Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Quản lý tỷ giá của ngân hàng trung ương trong giai đoạn năm 2018 đến nửa đầu năm 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (619.84 KB, 26 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Tỷ giá giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống kinh tế của mỗi quốc
gia cũng như các quan hệ thương mại quốc tế thông qua việc phản ánh tương quan giá
trị đồng tiền của những nước khác nhau. Cùng với sự mạnh mẽ của thương mại quốc
tế, ngày nay tỷ giá hối đoái đã trở thành công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của mỗi
quốc gia và là vũ khí lợi hại trong cuộc chiến tranh thương mại hết sức khốc liệt trên
thế giới.
Trong thời gian qua, để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam đã nhiều lần thay đổi chính sách điều hành tỷ giá. Từ được giữ cố định trong một
thời gian khá dài, đến nay tỷ giá hối đối đã được hình thành một cách khách quan
theo tín hiệu thị trường và có sự điều tiết của Nhà nước. Thực tế đã minh chứng cơ chế
điều hành tỷ giá hiện nay là phù hợp với đặc điểm tình hình và mục tiêu phát triển kinh
tế đất nước. Tuy nhiên, để cơ chế điều hành chính sách tỷ giá mới thực sự phát huy tác
dụng cần phải có những cải cách hơn nữa trong việc quản lý tỷ giá hối đoái.
Đề án: “Quản lý tỷ giá của Ngân hàng Trung ương trong giai đoạn năm 2018
đến nửa đầu năm 2019” được lựa chọn từ những yêu cầu, địi hỏi đó. Nội dung của
bài luận này tập trung nghiên cứu cơ sở lý thuyết về tỷ giá, Ngân hàng Trung ương và
quản lý chính sách tỷ giá trong giai đoạn năm 2018 đến nửa đầu năm 2019.


MỤC LỤC
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TỶ GIÁ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG
ƯƠNG
1.1. Tổng quan về tỷ giá
1.1.1.
Khái niệm
1.1.2.
Phân loại
1.1.3.
Chế độ tỷ giá
1.2. Quản lý tỷ giá của NHTƯ


1.2.1. Khái quát về NHTƯ
1.2.2. Quản lý tỷ giá của NHTƯ
1.2.2.1. Khái niệm và mục tiêu quản lý tỷ giá của NHTƯ
1.2.2.2. Các nội dung quản lý tỷ giá của NHTƯ
1.2.3. Các nhân tố tác động đến quản lý tỷ giá của NHTƯ

PHẦN 2: QUẢN LÝ TỶ GIÁ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG ĐOẠN NĂM
2018 ĐẾN NỬA ĐẦU NĂM 2019
2.1. Thực trạng biến động tỷ giá và quản lý tỷ giá của Ngân hàng Trung ương

Việt Nam
2.1.1. Thực trạng biến động tỷ giá và quản lý tỷ giá của NHTƯ Việt Nam năm
2018
2.1.2. Thực trạng biến động tỷ giá và quản lý tỷ giá của NHTƯ Việt Nam nửa

đầu năm 2019
2.2. Đánh giá thực trạng quản lý tỷ giá của Ngân hàng Trung ương
2.2.1. Thành tựu và nguyên nhân
2.2.2. Khó khăn và nguyên nhân
2.3. Các đề xuất nhằm tăng cường quản lý tỷ giá của NHTƯ Việt Nam trong
thời gian tới

PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TỶ GIÁ CỦA NGÂN HÀNG
1.1. Tổng quan về tỷ giá
1.1.1.
Khái niệm


Theo từ điển Thuật ngữ Tài chính (Dictionary of Financial Terms): “Tỷ giá là mức giá
tại đó đồng tiền của quốc gia này có thể được chuyển đổi sang đồng tiền của quốc gia

khác.”
Theo từ điển Tài chính Farlex (Farlex Financial Dictionary): “Tỷ giá được định nghĩa
là tương quan sức mua/giá trị giữa hai đồng tiền.”
Theo điều 6 luật NHTƯ Việt Nam 2010: “Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam là giá
của một đơn vị tiền tệ nước ngoài tính bằng đơn vị tiền tệ của Việt Nam.”
Theo giáo trình Tài chính quốc tế (Học viện Tài chính, NXB Tài chính 2002): “Tỷ giá
hối đối là tương quan sức mua giữa các đồng tiền và là mức giá mà tại đó các đồng
tiền có thể chuyển đổi được cho nhau.”
Đặc điểm chung của các khái niệm, tỷ giá chính là mức giá tại một thời điểm mà đồng
tiền của một quốc gia hay khu vực có thể được chuyển đổi sang một loại đồng tiền của
quốc gia hay khu vực khác. Theo đó, tỷ giá sẽ được tính bằng số đơn vị nội tệ trên một
đơn vị ngoài tệ khi chuyển đổi vì thế mức tỷ giá ln được tính tại thời điểm giao dịch
và ln có sự biến động tùy mỗi thời điểm. Trên thế giới hiện nay, tỷ giá được niêm
yết theo thị trường giao dịch có nghĩa là đồng tiền yết giá đứng trước và đồng tiền
được định giá đứng sau.
1.1.2.

