Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

bảo hiểm xuất nhập khẩu hàng hóa bằng đường biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.5 KB, 28 trang )

Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển
PHẦN 1: NHỮNG KIẾN THỨC CẦN BIẾT KHI BẢO HIỂM XUẤT NHẬP
KHẨU HÀNG HÓA BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
1. Sự cần thiết, tác dụng của bảo hiểm:
Thứ nhất, giảm bớt rủi ro cho hàng hoá do hạn chế tổn thất nhờ tăng cường bảo
quản kiểm tra đồng thời kết hợp các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất.
Thứ hai, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu cũng đem lại lợi ích cho nền kinh tế
quốc dân, góp phần tiết kiệm và tăng thu ngoại tệ cho nhà nước. Khi các đơn vị
kinh doanh xuất nhập khẩu nhập hàng theo giá FOB, CF, xuất theo giá CIF, CIP sẽ
tạo ra khả năng cạnh tranh của bảo hiểm trong nước với nước ngoài. Nhờ có hoạt
động bảo hiểm trong nước các chủ hàng không phải mua bảo hiểm ở nước ngoài,
nói cách khác là không phải xuất khẩu vô hình.
Thứ ba, khi các công ty có tổn thất hàng hoá xảy ra sẽ được bồi thường một số
tiền nhất định giúp họ bảo toàn được tài chính trong kinh doanh. Số tiền chi bồi
thường của các công ty hàng năm là rất lớn chiếm khoảng 60%-80% doanh thu phí
bảo hiểm.
Thứ tư, nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên tham gia bảo hiểm đã trở thành
nguyên tắc thể lệ và tập quán trong thương mại quốc tế. Nên khi hàng hoá xuất
nhập khẩu gặp rủi ro gây ra tổn thất các bên tham gia sẽ được công ty bảo hiểm
giúp đỡ về mặt pháp lý khi xảy ra tranh chấp với tàu hoặc các đối tượng có liên
quan.
2. Vai trò của bảo hiểm:
Một là, hàng hoá xuất nhập khẩu phải vượt qua biên giới của một hay nhiều quốc
gia, người xuất khẩu và nhập khẩu lại ở xa nhau và thường không trực tiếp áp tải
được hàng hoá trong quá trình vận chuyển do đó phải tham gia bảo hiểm cho hàng
hoá. Ở đây, vai trò của bảo hiểm là người bạn đồng hành với người được bảo hiểm.
Hai là, vận tải đường biển thường gặp nhiều rủi ro tổn thất đối với hàng hoá do
thiên tai, tai nạn bất ngờ gây nên như: mắc cạn, đâm va, đắm chìm, cháy nổ, mất
cắp, cướp biển, bão, lốc, sóng thần vượt quá sự kiểm soát của con người. Hàng
hoá xuất nhập khẩu chủ yếu lại được vận chuyển bằng đường biển đặc biệt ở
những nước quần đảo như Anh, Singapore, Nhật, Hồng Kông do đó phải tham


gia bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu.
Ba là, theo hợp đồng vận tải người chuyên chở chỉ chịu trách nhiệm về tổn thất
của hàng hoá trong một phạm vi và giới hạn nhất định) . Trên vận đơn đường biển,
rất nhiểu rủi ro các hãng tàu loại trừ không chịu trách nhiệm, ngày cả các công ước
quốc tế cũng quy định mức miễn trách nhiệm rất nhiều cho người chuyên chở
(Hague, Hague Visby, Hamburg Vì vậy các nhà kinh doanh phải tham gia bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu.
Bốn là, hàng hoá xuất nhập khẩu thường là những hàng hoá có giá trị cao, những
vật tư rất quan trọng với khối lượng rất lớn nên để có thể giảm bớt thiệt hại do các
rủi ro có thể xảy ra, việc tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu trở thành một
nhu cầu cần thiết.
Năm là, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu đã có lịch sử rất lâu đời do đó việc
tham gia bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển đã
trở thành một tập quán, thông lệ quốc tế trong hoạt động ngoại thương.
3. Nguyên tắc cơ bản về bảo hiểm hàng hải .
3.1. Quyền lợi có thể bảo hiểm (Insurable Interest)
Điều % MIA định nghĩa quyền lợi có thể được bảo hiểm như sau:
a. Theo những quy định của luật này, người có quyền lợi có thể được bảo
hiểm là người liên quan đến một hành trình đường biển.
b. Một người được coi là có liên quan đến một hành trình đường biển khi
người ấy co liên quan hợp pháp hoặc công bằng đối với hành trình hoặc bất cứ tài
sản có thể bảo hiểm nào chịu rủi ro trong hành trình đó mà theo đó người ấy có thể
hưởng lợi nếu tài sản có thể bảo hiểm ấy được an toàn hay về được bến đúng hạn,
hoặc có thể bị thiệt hại nếu tài sản đó bị tổn thất hay tổn hại, hay bị cầm giữ hoặc
có thể chịu trách nhiệm về những tổn thất đó.
3.2. Trung thực tối đa – Nghĩa vụ khai báo (Utmost Good Faith – Declaration)
Trung thực tối đa là nguyên tắc cơ bản thứ hai của bảo hiểm hàng hải. MIA 1906
từ điều 17 đến điều 20 đề cập đến yêu cầu trung thực, tất cả các bên liên quan trong
hợp đồng bảo hiểm hàng hải phải thương lượng với nhau trên cơ sở tin tưởng tuyệt
đối. Trung thực tối đa ngụ ý phải khai báo đầy đủ mọi sự kiện cần thiết đã biết

hoặc coi như đã biết. Đặc biệt người được bảo hiểm phải kê khai và trình bày đúng
tất cả các sự việc mà họ biết hoặc phải biết trong công việc thương mại bình
thường. Như thế người bảo hiểm cũng được biết đầy đủ các thông tin cần thiết để
giúp họ trong việc đánh giá rủi ro, nhận hay từ chối bảo hiểm và tính giá phí hợp
lý.
3. 3. Bồi thường (Indemnity)
Bồi thường là quy tắc cơ bản quan trọng nhất của bảo hiểm nói chung và cũng như
bảo hiểm hàng hải nói riêng và cũng chính vì mục đích này mà bảo hiểm tồn tại.
Về khái niệm người ta có thể hiểu bồi thường là sự bảo vệ hoặc đảm bảo cho thiệt
hại hoặc tổn thất phát sinh từ trách nhiệm pháp lý, còn trong bảo hiểm ta có thể coi
bồi thường như là “một cơ chế mà công ty bảo hiểm sử dụng để cung cấp khoản
bồi thường tài chính, với mục đích khôi phục tình trạng tài chính ban đầu cho
người được bảo hiểm sau khi tổn thất xảy ra”
Điểm khác trong bồi thường bảo hiểm hàng hải là “bồi thường theo cách thức và
mức độ thỏa thuận” nghĩa là được xác định trên hợp đồng và theo quy định của
luật, hay nói cách khác bồi thường không phải là thuần túy mà là mang tính chất
thương mại.
3.4. Thế quyền (Subrogation)
Khi đã bồi thường tổn thất, người bảo hiểm có quyền đặt mình vào địa vị người
được bảo hiểm trong phạm vi quyền đòi bù đắp đối với bên có trách nhiệm về tổn
thất. Đó được gọi là thế quyền, tức là người bảo hiểm có cùng vị trí như người
được bảo hiểm về việc đòi bồi thường tổn thất. Thế quyền là nguyên tắc cơ bản thứ
tư của bảo hiểm hàng hải, nó là kết quả tất yếu của nguyên tắc bồi thường vì nó
ngăn ngừa một người có thể đòi bồi thường từ hai nguồn về cùng một tổn thất và
như thế là kiếm lời. Với nguyên tắc thế quyền này, người bảo hiểm có quyền thay
thế quyền hạn người được bảo hiểm để đòi bên có trách nhiệm bồi hoàn trong giới
hạn số tiền bồi thường đã trả mà không cần có quyền sở hữu được chuyển qua cho
họ. Tuy nhiên, trước khi thực hiện việc thế quyền, người bảo hiểm phải trả tiền bồi
thường cho người được bảo hiểm.
4. Rủi ro trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường

biển.
4.1. Khái niệm:
Rủi ro trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
là những tai nạn, tai hoạ, sự cố xảy ra một cách bất ngờ ngẫu nhiên hoặc những
mối đe doạ nguy hại, khi xảy ra sẽ gây lên tổn thất cho đối tượng được bảo hiểm.
Ví dụ như: tàu đắm, hàng mất, hàng bị đổ vỡ, hư hỏng
4.2. Phân loại:
- Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh có thể phân rủi ro thành những loại sau:
* Thiên tai:
Thiên tai là những hiện tượng tự nhiên mà con người không thể chi phối
được như: biển động, bão, gió lốc, sét đánh, thời tiết xấu, sóng thần
* Tai hoạ của biển:
Là những tai hoạ xảy ra đối với con tàu ở ngoài biển như: tàu bị mắc cạn,
đâm va, đắm chìm, cháy nổ, tàu bị lật úp, mất tích những rủi ro này được gọi là
những rủi ro chính.
* Các tai nạn bất ngờ khác:
Là những thiệt hại do các tác động ngẫu nhiên bên ngoài, không thuộc những
tai hoạ của biển nói trên. Tai nạn bất ngờ khác có thể xảy ra trên biển nhưng
nguyên nhân không phải là một tai hoạ của biển, có thể xảy ra trên bộ, trên không
trong quá trình vận chuyển, xếp dỡ hàng hoá, giao nhận, lưu kho, bảo quản hàng
như: hàng hoá bị vỡ, lát, hấp hơi, thiếu hụt, mất trộm, mất cắp, không giao hàng
những rủi ro này được gọi là những rủi ro phụ.
* Rủi ro do bản chất hoặc do tính chất đặc biệt của đối tượng bảo hiểm hoặc
những thiệt hại mà nguyên nhân trực tiếp là chậm chễ.
- Theo nghiệp vụ bảo hiểm thì những rủi ro của hàng hoá xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển có thể được chia thành các loại sau đây:
* Rủi ro thông thường được bảo hiểm:
Là những rủi ro được bảo hiểm một cách bình thường theo các điều kiện bảo
hiểm gốc. Đây là những rủi ro mang tính bất ngờ ngẫu nhiên xảy ra ngoài ý muốn
của người được bảo hiểm như: cả rủi ro chính(Mắc cạn , chìm đắm , cháy , va

chạm) và rủi ro thông thường(hành vi vi phạm pháp luật, tàu mất tích,vứt hàng
xuống biển,mất cắp), rủi ro phụ (nóng hấp hơi,lây hại, )
* Rủi ro bảo hiểm riêng:
Là những rủi ro mà muốn được bảo hiểm thì phải thoả thuận riêng, thoả
thuận thêm chứ không được bồi thường theo các điều kiện bảo hiểm gốc. Loại rủi
ro này gồm: rủi ro chiến tranh, đình công, khủng bố được bảo hiểm theo điều kiện
riêng.
* Rủi ro không được bảo hiểm:
Là những rủi ro không được người bảo hiểm nhận bảo hiểm hoặc không được
người bảo hiểm bồi thường trong mọi trường hợp. Đó là các rủi ro đương nhiên
xảy ra, chắc chắn xảy ra hoặc các thiệt hại do nội tỳ, bản chất của hàng hoá, do lỗi
của người được bảo hiểm, thiệt hại mà nguyên nhân trực tiếp là chậm trễ, rủi ro có
tính chất thảm hoạ mà con người không lường trước được, quy mô, mức độ và hậu
quả của nó.
Tóm lại, các rủi ro được bảo hiểm phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra tổn
thất. Việc phân nguyên nhân trực tiếp hay nguyên nhân gián tiếp có vai trò rất quan
trọng để xác định rủi ro gây ra tổn thất có phải là rủi ro được bảo hiểm hay không.
Những tổn thất nào có nguyên nhân trực tiếp là rủi ro được bảo hiểm gây ra mới
được bồi thường.
5.Tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển:
5.1. Khái niệm:
Tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu là những hư hỏng, thiệt hại
của hàng hoá được bảo hiểm do rủi ro gây ra.
5.2. Phân loại:
- Căn cứ vào quy mô, mức độ tổn thất có hai loại tổn thất là tổn thất bộ phận
và tổn thất toàn bộ:
* Tổn thất bộ phận:
Là tổn thất mà một phần của đối tượng được bảo hiểm theo một hợp đồng
bảo hiểm bị mất mát, hư hỏng, thiệt hại. Tổn thất bộ phận có thể là tổn thất về số

