Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

Đề cương ôn tập triết học mác lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 73 trang )

ĐỀ CƯƠNG TỰ LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
1. Nội dung về vấn đề cơ bản của triết học.
− Theo Mác – Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn nhất của mọi triết học, đặc biệt là của triết
học hiện đại, là vấn đề QH giữa tư duy và tồn tại”. Nội dung của vấn đề này gồm hai
mặt:
+ Mặt thứ nhất (mặt bản thể luận) trả lời câu hỏi: trong mối QHgiữa tư duy và tồn tại, giữa
ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào sinh ra cái nào, cái nào
quyết định cái nào?
+ Mặt thứ hai (mặt nhận thức luận) trả lời câu hỏi: tư duy con người có khả năng nhận thức
thế giới xung quanh hay không?
Sở dĩ gọi vấn đề QH giữa ý thức và vật chất, tư duy và tồn tại là vấn đề cơ bản của triết
học vì: Trong thế giới có vơ vàng hiện tượng nhưng chung quy lại chúng ta chỉ phân làm
hai loại: Một là, những hiện tượng vật chất (tồn tại, tự nhiên). Hai là, những hiện tượng
tinh thần (tư duy, ý thức). Do vậy, vấn đề về mối QH giữa vật chất và ý thức được gọi là
“vấn đề cơ bản lớn nhất” hay “vấn đề tới cao” của triết học. Vì việc giải quyết vấn đề này
là cơ sở và là điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học.

Giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở phân định (hình thành) 2
trường phái triết học lớn - CNDV và CNDT.
▪ Chủ nghĩa duy vật cho rằng vật chất (tồn tại, tự nhiên) có trước, ý thức (tư duy, tinh
thần) có sau, vật chất quyết định ý thức.
CNDV chất phát: mang tính chất phác, ngây thơ, xét về thế giới quan là duy vật
có ý nghĩa chống lại những tư tưởng sai lầm của triết học duy tâm và tôn giáo;
nhưng xét về mặt phương pháp luận thì chưa có cơ sở khoa học, Chủ nghĩa duy vật
thời kỳ này trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất và đã đờng nhất vật chất


với một số chất cụ thể và những kết luận của nó mang tính trực quan, ngây thơ, cảm
tính chủ yếu dựa vào tri thức kinh nghiệm của chính bản thân các nhà triết học hơn
là những khái quát khoa học của bản thân tri thức triết học
·



CNDV siêu hình: chịu tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình,
máy móc nó xem xét, quan niệm thế giới như một hệ thống máy móc phức tạp bao
gồm nhiều bộ phận không có liên hệ với nhau, không vận động không phát triển,
bất biến, ngưng đọng. Triết học duy vật thời kỳ này đại diện cho những tư tưởng
của giai cấp tư sản tiến bộ, họ đã tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa kinh viện,
nhà thờ trung cổ.

·

CNDV biện chứng: xem xét thế giới trong tính chỉnh thể, thống nhất trong sự tác
động qua lại biện chứng với nhau, là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận để
nghiên cứu và tìm hiểu thế giới. ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được những
hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ
XVII – XVIII và nó đã thể hiện được sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật khoa
học và phương pháp nhận thức khoa học.

Giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học thì chủ nghĩa duy vật đều thừa
nhận vật chất là tính thứ nhất, là cái có trước, cái quyết định đối với ý thức còn ý thức là
tính thứ hai, cái có sau, cái phụ thuộc vào vật chất. Và giải quyết mặt thứ hai trong vấn
đề cơ bản của triết học thì chủ nghĩa duy vật khẳng định con người có khả năng nhận
thức thế giới.
▪ Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức (tư duy, tinh thần) có trước, vật chất có sau, ý thức
quyết định vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản:

CNDT khách quan (Platon, Heghen) cho rằng có một thực thể tinh thần hay ý niệm tuyệt
đối tồn tại bên ngoài độc lập với con người có trước con người đã sinh ra vạn vật, quyết
định sự tồn tại và phát triển của thế giới và con người.



CNDT chủ quan thì cho rằng cảm giác, ý thức quyết định vật chất, vật chất không tồn tại
độc lập mà phụ thuộc vào cảm giác, ý thức. cho rằng cảm giác và ý thức của con người là
cái có trước và tồn tại sẵn có trong con người, mọi sự vật hay thế giới vật chất chỉ là kết
quả của sự phức hợp của cảm giác mà thôi. Do đó, toàn bộ cái thế giới khách quan bên
ngoài chỉ là “phức hợp” của những cảm giác do cái “Tôi” sinh ra.
Giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học thì họ đều thừa nhận ý thức là
tính thứ nhất, là cái có trước, cái quyết định vật chất cịn vật chất là tính thứ hai, cái có
sau, cái phụ thuộc vào ý thức.
Giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học, chủ nghĩa duy tâm không phủ
nhận khả năng nhận thức của con người nhưng họ coi khả năng đó phụ thuộc vào chính
bản thân ý thức (cảm giác chủ quan thuần túy) hoặc lực lượng siêu nhiên (ý niệm – ý
niệm tuyệt đối).

▪ Thuyết nhất nguyên: là khuynh hướng triết học cho rằng thế giới triết học chỉ có một
bản nguyên duy nhất, hoặc là thực thể vật chất, hoặc là thực thể tinh thần (nhất nguyên
duy vật, nhất nguyên duy tâm).
▪ Thuyết nhị nguyên: là khuynh hướng triết học cho rằng có hai thực thể song song tồn
tại, không phụ thuộc nhau (cả vật chất lẫn tinh thần)
▪ Thuyết đa nguyên: là khuynh hướng triết học cho rằng