Phân loại

Có nhiều cách phân loại tỷ giá khác nhau sao cho phù hợp và thông thường sẽ được
dựa trên các tiêu thức như nghiệp vụ giao dịch, thị trường yết giá, theo kỳ hạn hay theo
mối quan hệ giữa các đồng tiền trên thế giới hiện nay
1.1.2.1. Theo nghiệp vụ giao dịch

Tỷ giá mua - Bid: là mức giá tại đó chủ thể yết giá (NHTƯ và các tổ chức được phép
kinh doanh ngoại tệ) sẵn sàng trả ra để mua vào một đơn vị đồng yết giá.
Tỷ giá bán - Ask/Offer: là mức giá tại đó chủ thể yết giá sẵn sàng đổi một đơn vị đồng
tiền yết giá để lấy đồng tiền định giá.
Ngoài tỷ giá mua bán giữa các ngân hàng và các doanh nghiệp, cá nhân, cịn có tỷ giá
liên ngân hàng - đây là tỷ giá có sự tham gia mua bán của các ngân hàng thương mại

với nhau.
1.1.2.2. Theo thị trường yết giá

Tỷ giá chính thức - Official Rate (ở Việt Nam hiện nay là tỷ giá giao dịch bình quân
trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng): tỷ giá do cơ quan quản lý tiền tệ (NHTƯ)


cơng bố, nó phản ánh chính thức về giá trị đối ngoại của đồng nội tệ. Tỷ giá chính thức
được áp dụng để tính thuế xuất nhập khẩu và một số hoạt động khác liên quan đến tỷ
giá chính thức. Ngồi ra, ở Việt Nam tỷ giá chính thức cịn là cơ sở để các NHTM xác
định tỷ giá kinh doanh trong biên độ cho phép.
Tỷ giá thị trường - Market Rate: tỷ giá hình thành trên cơ sở cung cầu của thị trường.
Ở những quốc gia đang duy trì chế độ tỷ giá cố định, tỷ giá chính thức và tỷ giá thị
trường tồn tại song hành. Trên thị trường tự do (black-market), tỷ giá chợ đen không
chịu sự kiểm soát của NHTƯ, do quan hệ cung cầu trên thị trường chợ đen quyết định.
Tùy vào từng giai đoạn và cơ chế điều tiết tỷ giá của từng quốc gia, tỷ giá chính thức
có thể hồn tồn độc lập với tỷ giá thị trường, nhưng cũng có thể lấy tỷ giá thị trường
(ví dụ tỷ giá bình qn trên thị trường liên ngân hàng) làm tham chiếu.
Tại những nước áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi, NHTƯ không cơng bố tỷ giá chính
thức, tỷ giá hồn tồn do thị trường quyết định.
1.1.2.3. Theo kỳ hạn

Tỷ giá giao ngay - Spot Rate: tỷ giá áp dụng cho những hợp đồng mua bán ngoại tệ
được thực hiện sau hai ngày làm việc kể từ ngày giao dịch.
Tỷ giá kỳ hạn – Forward Rate: tỷ giá áp dụng cho các hợp đồng mua bán ngoại tệ
được ký kết ngày hôm nay nhưng việc thực hiện giao dịch diễn ra tại một thời điểm
xác định trong tương lai. Tỷ giá có kỳ hạn do người kinh doanh tiền tệ tính tốn trên
cơ sở tỷ giá giao ngay và niêm yết. Dù tỷ giá thị trường biến động như thế nào, đến
thời điểm đáo hạn, tỷ giá thực hiện vẫn giữ nguyên theo hợp đồng đã ký kết. Tỷ giá có
kỳ hạn cũng khác nhau giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán. Tỷ giá mua có kỳ hạn thấp hơn

tỷ giá bán có kỳ hạn và do ngân hàng niêm yết để giao dịch với khách hàng là các
ngân hàng khác hoặc các doanh nghiệp, cá nhân.
1.1.2.4. Theo mối quan hệ đồng tiền

Đây là một tiêu thức phân loại quan trọng, áp dụng cho mục tiêu nghiên cứu khả năng
cạnh tranh trong thương mại giữa các quốc gia. Mức tỷ giá giữa một đồng tiền với các
đồng tiền khác là không giống nhau, chính vì vậy trong q trình tìm hiểu sức cạnh
tranh về giá giữa hàng hóa dịch vụ tương quan giữa từng cặp quốc gia, thay vì sử dụng
tỷ giá, các nhà nghiên cứu thường sử dụng chỉ số tỷ giá (quy về cùng một thời điểm
gốc) để dễ so sánh. Các chỉ số tỷ giá bao gồm:


Chỉ số tỷ giá danh nghĩa song phương (Nominal Bilateral Exchange Rate – NER):
là giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông qua một đồng tiền khác mà chưa đề
cập đến tương quan sức mua hàng hóa và dịch vụ giữa chúng. Chỉ tiêu này tăng hay
giảm không có nghĩa là quốc gia đó trở nên cạnh tranh hơn hay kém cạnh tranh hơn
trên thị trường quốc tế vì cịn phụ thuộc vào biến động lạm phát giữa hai nước. Cùng
với tỷ giá danh nghĩa, NER có thể được tính tốn và cơng bố hàng ngày.
Chỉ số tỷ giá thực song phương (Real Bilateral Exchange Rate – RER): là tỷ giá
danh nghĩa đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát giữa trong nước với nước ngồi, do
đó, nó là chỉ số phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ và ngoại tệ. Khác với NER,
RER không được tính tốn hàng ngày mà là hàng tháng, do phải căn cứ vào chỉ số giá
cả từng tháng.
Chỉ số tỷ giá danh nghĩa đa phương (Nominal Effective Exchange Rate – NEER):
được tính trên cơ sở bình qn có trọng số các tỷ giá danh nghĩa song phương của một
đồng tiền so với các đồng tiền của các đối tác thương mại. Nhìn vào chỉ tiêu này có thể
thấy được mức thay đổi tương đối giá giữa một đồng tiền với đồng tiền của các đối tác
so với thời điểm gốc. Tuy nhiên, NEER không phản ánh thay đổi mức giá cả tương đối
giữa nước quan sát với các nước trong rổ tiền tệ. Ở những quốc gia mà cơ quan thực
thi CSTT cịn duy trì việc cơng bố tỷ giá chính thức (một cách chủ quan hoặc dựa trên

