yên ả, ấm êm. Từ
những thông điệp nghệ thuật trên, phải chăng đó là dự cảm về một
cuộc sống bình lặng, suôn sẻ, hạnh phúc trong tương lai?
Nếu Nguyễn Du dành đơi nét tài hoa cho Thúy Vân thì với Thúy
Kiều, tác giả dùng hết tâm lực để có những nét vẽ thần kì, cơng phu
hơn:
Kiều càng sắc sảo, mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Câu chuyển tiếp cho ta thấy từ sắc đến tài, Kiều hơn hẳn Thúy Vân,
đó khơng phải là cái đẹp hiền lành, phúc hậu mà trái lại vừa sắc sảo,
lộng lẫy, vừa mặn mà, duyên dáng, yêu kiều. Thì ra, Thúy Vân đã sắc
nước hương trời, Thúy Kiều còn rực rỡ hơn thế nữa. Bằng thủ pháp
đòn bẩy, Nguyễn Du đã mượn vẻ đẹp của Thúy Vân làm nền để nêu
bật vẻ đẹp, tài năng của Thúy Kiều, giúp người đọc hình dung rõ hơn
về bức chân dung của nàng bằng cái nhìn của riêng mình. Thực tế,
đến Thúy Kiều, ta thấy Nguyễn Du rất ít tả mà chỉ gợi. Ơng lại thêm
một lần nữa chứng tỏ cốt cách nghệ thuật của một nghệ sĩ bậc thầy.
Bởi, nếu bây giờ nhà thơ cũng lặp lại trình tự tả y hệt như tả Thúy
Vân thì hóa ra quá đỗi vụng về.
Đặc biệt, sức gợi của vẻ đẹp Thúy Kiều tốt lên từ đơi mắt:
Làn thu thủy, nét xn sơn,
Nguyễn Du dường như chỉ nói về đơi mắt của nàng. Đơi mắt trong,
sáng ngời, gợi tình như sóng nước mùa thu và đôi mày cong cong
mềm mại, thanh tú như dáng núi mua xuân. Cách mieu tả khiến khi
đọc lên, ta như thấy có ánh áng và làn sóng xao động bên trong. Chỉ
vậy thơi mà bao ẩn ý. Đơi mắt nhìn đời, nhìn người sâu thẳm. Đơi mắt
dạt dào, ẩn chứa bao tình cảm lai láng: biết yêu thương, căm hận,
nhức nhối, sẻ chia,… Đôi mắt thể hiện một đời sống nội tâm phong
phú. Đôi mắt “tinh đời” chứ không như đôi mắt đẹp mà vô hồn, vơ
cảm của Thúy Vân. Thì ra, cụ Nguyễn Du cố tình bỏ sót đơi mắt nàng
Vân là vì lẽ đó. Một lần nữa, ta lại thấy nhà thơ sử dụng tối đa nghệ
thuật ẩn dụ và tiểu đối trong thơ cổ điển cũng với ý nghĩa tượng trưng
để tô đạm, tạo ấn tượng về nhan sắc của Kiều nhưng không gây rườm
rà, phức tạp mà trái lại giá trị diễn đạt vẫn hay và tự nhiên. Nhan sắc
nàng tuyệt mĩ đến nỗi:
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Thêm một lần nữa thiên nhiên được sử dụng để nói về vẻ đẹp của
người thiếu nữ. Thiên nhiên vốn là vẻ đẹp vĩnh cửu vậy mà cũng phải
“ghen”, “hờn” trước một nàng Kiều “sắc sảo mặn mà”. Hoa không
tươi thắm bằng dung nhan của nàng, liễu kém phần tươi non so với
sức sống, tuổi trẻ mơn mởn của Kiều. Nguyễn Du đã sử dụng biện
pháp nhân hóa để thổi linh hồn vào câu thơ làm ý thơ thêm phần sống
động và trước mắt ta hiện ra một náng Kiều trẻ trung với tuổi xuân
tràn đầy như hoa vừa đang độ nở, liễu đến kì xanh tươi. Mà cũng vì
thế mà ta càng thấp thỏm hơn khi nghĩ tới tương lai của đời Kiều.
Liệu với vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” ấy, Kiều sẽ phải sống
thế nào trong bể đời vốn “Thiên địa phong trần, hồng nhan đa truân”.