lượng, trọng lượng, thể tích hoặc giá trị.
* Tổn thất toàn bộ:
Tức là toàn bộ đối tượng bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm bị mất mát, hư
hỏng, thiệt hại hoặc bị biến chất, biến dạng không còn như lúc mới bảo hiểm nữa.
Một tổn thất toàn bộ có thể là tổn thất toàn bộ thực tế hay tổn thất toàn bộ ước tính:
+)Tổn thất toàn bộ thực tế:
Là toàn bộ đối tượng bảo hiểm bị mất mát, hư hỏng hay bị phá huỷ toàn bộ,
không lấy lại được như lúc mới bảo hiểm nữa. Trong trường hợp này, người bảo
hiểm phải bồi thường toàn bộ giá trị bảo hiểm hoặc số tiền bảo hiểm.
+) Tổn thất toàn bộ ước tính:
Là thiệt hại, mất mát của đối tượng bảo hiểm chưa tới mức tổn thất toàn bộ
nhưng đối tượng bảo hiểm bị từ bỏ một cách hợp lý vì tổn thất toàn bộ thực tế xét
ra là không thể tránh khỏi hoặc những chi phí đề phòng, phục hồi tổn thất lớn hơn
giá trị của hàng hoá được bảo hiểm. Khi đối tượng là hàng hoá bị từ bỏ, sở hữu về
hàng hoá sẽ chuyển sang người bảo hiểm và người bảo hiểm có quyền định đoạt về
hàng hoá đó. Khi đó, người được bảo hiểm có quyền khiếu nại đòi bồi thường tổn
thất toàn bộ.
- Căn cứ vào tính chất tổn thất và trách nhiệm bảo hiểm thì tổn thất được
chia làm hai loại là tổn thất chung và tổn thất riêng:
* Tổn thất chung:
Là những hy sinh hay chi phí đặc biệt được tiến hành một cách cố ý và hợp lý
nhằm mục đích cứu tàu và hàng hoá chở trên tàu thoát khỏi một sự nguy hiểm
chung, thực sự đối với chúng. Khi xảy ra tổn thất chung chủ hàng và người bảo
hiểm phải điền vào Bản cam đoan, Giấy cam đoan đóng góp vào tổn thất chung.
Bản cam đoan, Giấy cam đoan này được xuất trình cho chủ hàng hoặc thuyền
trưởng khi nhận hàng. Nội dung nói chung khi xảy ra tổn thất chung người được
bảo hiểm phải báo cho công ty bảo hiểm biết để công ty hướng dẫn làm thủ tục
không tự ý ký vào Bản cam đoan.
* Tổn thất riêng:
Là tổn thất chỉ gây ra thiệt hại cho một hay một số quyền lợi của các chủ

hàng và chủ tàu trên một con tàu. Như vậy, tổn thất riêng chỉ liên quan đến từng
quyền lợi riêng biệt. Trong tổn thất riêng, ngoài thiệt hại vật chất còn phát sinh các
chi phí liên quan nhằm hạn chế những thiệt hại khi tổn thất xảy ra, gọi là tổn thất
chi phí riêng. Tổn thất chi phí riêng là những chi phí bảo quản hàng hoá để giảm
bớt thiệt hại hoặc để khỏi hư hại thêm, bao gồm chi phí xếp, dỡ, gởi hàng, đóng gói
lại, thay thế bao bì ở bến khởi hành và dọc đường. Chi phí tổn thất riêng làm hạn
chế và giảm bớt tổn thất riêng, tổn thất riêng có thể là tổn thất bộ phận hoặc là tổn
thất toàn bộ. Tổn thất riêng có được người bảo hiểm bồi thường hay không phụ
thuộc vào rủi ro có được thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm hay không chứ
không như tổn thất chung.
6. Các điều kiện bảo hiểm.
Trách nhiệm của người bảo hiểm đối với hàng hoá theo các điều kiện bảo hiểm gốc
của Việt Nam được quy định theo bản Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển năm 1990 do Bộ Tài chính ban hành. Quy
tắc này được xây dựng trên cơ sở điều khoản ICC ngày 1/1/1982 của Viện những
người bảo hiểm London (Institute of London Underwriters - ILU). Vì các điều kiện
này được áp dụng ở hầu hết các nước trên thế giới thay thế các điều kiện cũ ICC-
1963 và trở thành tập quán thông dụng quốc tế. Nó bao gồm các điều kiện sau:
- Institute cargo clauses C (ICC-C) - điều kiện bảo hiểm C
- Institute cargo clauses B (ICC-B) - điều kiện bảo hiểm B
- Institute cargo clauses A(ICC-A) - điều kiện bảo hiểm A
- Institute war clauses - điều kiện bảo hiểm chiến tranh
- Institute strikes clauses - điều kiện bảo hiểm đình công
Điều kiện bảo hiểm C (ICC- C).
Rủi ro được bảo hiểm :
- Cháy hoặc nổ;
- Tàu hay xà lan bị mắc cạn, đắm hoặc lật úp;
- Tàu đâm va nhau hoặc tàu, xà lan hay phương tiện vận chuyển đâm và phải bất
kỳ vật thể gì bên ngoài không kể nước hoặc bị mất tích;
- Dỡ hàng tại cảng lánh nạn;

- Phương tiện vận chuyển đường bộ bị lật đổ hoặc bị trật bánh;
- Hy sinh vì tổn thất chung;
- Ném hàng khỏi tàu.
Những tổn thất, chi phí và trách nhiệm khác:
- Tổn thất chung và chi phí cứu hộ được điều chỉnh hay xác định bằng hợp đồng
vận tải hoặc theo luật lệ và tập quán hiện hành;
- Những chi phí và tiền công hợp lý cho việc dỡ hàng lưu kho và gửi tiếp hàng hoá
được bảo hiểm tại cảng dọc đường hay cảng lánh nạn do hậu quả của một rủi ro
thuộc phạm vi hợp đồng bảo hiểm;
- Những chi phí mà người được bảo hiểm hoặc đại lý của họ đã chi nhằm phòng
tránh hoặc giảm nhẹ tổn thất cho hàng hoá được bảo hiểm hoặc những chi phí kiện
tụng để đòi người thứ ba bồi thường;
- Phần trách nhiệm mà người được bảo hiểm phải chịu theo điều khoản " hai bên
cùng có lỗi" ghi trong hợp đồng vận tải.
Rủi ro loại trừ :
Trừ khi có thoả thuận khác, người bảo hiểm không chịu trách nhiệm đối với những
mất mát, hư hỏng hay chi phí gây ra bởi:
- Chiến tranh, nội chiến, cách mạng, khởi nghĩa hoặc hành động thù địch;
- Việc chiếm, bắt giữ, cầm giữ tài sản hoặc kiềm chế và hậu quả của chúng;
- Mìn, thuỷ lôi, bom hay những vũ khí chiến tranh khác đang trôi dạt;
- Đình công, cấm xưởng, rối loạn lao động hoặc bạo động;
- Người đình công, công nhân bị cấm xưởng, người gây rối loạn lao động hoặc bạo
động, kẻ khủng bố hay hành động vì động cơ chính trị;
-Việc sử dụng các vũ khí chiến tranh có dùng đến năng lượng nguyên tử, hạt nhân
hoặc chất phóng xạ;
- Khuyết tật vốn có tính chất đặc biệt của hàng hoá bảo hiểm;
- Hành động ác ý hay cố ý của bất cứ người nào.
Trong mọi trường hợp, người bảo hiểm không chịu trách nhiệm đối với những mất
mát, hư hỏng và chi phí do:
- Việc làm xấu cố ý của người được bảo hiểm;