thị trường ngoại tệ liên ngân hàng), NEER là một chỉ tiêu thường xuyên được sử dụng
để đánh giá tác động của chính sách tỷ giá tới diễn biến của cán cân vãng lai.
Chỉ số tỷ giá thực đa phương (Real Effective Exchange Rate – REER): bằng tỷ giá
danh nghĩa đa phương (NEER) đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát ở trong nước với
tất cả các nước còn lại, do đó, nó phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ với tất cả
các đồng tiền còn lại. Chỉ số này được sử dụng phổ biến trong lý luận và nghiên cứu
kinh tế học ứng dụng cũng như trong phân tích chính sách như đánh giá giá trị cân
bằng của một đồng tiền; khả năng cạnh tranh về giá, chi phí; các tác động gây nên sự
thay đổi cấu trúc thương mại của một quốc gia. Với quy ước về cách yết giá đã trình
bày ở trên, khi chỉ số tỷ giá thực đa phương tăng, điều đó có nghĩa là đồng nội tệ giảm
giá thực tương đối so với đồng tiền của các đối tác thương mại, hàng hóa nội địa có
khả năng cạnh tranh hơn so với hàng hóa nước ngồi, và ngược lại.
1.1.3.

Chế độ tỷ giá
1.1.3.1. Khái niệm


Về mặt thuật ngữ, chế độ tỷ giá cịn có các tên gọi khác nhau như cơ chế tỷ giá hay
cấu trúc tỷ giá. Tập hợp các quy tắc, cơ chế xác định và điều tiết tỷ giá của một quốc
gia tạo nên chế độ tỷ giá của quốc gia này.
Theo nghĩa rộng, chính sách tỷ giá là những hoạt động của Chính phủ (mà đại diện
thường là NHTƯ) thơng qua một chế độ tỷ giá nhất định (hay cơ chế điều hành tỷ giá)
và hệ thống các công cụ can thiệp nhằm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động
để tỷ giá biến động đến một mức cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách kinh tế
quốc gia. Theo nghĩa hẹp hay nghĩa thực tế ta có khái niệm: Chính sách tỷ giá là
những hoạt động của Chính phủ thơng qua cơ chế điều hành tỷ giá và các công cụ can
thiệp nhằm đạt được một mức tỷ giá nhất định, để tỷ giá tác động tích cực đến hoạt
động xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ của quốc gia.
1.1.3.2. Phân loại chế độ tỷ giá


Vì chứa đựng các yếu tố chủ quan, nên chế độ tỷ giá của một quốc gia có thể thay đổi
từ thời gian này sang thời gian khác và chế độ tỷ giá của các quốc gia cũng thường là
khác nhau.
BẢNG PHÂN LOẠI CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ
Chế độ
tỷ giá

Chế độ tỷ giá cố định

Chế độ tỷ giá thả nổi

Chế độ tỷ giá thả nổi

hồn tồn

có điều tiết

Khái

Là loại tỷ giá được

Tỷ giá này được xác

- Là chế độ tỷ giá trong

niệm

giữ cố định trong một


định tự do bởi các lực

đó có sự can thiệp của

thời gian dài với biên

lượng thị trường theo

Chính

độ dao động hẹp hoặc

quy luật cung cầu

trường ngoại hối thông

thay thế nội tệ bằng

ngoại tệ.

qua việc mua bán các

ngoại tệ.

phủ

vào

thị


đồng tiền để can thiệp
vào mức cung và cầu

Đặc

- Duy trì tỷ giá hối

tiền tệ.
- Giá trị đồng nội tệ đối - Là một chế độ tỷ giá

điểm

đoái cố định bằng

với đồng ngoại tệ được

hối đoái nằm giữa hai

cách duy trì cân bằng

xác định tại điểm mà

chế độ thả nổi và cố

cung cầu tiền tệ trên

cung cầu bằng nhau.

định.


thị trường.

Khi nhập khẩu tăng sẽ

- Đây là chế độ chính

- Khơng làm thay đổi

làm giảm cung ngoại

phủ tự do lựa chọn các


tỷ giá, đầu cơ không

tệ, đồng tiền ngoại tệ

cách kiểm soát ổn định

tồn tại, tránh phá giá

tăng giá theo và ngược

tỷ giá mà không mất đi

và tạo môi trường KD lại.
ổn định.

- Chính phủ khơng can


- Ổn định tỷ giá giúp

thiệp vào điều tiết tỷ

ổn định xuất nhập

giá này.

tính độc lập về tiền tệ.

khẩu. Đầu tư nước
ngoài được thúc đẩy.
- Với tỷ giá ổn định
chính sách tiền tệ bị
vơ hiệu hóa và nhà
nước cam kết cung
cấp một lượng ngoại
tệ đủ lớn để duy trì tỉ
Ưu

giá
- Kinh tế ổn định tạo - Giá cả diễn biến theo - Cơ chế can thiệp vào

điểm

điều kiện phát triển tín hiệu thị trường giúp tỷ giá thả nổi này sẽ
cho các DN đặc biệt người đầu tư thay đổi phát huy được vai trò
DN xuất nhập khẩu. nguồn lực từ nơi có của cơng cụ giá trong
Tạo niềm tin với các hiệu quả thấp về nơi có nền kinh tế, khơng thể
đối tác quốc tế về môi hiệu quả cao.


để tỷ giá bị trôi nổi

trường đầu tư tiềm - Làm cán cân thanh trước những hoạt động
năng.

toán cân bằng: nếu cán đầu cơ ngoại tệ, mà

- Giảm bớt ảnh hưởng cân vãng lai thâm hụt thực sự biến nó thành
của các cú sốc kinh tế làm nội tệ giảm giá, tỷ công cụ khuyến khích
từ bên ngồi tới nền giá thả nổi sẽ giúp thúc các hoạt động xuất
kinh tế trong nước.