Bút pháp miêu tả của Nguyễn Du tài hoa ở chỗ: không chỉ miêu tả
ngoại hình để thể hiện tính cách, mà cịn thơng qua đó dự đốn số
phận, cuộc đời nhân vật. Khơng phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du dùng
cặp từ “thua, nhường” để miêu tả Thúy Vân và cặp từ “ghen, hờn” để
miêu tả Thúy Kiều. Ảnh hưởng, tác động của nét đẹp hai Kiều với tạo
hóa lại đi theo hai hướng khác nhau. Tả Vân, câu thơ Kiều thanh thản
bao nhiêu thì khi tả Kiều, câu chữ Tố Như lại trăn trở bấy nhiêu. Như
vậy đó, chỉ mới mươi câu Kiều mà đã giúp ta thấu hiểu tấm lòng ưu ái
sâu sắc, bao la của nhà thơ nhân đạo Nguyễn Du: ông yêu thương,
nâng niu tất cả. Có điều, với Thúy Kiều là cả một sự yêu thương, nâng
niu đầy băn khoăn, lo lắng so với Thúy Vân. Thật vậy, trong Truyện
Kiều, có lúc Nguyễn Du đã để sư bà Tam Hợp đạo cơ đốn định
tương lai bất ổn của Kiều qua lời thơ:
Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành.
Lại mang lấy một chữ tình,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Vậy nên những chốn thong dong,
Ở không yên chỗ, ngồi khơng vững vàng.
Chuyện thế thái, nhân tình cũng thật sâu sắc trong cách nhìn, cách
cảm của Nguyễn Du.
Miêu tả Thúy Kiều, Nguyễn Du cịn đề cao trí tuệ và tài năng của
nàng, cho thấy rằng Kiều khơng phải chỉ có nhan sắc tuyệt trần mà
còn là người con gái vốn có thiên tư thơng minh bẩm sinh và rất mực
tài hoa:
Thơng minh vốn sẵn tính trời,
………
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Tài năng của Kiều đã đạt tới mức lí tưởng. Làm thơ, vẽ tranh, ca
ngâm, âm nhac, mọi thứ Kiều đều tỏ ra thành thạo. Đặc biệt, nàng rất
sành chơi Hồ cầm. Nguyễn Du một lần nữa lại rất công phu khi dành
cho Kiều các chữ: “vốn sẵn tính trời”, “đủ mùi” “làu bậc”, “ăn đứt”
làm cho cái gìcũng đầy đủ và tồn vẹn. Tài năng của Thúy Kiều qua
cách khắc họa của Nguyễn Du họa chăng chỉ có thể so sánh với tài
thơ vè xuất sắc của cung nữ trịn tác phẩm “Cung ốn ngâm khúc” của
Nguyễn Gia thiều:
Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương.
Quả là “Sắc đành đòi một tài đành họa hai”! Lại thêm một lần nữa ta
hiểu tại sao Nguyễn Du không miêu tả cái tài của Thúy vân. Tạo hóa
đã dành cả cho Thúy Kiều, để rồi lại tỏ ra đố kị mà đan tâm chơi trò
nhỏ nhen:
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Ơng bà ta xưa cũng đã từng nói: “Một vừa hai phải ai ơi / Tài tình chi
lắm cho trời đất ghen”. Vậy mà, Thúy Kiều của Nguyễn Du tột đỉnh
hơn người. Câu chữ, lời thơ chất chứa sự ngợi ca, ngưỡng mộ mà nỗi
băn khoăn, lo lắng cứ xốn xang trê mỗi chữ dùng của Tố Như.
Nguyễn Du biết thế. Bởi, có lúc ơng đã phải thốt lên rằng:
Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Nhưng là sao khác được. “Thiên bạc mệnh” ai oán đã vận vào Kiều
mất rồi. Trái tim yêu thương mênh mông của Nguyễn Du cũng chẳng
thể nào bảo vệ được Kiều trước vịng xốy nghiệt ngã cuẩ định mệnh.
Đoạn trích khép lại trong bốn câu miêu tả cuộc sống phong lưu,
khuôn phép trong đức hạnh, mẫu mực của hai chị em Kiều:
Phong lưu rất mực hồng quần,
………
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Vẻ đẹp chung của hai chị em được đúc kết lại trong cuộc sống nhung
lụa, phú q. Hai cơ gái họ Vương đang ở vào giai đoạn đẹp nhất, thơ
mộng nhất của đời người, đó là tuổi dậy thì vơ tư, trong trắng. Đã đến
tuổi cài trâm nhưng hai thiếu nữ không hề quan tâm đến những
chuyện “ong bướm”, tâm hồn như băng tuyết, họ đang sống trong
cảnh êm đềm của một gia đình gia phong, nề nếp. Một lần nữa,
Nguyễn Du khẳng định lại nếp sống phong lưu, đài các của hai chị em
Kiều. “Êm đềm”, “mặc ai” là phong thái cao giá của người đẹp chứ
nào phải sự vô cảm trước những rạo rực của tuổi trẻ. Chữ dùng của
Nguyễn Du tinh tế lắm chứ đâu phải buông lơi hờ hững, vô tình!