- Chậm chễ là nguyên nhân trực tiếp;
- Tàu hay xà lan không đủ khả năng đi biển và do tàu, xà lan, phương tiện vận
chuyển hoặc container không thích hợp cho việc chuyên chở hàng hoá mà người
được bảo hiểm hay người làm công cho họ đã biết về tình trạng đó vào thời gian
bốc xếp hàng hoá ;
- Bao bì không đầy đủ hoặc không thích hợp;
- Hao hụt tự nhiên, hao mòn tự nhiên, dò chảy thông thường;
- Chủ tàu, người quản lý tàu hoặc thuê tàu không trả được nợ hoặc thiếu thốn về
mặt tài chính gây ra.
Điều kiện bảo hiểm B (ICC- B).
Rủi ro được bảo hiểm:
Như điều kiện C và mở rộng thêm một số rủi ro sau:
- Động đất, núi lửa phun, sét đánh;
- Nước cuốn khỏi tàu;
- Nước biển, nước sông chảy vào tàu, xà lan, hầm hàng, phương tiện vận chuyển,
container hoặc nơi chứa hàng;
- Tổn thất toàn bộ của bất kỳ kiện hàng nào do rơi khỏi tàu hoặc rơi trong khi xếp
hàng lên hay đang dỡ hàng khỏi tàu hoặc xà lan.
Những tổn thất, chi phí và trách nhiệm khác:
Như điều kiện C.
Rủi ro loại trừ:
Như điều kiện C.
Điều kiện bảo hiểm A (ICC- A).
. Rủi ro được bảo hiểm:
Theo điều kiện này, người bảo hiểm chịu trách nhiệm về mọi rủi ro gây ra mất mát
hư hỏng cho hàng hoá bảo hiểm trừ những rủi ro đã được loại trừ. Rủi ro được bảo
hiểm theo điều kiện bảo hiểm này bao gồm cả rủi ro chính (tàu mắc cạn, đắm,
cháy, đâm va nhau, đâm va phải những vật thể khác, mất tích ) và những rủi ro
phụ( hư hỏng, đổ vỡ, cong, bẹp, gỉ, hấp hơi, thiếu hụt, trộm cắp, không giao
hàng ) do tác động ngẫu nhiên bên ngoài trong quá trình vận chuyển, xếp dỡ,

giao nhận, bảo quản, lưu kho hàng hoá.
Những tổn thất, chi phí và trách nhiệm khác:
Như điều kiện B, C.
.Rủi ro loại trừ:
Như điều kiện B, C; loại trừ thiệt hại do hành động ác ý gây ra.
Điều kiện bảo hiểm chiến tranh:
Theo điều kiện này, người bảo hiểm phải bồi thường những mất mát, hư hỏng của
hàng hoá do:
- Chiến tranh, nội chiến, cách mạng, nổi loạn, khởi nghĩa hoặc xung đột dân sự xảy
ra từ những biến cố đó hoặc bất kỳ hành động thù địch nào;
- Chiếm đoạt, bắt giữ, kiềm chế hoặc cầm giữ;
- Mìn, thuỷ lôi, bom hoặc các vũ khí chiến tranh khác;
- Tổn thất chung và chi phí cứu nạn.
Phạm vi không gian và thời gian bảo hiểm đối với rủi ro chiến tranh hẹp hơn các
rủi ro thông thường. Bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực khi hàng hoá được xếp lên tàu
biển và kết thúc khi được dỡ khỏi tàu tại cảng cuối cùng hoặc khi hết hạn 15 ngày
kể từ nửa đêm ngày tàu đến cảng dỡ cuối cùng, tuỳ theo điều kiện nào xảy ra trước.
Nếu có chuyển tải, bảo hiểm vẫn tiếp tục có hiệu lực cho đến khi hết hạn 15 ngày
kể từ nửa đêm ngày tàu đến tàu đến cảng chuyển tải.
Đối với rủi ro mìn và ngư lôi trách nhiệm của người bảo hiểm được mở rộng ra cả
khi hàng hoá còn ở trên xà lan để vận chuyển ra tàu hoặc từ tàu vào bờ nhưng
không vượt quá 60 ngày kể từ ngày dỡ hàng khỏi tàu, trừ khi có thoả thuận đặc biệt
khác.
Điều kiện bảo hiểm đình công:
Theo điều kiện bảo hiểm này, chỉ bảo hiểm cho những mất mát, hư hỏng của hàng
hoá được bảo hiểm do:
- Người đình công, công nhân bị cấm xưởng hoặc những người tham gia gây rối
loạn lao động, bạo động hoặc nổi dậy;
- Hành động khủng bố hoặc vì mục đích chính trị;
- Tổn thất chung và chi phí cứu nạn.

Ngời bảo hiểm chỉ bồi thường những tổn thất do hành động trực tiếp của những
người đình công mà không chịu trách nhiệm về những thiệt hại do hậu quả của
đình công gây ra.
PHẦN 2: CÁCH THỨC MUA BẢO HIỂM HÀNG HÓA XUẤT NHẬP
KHẨU BẰNG ĐƯỜNG BIỂT
1. THỦ TỤC MUA BẢO HIỂM HÀNG HÓA NHK
Người giao nhận theo yêu cầu của người xuất khẩu có thể mua bảo hiểm cho hàng
hóa, chứng từ bảo hiểm là chứng từ do cơ quan bảo hiểm cấp cho các đơn vị xuất
nhập khẩu để xác nhận về việc hàng hóa đã được bảo hiểm, đồng thời được coi là
bằng chứng của hợp đồng bảo hiểm.
Kỹ thuật mua bảo hiểm đối với người nhập khẩu
Người nhập khẩu chỉ mua bảo hiểm trong trường hợp nhập khẩu theo điều kiện cơ
sở giao hàng nhóm E, F và nhóm C (trừ CIF và CIP)
1) Nghiên cứu điều kiện bảo hiểm cần mua (A, B, C):
• lựa chọn điều kiện bảo hiểm tùy thuộc vào
- tính chất hàng hóa
- tuyến đường vận chuyển
- thời tiết khí hậu trong thời gian vận chuyển hàng hóa
- loại tàu dự kiến cần thuê…
2) Khi lập giấy yêu cầu bảo hiểm hàng hóa, do nhiều thông tin người mua chưa
nắm bắt được như:
- tên và quốc tịch tàu,
- đặc điểm con tàu chuyên chở (nếu người bán thuê phương tiện vận tải)
- số lượng và giá trị hàng thực giao, ETA, ETD …
Cho nên để kịp thời ký hợp đồng bảo hiểm, người mua cần:
+ Đề nghị người bán gửi gấp các thông tin trước khi tàu rời cảng bốc hàng: thông
tin về thuê tàu, về kết quả giao hàng…để ký hợp đồng bảo hiểm.
+ Thỏa thuận với công ty bảo hiểm để ký thêm hình thức đơn bảo hểm Thông báo
bổ sung sau (to be Advised Policy). Giấy này có giá trị như 1 đơn bảo hiểm bồi
thường thiệt hại khi có rủi ro.