đẩy xuất khẩu cao hơn khẩu, ngăn cấm nhập

- Hạn chế sự bất ổn nhập khẩu làm cho cán khẩu…cải

thiện

cán

về lợi nhuận đầu tư cân thanh tốn trở nên cân thương mại.
nước ngồi
nhuận

trong

và lợi cân bằng.

- Là điều kiện giúp tiền


ngoại - Quốc gia sẽ được bảo tệ

cạnh

tranh

bình

thương và quản lý vệ trước các tình trạng đẳng.
hành chính, cơng nợ lạm phát, thất nghiệp - Kiểm soát và điều


nước ngoài và dự trữ của quốc gia khác.

chỉnh lỗi sai của thị

ngoại tệ trong nước.

trường khi cần thiết.

- Ổn định cán cân

-Tiết kiệm ngoại tệ.

thanh

toán

thương


mại cũng như các
khoản nợ nước ngoài.
Nhược

- Tạo ra sự chênh lệch - Tỷ giá biến động - Khó khăn để đạt được

điểm

giữa tỷ giá thực và tỷ khơng ngừng gây khó mức tỷ giá thích hợp
giá danh nghĩa. Tạo ra khăn trong việc hoạch với tiến trình phát triển
những chỉ số khơng định chính sách kinh tế kinh tế quốc gia cho
chính xác về nền KT

và các khoản đầu tư.

các nước đang phát

- Có độ trễ của việc - Tỷ giá bị ảnh hưởng triển do còn thiếu kinh
điều tiết cung cầu tiền bởi dự báo trong tương nghiệm điều tiết thị
tạo nên tỷ giá chợ đen lai, nếu nhà nước dự trường và nền kinh tế
và đơi khi khó khăn báo khơng sát sẽ làm chưa đủ mạnh để đứng
khi phải điều tiết ảnh hưởng đến chính vững trước những biến
lượng tiền quá lớn.

sách kinh tế vĩ mô. Thả động của kinh tế thế

- Các quốc gia dễ rơi nổi tỷ giá càng tăng, giới.
vào tình trạng “nhập kinh tế càng kém ổn - Tỷ giá biến động cao
khẩu lạm phát” không định.

mong muốn.

ảnh hưởng đến đầu tư

- Độ rủi ro về biến nước ngoài.
động tỷ giá là rất cao - Mức biến động tỷ giá
đối với các nguồn thu khó xác định trước có
nhập từ đầu tư nước thể gây ra những quy
ngồi, nợ nước ngồi.

định vĩ mơ sai lầm ảnh
hưởng đến mức tăng
trưởng kinh tế.

Vai trị

NHTƯ phải duy trì - Trên thị trường ngoại NHTƯ tích cực và chủ

của

một lượng dự trữ hối, vai trò của NHTƯ động can thiệp lên

NHTƯ

ngoại hối nhất định để là hồn tồn trung lập. chính sách tỷ giá.
tiến hành can thiệp NHTƯ tham gia vào


trên thị trường ngoại thị trường với tư cách
hối (mua hoặc bán là một thành viên bình

lượng dư cung hay thường, có thể mua bán
cầu ngoại tệ với mức các đồng tiền nhằm
tỷ giá hối đối cố mục đích của mình chứ
định mới cơng bố) khơng phải để ổn định
nhằm đảm bảo sự ổn tỷ giá.
định của tỷ giá.
1.2. Quản lý tỷ giá của NHTƯ
1.2.1. Khái quát về NHTƯ
1.2.1.1.
Khái niệm

Ngân hàng Trung ương (có khi gọi là ngân hàng dự trữ, hoặc cơ quan hữu trách
về tiền tệ) là một định chế công cộng, thực hiện chức năng độc quyền phát hành tiền,
là ngân hàng của các ngân hàng, ngân hàng của chính phủ và chịu trách nhiệm quản lý
nhà nước về các hoạt động về tiền tệ, tín dụng cho mục tiêu ổn định và phát triển đất
nước.
1.2.1.2.

Chức năng

Phát hành tiền tệ: Ở phần lớn các nước, NHTƯ là cơ quan duy nhất có quyền phát
hành tiền tệ. Ở một số nước khác, NHTƯ là cơ quan duy nhất phát hành tiền giấy,
còn tiền kim loại với tư cách là tiền bổ trợ thì do Chính phủ phát hành. Cục Dự trữ liên
bang –NHTƯ của Hoa Kỳ– khơng có chức năng phát hành tiền, thay vào đó, Bộ Tài
chính đảm nhiệm chức năng này.
Ngân hàng của các ngân hàng: NHTƯ thực hiện công việc tái chiết khấu các hối
phiếu đối với các tổ chức tín dụng, cấp vốn thơng qua cho vay đối với các tổ chức này
(đồng thời qua đây kiểm sốt lãi suất). NHTƯ cịn mua và bán các giấy tờ có giá, qua
đó điều tiết lượng vốn trên thị trường.
Ngân hàng của Chính phủ: Ở nhiều nước, NHTƯ là người quản lý ngân sách cho

Chính phủ. Chính phủ sẽ mở tài khoản giao dịch khơng lãi suất tại NHTƯ. Tuy nhiên,
ở một số nước, chẳng hạn như ở Việt Nam, chức năng này do kho bạc đảm nhiệm.
Ngân hàng trung ương còn làm đại diện cho Chính phủ khi can thiệp vào thị trường
ngoại hối
1.2.2. Quản lý tỷ giá của NHTƯ
1.2.2.1. Khái niệm và mục tiêu quản lý tỷ giá của NHTƯ