Chỉ với hai mươi bốn câu thơ lục bát, chúng ta cũng đủ thấy tài năng,
sáng tạo bậc thầy của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Ngịi bút của
ơng linh hoạt vô cùng, khi vẽ chi tiết, khi chỉ lướt qua; khi tả, khi gợi,
kết hợp nhuần nhuyễn tính ước lệ của sách vở và cách nói dân gian;
vừa làm nghệ thuật, vừa gởi gắm tâm tư, tình cảm. Để người đời yêu
mến Tố Như và nhân vật của ông khi đến với Truyên Kiều, đều cảm
nhận được một ẩn ý sâu sắc: ẩn sau bức chân dung mĩ nữ là tiếng lòng
chan chứa yêu thương của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.\
Phân Tích
a) Cảnh trí quanh Lầu Ngưng Bích (1033-1036)
Từ khi bị đưa ra ở Lầu Ngưng Bích, chỉ nghe tên lầu, Kiều đã
cảm thấy chua xót cho thân phận. Ngưng Bích có nghĩa là đọng sắc
xanh (màu ngọc bích), ngụ ý màu xanh của nước non cây cỏ xung
quanh đều tụ vào ngôi lầu. Màu xanh ngọc bích lại là màu xanh lá
cây, là màu tượng trưng cho tuổi trẻ. Do đó, Kiều chạnh nghĩ đến
cảnh ngộ: Tuổi thanh niên, son trẻ của nàng bị ngưng đọng, tức bị
giam hãm chốn này. Như thế, tên Lầu Ngưng Bích cịn có thể suy diễn
theo nghĩa là ngơi lầu giam cầm tuổi thanh xuân, đồng nghĩa với
“khóa xuân”.
Kiều phải kéo dài chuỗi ngày cô đơn, buồn tẻ nơi đây. Sớm
chiều chỉ biết làm bạn với dãy núi xa, với mảnh trăng gần:
Trước Lầu Ngưng Bích khóa xn,
Vẻ non xa, tấm trăng gần, ở chung.
Thực tế tính theo khơng gian vật lí, núi phải gần hơn trăng gấp
vạn triệu lần, nhưng Kiều vẫn cảm thấy “non xa”, “trăng gần” vì
nhiều lí do. Trước hết, có thể Kiều đã nhìn cảnh về ban đêm. Kiều từ
trên lầu cao nhìn xuống thấy cảnh sắc núi non hiện ra xa xa, mờ mờ.
Trong khi ngẩng mặt nhìn trời, vầng trăng sừng sững ngay trên đỉnh
đầu khiến nàng có ảo giác “non xa” mà “trăng gần”. Sau nữa, Kiều
cịn nhìn thiên nhiên qua khơng gian tâm lí. Cảnh núi non trơ trơ ra đó
chẳng gợi cho Kiều một chút thân mật nào, có chăng là sự xa cách và
nàng cũng không thể tới được (ít ra là lúc này). Trong khi trăng là
chứng nhân cho đêm thề nguyền gắn bó của nàng với chàng Kim. Giờ
đây, chỉ có trăng biết chuyện để có thể chia sẻ với nàng những hồi
quang của hạnh phúc ái ân xưa. Lại những đêm Kiều quá cô đơn sầu
khổ, cũng chỉ có trăng thường tỏa ánh sáng dịu dàng lên da thịt nàng,
như mơn trớn, vuốt ve, an ủi nàng. Thời gian Kiều bơ vơ đau khổ này,
Kiều cần sự vuốt ve, an ủi biết dường nào!
Như thế, câu thơ “Vẻ non xa, tấm trăng gần, ở chung” Nguyễn
Du đã ghi lại được một cái nhìn về thiên nhiên rất “hư” mà lại rất
“thực” qua nhãn quan của nàng Kiều.
Ban ngày, từ Lầu Ngưng Bích, Kiều thường phóng tầm mắt
ngắm nhìn cảnh giới bao la chung quanh lầu. Nọ là đồi cát bên ven
bể. Xa tít kia là đám bụi đỏ bốc lên mù mịt từ chốn kinh thành.