3) Thanh toán phí bảo hiểm cho công ty bảo hiểm và nhận đơn bảo hiểm hoặc giấy
chứng nhận bảo hiểm.
Kỹ thuật mua bảo hiểm đối với người xuất khẩu
Người xuất khẩu chỉ mua bảo hiểm trong trường hợp bán theo điều kiện cơ sở giao
hàng CIF, CIP và điều kiện của nhóm D.
1) Nghiên cứu kỹ hợp đồng ngoại thương và nội dung của L/C (nếu thanh toán
bằng L/C) để nắm vứng :

- loại tàu cần thuê,
- điều kiện (A, B, C) và giá trị bảo hiểm cần mua
- nơi khiếu nại đòi bồi thường.
2)Thuê tàu thích hợp, thực hiện giao hàng để lấy vận đơn.
3) Đến công ty bảo hiểm lập Giấy yêu cầu bảo hiểm cho hàng hóa chuyên chở
4)Nộp phí bảo hiểm
5)Gửi cho người bán các chứng từ bảo hiểm (khi bán theo điều kiện CIF hoặc CIP)
2. Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
2.1. Khái niệm và tính chất của hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là một văn bản trong đó người bảo hiểm cam kết bồi thường
cho người được bảo hiểm những mất mát, thiệt hại của đối tượng bảo hiểm do một
rủi ro được bảo hiểm gây nên còn người được bảo hiểm cam kết trả phí bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là giấy tờ có giá trị pháp lý cao, nó quy định quyền lợi và
nghĩa vụ của các bên và là cơ sở quan trọng để giải quyết tranh chấp, khiếu nại sau
này.
Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển mang tính chất là một
hợp đồng bồi thường (contract of indemnity) và là một hợp đồng tín nhiệm
(contract of good faith). Thể hiện như sau:
- Khi tổn thất xảy ra do các rủi ro được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi
thường cho người được bảo hiểm nhằm khôi phục lại vị thế tài chính của họ. Đây
là tính chất bồi thường của hợp đồng bảo hiểm.
- Tính chất tín nhiệm thể hiện ở chỗ:

+ Phải có lợi ích bảo hiểm (Insurable interest) mới ký kết hợp đồng bảo hiểm. Lợi
ích bảo hiểm không nhất thiết phải ký kết hợp đồng nhưng phải có khi xảy ra tổn
thất.
+ Người được bảo hiểm phải thông báo mọi chi tiết về hàng hoá, mọi thay đổi làm
tăng hoặc giảm rủi ro cho người bảo hiểm biết.
+ Khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, nếu hàng hoá đã bị tổn thất mà người được bảo
hiểm đã biết thì hợp đồng bảo hiểm sẽ vô hiệu lực, ngược lại người được bảo hiểm
chưa biết hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm coi như được ký kết khi người bảo hiểm chấp nhận văn bản.
Văn bản đó là đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm. Chúng là chứng từ có
thể lưu thông được (Negotiable) và có thể chuyển nhượng được cho người khác
bằng cách ký hậu.
2.2. Các loại hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm được chia làm 2 loại: hợp đồng bảo hiểm chuyến và hợp đồng
bảo hiểm bao.
* Hợp đồng bảo hiểm chuyến (Voyage Policy):
Hợp đồng bảo hiểm chuyến là hợp đồng bảo hiểm cho một chuyến hàng từ một nơi
này đến một nơi khác ghi trên hợp đồng bảo hiểm. Trách nhiệm của người bảo
hiểm theo hợp đồng bảo hiểm bắt đầu và kết thúc theo điều khoản "từ kho đến
kho". Hợp đồng bảo hiểm chuyến thể hiện bằng đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng
nhận bảo hiểm do công ty bảo hiểm cấp. Đơn bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo
hiểm đều có giá trị pháp lý như nhau nhưng về hình thức và cách sử dụng có khác
nhau.
Nội dung của đơn bảo hiểm gồm hai mặt:
Mặt 1 ghi các chi tiết về hàng hoá, tàu, hành trình, người bảo hiểm và người được
bảo hiểm, thường gồm các nội dung sau đây:
- Tên, địa chỉ của người bảo hiểm và người được bảo hiểm.
- Tên hàng, số lượng, trọng lượng, số vận tải.
- Tên tàu, ngày khởi hành.
- Cảng đi, cảng đến, cảng chuyển tải.

- Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm.
- Điều kiện bảo hiểm (ghi rõ theo quy tắc nào, của nước nào).
- Tỷ lệ phí bảo hiểm, phí bảo hiểm.
- Nơi và cách thức bồi thường.
- Ngày tháng, chữ ký của công ty bảo hiểm, phương thức và địa điểm trả tiền bồi
thường. Trong trường hợp nơi đến của khách hàng ghi trong đơn bảo hiểm là một
địa điểm nằm sâu trong nội địa, nghĩa là sau khi đến cảng cuối cùng phải chuyển
tiếp bằng phương tiện khác đến địa điểm đã định và đến đây mới hết trách nhiệm
của người bảo hiểm, trong trường hợp này phải tăng thêm phụ phí bảo hiểm vì
ngoài rủi ro trên đoạn đường phụ trong toàn bộ hành trình được bảo hiểm.
Mặt 2 in sẵn quy tắc, thể lệ bảo hiểm của Công ty bảo hiểm có liên quan.
Giấy chứng nhận bảo hiểm chỉ có nội dung như mặt 1 của đơn bảo hiểm.
Để thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ, ngày ghi trên đơn bảo hiểm và
giấy chứng nhận bảo hiểm không được muộn hơn ngày xếp hàng lên tàu hoặc ngày
nhận hàng để chở, loại tiền phải giống loại tiền trong thư tín dụng trừ khi có quy
định khác.
Khi xuất trình để thanh toán, phải xuất trình trọn bộ (Full set) hoặc một bản gốc
duy nhất (A sole original) cho ngân hàng.
* Hợp đồng bảo hiểm bao (còn gọi là hợp đồng bảo hiểm mở) - (Open policy,
Floating policy, Open cover).
Hợp đồng bảo hiểm bao là hợp đồng bảo hiểm nhiều chuyến hàng trong một thời
gian nhất định, thường là một năm. Đối với các chủ hàng có khối lượng hàng hoá
xuất nhập khẩu lớn và ổn định, thông thường họ ký kết với công ty bảo hiểm một
hợp đồng bảo hiểm bao, trong đó người bảo hiểm cam kết sẽ bảo hiểm tất cả các
chuyến hàng xuất nhập khẩu trong năm.
Trong hợp đồng bảo hiểm bao hai bên chỉ thoả thuận với nhau những vấn đề chung
như: tên hàng được bảo hiểm, loại tàu chở hàng, cách tính giá trị bảo hiểm, số tiền
bảo hiểm tối đa cho mỗi chuyến và điều kiện bảo hiểm, cách thức thanh toán phí
bảo hiểm và tiền bồi thường cấp chứng từ bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm bao có lợi ích cho cả người bảo hiểm và người được bảo hiểm.