1.2.1.1.1. Khái niệm

Quản lý tỷ giá của NHTƯ là những hoạt động can thiệp có chủ đích của NHTƯ thơng
qua một chế độ tỷ giá nhất định và hệ thống các công cụ điều hành để tác động tới
cung cầu trên thị trường ngoại hối nhằm đạt được những mục tiêu đề ra.
1.2.1.1.2. Mục tiêu quản lý tỷ giá của NHTƯ

Trong một nền kinh tế mở, mục tiêu của việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mơ là
đạt được cân đối bên trong và cân đối bên ngoài. Tỷ giá hối đối là một yếu tố có
khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến những cân đối này nên việc điều hành chính sách tỷ
giá cũng phải hướng đến hai mục tiêu nói trên.
Mục tiêu cân đối bên trong: Là trạng thái mà ở đó các nguồn lực của một quốc gia
được sử dụng đầy đủ, đạt mức sản lượng tiềm năng, thể hiện ở trạng thái tồn dụng
nhân cơng (tỷ lệ thất nghiệp bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên) và giá cả ổn định.
Mục tiêu cân đối bên ngoài: Cân đối bên ngoài được xác định bởi một cán cân thanh
toán bền vững trong trung hạn, tức là mức thặng dư/thâm hụt tài khoản vãng lai phù
hợp với dòng chảy ra/vào của vốn trong dài hạn. Cân bằng bên ngồi khó xác định hơn
so với cân bằng bên trong, thông thường được thể hiện qua sự cân đối trong tài khoản
vãng lai (chủ yếu là cán cân thương mại). Tuy nhiên, trên thực tế, khơng có sự thống
nhất trong việc xác định chính xác tài khoản vãng lai nên cân bằng, hay nên thâm
hụt/thặng dư ở mức độ bao nhiêu mà chỉ có thể thống nhất rằng khơng nên để xảy ra
trạng thái thâm hụt hay thặng dư quá lớn. Mức thâm hụt này cần có sự cân đối với

lượng dự trữ ngoại hối (cần đạt được ít nhất 12 tuần nhập khẩu).
Trạng thái cân bằng bên trong và cân bằng bên ngồi có thể tồn tại đồng thời và liên
tục do sự trùng hợp ngẫu nhiên. Tuy nhiên, việc điều chỉnh tự động để phản ứng với
trạng thái mất cân bằng cán cân thanh tốn có thể rất tốn kém chi phí. Do vậy, các
chính phủ nên có các chính sách điều chỉnh nhằm tác động tới sản lượng, việc làm, giá
cả và cán cân thanh toán. Những chính sách này đã được thống kê bao gồm: Chính
sách thay đổi chi tiêu, chính sách chuyển hướng chi tiêu và những biện pháp kiểm soát
trực tiếp.
1.2.2.2. Các nội dung quản lý tỷ giá của NHTƯ

Chính phủ và NHTƯ áp dụng các biện pháp điều chỉnh tỷ giá hối đối theo chiều
hướng có lợi cho nền kinh tế quốc dân, có 3 nhóm cơng cụ chính bao gồm:
1.2.2.2.1.

Nhóm cơng cụ trực tiếp


Phá giá tiền tệ: Trong chế độ tỷ giá cổ định, phá giá tiền tệ là việc chính phủ đánh tụt
giá đồng nội tệ so với các đồng ngoại tệ. Biểu hiện của phá giá tiền tệ là tỷ giá được
điều chỉnh tăng so với mức chính phủ đã cam kết duy trì. Tỷ giá tang làm cho nội tệ
giảm giá, nên gọi là phá giá.
Nâng giá tiền tệ: Trong chế độ tỷ giá cố định, nâng giá tiền tệ là việc chính phủ tăng
giá đồng nội tệ so với các ngoại tệ. Biểu hiện của phá giá tiền tệ là tỷ giá được điều
chỉnh giảm so với mức mà chính phủ cam kết duy trì. Tỷ giá giảm làm cho nội tệ tăng
giá, nên gọi là nâng giá.
Hoạt động mua bán của NHTƯ trên thị trường ngoại hối: Là việc NHTƯ tiến hành
mua bán nội tệ với ngoại tệ nhằm duy trì một tỷ giá cố định (trong chế độ tỷ giá cố
định) hay tác động làm cho tỷ giá biến động tới một mức nhất định theo mục tiêu đã đề
ra (trong chế độ tỷ giá thả nổi hoặc thả nổi có điều tiết).
Để tiến hành can thiệp buộc NHTƯ phải có một lượng dự trữ ngoại hối nhất định. Hơn

nữa các hoạt động can thiệp trực tiếp của NHTƯ tạo ra hiệu ứng thay đổi cung ứng
tiền trong lưu thơng, có thể tạo ra lạm phát hay thiểu phát khơng mong muốn cho nền
kinh tế; chính vì vậy, đi kèm theo hoạt động can thiệp trực tiếp, NHTƯ thường phải sử
dụng thêm một nghiệp vụ thị trường mở để hấp thụ lượng dư cung hay bổ sung phần
thiếu hụt trong lưu thông.
Biện pháp kết nối: Là việc chính phủ quy định đối với các thể nhân và pháp nhân có
nguồn thu ngoại tệ phải bán một tỷ lệ nhất định trong một thời hạn nhất định cho các
tổ chức được phép kinh doanh ngoại hối. Biện pháp kết nối được áp dụng trong những
thời kỳ khan hiếm ngoại tệ giao dịch trên thị trường ngoại hối.
Quy định hạn chế:Quy định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ, quy định hạn chế
mục đích sử dụng ngoại tệ, quy định hạn chế số lượng mua ngoại tệ, quy định hạn chế
thời điểm được mua ngoại tệ. Tất cả các biện pháp này đều nhằm mục đích giảm cầu
ngoại tệ, hạn chế đầu cơ và tác động giữ cho tỷ giá ổn định.
1.2.2.2.2.