Giải quyết mặt thứ hai: Vấn đề cơ bản của triết học có hai khuynh hướng đối lập nhau là
thuyết khả tri và thuyết bất khả tri. Đa số các nhà triết học cho rằng con người có khả
năng nhận thức được thế giới khách quan (khả tri). Một số ít nhà triết học phủ nhận một
phần hay toàn bộ khả năng nhận thức của con người (bất khả tri).
+CNDV - CNDT là hai chủ nghĩa đối lập mà cả hai đều chưa đưa ra được những dữ
kiện phù hợp nhất để thể hiện sự thuyết phục và thắng thế của mình. Chúng ta – con

người đều bị gị bó bởi khả năng của thính giác, thị giác hay rộng hơn là nhận thức.
Thế giới tràn ngập sóng âm phần lớn chúng ta khơng thể nghe, sóng ánh sáng ta khơng
thể thấy, và có thể tờn tại những suy tưởng ta chẳng thể nào đủ nhận thức để cảm nhận.
Và tôi luôn nghĩ rằng điều mà chúng ta biết về hiện thực ln chỉ là “thế giới được
nhận thức”, nó khơng bao giờ có thể hoàn toàn thốt khỏi tính chủ quan của nhận thức,
cho dù đó là sự phản ánh phù hợp nhất với hiện thực khách quan đang có. Cịn thế giới
khách quan tự nó sẽ mãi là một bí ẩn để khơi ng̀n cảm hứng cho sự phát triển và
sáng tạo của nhận thức. Đó có lẽ là lý do mà chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
vẫn luôn song hành phát triển trong suốt chiều dài của lịch sử triết học cho đến tận
ngày nay.


Ưu + nhược về những quan điểm về vật chất trước Mác. Nội dung + ý nghĩa vật
chất của Lê-nin.
− Quan điểm của chủ nghĩa duy vật:
● Thời kỳ cổ đại:
+ Trung Quốc: Các nhà triết học thời kỳ này cho rằng bản nguyên của thế giới là các yếu tố
ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ là những yếu tố đầu tiên của vũ trụ.
+ Hy Lạp: Các nhà triết học thời kỳ này đồng nhất vật chất với các dạng tồn tại cụ thể của
vật chất như: đất, nước, lửa, khơng khí, ngun tử,… xem đó là điểm khởi đầu của vũ trụ.
● Thời kỳ cận đại:
+ Cuối TK XIX – đầu TK XX: các nhà khoa học đã chứng minh được nguyên tử là một
trong những thành phần cấu tạo nên điện tử và quan điểm đồng nhất vật chất với nguyên
tử sụp đổ trước khoa học.
⇨ Ưu điểm: Hình thành chủ nghĩa duy vật chất phác và phép biện chứng sơ khai.


⇨ Nhược điểm: Gây ra cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong vật lý học và triết học.
Giải thích một cách duy tâm các hiện tượng vật lý, vật chất đang tiêu tan, thậm chí cịn
cho rằng những tri thức khoa học về vật chất trước đây đều là dối trá

+ Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán lợi dụng tình hình đó để tấn công, phủ nhận sự tồn tại
của vật chất và chủ nghĩa duy vật và còn cho rằng: chỉ có tinh thần là đang tồn tại mà
thôi…
− Quan điểm của Lênin:
+ “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại, phản ánh
và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.”
+ PP định nghĩa: đặt phạm trù VC đối lập với phạm trù ý thức vì nó rộng đến cùng cực.
− Nội dung định nghĩa:
+ Vật chất là một phạm trù triết học: dùng để chỉ vật chất nói chung, vô cùng, vô tận,
không sinh ra và cũng không mất đi mà chỉ chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác.
+ Dùng để chỉ thực tại khách quan: thuộc tính tồn tại khách quan, tồn tại ngồi ý thức,
độc lập, khơng phụ thuộc vào ý thức con người.
+ Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp gây tác động lên
giác quan con người; cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất. Xét trên
phương diện nhận thức luận, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vật chất là cái có
trước, là tính thứ nhất, là cợi ng̀n của cảm giác (ý thức); còn cảm giác (ý thức) là cái có
sau, là tính thứ hai, là cái phụ tḥc vào
vật chất. V.I.Lênin đã khẳng định lập trường nhất nguyên duy vật khi giải quyết mặt thứ
nhất trong vấn để co
ban của triết học.
* Thứ ba, ý thức là sự phản ánh vật chất, chịu sự quyết định của vật chất. Các hiện tượng
tinh thần (cảm giác, tư duy, ý thức...) luôn có nguồn gốc từ các hiện tượng vật chất. nội
dung của chúng cũng là phản ánh các sự vật, hiện tượng đang tơn tại với tính cách là hiện
thực khách quan. Vê nguyên tắc, con người có thể nhận thức được


thế giới vật chất. V.I.Lênin đã đứng trên lập trường thuyết có thể biết khi giải quyết mặt
thứ hai trong vấn để cơ
bản của triết học.

− Ý nghĩa phạm trù vật chất của Lênin:
+ Giải quyết triệt để hai mặt trong vấn đề cơ bản của triết học.
+ Bác bỏ thuyết bất khả tri, đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, khắc phục được tính chất
máy móc, siêu hình của chủ nghĩa duy vật trước Mác.
+ Khắc phục sự khủng hoảng của vật lý học và triết học trong quan niệm về vật chất, định
hướng, mở đường cho khoa học - kỹ thuật phát triển.
+ Bảo vệ và phát triển triết học Mác, cho phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực
XH.
+ Đưa ra một phương pháp định nghĩa mới về vật chất.

- Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất là cái có trước,
tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người.
Mọi sự vật, hiện tượng khác nhau của thế giới đều tồn tại khách quan, có trước và độc lập
với ý thức của con người. Do vậy, mọi bộ phận khác nhau của thế giới đều là vật chất,
toàn bộ không gian vô cùng tận xung quanh ta là không gian vật chất, thế giới có sự
thớng nhất chính là ở tính vật chất của nó. Các sự vật, hiện tượng đều là những dạng tồn
tại cụ thể của vật chất, chúng có mối liên hệ với nhau trong thế giới vật chất. Toàn bộ thế
giới với nhiều bộ phận khác nhau, với nhiều sự vật, hiện tượng muôn hình muôn vẻ khác
nhau hợp thành một chỉnh thể, một hệ thống thống nhất, tồn tại khách quan. Lịch sử phát
triển của khoa học tự nhiên đã chứng minh cho ngun lý về tính thớng nhất vật chất của
thế giới. Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng đã vạch ra mới liên hệ giữa các
hình thức vận động và chuyển hóa giữa các sự vật, hiện tượng, khẳng định tính vĩnh viễn
khơng thể bị tiêu diệt của vật chất và sự thống nhất vật chất của các sự vật, hiện tượng.
Học thuyết tế bào và thuyết tiến hóa của Đác uyn đã vạch ra bản chất, mối QH giữa các
cơ thể sống, từ đó khẳng định tính thớng nhất của thế giới. Sự phát triển của khoa học


hiện đại trên tất cả các lĩnh vực tiếp tục chứng minh ngoài các dạng vật thể, trường, sóng,
hạt, plasma, vật chất cịn tờn tại dưới nhiều dạng khác, ngoài thiên hà bao la của chúng ta
cịn vơ sớ các thiên hà và đại thiên hà khác… Song tất cả chúng đều có chung và thớng

nhất ở mợt tḥc tính là tồn tại khách quan ngoài ý thức con người
● Quan điểm duy vật biện chứng về nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức.