Chúng ta được biết, trong Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm
Tài Tử, vị trí của Lầu Ngưng Bích đã được ghi rõ: “Ngun cái lầu
này, phía đơng nhìn ra bể rộng, phía bắc trơng về kinh kì, phía nam có
thành Kim Lăng, phía tây có dãy Núi Kì Sơn” (trang 161). Như thế,
“bụi hồng” ở đây không phải là bụi cây tơ hồng như nhiều người lầm
tưởng mà là bụi đường màu đỏ của chốn nhân gian.
b/ Chuyển Đoạn. (1037-1038)
Cảnh trí bao la, man mác nơi đây càng làm nổi bật sự vắng vẻ,
hiu quạnh của ngôi Lầu Ngưng Bích. Kiều bị giam lỏng trên đó đã
nhiều ngày. Nàng cảm thấy biết bao buồn tủi, cay đắng cho tình cảnh
hiện tại “ Bẽ bàng mây sớm đèn khuya”. Bẽ bàng là tự cảm thấy
thương xót và buồn cho mình. Cuộc đời của Kiều đang êm đềm hạnh
phúc là thế, nào gia đình cha mẹ chị em sum họp đơng vui, nào chàng
Kim, người đã cho nàng một tình yêu say đắm, thiết tha. Vậy mà nay
nàng phải xa lìa tất cả, phải sống một thân một mình vị võ trên lầu
vắng, sớm sớm chỉ trơng thấy mây hàng lờ lững bên trời (mây sớm),
đêm đêm chỉ có ngọn đèn con đối bóng (đèn khuya). Nàng tránh sao
khỏi có tâm trạng “bẽ bàng”, tủi buồn cho thân phận? Như vậy, câu
thơ “ Bẽ bàng mây sớm, đèn khuya” chính là để thắt ý cho đoạn thơ tả
cảnh ở trên. Câu thơ tiếp sau: “Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng”
lại mở ý cho đoạn dưới:
Cảnh (cửa bể chiều hơm) đã buồn mà tình Kiều cịn buồn hơn.
Thế rồi, cả hai cùng tác động làm rối loạn tâm trí nàng.
a) Kiều Nhớ Kim Trọng (1039-1042)
Những ngày sống cơ đơn nơi Lầu Ngưng Bích, lịng nhớ
nhung Kim Trọng và cha mẹ ln ln trở về vị xé tâm can Kiều.
Trước hết, Kiều tưởng nhớ tới chàng Kim, người đã cùng nàng
chia sẻ hạnh phúc tuyệt vời trong đêm rượu thề dưới bóng trăng
“vằng vặc”.
Bóng trăng “chứng nhân” ấy đã in sâu vào tâm khảm Kiều khiến
mỗi khi nhìn thấy trăng nàng lại nhớ chàng Kim, như lần trên đường
theo Mã Giám Sinh đi Lâm Truy:
Dặm khuya gút tạnh mù khơi,
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông,
(cc.915-916)
Hay như đêm nay Kiều ở Lầu Ngưng Bích, bóng trăng thề ước
lại cùng với người xưa hiện về đầy ắp cả tâm tư:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày mong mai chờ!
Nhớ nhung Kim Trọng bao nhiêu, Kiều lại xót xa cho chàng bấy
nhiêu. Giờ này Kim cịn ở Liêu Dương có hay đâu Kiều vì gia biến đã
bán mình đi xa. Kiều đã phụ chàng rồi; trong khi đó Kiều biết chắc,
hết ngày này qua ngày khác, Kim vẫn một lòng tin tưởng và tha thiết
mong đợi tin nàng. (tin sương chỉ tin tức).
Tưởng nhớ đến Kim, Kiều lại chạnh buồn cho thân phận bơ vơ
nơi chân trời góc bể của mình. Dẫu sao, Kiều vẫn khẳng định rằng
tình yêu thắm thiết của nàng đối với Kim sẽ không bao giờ phai lạt
“Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Son chỉ một loại đá có màu đỏ
tươi, người xưa mài ra làm mực viết, khơng bao giờ phai. Tấm son là
tấm lịng son, chỉ tình yêu chung thủy tuyệt đối như màu đỏ son, tươi
thắm mãi mãi.
b) Kiều Nhớ Cha Mẹ. (1043-1046)
Hết nhớ nhung, ân hận về Kim Trọng, Kiều lại nghĩ đến cha
mẹ. Nàng xót thương cho hai thân vẫn hàng ngày sớm chiều tựa cửa
mong ngóng tin nàng. Kiều băn khoăn thầm hỏi không biết giờ đây
các em nàng, những ai là người “quạt nồng ấp lạnh”, săn sóc sức
khỏe cho mẹ cha? Quạt nồng ấp lạnh lấy ý trong Kinh Lễ, nói về bổn
phận người con, mùa hè quạt mát cho cha mẹ bớt nóng; mùa đơng
nằm trước ủ chăn chiếu cho ấm để mẹ cha khỏi lạnh.
Kiều miên man liên tưởng tới ngôi nhà thân yêu nơi cố hương.