Công cụ gián tiếp

Lãi suất tái chiết khấu: Với các yếu tố khác không đổi, khi NHTƯ tăng mức lãi suất
tái chiết khấu, sẽ tác dụng làm tăng mặt bằng lãi suất thị trường; lãi suất thị trường
tăng hấp dẫn các luồng vốn ngoại tệ chạy vào làm cho nội tệ lên giá. Khi lãi suất tái
chiết khấu giảm sẽ có tác dụng ngược chiều.


Thuế quan: Thuế quan cao có tác dụng làm hạn chế nhập khấu; nhập khẩu giảm làm
cho cầu ngoại tệ giảm, kết quả là làm cho nội tệ lên giá. Khi thuế quan thấp sẽ có tác
dụng ngược lại.
Hạn ngạch: Hạn ngạch có tác dụng làm hạn chế nhập khẩu, do đó tác dụng lên tỷ giá
giống như thuế quan cao. Dỡ bỏ hạn ngạch có tác dụng làm tăng nhập khẩu, do đó có
tác dụng lên tỷ giá giống như thuế quan thấp.
Giá cả: Thông qua hệ thống giá cả, chính phủ có thể trợ giả cho những mặt hang xuất

khẩu chiến lược hay đang trong giai đoạn đầu sản xuất. Trợ giá xuất khẩu làm cho khối
lượng xuất tăng, làm tăng cung ngoại tệ, khiến cho nội tệ lên giá. Chính phủ cũng có
thể bù giá cho một số mặt hàng nhập khẩu thiết yếu; bù giá làm tăng nhập khẩu, kết
quả là làm cho nội tệ giảm giá.
1.2.2.2.3. Công cụ đặc biệt

Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ: Khi ngoại tệ khan hiếm trên thị
trường ngoại hối, NHTƯ có thể tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với vốn huy động bằng
ngoại tệ của các NHTM, làm cho chi phí sử dụng vốn ngoại tệ tăng. Để kinh doanh có
lãi buộc NHTM phải hạ lãi suất huy động ngoại tệ, kết quả là việc nắm giữ ngoại tệ trở
nên kém hấp dẫn hơn so với nắm giữ nội tệ, khiến cho người đang sở hữu ngoại tệ
phải bán để sở hữu nội tệ, làm tăng cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
Quy định lãi suất trần thấp đối với tiền gửi bằng ngoại tệ:
Ví dụ ở Việt Nam, lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của pháp nhân tại các tổ chức tín
dụng như sau:
- Tiền gửi khơng kỳ hạn tối đa là: 0,1%/năm
- Tiền gửi có kỳ hạn đến 6 tháng tối đa là: 0,5%/năm
- Tiền gửi có kỳ hạn trên 6 tháng tối đa là 1%/năm
1.2.3. Các nhân tố tác động đến quản lý tỷ giá của NHTƯ
1.2.3.1.
Chênh lệch lạm phát.
Xét về mặt lý thuyết, khi một nước có lạm phát sức mua đồng nội tệ giảm, với tỷ giá
hối đối khơng đổi, hàng hóa dịch vụ trong nước đắt hơn trên thị trường nước ngoài.
Theo quy luật cung cầu, người dân trong nước sẽ chuyển sang dùng hàng ngoại nhiều
hơn vì giá rẻ; điều tất yếu xảy ra là nhập khẩu sẽ tăng, kéo theo cầu ngoại tệ tăng, làm
cho tỷ giá hối đoái cũng tăng. Tương tự vì tăng giá, cư dân nước ngồi sẽ dùng ít hàng
nhập khẩu hơn. Hoạt động xuất khẩu giảm sút, làm cho cung ngoại tệ trên thị trường
giảm, đây cũng là nguyên nhân làm tỷ giá hối đoái tăng. Như vậy, lạm phát ảnh hưởng
đến cung và cầu ngoại tệ theo hướng tăng giá ngoại tệ, tác động cộng gộp làm cho tỷ



giá hối đoái tăng nhanh hơn. Trên thị trường tiền tệ, lạm phát làm đồng tiền mất giá,
người dân sẽ chuyển sang nắm giữ tài sản nước ngoài nhiều hơn, cầu ngoại tệ gia tăng
đẩy tỷ giá hối đoái tăng. Trong trường hợp các quốc gia đều có lạm phát thì những tác
động trên sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát tương đối giữa các quốc gia. Quốc gia nào
có tỷ lệ lạm phát cao hơn thì đồng nội tệ của quốc gia đó sẽ mất giá một cách tương
đối và tỷ giá hối đối tăng. Nước nào có mức độ lạm phát cao hơn mức độ lạm phát
trung bình của thế giới hoặc của khu vực thì đồng tiền nước đó mất giá liên tục. Tỷ lệ
lạm phát thường khác nhau giữa các quốc gia, tạo nên các kiểu mậu dịch quốc tế để
điều chỉnh thích hợp ảnh hưởng của lạm phát đến tỷ giá hối đoái.
Giả sử trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, lạm phát của Nhật tăng cao đột ngột
so với Mỹ. Do JPY mất giá, người dân Nhật sẽ có nhu cầu về USD hơn là JPY. Trong
khi đó, hàng hóa Nhật xuất khẩu ra nước ngoài lại trở nên đắt hơn tương đối, người
dân Mỹ sẽ giảm nhu cầu mua hàng của Nhật. Như vậy, cầu USD tăng và cung USD
giảm gây áp lực khiến cho tỷ giá USD/JPY tăng, tức là USD lên giá.
Sự tác động của lạm phát đến tỷ giá là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến tình hình của
cán cân thương mại, cán cân thanh tốn, cơ cấu nợ nước ngồi… để thấy rõ mối liên
quan này ta sử dụng lý thuyết sức mua của Ricardo- Cassel. Lý thuyết này giả thuyết
rằng tỷ giá hối đoái ở mức cân bằng phải thể hiện sự ngang bằng trong sức mua giữa
hai đồng tiêng tương ứng và nó được gọi là lý thuyết 3P (Purchashing Power Parity).
Lý thuyết này giả thuyết trong một nền kinh tế cạnh tranh lành mạnh, tức là trong đó
cước phí vận chuyển, thuế hải quan giả định bằng 0. Do đó nếu các hàng hóa đồng
nhất thì người tiêu dùng sẽ mua hàng ở nước nào có giá thật sự thấp.
Nếu khơng tính đến các nhân tố khác mà chỉ tính riêng ảnh hưởng của nhân tố lạm
phát, ta có thể dự đoán được sự biến động của tỷ giá trong tương lai.
1.2.3.2. Chênh lệch lãi suất.