− Nguồn gốc tự nhiên:
+ Ý thức là kết quả của quá trình tiến hóa của tḥc tính phản ánh có ở mọi dạng vật chất.
+ Ý thức là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức là hình thức phản
ánh chỉ có ở con người. Ý thức là đặc tính riêng của một vật chất có tở chức cao là bộ óc
người.
Để có được sự phản ánh này ta cần có cái được phản ánh (TGKQ) và cái phản ánh (não
người).
– Bộ óc con người:
Đây là một dạng vật chất sống có tổ chức cao, có quá trình tiến hóa lâu dài, ý thức là
tḥc tính riêng của dạng vật chất này tức là chỉ con người mới có ý thức.
Ý thức phụ thuộc vào hoạt động của bộ óc con người, khi bộ óc người bị tổn thương thì
hoạt động của ý thức cũng sẽ bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc con người mà
không có sự tác động cũng sẽ không có ý thức.
– Sự tác động của thế giới khách quan lên bộ óc con người:
Mọi đối tượng vật chất tự nhiên đều có tḥc tính chung, phổ biến là phản ánh. Phản ánh
chính là chép lại, chụp lại mợt sự vật, hiện tượng nhất định. Để quá trình phản ánh xảy ra
cần phải có vật tác động và vật nhận tác đợng.
Ý thức là hình ảnh chủ quan vì nó khơng có tính vật chất, khơng có tính hiện thực
khách quan, nó chỉ là hình ảnh tinh thần, gắn liền với hoạt động khái quát hóa, trừu
tượng hóa, có định hướng, có lựa chọn, nhằm tạo ra những tri thức sâu sắc, nhiều mặt về
các thuộc tính, quy luật khách quan của thế giới. YT là hình ảnh chủ quan nhưng lấy cái
khách quan làm tiền đề, bị thế giới khách quan quy định về nd và form biểu hiện.


Sự phản ánh của ý thức mang dấu ấn của chủ thể phản ánh. Ý thức cũng tồn tại nhưng
chỉ tờn tại trong bộ óc con người.  Karl Marx Ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem
chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó. Do đó, sự phản ánh của

ý thức phụ thuộc vào bản thân chủ thể trong quá trình phản ánh thế giới khách quan.

Thứ nhất, sự phản ánh của ý thức phụ thuộc vào trình độ, năng lực của chủ thể trong q
trình phản ánh. Đó là tri thức, sự hiểu biết của chủ thể về tự nhiên và XH. Trình độ của
chủ thể càng cao thì phản ánh thế giới vật chất càng chính xác và việc điều chỉnh hành
vi của mình cũng khoa học hơn.

Thứ hai, sự phản ánh của ý thức phụ thuộc vào kinh nghiệm của chủ thể. Sự giàu có hay
nghèo nàn của kinh nghiệm sẽ trực tiếp quy định chất lượng, hiệu quả phản ánh hiện
thực khách quan của ý thức.

Thứ ba, sự phản ánh của ý thức phụ thuộc, bị chi phối bởi lập trường giai cấp của chủ
thể phản ánh. *Ngoài ra, sự phản ánh của ý thức còn bị chi phối bởi tình cảm, ý chí của
chủ thể phản ánh.
Tuy nhiên, không phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ óc người là tự nhiên trở
thành ý thức. Ngược lại, ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo về thế giới, do nhu
cầu của việc con người cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện thông qua
hoạt động lao động.

Trình độ phản ánh: vật lý, hóa học; sinh học (kích thích, phản xạ, tâm lý)
− Nguồn gốc XH: Ý thức người ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ có
lao động và ngôn ngữ.


+ Lao động là quá trình diễn biến giữa con người và tự nhiên, trong đó con người đóng vai
trò là môi giới, điều tiết và giám sát trong sự trao đổi vật chất giữa người và tự nhiên. Lao
động là hoạt động đặc thù của con người, lao động ln mang tính tập thể.
+ Ngơn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Ngôn ngữ là
phương tiện giao tiếp trong XH, để trao đổi tri thức, kinh nghiệm…; là phương tiện để
tổng kết thực tiễn, đồng thời là công cụ của tư duy nhằm khái quát hóa, trừu tượng hóa

hiện thực.
NGTN là điều kiện, tiền đề hình thành nên ý thức
NGXH là yếu tố quyết định sự ra đời của ý thức

b, Bản chất của ý thức:
− Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người một cách năng động và
sáng tạo. Điều này được thể hiện ở:
+ Ý thức cũng là “hiện thực”, nhưng đó là hiện thực trong tư tưởng. Đó là sự thống nhất
giữa vật chất và ý thức. Trong đó, vật chất là cái được phản ánh, còn ý thức là cái phản
ánh.
+ Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, bởi vì ý thức con người mang tính
năng đợng, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn. Ý thức phản ánh thế giới
khách quan nhưng chịu sự chi phối của chủ thể phản ánh ( tâm lý, tính cách, hệ thớng
quan điểm nhận thức, đặc điểm sinh học…)
+ Phản ánh ý thức là sự phản ánh sáng tạo. Tính sáng tạo của ý thức rất đa dạng, phong
phú. Sự phản ánh của ý thức không phải là sự sao chép một cách thụ động, máy móc.
Trên cơ sở những thông tin đã có, ý thức tạo ra những thông tin mới, nhào nặn ra những
hình ảnh không có trong thực tế.

− Quá trình ý thức được thống nhất bởi các mặt sau:
+ Trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh.


+ Mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
+ Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan.
+ Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần túy mà là một hiện tượng XH. Ý
thức chỉ được nảy sinh trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới của con người. Ý
thức gắn liền với các hoạt động thực tiễn, với những điều kiện hoàn cảnh lịch sử nhất
định, chịu sự chi phối của quy luật tự nhiên, quy luật XH, và nhu cầu giao tiếp của con
người.


c, Kết cấu của ý thức:
− Theo chiều ngang, ý thức gồm:
+ Tri thức: là kết quả của quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực. Tri thức
là yếu tố quan trọng nhất.
+ Tình cảm: là sự cảm động của con người trong mối QHvới thực tại xung quanh và với
chính mình.
+ Các ́u tớ khác như niềm tin, lí trí, ý chí,…
− Theo chiều dọc, ý thức bao gồm:
+ Tự ý thức: là ý thức về bản thân mình trong QHvới thế giới bên ngoài.
+ Tiềm thức: là những tri thức mà con người đã có được từ trước nhưng gần như trở thành
bản năng , thành kĩ năng trong tầng sâu ý thức.
+ Vô thức: là trạng thái tâm lí ở chiều sâu, điều chỉnh suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử của
con người mà chưa có sự tranh luận nội tâm, chưa có sự trùn thơng tin bên trong, chưa
có sự kiểm tra, tính toán của lí trí …
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a. Khái niệm liên hệ và mối liên hệ
+ Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng, mối liên hệ là phạm trù triết học dùng
để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện


tượng hay giữa các mặt của một sự vật hiện tượng trong thế giới. Vd đồng hóa- nạp năng
lượng, dị hóa-gp năng lượng
vd Cây muốn tồn tại phải liên hệ vs nhiều yếu tố khác nhau: đất, nước, độ ẩm, ánh sáng,
kk...=> khách quan, kp do con ng, xuất phát từ chính cái cây, mlh ấy là vớn có của bản
thân svht. => con ng nhận thức mlq=> tác động, cải tạo
b. Tính chất của mối liên hệ
- Mới liên hệ phổ biến mang tính khách quan, nó là cái vốn có của sự vật, hiện
tượng.

- Mối liên hệ mang tính phổ biến, thể hiện ở chỗ:
+ Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác, không có
sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.
+ Mối liên hệ biểu hiện dưới nhiều hình thức riêng biệt, cụ thể tuỳ theo từng điều
kiện nhất định. Song, dù dưới hình thức nào chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ
phổ biến nhất, chung nhất.
- Mới liên hệ mang tính đa dạng, phong phú, vì thế hình thức liên hệ giữa chúng
cũng rất đa dạng. Tuy nhiên, có thể căn cứ vào vị trị, phạm vi, vai trị, tính chất mà phân
chia ra thành những mối liên hệ khác nhau như: Mối liên hệ bên trong; bên ngoài; mối
liên hệ bản chất - không bản chất; mối liên hệ trực tiếp – gián tiếp... Nhưng sự phân chia
này cũng chỉ là tương đối.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Khi xem xét sự vật, hiện tượng cần phải có quan điểm toàn diện. Qua điểm này yêu cầu:
+ Phải xem xét tất cả các mặt, các mlh của sự vật và các khâu trung gian của nó.
+ Phải nắm bắt và đánh giá đúng vị trí, vai trị của từng mặt, từng mới liên hệ trong quá
trình cấu thành sự vật
- Trong quan điểm toàn diện bao hàm cả quan điểm lịch sử cụ thể. Vì vậy, khi xem xét sự
vật, hiện tượng phảiđặt sự vật hiện tượng vào không gian, thời gian cụ thể..


Mối liên hệ phổ biến của sự vật, hiện tượng là do Thượng Đế tạo ra
▪ Đây là quan điểm của CNDT chủ quan Mối liên hệ phổ biến mang tính
khách quan, nó là cái vớn có của sự vật, hiện tượng, nó không mục phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người hay các mối liên hệ đó không
phải do con người hay các lực lượng siêu nhiên nào đó nào đó tạo ra. con
người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động
thực tiễn của mình con người.
▪ Vidu: khi nhận thức được mlh giữa cái cây với đất, nước, ánh sáng, độ
ẩm… thì con người muốn cây phát triển nhanh, họ sẽ tác động vào quá
trình sinh trưởng của nó (bón phân. kích thích,...)


2. Nguyên lý về sự phát triển
a. Khái niệm “phát triển”
* Quan điểm siêu hình cho rằng phát triển chỉ là sự tăng, giảm đơn thuần về mặt số
lượng hay khối lượng mà không có sự thay đổi về chất. Phát triển cũng như quá trình
chuyển lên liên tục,không có bước quanh co, thăng trầm phức tạp. Nguồn gốc phát triển
là do bên ngoài quy định.
* Quan điểm duy vật biện chứng phát triển là quá trình vận động tiến lên từ thấp lên
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện tới hoàn thiện hơn.
- Phát triển là khuynh hướng chung của thế giới.
b. Tính chất của sự phát triển
- Phát triển mang tính khách quan thể hiện ở chỗ ng̀n gốc của sự phát triển nằm
trong chính bản thân của SVHT, là cái vốn có của bản thân nó chứ khơng phải do tác
động từ bên ngoài và đặc biệt không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người,
- Phát triển không chỉ là sự thay đổi về mặt số lượng hay khới lượng mà nó cịn là sự
thay đổi về chất.
+Có tính phở biến, diễn ra ở mọi SVHT, trong mọi lĩnh vực TN, XH, Tư duy


VD sự phát triển của các hình thái ktxh từ CSNT=>... => XHCN
Nhận thức đơn giản (NT là cái nhỏ nhất, Democrit)=> NT phức tạp (phân tử)
- Phát triển mang tính kế thừa: SVHT mới ra đời từ SVHT mới chứ kp ra đời từ hư
vơ, do đó trong SVHT mới bao giờ cũng còn giữ lại cái cũ trên cơ sở có sự phê phán, lọc
bỏ, cải tạo và phát triển, gạt bỏ những cái tiêu cực lỗi thời lạc hậu của SVHT cũ đang
gây cản trở SVHT mới tiếp tục pt, không kế thừa nguyên xi hay lắp ghép từ cái cũ sang
cái mới một cách máy móc ,hình thức.
VD sự ra đời học thuyết Mác kế thừa 3 tiền đề lý luận (Triết học cổ điển Đức,
CNXH k tưởng Pháp, KTCT học cổ điển Anh, dù phê phán những học thuyết đã có
nhưng nhờ có những học thuyết đó, Mác và Ăngghen xây dựng nên CN Mác ( triết học
Mác, KTCT Mác, CNXHKH); để form tư tưởng HCM, CTich HCM phải kế thừa tinh