Người bảo hiểm đảm bảo tu được khoản chi phí bảo hiểm trong thời hạn bảo hiểm.
Người được bảo hiểm vẫn được bồi thường nếu tàu đã bị tai nạn rồi mà chưa kịp
thông báo bảo hiểm, phí bảo hiểm rẻ hơn.
Trong hợp đồng bảo hiểm bao có thể quy định một hạn ngạch của số tiền bảo hiểm
(Floating policy), khi hết số tiền bảo hiểm đó hợp đồng sẽ hết hiệu lực.
Trong hợp đồng bảo hiểm bắt buộc phải có 3 điều kiện cơ bản sau:
- Điều kiện xếp hạng tàu được thuê chuyên chở hàng hoá sẽ được bảo hiểm. Tàu
phải có cấp hạng cao và nếu do 10 hãng đăng kiểm nổi tiếng trên thế giới cấp mới
được chấp nhận một cách tuyệt đối. Tàu có khả năng đi biển bình thường và tuổi
tàu thấp hơn 15 năm.
- Điều kiện về giá trị bảo hiểm, người được bảo hiểm phải kê khai giá trị hàng theo
từng chuyến về số kiện, giá CIF hoặc giá FOB, số hợp đồng mua bán, số thư tín
dụng L/C, ngày mở giá trị L/C, số vận đơn B/L.
- Điều kiện về quan hệ tinh thần thiện chí nghĩa là đã mua bảo hiểm bao của người
bảo hiểm nào thì trong thời gian đó không được phép mua bảo hiểm hàng hoá của
người khác.
Trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm bao, mỗi lần vận chuyển hàng
hoá người tham gia vận chuyển phải gửi giấy báo vận chuyển cho người bảo hiểm.
Sau khi cấp đơn bảo hiểm thấy có điều gì cần phải bổ sung thì thông báo cho công
ty bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ cấp giấy bảo hiểm bổ sung, giấy này có giá trị
bằng đơn bảo hiểm và không thể tách rời khỏi đơn bảo hiểm.
3. Một số thuật ngữ
Những nội dung trên được ghi tóm tắt trên đơn bảo hiểm cấp cho mỗi chuyến
hàng tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, hợp đồng bảo hiểm còn ghi các điều khoản
về quyền và trách nhiệm của mỗi bên. trong đó có một số nội dung cơ bản như
sau:
Giá trị bảo hiểm .
Giá trị bảo hiểm là giá trị thực tế của lô hàng.Giá trị thực tế của lô hàng có thể là
giá hàng hoá (giá FOB) cũng có thể bao gồm: giá hàng hoá, cước phí vận chuyển,
phí bảo hiểm và các chi phí liên quan khác. Công thức xác định:

V = C + I + F
Trong đó: V- là giá trị bảo hiểm của hàng hoá
C- là giá hàng tại cảng đi (giá FOB)
I- là phí bảo hiểm
F- là cước phí vận tải
Ngoài ra để đảm bảo quyền lợi của mình, người được bảo hiểm có thể bảo hiểm
thêm cả khoản lãi dự tính do việc xuất nhập khẩu mang lại. Khi xuất nhập khẩu
theo giá CIF hoặc CIP thì theo tập quán giá trị bảo hiểm sẽ tính thêm 10% lãi dự
tính. Như vậy khi xuất nhập khẩu theo giá CIF thì:
V = 110% * CIF
hoặc xuất theo giá CIP thì:
V = 110% * CIP
Số tiền bảo hiểm:
Số tiền bảo hiểm là toàn bộ hay một phần giá trị bảo hiểm do người được bảo hiểm
yêu cầu và được bảo hiểm.
Về nguyên tắc, Số tiền bảo hiểm chỉ có thể nhỏ hơn hoặc bằng giá trị bảo hiểm.
Nếu số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm thì phần lớn hơn đó sẽ không được
bảo hiểm. Ngược lại, nếu số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị bảo hiểm tức là người
được bảo hiểm tự bảo hiểm lấy một phần thì người bảo hiểm cũng chỉ bồi thường
trong phạm vi số tiền bảo hiểm đã được ghi trong hợp đồng. Nếu đối tượng bảo
hiểm được bảo hiểm trùng, tức là cùng một rủi ro, một giá trị bảo hiểm nhưng lại
được bảo hiểm ở nhiều công ty bảo hiểm khác nhau thì trách nhiệm của tất cả các
công ty bảo hiểm cũng chỉ giới hạn trong phạm vi số tiền bảo hiểm. Trong xuất
nhập khẩu nếu số tiền bảo hiểm chỉ bằng giá trị hoá đơn hay giá FOB hoặc giá
CFR thì người được bảo hiểm chưa bảo hiểm đầy đủ giá trị hay nói cách khác là
bảo hiểm dưới giá trị.
Phí bảo hiểm, tỷ lệ phí bảo hiểm:
Phí bảo hiểm là một khoản tiền mà người được bảo hiểm phải trả cho người bảo
hiểm để được bồi thường khi có tổn thất do các rủi ro đã thoả thuận gây lên. Phí
bảo hiểm thường được tính toán trên cơ sở xác suất của những rủi ro gây ra tổn thất

hoặc trên cơ sở thống kê tổn thất của nhiều năm trên một loại hàng hoá được bảo
hiểm nhằm đảm bảo trang trải tiền bồi thường và có lãi. Như vậy phí bảo hiểm
được tính toán trên cơ sở tỷ lệ phí bảo hiểm và phụ thuộc vào số tiền bảo hiểm
hoặc giá trị bảo hiểm. Để lập công thức tính phí bảo hiểm cần có các chỉ tiêu sau:
R : là tỷ lệ phí bảo hiểm
I : là phí bảo hiểm
A : là số tiền bảo hiểm
V : là giá trị bảo hiểm
Thì : I = R * A (nếu A < V)
Hoặc I = R * V (nếu A = V)
Đối với hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam hiện nay thì phí bảo hiểm được tính
theo công thức sau: I = R * CIF
Do CIF = C + I + F = C + ( R * CIF ) + F
Ngoài ra, để lập bảng chào phí người bảo hiểm còn phải tính đến các yếu tố khác
như:
-Loại hàng hoá: hàng hoá dễ bị tổn thất như dễ đổ vỡ, dễ bị mất cắp thì tỷ lệ phí
bảo hiểm cao hơn
-Loại bao bì, phương thức đóng gói hàng hoá
-Phương tiện vận chuyển: xem xét một số chi tiết liên quan đến tàu vận chuyển
như tên tàu, quốc tịch, loại tàu, tuổi tàu
-Hành trình vận chuyển và các thiết bị cảng tại các cảng tàu cập bến
-Điều kiện bảo hiểm càng rộng thì rủi ro càng nhiều do đó phí bảo hiểm tăng lên.
Tỷ lệ phí bảo hiểm thường xuyên được xem xét, điều chỉnh lại một cách định kỳ
trên cơ sở những hậu quả tổn thất cuả người được bảo hiểm trong kỳ trước cũng
như tình hình thực tế. Điều này được gọi là định phí theo kết quả, vì vậy để giữ
được tỷ lệ phí thấp việc đề phòng và hạn chế rủi ro gây ra tổn thất là rất quan trọng.
Hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực ngay sau khi phí bảo hiểm được trả, người bảo
hiểm có quyền huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm nếu người được bảo hiểm không thực
hiện đúng nghĩa vụ trả phí bảo hiểm hoặc có quyền từ chối bồi thường khi rủi ro
xảy ra.