Lãi suất là một trong những cơng cụ được các chính phủ sử dụng trong quản lý vĩ mô
nền kinh tế nhất là trong cơ chế thị trường, nó kích thích tập trung nguồn lực tài chính
và phân bổ nguồn lực đó một cách có hiệu quả, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, ổn định

mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Đặc biệt, lãi suất cịn là cơng cụ được sử
dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường, điều chỉnh giá trị đối ngoại của nội
tệ. Chính sách lãi suất cao có xu hướng hỗ trợ sự lên giá của nội tệ, bởi vì nó hấp dẫn
các luồng vốn nước ngoài chảy vào trong nước, nếu lãi suất trong nước cao hơn so với


lãi suất nước ngoài hay lãi suất ngoại tệ sẽ dẫn đến những dòng vốn chảy vào hay sẽ
làm chuyển lượng hóa ngoại tệ trong nền kinh tế sang đồng nội tệ để hưởng lãi suất
cao hơn. Điều này làm cho tăng cung ngoại tệ trên thị trường (cũng có nghĩa làm tăng
cầu đối với đồng nội tệ), từ đó đồng ngoại tệ sẽ có xu hướng giảm giá trên thị trường,
hay đồng nội tệ sẽ tăng giá. Trong trường hợp ngược lại, nếu lãi suất trong nước thấp
hơn so với lãi suất nươc ngoài hay lãi suất ngoại tệ, đồng ngoại tệ có xu hướng tăng
giá trên thị trường hay đồng nội tệ sẽ giảm giá.
1.2.3.3. Cán cân thanh tốn quốc tế.

Cán cân thanh tốn quốc tế có tác động rất quan trọng đến tỷ giá hối đối. Tình trạng
của cán cân thanh toán quốc tế sẽ tác động trực tiếp đến cung và cầu ngoại hối, do đó
nó tác động trực tiếp và rất nhạy bén đến tỷ giá hối đoái. Về nguyên tắc, nếu cán cân
thanh toán quốc tế dư thừa có thể dẫn đến khả năng cung ngoại hối lớn hơn cầu ngoại
hối, từ đó làm cho tỷ giá hối đối có xu hướng giảm. Ngược lại, nếu cán cân thanh
tốn quốc tế thiếu hụt có thể dẫn đến cầu ngoại hối lớn hơn cung ngoại hối, từ đó tỷ
giá hối đối có xu hướng tăng. Trong cán cân thanh toán quốc tế, cán cân thương mại
có tác động cực kỳ quan trọng đến sự biến động của tỷ giá hối đoái mà các nhà kinh tế
đều công nhận. Đây là nhân tố cơ bản đứng sau lưng tỷ giá hối đối. Khi nền kinh tế
có mức tăng trưởng ổn định nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu sẽ tăng do đó
nhu cầu về ngoại tệ cho thanh toán hàng nhập khẩu tăng lên. Ngược lại, khi nền kinh
tế rơi vào tình trạng suy thối thì các hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu
bị đình trệ làm cho nguồn cung ngoại tệ giảm đi. Trong khi nhu cầu nhập khẩu chưa
kịp thời được điều chỉnh trong ngắn hạn việc giảm cung ngoại tệ sẽ đẩy tỷ giá lên cao.
Tuy nhiên tuỳ vào điều kiện của mỗi nước và trong từng giai đoạn phát triển, các cán

cân khác cũng có vai trị rất lợi hại, ví dụ như cán cân giao dịch vốn. Đầu tư trực tiếp
nước ngoài tăng nhanh tạo nên dòng chảy ngoại tệ vào trong nước rất lớn thể hiện
trong tài khoản vốn trong cán cân thanh toán quốc tế, từ đó tác động lên cung ngoại
hối và tỷ giá hối đối.
1.2.3.4. Chính sách của chính phủ.

Chính phủ của bất kỳ một nước nào cũng có thể thực hiện các chính sách thuế khố và
tiền tệ riêng của mình để kiểm sốt nền kinh tế. Trong chế độ tỷ giá hối đối thả nổi có
quản lý, vai trị can thiệp của Chính phủ giữ vị trí quan trọng. Cần nhấn mạnh rằng
Chính phủ can thiệp bằng cơng cụ của thị trường thông qua Ngân hàng Trung ương


chứ khơng phải bằng các cơng cụ hành chính. Về cơ bản, tỷ giá hối đối trở thành một
cơng cụ, giống như các luật lệ về thuế và mức cung tiền, qua đó có thể giúp chính phủ
đạt được các mục tiêu kinh tế mong muốn. Một chính phủ có thể tác động đến tỷ giá
hối đoái bằng phương pháp trực tiếp hay gián tiếp:
Can thiệp trực tiếp: Các NHTƯ có thể tác động đến tỷ giá bằng cách trực tiếp mua vào
ngoại tệ hoặc bán nội tệ ra thị trường.
Can thiệp gián tiếp: NHTƯ có thể tác động đến đồng nội tệ một cách gián tiếp bằng
cách tác động đến các yếu tố ảnh hưởng đến đồng nội tệ; như lãi suất, các biện pháp
kiềm chế lạm phát…
1.2.3.5. Kỳ vọng và tâm lý.