hoa VH phương Đông và phương Tây, tiếp thu CN Mác để có sự chuyển biến trong qt
nhận thức và tìm đường cứu nước để tìm ra con đường cứu nước phù hợp vs DT VN; sự
ra đời của CNXH kế thừa thành tựu của các chế độ đã có từ trước mà trực tiếp là của
CNTB; việc xây dựng nền VH VN hiện nay kế thừa VH truyền thống...
- Tùy vào từng sự vật, hiện tượng,q trình cụ thể, phát triển cịn bao gồm cả sự thụt lùi
đi xuống nhưng khuynh hướng chung là đi lên, là tiến bộ. Theo quan điểm duy vật biện
chứng thì khuynh hướng của sự phát triển diễn ra theo đường xốy ốc.
-Phát triển có tính đa dạng, phong phú: các SVHT khác nhau có qtpt khơng giống nhau.
Một SV HT trong những KG, TG khác nhau, ĐK, HC thì sự PT diễn ra khác nhau.
Ví dụ: sự phát triển của hai đứa trẻ sinh đơi (được tích ru 2 môi trường khác nhau, 2 nền
giáo dục khác nhau, sự phát triển khác nhau...); sự phát triển của mỗi quốc gia đang
phát triển hiện nay thế kỷ 20 khác với sự phát triển của các nước đang phát triển thế kỷ
19..
- Nguồn gốc của sự phát triển là ở trong bản thân sự vật hiện tượng, do mâu thuẫn
của sự vật hiện tượng quy định.
c.Ý nghĩa phương pháp luận:
Khi xem xét sự vật hiện tượng phải có quan điểm phát triển.


+ Xem xét sự vật hiện phải đặt chúng trong sự vật động phát triển không ngừng,
vạch ra xu hướng biến đổi chuyển hóa của chúng.

Hiện tại ngành đó chưa có need lớn nhưng theo xu hướng phát triển của KTXH, sau này
thành ngành hot.
+Phải biết phân chia QT PT của sự vật thành nhiều giai đoạn. Trên cơ sở đó tìm ra
phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật phát triển nhanh
hơn hoặc kìm hãm sự PT của nó.
Phát triển của sự vật chỉ là sự lắp ghép một cách máy móc về mặt hình thức
Đây là quan điểm của của chủ nghĩa duy vật siêu hình. Phát triển mang tính kế thừa
nhưng trên cơ sở có sự phê phán, lọc bỏ, cải tạo và phát triển, không kế thừa nguyên xi

hay lắp ghép từ cái cũ sang cái mới một cách máy móc, hình thức.
trong sự vật hiện tượng mới bao giờ cũng giữ lại có chọn lọc và có cải tạo các cái ́u tớ
cịn phù hạn đờng thời gạt bỏ những cái yếu tố tiêu cực lỗi thời lạc hậu của sự vật hiện.
làm SVHT mới ra đời phát triển cao hơn, tích cực, tiến bợ hơn cái cũ.

Các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật.
a, Cái chung và cái riêng:
− Khái niệm:
● Cái riêng: là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá
trình riêng lẻ nhất định.
VD 2 bông hoa hồng của cùng một cây cũng khác nhau về sớ lượng cánh, chiều dài cánh
hoa, vị trí tương quan giữa các cánh hoa, màu sắc; 2 người cùng giới, thậm chí là song
sinh cũng có những khác nhau về một loạt tham số: trọng lượng, màu da, chiều cao, tính
cách....,


● Cái chung: là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những tḥc tính chung
khơng những chỉ có ở mợt kết cấu vật chất nhất định mà cịn được lặp lại trong
nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
Ví dụ: + Nguyên tử của bất cứ NTHH nào cũng có nhân ở giữa và các điện tử
quay xung quanh nhân. Nhân nguyên tử của mọi nguyên tố hóa học đều được tạo bởi 2
loại hạt: nơtron và proton; All giới sinh vật (từ sinh vật có 1 tế bào (đơn bào) đến thực
vật, động vật và cả con người) đều tồn tại quá trình đồng hoá và dị hoá, đây là đặc trưng
của sự sống.
● QT ĐH-DH: khơng chỉ có ở con người cịn có ở sinh vật khác
● Cái đơn nhất: là phạm trù triết học dùng để chỉ những nét, những mặt, những
thuộc tính chỉ có ở mợt kết cấu vật chất nhất định nào đó và khơng được lặp lại ở
bất kì một kết cấu vật chất nào khác. (Vân tay, tính cách của mỗi con người không
ai giống ai....)
● Cái đặc thù: là phạm trù triết học dùng để chỉ những tḥc tính, những đặc điểm,

những bợ phận giớng nhau chỉ tồn tại ở một số sự vật, hiện tượng. (lao động, tư
duy là những cái vốn chỉ tồn tại ở con người (động vật cấp cao) chứ nó không tồn
tại ở các loài sinh vật khác.)
b. Tính chất và mối quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái riêng và cái đơn
nhất
CNDVBC: cho rằng, cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại và khẳng định: Cái
chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tờn tại của mình.
Điều này có nghĩa là không có cái chung trừu tượng, thuần túy tồn tại độc lập ở bên
ngoài cái riêng.
Đh-DH, sinh lão bệnh tử, cơ quan TH, BT phải thông qua những con người, con vật, cụ
thể mới biểu hiện sự tồn tại của mình.
Trong một cái riêng có nhiều cái chung, có nhiều cái đơn nhất.
VD sẽ không có khái niệm SV nếu không có từng sinh viên cụ thể.