Sân Lai chỉ sân nhà cha mẹ, lấy tích Lão Lai người đời Chu, đã 70
tuổi còn mặc áo sặc sỡ ra sân múa, vờ ngã cho cha mẹ vui. “Sân Lai
cách mấy nắng mưa” ý nói Kiều xa nhà đã vài năm rồi. Nàng phỏng
đoán cảnh vật chắc đã nhiều đổi thay. Cây tử trong vườn nhà hẳn đã
lớn ra nhiều, ít ra cũng vừa một vịng tay ơm.
Cảnh bể chiều hôm cùng tâm trạng Thúy Kiều:
Từ Lầu Ngưng Bích, với tâm hồn nặng trĩu ưu tư, Kiều đưa mắt
ngắm nhìn phong cảnh chiều hơm nơi cửa bể.
Lúc này, ngoài cửa bể mặt trời đã lặn, ánh nắng yếu ớt phai dần,
bóng tối đã bắt đầu bảng lảng. Cảnh vật trở nên mờ nhạt hơn, khó
nhìn hơn. Bóng tối đến cịn gây thêm ảnh hưởng vào bóng tối u sầu
trong tâm hồn Kiều.
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Nhìn ra bể khơi, Kiều thấy xa xa ẩn hiện một cánh buồm. Con
thuyền hiện ra đó chính là hình ảnh tượng trưng cho tự do mà từ bấy
lâu nay nàng hằng ao ước, khát khao. Tuy nhiên, hi vọng tự do nào
vừa dấy lên trong lòng Kiều rồi cũng lại tắt ngấm; khác nào cánh
buồm kia vừa thoáng hiện ra đó lại đã biến đi (thấp thống). Kiều cay
đắng nhận ra rằng tự do còn quá xa tầm tay với của nàng (xa xa). Biết
bao giờ, ôi biết đến bao giờ Kiều mới thoát khỏi cảnh sống bị giam
hãm nơi này?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Nhìn thấy ngọn nước sơng từ trên cao đổ xuống bể, trong ảo
giác của Kiều hiện ra một bơng hoa đang bị một dịng nước cuốn đi,
rồi trên mặt nước mênh mông kia “hoa trôi man mác” là hoa cứ âm
thầm theo dòng nước cuốn đi, đi mãi... nào ai biết hoa sẽ giạt về đâu?
Cánh hoa kia có khác nào thân phận nhỏ nhoi của Kiều hiện nay.
Nàng lo sợ chẳng biết rồi đây định mệnh khắc nghiệt sẽ đưa đẩy nàng
trôi nổi đến những bến bờ nào của cuộc đời?
Tâm trạng Kiều băn khoăn, lo âu cho số phận tương lai như thế
không phải là khơng có lí do. Dù Kiều đã được mụ Tú thề thốt hẳn hoi
là sẽ không bắt nàng làm gái làng chơi, sẽ cho nàng ở mãi nơi Lầu
Ngưng Bích chờ đến khi nào tìm được người tử tế sẽ gả cho. Nhưng
Kiều bị giam lỏng trên ngôi lầu hẻo lánh, sống cách biệt với thế giới
bên ngoài, hỏi ai biết mà tới? Lại nữa, xem cách ăn ở, nghe lối nói
năng trở mặt như bàn tay của mụ bấy nay, Kiều đã đốn ra con người
hiểm độc đó rồi. Đúng là miệng hùm nọc rắn đâu đây đang rình rập để
chụp bắt nàng. Kiều lo lắng nhìn gần rồi lại nhìn xa mong tìm một lối
thốt.
Buồn trơng nội cỏ dàu dàu
Chân mây, mặt nước, một màu xanh xanh…
Chung quanh lầu, Kiều chỉ nhìn thấy một màu xanh cùng khắp.
Nếu không là màu xanh vàng vọt của cánh đồng cỏ héo úa (dàu-dàu),
cũng là màu xanh nhàn nhạt (xanh xanh) trải ra vơ tận, xóa nhịa biên
giới chân trời (chân mây), mặt nước. Màu xanh lúc này đối với Kiều
trở thành một màu xanh ám ảnh, một màu xanh vây hãm.Nàng khơng
có lối thốt rồi!
Điều này cho thấy nỗi buồn cùng cực của Kiều bấy giờ. Nàng
khơng chỉ bị nhốt trên Lầu Ngưng Bích mà cịn bị giam hãm trong
cảnh hiu quạnh của không gian vật lí và tâm lí nữa.
Buồn trơng gió cuốn mặt dồnh.