PHẦN 3: GIÁM ĐỊNH VÀ KHIẾU NẠI ĐÒI BỒI THƯỜNG TỔN THẤT
1. Công tác giám định tổn thất
Giám định tổn thất là việc làm của các chuyên viên giám định, của người bảo hiểm
hoặc của các Công ty giám định được người bảo hiểm uỷ quyền nhằm xác định
mức độ và nguyên nhân của tổn thất, làm cơ sở cho việc bồi thường. Giám định tổn
thất được tiến hành khi hàng hoá bị hư hỏng, đổ vỡ, thiếu hụt, giảm phẩm chất,
thối… Ở cảng đến hoặc tại cảng dọc đường và do người được bảo hiểm yêu cầu.
Những tổn thất như do tầu đắm, hàng mất, giao thiếu hàng hoặc không giao thì
cũng không cần phải giám định và cũng không thể giám định được.
Mục đích của giám định tổn thất là:
- Xác định loại tổn thất, nguyên nhân gây ra tổn thất cho hàng hoá.
Giám định giúp xác rõ loại tổn thất là do hư hỏng, đổ vỡ, thiếu hụt hay ẩm mốc…
Nguyên nhân tổn thất có nhiều loại, có thể do bốc xếp cẩu thả, do đâm va, bão lụt,
do thông giờ không tốt, do bản thân hàng bị ẩm ướt…
- Xác định trách nhiệm tổn thất thuộc về ai.
Giám định chính xác, trung thực kết quả nói lên người phải chịu trách nhiệm và bồi
thường tổn thất cho hàng hoá, khiến họ không thể từ chối trách nhiệm của mình.
Đó có thể là người mua, người bán, người vận tải, người bảo hiểm hoặc cơ quan
giao nhận cảng.
- Giám định tổn thất là cơ sở tiến hành khiếu nại đòi bồi thường và giải quyết khiếu
nại.
Yêu cầu của công tác giám định tổn thất phải:
- Kịp thời đầy đủ, trung thực và kết quả nhằm xác định chính xác nguyên nhân tổn
thất.
- Bám sát hiện trường để phản ánh được cụ thể tình hình tổn thất của tài sản bảo
hiểm.
- Có ý kiến tham gia với người nhận hàng trong các khâu: cứu chữa, xử lý hàng hư
hỏng, để phòng và giảm nhẹ tổn thất, bốc dỡ giao nhận, yêu cầu về bao bì hàng hoá
khiếu nại người thứ ba có trách nhiệm đối với hàng hoá tổn thất.
2 . Nghĩa vụ của người được bảo hiểm khi xảy ra tổn thất.

Khi phương tiện chuyên chở bị tai nạn và đe doạ đến sự an toàn cho hàng
hoá của người được bảo hiểm thì người được bảo hiểm phải có trách nhiệm thông
báo cho các cơ quan chức năng nơi gần nhất như cơ quan hàng hải, cơ quan bảo
hiểm để các cơ quan này có biện pháp phối hợp theo dõi, phòng bị cho tàu và
hàng hoá. Nếu được thông tin hay phát hiện thấy thực tế hàng hoá bị tổn thất thì
người được bảo hiểm cần làm ngay các công việc sau:
-Thông báo cho người bảo hiểm biết và nếu thấy tình hình hàng hoá tổn thất hoặc
nghi ngờ có tổn thất thì cần làm giấy yêu cầu đề nghị người giám định ngay. Việc
giám định hàng hoá được bảo hiểm bị tổn thất phải do người bảo hiểm tiến hành
theo đơn đề nghị của người được bảo hiểm. Nếu vụ tổn thất không được giám định
viên của người bảo hiểm giám định thì sẽ không được chấp nhận bồi thường.
- Thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất. Thực ra, việc đề phòng và
hạn chế tổn thất cho hàng hoá nói chung trong hợp đồng bảo hiểm là để chỉ những
trường hợp hàng hoá bị rủi ro (thuộc phạm vi bảo hiểm như: cháy, nổ, mắc cạn )
đe doạ tàu khi tàu chở hàng đang trên đường hành trình hoặc neo đậu tại bến cảng
dọc đường.
Bảo lưu quyền khiếu nại cho người bảo hiểm tức là đơn khiếu nại ngay bên
gây ra tổn thất hàng hoá và gọi là khiếu nại người thứ ba, người đứng ngoài hợp
đồng bảo hiểm. Ở đây cần lưu ý nếu người thứ ba là chủ tàu, người chuyên chở
hoặc chủ kho hàng đều có quy định riêng về thời gian cho phép khiếu nại theo luật
trong nước, luật quốc tế hay các văn bản dưới luật.
Việc bảo vệ tài sản trước những tình huống có nguy cơ thuộc phạm vi trách
nhiệm của hợp đồng bảo hiểm đều đòi hỏi sự nỗ lực của cả hai bên và khi đó chưa
cần xét đến biện pháp giải quyết bồi thường của người bảo hiểm. Xuất phát từ
những đặc điểm này, người bảo hiểm có quy định việc người bảo hiểm tham gia
vào các biện pháp cứu hộ và bảo vệ hàng hoá đều không thể coi là dấu hiệu của sự
khước từ hay chấp nhận việc từ bỏ hàng hoá.
2. Thủ tục khiếu nại đòi bồi thường.
Khiếu nại là sự thỉnh cầu hay yêu cầu người bảo hiểm bồi thường trên cơ sở
những chứng cứ do ngườiược bảo hiểm đưa ra. Hồ sơ khiếu nại để đòi người

bảo hiểm bồi thường gồm nhiều loại giấy tờ khác nhau những phải chứng minh
được:
- Người khiếu nại có lợi ích bảo hiểm;
- Hàng hoá đã được bảo hiểm;
- Tổn thất thuộc một rủi ro được bảo hiểm;
- Mức độ tổn thất;
- Thực hiện nguyên tắc thế quyền để người bảo hiểm có thể đòi được người
thứ ba bồi thường.
Trường hợp hàng hoá bị tổn thất, người được bảo hiểm hoặc đại diện của họ cần
thực hiện các bước chính sau đây:
Ðối với hàng hoá bị tổn thất riêng
- Khi phát hiện hàng hoá bị tổn thất phải thông báo và yêu cầu người bảo hiểm
hoặc đại lý của họ giám định ngay bằng cách gửi Giấy yêu cầu giám định (theo
mẫu) trong vòng 60 ngày kể từ khi hàng được bốc dỡ khỏi tàu biển tại cảng có ghi
tên trên đơn hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm.
- Gửi ngay Thư khiếu nại (hoặc Bảo lưu quyền khiếu nại) cho người chuyên chở
hoặc chính quyền cảng về tổn thất do họ gây ra.
Ðối với tổn thất chung
- Ký vào các văn bản liên quan đến tổn thất chung theo yêu cầu của chủ tàu.
- Thông báo cho người bảo hiểm để làm thủ tục bảo lãnh hoặc ký quỹ tổn thất
chung.
Lưu ý: Ðối với các tổn thất dưới 200 USD, nếu có đầy đủ chứng từ xác nhận tình
trạng tổn thất do người chuyên chở hoặc người thứ ba gây ra thì không cần yêu cầu
giám định.
Ðối với hàng hoá bị tổn thất toàn bộ
- Thông báo ngay cho người bảo hiểm biết mọi tin tức đã thu thập được.
- Cùng với người bảo hiểm tiến hành mọi thủ tục và biện pháp giải quyết có hiệu
quả kinh tế nhất.
Ðối với nghi ngờ hàng hoá có tổn thất
- Gửi ngay Thư dự kháng (Letter of Reservation) cho thuyền trưởng trong vòng 3