+ Cái riêng chỉ tồn tại trong MQH với cái chung, không có cái riêng nào tồn tại
tách rời cái chung, cũng không có cái riêng nào là tồn tại vĩnh viễn. con người tồn tại
trong nhiều MQH đặc điểm, ́u tớ
+ Cái riêng là cái tồn bộ, phong phú hơn cái chung (trong cái riêng còn có nhiều
cái đơn nhất), cái chung là cái bộ phận của cái riêng nhưng đây là bợ phận có tính chất
bản chất, phản ánh tḥc tính, những mới liên hệ tất nhiên lặp lại ở nhiều cái riêng cùng
loại nên là cái sâu sắc hơn cái riêng. Cái chung gắn liền với bản chất , quy định phương
hướng tồn tại và phát triển của cái riêng.
⇒ Cái riêng dùng để chỉ 1 SVHT => cái tồn bộ, cái chung chỉ thuộc tính, quan hệ,
mặt trong 1 SV, (thuộc tính ấy đc lặp lại ở nhiều SV) => bộ phận
Cái chung và riêng là khác loại nên k thể chuyển hóa cho nhau. 1 con người cụ thể là
một cái riêng, trong con người đó có nhiều cái chung và cái đơn nhất.
+ Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá cho nhau trong quá trình phát
triển của sự vật.
Bất kỳ cái mới nào xuất hiện đầu tiên đều dưới lại cái đơn nhất. Trong qt phát triển nó

là cái mới, tiến bộ, phù hợp vs QL khách quan, dần dần thay thế cái cũ trở thành cái
chung, phổ biến, thay thế lạc hậu trước đó.
Không phải mọi cái mới đều là tích cực, cái mới tiêu cực cần bị loại bỏ để nó khơng trở
thành cái chung, phở biến.
1. Sự chủn hoá của cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của của quá trình cái mới
ra đời thay thế cái cũ
2. Sự chuyển hoá của cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của cái cũ, cái lỗi thời bị
phủ định.
Tại sao cái riêng không tồn tại vĩnh cửu : khi nói tới các cặp phạm trù nó ví dụ như là cái
riêng, cái chung, cái đơn nhất, nguyên nhân, kết quả vân vân người ta chỉ nói tới là nó tồn
tại khách quan mà thôi... theo tinh thần của phép biện chứng thì tất cả mọi sự vật hiện
tượng đều luôn vận động biến đổi phát triển


"Từ mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng hãy làm rõ mối quan hệ hài hòa
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể trong XH hiện nay”

Why khi xác định 1 SV or SK phải dựa trên cơ sở: cái chung và cái riêng:
Đầu tiên ta cần biết “cái riêng, cái chung, cái đơn nhất”....
- Vai trò của cái riêng đối với cái chung: Cái chung nằm trong cái riêng, phải thông qua
cái riêng, phải nhờ có cái riêng thì mới biểu hiện sự tờn tại của nó, khơng có cái chung
nào tờn tại lơ lửng và tách rời cái riêng.
- Vai trò của cái chung đối với cái riêng: Cái riêng nó tờn tại trong mối quan hệ với quan
chung.
Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng, nên chúng ta chỉ có thể tìm cái
chung trong cái riêng, chứ không thể ở bên ngoài cái riêng để phát hiện cái chung. Cần
xuất phát từ những cái riêng chứ không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của con
người.... Mặt khác vì cái riêng gắn bó chặt chẽ với cái chung, không tồn tại ở bên ngoài
mối liên hệ dẫn đến cái chung, cho nên để giải quyết cái riêng có hiệu quả thì không thể
né tránh giải quyết cái chung, không làm được điều đó thì sẽ dẫn tới mò mẫm Tùy Tiện,

kinh nghiệm chủ nghĩa...
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Muốn biết được cái chung, cái bản chất thì phải xuất phát từ cái riêng, từ những
sự vật, hiện tượng riêng lẻ.
- Nhiệm vụ của nhận thức là phải tìm ra cái chung trong hoạt động thực tiễn, phải
dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng.
- Trong hoạt động thực tiễn thấy sự chuyển hoá nào có lợi chúng ta cần chủ động
tác động để nó sớm trở thành hiện thực.
2. Bản chất và hiện tượng
a. Phạm trù bản chất, hiện tượng


- Bản chất là một phạm trù dùng để chỉ sự tởng hợp tất cả những thuộc tính,
những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định, hợp thành một tổng thể thống nhất hữu cơ
bên trong quy định sự vận động và phát triển của sự vật.
- Hiện tượng là một phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những
mối liên hệ biểu hiện ra bên ngoài của một bản chất nhất định.
VD: Bản chất của NTHH là MLH giữa điện tử và hạt nhân, còn TCHH khi tương
tác với những nguyên tố khác là hiện tượng thể hiện ra bên ngoài của MLK giữa
điện tử và hạt nhân
● Trong XH có GC bản chất của NN là tool thống trị GC bảo vệ lợi ích của GCTT
mà tùy theo tương quan GC và địa vị của GC trong LS mà sự TT đó đc thể hiện
dưới nhiều form khác nhau (NN dân chủ, CH, …)
b. Tính chất và mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
* Tính chất
- Phạm trù bản chất gắn bó hết sức chặt chẽ với phạm trù cái chung. Cái tạo nên
bản chất của một lớp sự vật nhất định, đồng thời là cái chung của sự vật đó. Tuy nhiên,
không phải cái chung nào cũng là cái bản chất, vì bản chất chỉ là cái chung tất yếu, quyết
định sự tồn tại và phát triển của sự vật.
- Cái bản chất cũng đờng thời là cái có tính quy luật. Nói đến bản chất của sự vật

là nói đến tổ hợp những quy luật quyết định sự vận động và phát triển của nó. Vì vậy, bản
chất là phạm trù cùng bậc với quy luật. Tuy bản chất và quy luật là những phạm trù cùng
bậc nhưng chúng không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Quy luật là mối liên hệ tất nhiên,
phổ biến, lặp đi, lặp lại và ổn định giữa các hiện tượng hay giữa các mặt của chúng. Cịn
bản chất là tổng hợp các mới liên hệ tất nhiên tương đối ổn định ở bên trong sự vật, nghĩa
là ngoài những mối liên hệ tất nhiên, phổ biến chung cho nhiều hiện tượng nó còn bao
gồm cả những mối liên hệ tất nhiên, không phổ biến, cá biệt nữa. Như vậy, phạm trù bản
chất rộng lớn và phong phú hơn phạm trù quy luật.
* Mối liên hệ giữa bản chất và hiện tượng
- Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan. Bản chất và hiện tượng trong quá
trình tồn tại của mình, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn lẫn nhau. Bản chất bao giờ cũng