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Đang sống trong tâm trạng chán nản tuyệt vọng như thế, đôi
mắt Kiều chợt gặp cảnh “gió cuốn mặt dồnh”, tức là cảnh một cơn
gió lớn thổi mạnh, nước ở vụng bể (chỗ bể ăn sâu vào đất liền) bị đổ
xuống, xô mạnh vào bờ, tạo ra những luồng sóng lớn, vỗ kêu ầm ầm
và vang vọng rất xa. Nhìn gió cuốn mặt dồnh và nghe tiếng sóng vỗ
ầm ầm bên tai, Kiều bừng tỉnh cơn mê muội đã lơi cuốn nàng chìm
đắm mãi trong nỗi u sầu tuyệt vọng bấy nay.
Gió đã nổi lên ngồi khơi hay gió đã nổi lên trong lịng Kiều?
Đúng là một luồng sinh lực mới vừa thổi vào hồn Kiều, tạo sự phấn
khởi, tin tưởng. Kiều có cảm tưởng như tiếng sóng ngồi khơi đã theo
với tiếng tim nàng đập rộn ràng trong lồng ngực mà đến tận Lầu
Ngưng Bích réo gọi “ầm ầm quanh ghế nàng ngồi ‘’, để đốc thúc, cổ
võ nàng phải đứng lên đương đầu với những khó khăn hiện tại, và tin
tưởng vào sự chiến thắng của nàng trong tương lai. Chưa bao giờ câu
thơ “le vent se lève, il faut tenter de vivre” của thi sĩ Paul Valéry lại
diễn tả đúng hoàn cảnh và tâm trạng Kiều đến thế.
Phê Bình
Qua phần diễn giải trên, ta thấy đoạn thơ này về nội dung có hai
điểm nổi bật. Đó là tâm sự nhớ nhung của Thúy Kiều cùng tâm trạng
diễn tiến không ngừng của nàng trước cảnh bể chiều hơm.
Trước hết, nói về nỗi nhớ nhung của Kiều đối với KimTrọng và
cha mẹ, Nguyễn Du tỏ ra rất rành tâm lí, ơng đã tùy theo thời gian và
hoàn cảnh mà để cho Kiều nhớ tới ai trước, ai sau. Lần này Kiều ở
Lầu Ngưng Bích, cũng như lần trước khi Kiều trên đường theo Mã
Giám Sinh đi Lâm Truy, Nguyễn Du đã để cho Kiều nhớ Kim Trọng
trước, nhớ cha mẹ sau là rất hợp tình, hợp lý. Kim Trọng là mối tình
đầu của Kiều, nàng lại đang tuổi thanh niên bồng bột, tình yêu đang
độ nồng nàn say đắm ; đêm rượu thề dưới trăng cũng chỉ vừa mới
diễn ra, mùi rượu thề cịn như đọng trên mơi! (Thề hoa chưa ráo chén
vàng c.701). Hơn nữa, Kiều còn hổ thẹn và ân hận biết bao nhiêu vì
chính nàng đã là người chủ động lơi cuốn Kim đi sâu vào cuộc tình
gắn bó này ; thế mà giờ đây, nàng đã phụ chàng rồi, để cho duyên tình
chàng phải dang dở (Vì ta khăng khít cho người dở dang c.700).
Trong khi đó Kim cịn ở Liêu Dương có hay biết gì đâu, nàng chắc
chắn chàng vẫn một lòng tin yêu và chờ đợi nàng. Cịn cha mẹ, dù sao
Kiều cũng được n lịng vì nàng vừa đã hi sinh để báo đền chữ hiếu.
Kiều nhớ Kim, thương Kim, và tin tưởng tình yêu chung thủy
của Kim bao nhiêu thì Kiều càng ân hận, khổ sở, tự giày vị mình bấy
nhiêu. Cũng chính vì Kiều tin chắc ở tình u khơng bao giờ dời đổi
của Kim đối với nàng, khiến nàng có phản ứng tự nhiên là tự quay trở
về soi rọi tìm hiểu lịng mình (để so sánh chăng?). Hiện tại, Kiều đang
sống cảnh đời bơ vơ trơi giạt nơi góc bể chân trời, Nàng vẫn tha thiết
yêu Kim, đã đành; mai sau, dẫu hồn cảnh có thay đổi thế nào, Kiều
tin chắc tình yêu son sắt của nàng đối với Kim cũng sẽ khơng bao giờ
phai lạt. Chính nhờ Kiều biết viện dẫn tình yêu chung thủy của nàng
để mong đền đáp phần nào đối với bạn tình chung mà nỗi khổ tâm của
nàng được an ủi, lắng dịu. Sự diễn tiến tâm lí của Kiều như vậy là rất
tự nhiên và sâu sắc.