ngày kể từ khi lô hàng được dỡ khỏi tàu.
- Yêu cầu và tổ chức giám định đối tịch (chủ hàng, bảo hiểm, tàu) ngay trong thời
gian nói trên
Một bộ hồ sơ khiếu nại bảo hiểm thường gồm:
- Hợp đồng hay giấy chứng nhận bảo hiểm gốc
- Vận đơn gốc
- Bản sao hoá đơn gốc hoặc các hoá đơn chi phí
- Chứng từ xác nhận số lượng, trọng lượng hàng
- Thư kèm tính toán số tiền khiếu nại
- Giấy yêu cầu bồi thường hàng hoá tổn thất (theo mẫu)
Tuỳ từng trường hợp khiếu nại cụ thể, cần kèm thêm các chứng từ sau:
Ðối với hàng hoá hư hỏng hay mất mát:
- Biên bản giám định do người bảo hiểm hoặc đại lý của người bảo hiểm cấp
- Biên bản đổ vỡ do tàu gây ra (COR)
- Biển bản đổ vỡ do cảng gây ra
- Thư từ khiếu nại hoặc bảo lưu quyền khiếu nại liên quan tới trách nhiệm của
người thứ ba (nếu có)
Ðối với hàng hoá bị thiếu nguyên kiện
- Biên bản kết toán nhận hàng với tàu (ROROC)
- Xác nhận hàng thiếu của đại lý hãng tàu (CSC)
- Kết toán báo lại của cảng (CA)
- Thư khiếu nại hãng tàu (nếu có)
Ðối với tổn thất chung
- Văn bản tuyên bố tổn thất chung của chủ tàu
- Bản tính toán phân bổ tổn thất chung của lý toán sư
- Các văn bản có liên quan khác
Ðối với hàng hoá bị tổn thất toàn bộ
- Thư thông báo của người chuyên chở cho người nhận hàng về tổn thất toàn bộ
- Xác nhận của người chuyên chở về lô hàng đã được xếp lên tàu.
Hồ sơ khiếu nại phải được gửi trực tiếp cho người bảo hiểm hoặc đại lý của họ

trong thời gian sớm nhất nhưng không được chậm quá 9 tháng (nếu khiếu nại tổn
thất có liên quan đến trách nhiệm của người thứ ba) kể từ khi hàng được dỡ khỏi
tàu biển tại cảng có tên ghi trong hợp đồng bảo hiểm trừ khi có thoả thuận khác.
Khiếu nại là sự thỉnh cầu hay yêu cầu người bảo hiểm bồi thường trên cơ sở những
chứng cứ do ngườiược bảo hiểm đưa ra. Hồ sơ khiếu nại để đòi người bảo hiểm bồi
thường gồm nhiều loại giấy tờ khác nhau những phải chứng minh được:
- Người khiếu nại có lợi ích bảo hiểm;
- Hàng hoá đã được bảo hiểm;
- Tổn thất thuộc một rủi ro được bảo hiểm;
- Mức độ tổn thất;
- Thực hiện nguyên tắc thế quyền để người bảo hiểm có thể đòi được người thứ ba
bồi thường.
Sau khi kiểm tra chứng từ và thanh toán bồi thường, mọi khoản khiếu nại và quyền
khiếu nại của người được bảo hiểm đối với người thứ ba đều được chuyển cho
người bảo hiểm mà giới hạn là số tiền đã bồi thường. Người được bảo hiểm muốn
khiếu nại tổn thất toàn bộ ước tính cho hàng hoá được bảo hiểm, phải gửi thông
báo từ bỏ hàng cho người bảo hiểm.Thông báo phải đưa ra không chậm trễ, với
mục đích để cho người bảo hiểm có cơ hội giảm thiểu hay ngăn ngừa tổn thất (như
bán hàng dọc đường). Thông báo từ bỏ hàng phải làm thành văn bản và trong mọi
trường hợp phải cho biết ý định của người được bảo hiểm là từ bỏ không điều kiện
mọi quyền lợi về hàng hoá được bảo hiểm cho người bảo hiểm. Nếu người bảo
hiểm chấp nhận thông báo từ bỏ hàng nghĩa là người bảo hiểm chấp nhận trách
nhiệm bồi thường như bồi thường tổn thất toàn bộ thực tế và có quyền sở hữu phần
còn lại của hàng hoá. Việc từ bỏ hàng không được thay đổi sau khi người bảo hiểm
chấp nhận thông báo từ bỏ hàng. Tuy nhiên, trước khi người bảo hiểm chấp nhận
thông báo từ bỏ hàng, người được bảo hiểm phải có những biện pháp tích cực
nhằm ngăn ngừa và hạn chế tổn thất. Nếu người bảo hiểm không chấp nhận từ bỏ
hàng, các quyền lợi của người được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm vẫn không
thay đổi.
Thời hạn khiếu nại với người bảo hiểm là hai năm kể từ ngày có tổn thất hoặc phát

hiện tổn thất. Tuy nhiên, bộ hồ sơ khiếu nại phải gửi đến công ty bảo hiểm trong
vòng 9 tháng kể từ khi có tổn thất để người bảo hiểm còn thực hiện quyền truy đòi
các bên có liên quan đến vụ tổn thất
4. Cách tính toán bồi thường tổn thất: Thời gian xét bồi thường là 15 ngày
* Đối với tổn thất chung:
Khi có tổn thất chung xảy ra chủ tàu có quyền chỉ định một công ty hay một
chuyên viên giám định tính toán tổn thất chung, phân bổ tổn thất chung cho các
quyền lợi trên tàu. Các quyền lợi, lợi ích trên tàu bao gồm: tàu, hàng và cước phí.
Nhiệm vụ của chuyên viên tính tổn thất chung là trên cơ sở chứng từ giấy tờ có
liên quan xác định những hy sinh và những chi phí nào được công nhận là tổn thất
chung để tính toán phân bổ cho chủ tàu, các chủ hàng,cước phí đóng góp trên cơ sở
"Bảng phân bổ tổn thất chung". Cách tính toán và phân bổ tổn thất chung tiến hành
như sau:
-Xác định tỷ lệ đóng góp (chỉ số phân bổ) vào tổn thất chung :
Tỷ lệ đóng góp =
Tổng giá trị tổn thất chung
Tổng giá trị chịu phân bổ
Trong đó:
Tổng giá trị tổn thất chung là tổng những hy sinh và chi phí được công nhận là tổn
thất chung.
Tổng giá trị chịu phân bổ là tổng giá trị các lợi ích trên tàu vào thời điểm hành
động tổn thất chung xảy ra, tức là bao gồm các giá trị đã được tổn thất chung cứu

×