được bợc lợ ra thơng qua hiện tượng. Cịn hiện tượng bao giờ cũng là sự tồn tại thông qua
cái bản chất. Không thể có hiện tượng và bản chất tồn tại tách rời nhau.
VD bản chất của GCTS trong chế độ TBCN là bóc lột GT thặng dư, bản chất này được
bộc lộ ra ở nhiều hiện tượng trong CNTB bần cùng hóa GC vô sản, khủng hoảng KT theo
chu kỳ, Thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo, chiến tranh ƠNMT. Khi khơng cịn GC TS k
cịn mode bóc lợt GTTD, những HT trên mất dần theo con người làm chủ TN, bản thân
mình
- Tính thớng nhất giữa bản chất và hiện tượng. Mỗi sự vật là một sự thống nhất giữa bản
chất và hiện tượng. Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo.
Sự thống nhất
Bản chất và hiện tượng thớng nhất với nhau, chính nhờ sự thống nhất này mà người ta có
thể tìm ra cái bản chất, tìm ra quy luật trong vô vàn các hiện tượng bên ngoài. Biểu hiện
là:
Bản chất luôn luôn được bợc lợ ra qua hiện tượng, cịn hiện tượng nào cũng là sự biểu
hiện của bản chất ở mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần túy ngoài hiện
tượng; đồng thời cũng không có hiện tượng nào hoàn toàn không biểu hiện bản chất.
Nhấn mạnh sự thống nhất này “ Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính bản chất ” — 

Lenin[6]

Bản chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp với nhau. Bản chất được bộc lộ ra ở những
hiện tượng tương ứng. Bản chất nào thì có hiện tượng ấy, bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ở
những hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng thay đổi
theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất theo.
Tính mâu thuẫn


Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối
lập. Do vậy không phải bản chất và hiện tượng phù hợp nhau hoàn toàn mà luôn bao hàm
cả sự mâu thuẫn nhau[7].
“ Nếu hiện tượng và bản chất của sự vật là nhất trí với nhau thì tất thảy
khoa học sẽ trở nên thừa


— Các Mác[8]

Mâu thuẫn này thể hiện ở chỗ:
● Bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của
sự vật trong khi hiện tượng phản ánh cái riêng, cái cá biệt.
● Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan, còn hiện
tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan đó. Bản chất không được
biểu lộ hoàn toàn ở một hiện tượng mà biểu hiện ở rất nhiều hiện tượng khác
nhau.
● Hiện tượng không biểu hiện hoàn toàn bản chất mà chỉ biểu hiện mợt khía
cạnh của bản chất, biểu hiện bản chất dưới hình thức đã biến đổi, nhiều khi
xuyên tạc bản chất hoặc phản ánh khơng đúng bản chất[9] (ví dụ: Hiện tượng
khúc xạ, ảo ảnh).
Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ở nhiều hiện tượng khác nhau tùy theo sự thay đổi

của điều kiện và hoàn cảnh. Vì vậy hiện tượng phong phú hơn bản chất, còn bản chất sâu
sắc hơn hiện tượng. Bản chất là cái tương đối ổn định, ít biến đổi, cịn hiện tượng là cái
thường xuyên biến đổi.


Cái không bản chất, cái bề ngoài, cái trên mặt, thường biến
mất, không bám "chắc", không "ngồi vững" bằng "bản chất"
— V.I.Lenin[6]

- Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng:




+ Bản chất là cái bên trong đối lập với hiện tượng là cái bên ngoài. Tuy nhiên,
không phải lúc nào cái bên ngoài cũng phản ánh cái bên trong, thậm chí có lúc nó khơng
chỉ phản ánh khơng đúng mà còn xuyên tạc bản chất (đây gọi là hiện tượng giả)
+ Bản chất là cái tương đối ổn định và hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.
+ Bản chất là cái sâu sắc hơn hiện tượng và hiện tượng là cái phong phú hơn bản
chất.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Khẳng định bản chất là cái bên trong tương đới ổn định, cịn hiện tượng là cái bên
ngoài thường xuyên biến đổi, phép biện chứng duy vật yêu cầu chúng ta trong nhận thức
không được dừng lại ở cái hiện tượng mà phải căn cứ, đi sâu vào bản chất.
- Khẳng định bản chất bao giờ cũng được bộc lộ ra thông qua cái hiện tượng, cho
nên muốn nhận thức được bản chất thì phải bắt đầu nhận thức cái hiện tượng. Tuy nhiên,
để nhận thức đúng cái bản chất thì cần phải phân loại các hiện tượng để gạt bỏ các hiện
tượng không phản ánh đúng bản chất, loại bỏ các hiện tượng giả.
3. Tất nhiên và ngẫu nhiên
a. Phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên

- Tất nhiên là phạm trù dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong
của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định phải xảy ra đúng như
thế chứ không phải khác.
- Ngẫu nhiên là phạm trù dùng để chỉ cái không phải do bản thân kết cấu của sự vật
mà do các nguyên nhân bên ngoài, do sự ngẫu hợp của nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết
định. Do đó, nó có thể xuất hiện, có thể khơng x́t hiện, có thể x́t hiện như thế này,
cũng có thể xuất hiện như thế khác.
b. Tính chất và mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
* Tính chất
Phạm trù cái tất nhiên và ngẫu nhiên có mối liên hệ với phạm trù cái chung, với tính
nhân quả và tính quy luật.


- Phạm trù tất nhiên với phạm trù cái chung. Phần lớn cái chung đều được quyết
định bởi bản chất nội tại, bởi quy luật bên trong của sự vật, nhưng cũng có cái chung
không phải như thế. Vì cái chung chỉ là những tḥc tính được lặp đi, lặp lại ở nhiều sự
vật riêng lẻ. Vì vậy, có cái chung là tất nhiên, nhưng cũng có cái chung là ngẫu nhiên.
- Phạm trù cái tất nhiên - ngẫu nhiên với tính nhân quả. Như đã nói ở trên, bất kỳ
hiện tượng nào cũng có nguyên nhân. Vì vậy, cái tất nhiên lẫn cái ngẫu nhiên đều có
nguyên nhân. Sự khác nhau giữa chúng chỉ là ở chỗ, cái tất nhiên gắn liền với nguyên
nhân cơ bản nội tại của sự vật, còn cái ngẫu nhiên là kết quả tác động của một số nguyên
nhân bên ngoài.
- Mối quan hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên với tính quy luật.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, những hiện tượng nào là tất nhiên thì phải tuân theo
quy luật, còn những hiện tượng nào là ngẫu nhiên thì không tuân theo quy luật. Quan
điểm này thật ra không đúng. Trên thực tế, cả cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên đều tuân
theo quy luật. Sự khác nhau giữa chúng chỉ là ở chỗ, cái tất nhiên tuân theo quy luật được
gọi là cái quy ḷt đợng lực, cịn cái ngẫu nhiên tn theo quy luật khác được gọi là quy
luật thống kê.
✵ Quy luật động lực là gì? Quy ḷt đợng lực là quy luật mà trong đó mối quan hệ