Tình nhớ thương cha mẹ của Kiều cũng rất tha thiết, tế nhị, và
đầy nhân bản tính. Kiều mặc dầu đã hi sinh bán mình cứu cha để báo
đền chữ hiếu, nhưng với tấm lòng của người con hiếu thảo, dù ở hồn
cảnh nào, Kiều vẫn ln ln hướng tâm hồn về quê hương, gửi niềm
thương nhớ đến hai thân.Đây là thời gian Kiều mới xa nhà chừng một
hai năm đầu. Giai đoạn này, Kiều rất hiểu và thông cảm nỗi khổ tâm
của cha mẹ. Ơng bà thương nhớ, xót xa cho Kiều, đứa con gái đã vì
sinh mệnh cha già và sự tồn vẹn của gia đình, chấp nhận hi sinh bán
mình làm thiếp cho một khách viễn phương, phải chịu sống cảnh cô
đơn xứ người “nắng mưa thui thủi, quê người một thân” (c.900). Giá
biết chắc như thế, ông bà cũng đỡ khổ tâm ; đằng này ơng bà cịn lo
sợ cho Kiều bị lừa vào tay kẻ buôn người, như lời Kiều đã tâm sự với
bà trước khi ra đi “Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già” (c.883).
Như thế, bảo sao ông bà không bồn chồn lo lắng cho Kiều? Không
ngày ngày sớm chiều tựa cửa mong ngóng tin tức của con để biết hư
thực ra sao?
Thân Kiều đã bị lừa đảo đến thế mà nàng vẫn cịn để lịng xót
xa cho cha mẹ phải lo lắng chờ mong tin nàng. Kiều lại cịn thắc mắc
khơng biết giờ này ở nhà những ai thay nàng chăm sóc hai thân? (ý
hẳn Kiều muốn biết những ai đó có phụng sự cha mẹ chu đáo như
nàng ngày xưa khơng? Tấm lịng hiếu thảo của Kiều đối với cha mẹ,
chúng ta, những người có tình, ai ai cũng phải cảm động.
Lại như 8 câu thơ cuối, tuy là cảnh mặt bể chiều hôm trước
Lầu Ngưng Bích, nhưng cảnh chỉ được ghi lại qua con mắt nặng trĩu
ưu tư của nàng Kiều. Bởi vậy, cảnh của Nguyễn Du không cần đặt
vấn đề thực hay ảo, hợp lí hay khơng hợp lí, miễn hình ảnh của nó đủ
sức dẫn khởi ý tưởng. Quả thực, bốn loại cảnh nơi cửa bể chiều hơm
trước Lầu Ngưng Bích đã giúp ta theo dõi được tâm trạng chuyển
biến của nàng Kiều. Tâm trạng ấy đã được diễn tiến theo một trình tự
rất tự nhiên và sống động:
Kiều từ tâm trạng bơ vơ, tủi buồn vì bị giam cầm trên lầu vắng,
nơi chân trời góc bể ( 1041), trong khi tự do, hạnh phúc còn quá xa
tầm tay với (1047-1048) ; đến tâm trạng băn khoăn lo lắng cho thân
phận trước tương lai vô định đầy bất trắc (1049-1050) ; đến tâm trạng
buồn nản tuyệt vọng vì khơng tìm được lối thốt cho bản thân (10511052). Nhưng rồi một cơn gió lớn nổi lên, tiếng sóng ầm ầm vọng tới
…Kiều liền bừng tỉnh cơn mê muội đã kéo nàng chìm đắm mãi trong
nỗi đau khổ, tuyệt vọng ; Kiều lấy lại được niềm tin, quyết tâm phấn
đấu chống lại số mệnh khắc nghiệt (1053-1054).
Sự bừng tỉnh này của Kiều chẳng khác nào sự bừng tỉnh của
một thiền sinh đang theo đuổi công án, bỗng một lời nói, một cử chỉ
có vẻ vu vơ, vô nghĩa của sư phụ mà liền đốn ngộ. Thế là nỗi đau
buồn tỏa rộng và sâu lắng tưởng không thể tan được của Kiều, ngờ
đâu chỉ một cơn gió mạnh thổi mặt dồnh mà một nguồn sinh lực mới
nẩy sinh đưa nàng ra khỏi bờ vực thẳm của chán nản, tuyệt vọng.
Kiều lấy lại được niềm tin và quyết tâm tìm cách thốt khỏi Lầu
Ngưng Bích, giành lại tự do, hạnh phúc cho mình.
Sự quyết tâm tranh đấu chống lại định mệnh khắc nghiệt này
của Kiều, Nguyễn Du một lần nữa đã làm nổi bật tính sắc sảo của
Kiều. Từ bao giờ đến bao giờ Kiều vẫn là một con người với bản ngã
có hai khuynh hướng rõ rệt: tình cảm và lí trí. Chừng nào khuynh
hướng tình cảm thắng, Kiều trở nên ủy mị buồn rầu, bi quan yếm thế.