qua lại giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ đơn trị, nghĩa là ứng với một nguyên
nhân thì có một kết quả xác định.
✵ Quy luật thống kê là gì? Quy ḷt thớng kê là quy ḷt mà trong đó mối quan hệ
giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ đa trị, nghĩa là ứng với một nguyên nhân thì
có thể có kết quả như thế này, cũng có thể có kết quả như thế khác.
* Mối quan hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại
khách quan, ở bên ngoài và độc lập với ý thức của con người.
K.C.Mác đã viết, “lịch sử sẽ mang tính thần bí nếu những cái ngẫu nhiên không có
tác dụng gì cả. Những cái ngẫu nhiên này chính là mợt bợ phận trong tiến trình phát triển
chung, và sự phát triển diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc rất nhiều vào cái ngẫu nhiên,


kể cả những cái ngẫu nhiên rất nhỏ” (Ví dụ: cá tính của những người lãnh đạo phong
trào).
- Tất nhiên và ngẫu nhiên bao giờ cũng tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ. Song, sự
thống nhất hữu cơ đó thể hiện ở chỗ, cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình
xuyên qua vô vàn cái ngẫu nhiên, còn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất
nhiên, đồng thời là cái bổ sung cho cái tất nhiên. Điều này giúp ta khẳng định, cái tất
nhiên là khuynh hướng của sự phát triển, nhưng khuynh hướng ấy mỗi khi bộc lộ mình
thì bao giờ cũng phải bộc lộ ra dưới hình thức ngẫu nhiên nào đó so với chiều hướng
chung.
Ph.Ăngghenviết: “Cái mà người ta quả quyết cho là tất yếu lại hoàn toàn do những
ngẫu nhiên thuần tuý cấu thành, và cái được coi là ngẫu nhiên lại là hình thức, dưới đó ẩn
nấp cái tất yếu”.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại vĩnh viễn ở trạng thái cũ mà thường
xuyên thay đổi, phát triển và trong những điều kiện nhất định chúng chuyển hoá lẫn
nhau, tất nhiên biến thành ngẫu nhiên và ngược lại.
Chú ý: Ranh giới giữa cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên chỉ có tính tương đới. Thơng
qua những mặt này cua quan hệ này thì biểu hiện là ngẫu nhiên nhưng thông qua những

mặt khác hay mối quan hệ khác thì lại biểu hiện là tất nhiên và ngược lại. Do vậy, chúng
ta cần tránh cái nhìn cứng nhắc khi xem xét sự vật và hiện tượng.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong hoạt động thực tiễn ta cần dựa vào cái tất nhiên chứ không thể dựa vào cái
ngẫu nhiên. Nhưng không phải vì thế mà bỏ qua cái ngẫu nhiên, vì, tuy cái ngẫu nhiên
không chi phối sự phát triển của sự vật nhưng nó vẫn có ảnh hưởng đến sự phát triển ấy,
đôi khi có thể làm cho tiến trình phát triển bình thường của sự vật đột ngột biến đổi...
- Trong hoạt động thực tiễn ta cần dựa vào cái tất nhiên, thì nhiệm vụ của nhận thức
nói chung, của nhận thức khoa học nói riêng cần phải nhận thức cái tất nhiên.
- Vì cái tất nhiên không tồn tại dưới dạng thuần tuý mà bao giờ cũng bộc lộ ra bên
ngoài thông qua cái ngẫu nhiên, cho nên muốn nhận thức cái tất nhiên cần bắt đầu từ cái
ngẫu nhiên.


- Cái ngẫu nhiên cũng không tồn tại một cách thuần tuý mà bao giờ cũng là hình
thức trong đó ẩn nấp cái tất nhiên. Cho nên, trong hoạt động nhận thức cũng như trong
hoạt động thực tiễn không nên bỏ qua cái ngẫu nhiên mà bao giờ cũng phải chú ý tìm ra
cái tất nhiên ẩn dấu đằng sau cái ngẫu nhiên đó.
- Không phải cái chung nào đồng thời cũng là cái tất nhiên, cho nên vạch ra được
cái chung chưa có ý nghĩa là đã vạch ra được cái tất nhiên. Đó mới chỉ là một bước trên
con đường vạch ra cái tất nhiên mà thôi.
- Trong những điều kiện nhất định, cái tất nhiên có thể biến thành cái ngẫu nhiên và
ngược lại. Cho nên cần chú ý tạo ra những điều kiện cần thiết hoặc để ngăn trở hoặc để
sự chuyển hoá đó diễn ra tuỳ theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn.
Cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả:
− Khái niệm:
+ Nguyên nhân: là phạm trù để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự
vật hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây ra một biến đổi nhất
định.
+ Kết quả: là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi do sự tác động lẫn nhau giữa các

sự vật, hiện tượng hoặc các mặt trong cùng một sự vật, hiện tượng gây ra. Kết quả
là sự biến đổi do nguyên nhân gây ra.

− Tính chất và mới liên hệ giữa ngun nhân và kết quả:
+ Tính chất: Tính khách quan; tính tất yếu; tính phổ biến lặp đi lặp lại; nguyên nhân
khác nguyên cớ.
+ Nguyên nhân quyết định kết quả.
+ Nguyên nhân có trước, sinh ra kết quả.
+ Nguyên nhân thế nào thì sinh ra kết quả thế ấy.
VD: Sự tác động qua lại giữa chiếc dùi và mặt trống là nguyên nhân phát ra tiếng trống.
Tiếng trống kêu là kết quả của sự tác động giữa chiếc dùi và mặt trống


×