Chừng nào khuynh hướng lí trí thắng, nàng lại là con người sắc sảo
chủ động, ý chí chiến đấu mạnh. Huống chi giờ đây, nàng đang tuổi
thanh niên, tinh thần lạc quan và tinh thần tranh đấu tất nhiên càng
mạnh mẽ. Chỉ tiếc rằng Kiều vì q muốn thốt li khỏi nanh vuốt Tú
Bà, vội vàng nhờ cậy Sở Khanh mà thành rơi vào bẫy của mụ Tú.
Khi nhận xét đời sống nội tâm của nàng Kiều qua đoạn thơ Kiều
ở Lầu Ngưng Bích trên (cũng như những đoạn Kiều nhớ nhà khác như
Kiều trên đường theo Mã Giám Sinh đi Lâm Truy, Kiều ở thanh lâu,
Kiều nhớ nhà khi Từ Hải ra biên giới lập nghiệp), ta thấy trong dòng
tâm tưởng của Kiều, những nỗi nhớ nhung người thân, quê nhà,
những hồi niệm về dĩ vãng, những băn khoăn hay mơ ước cho ngày
mai đều có sự liên kết giữa hiện tại với quá khứ và tương lai. Như thế,
trong cùng một lúc, nàng Kiều đã sống trong hai khái niệm thời gian
khác nhau:
Thời gian khách quan vật lí : hàng ngày nhân vật Kiều vẫn tuần
tự trải qua một cuộc sống tẻ nhạt với “mây sớm” “đèn khuya” nơi Lầu
Ngưng Bích, theo đúng sự diễn tiến của sự vật, sự tuần tự của chiếc
kim đồng hồ.
Thời gian chủ quan tâm lí: đồng thời, trong đời sống nội tâm
của Kiều, nàng sống với thời gian tâm lí, diễn tiến theo cảm xúc của
nàng.
- Hiện tại: Kiều nhớ cha mẹ.
Xót người tựa cửa hơm mai
Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ?
- Quá khứ: Kiều nhớ nhà.
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Kiều nhớ Kim Trọng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông, mai chờ.
Ở đây, tháng năm đã biến thành “mấy nắng mưa”, “tin sương”.
-Tương lai: Kiều tin chắc trong tương lai, tình nàng u Kim
vẫn khơng bao giờ mờ nhạt.
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Với những ưu điểm trên, Nguyễn Du đã xây dựng được một
nhân vật Kiều có một đời sống nội tâm vơ cùng sâu sắc, sống động,
và đầy nhân bản tính. Khác hẳn nhân vật Kiều trong KVK Truyện của
TTTT, suốt 15 năm lưu lạc nơi đất khách quê người, nhân vật Kiều ở
đây đã khơng có lấy một giờ phút tưởng nhớ cha mẹ, quê hương ;
riêng Kim Trọng được một lần duy nhất nơi Lầu Ngưng Bích. Như
vậy, nhân vật Kiều trong KVKT quả là quá hời hợt, nông cạn.
Đoạn thơ Kiều ở Lầu Ngưng Bích đạt được những giá trị nội
dung như vừa trình bày ở trên là nhờ Nguyền Du đã sử dụng nhiều
hình thức nghệ thuật thích đáng. Đó là: để diễn tả tình cảm, tâm trạng
Thúy Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng một cách khéo léo nhiều từ láy có
giá trị biểu cảm đặc biệt như: “bát ngát”, “bơ vơ”, “man mác”, “dàu
dàu”. Ngay đến những tư tưởng chỉ để tả cảnh như “thấp thoáng”, “xa
xa” đọc lên cũng gợi được trong ta một nỗi buồn nhẹ nhàng man mác.
Lại những từ như “luống”, “những” cũng đều có giá trị biểu cảm rõ
rệt.
Nghệ thuật hành văn đáng kể nhất trong đoạn thơ này là lối điệp
đầu ngữ (anaphore), tức sự lập lại một từ hay một nhóm từ ở đầu câu,
với mục đích rõ rệt là làm gia tăng một ý tưởng hay một tình cảm,
một nhạc điệu, như hai từ “buồn trông” được đặt ở đầu câu thứ nhất
trong suốt bốn đoạn tả cảnh ; chẳng những để báo trước nỗi buồn của
Kiều đã tràn lên cảnh sắc thiên nhiên mà đồng thời còn tạo được nhạc
điệu lưu luyến kéo dài, gây được cảm xúc thê thiết. Nỗi buồn thương
da diết của nàng Kiều vì thế tưởng chừng khơng bao giờ chấm dứt.