Kì vọng của thị trường vào tỷ giá tương lai cũng là một trong những nhân tố tác động
đến tỷ giá hối đoái. Như các thị trường tài chính khác, thị trường ngoại hối phản ứng
lại với các thơng tin trong tương lai có liên quan đến tỷ giá. Có thể rủi ro sẽ xảy ra
trong những trường hợp mua bán này vì kỳ vọng có thể sai, nhưng vấn đề ở đây là kỳ
vọng có thể ảnh hưởng đến tỷ giá hối đối vì chúng thúc đẩy các nhà đầu tư định chế
thực hiện các vị thế ngoại tệ.
Yếu tố tâm lý là một yếu tố chủ yếu dựa vào sự phán đoán từ các sự kiện, tình hình

chính trị, kinh tế của các nước và thế giới có liên quan. Chẳng hạn, mức thu nhập thực
tế (mức độ tăng GNP thực tế) tăng lên sẽ làm tăng nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ
nhập khẩu, do đó làm cho nhu cầu ngoại hối để thanh toán hàng nhập khẩu cũng tăng
lên. Tăng trưởng hay suy thối kinh tế cũng có ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái. Khi nền
kinh tế trong thời kỳ tăng trưởng nhanh, nhu cầu về ngoại tệ tăng và lúc đó giá ngoại tệ
có xu hướng tăng. Ngược lại, trong thời kỳ kinh tế suy thoái, khủng hoảng, nhu cầu về
ngoại tệ giảm làm cho giá ngoại tệ có xu hướng giảm.
Chương 2: Quản lý tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giai đoạn năm 2018
đến nửa đầu năm 2019
Thực trạng biến động tỷ giá và quản lý tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt

2.1.

Nam
2.1.1.

Thực trạng biến động tỷ giá và quản lý tỷ giá của Ngân hàng

Nhà nước Việt Nam năm 2018.
Thực trạng biến động tỷ giá Việt Nam trong năm 2018 chia làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Từ đầu năm đến cuối tháng 5 năm 2018,


Tỷ giá đồng VND/USD ln duy trì ở trạng thái ổn định, tỷ giá duy trì vào khoảng
22.750-22.950. Trong giai đoạn này NHTƯ còn mua vào được USD do thị trường dư
nguồn cung, động thái nhằm tiếp tục hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ của các
NHTM và khuyến khích NHTM bán ngoại tệ kỳ hạn nhằm giảm bớt áp lực dư thừa
thanh khoản trên thị trường tiền tệ
- Giai đoạn 2: Từ tháng 6/2018 đến hết tháng 8 năm 2018,


Tỷ giá bắt đầu có xu hướng tăng mạnh trên cả hai thị trường chính thức và thị trường
tự do. Đặc biệt, ngày 29/7/2018, tỷ giá đã vượt qua cả mức tỷ giá trần mà Ngân hàng
Nhà nước quy định lên đến 23650 vào ngày 17/8/2018.
Áp lực lên tỷ giá trong giai đoạn này chủ yếu đến từ những tác động tiêu cực trên thị
trường quốc tế. Đầu tiên phải kể đến đó là việc Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) nâng
lãi suất USD lần thứ hai trong năm. Và cụ thể, FED đã tăng lãi suất tới 4 lần, nâng lãi
suất cơ bản cho vay qua đêm của USD từ 2,25% lên 2,5%, gây ảnh hưởng đến tâm lý
của các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Từ cuối tháng
4/2018 đến cuối tháng 7/2018, hiện tượng các nhà đầu tư nước ngoài bán rịng trên
TTCK Việt Nam đã ảnh hưởng ít nhiều đến tỷ giá VND/USD, mặc dù chưa có dấu
hiệu rõ ràng về dịng vốn rút về nước.
Thêm vào đó, sự căng thẳng trong cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc cũng được
coi là yếu tố tác động gián tiếp đến biến động tỷ giá trong năm 2018. Chiến tranh
thương mại leo thang, mà hệ quả là sự mất giá của NDT đã tác động sâu sắc tới nền


kinh tế thế giới, trong đó có Việt Nam. Đáng lưu ý ở đây, cả Mỹ và Trung Quốc đều là
những đối tác thương mại chiến lược của Việt Nam - trong khi Mỹ là thị trường xuất
khẩu hàng đầu với mức đóng góp 20% vào tổng kim ngạch xuất khẩu, Trung Quốc là
thị trường nhập khẩu hàng hóa lớn nhất của nước ta với mức đóng góp 25% vào tổng
kim ngạch nhập khẩu.
Trước những căng thẳng trong quan hệ thương mại với Mỹ, tăng trưởng GDP quý
II/2018 của Trung Quốc đã chững lại, TTCK Trung Quốc cũng như toàn cầu suy giảm
mạnh, nhà đầu tư bán tháo NDT, hệ quả là làm cho NDT giảm giá mạnh nhất so với
USD. Để duy trì sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường quốc tế, một loạt các
quốc gia châu Á khác đứng trước áp lực phá giá đồng tiền của mình. Sự rút vốn của
các nhà đầu tư nước ngoài tại các nền kinh tế mới nổi châu Á cộng với sự trỗi dậy của
tư tưởng bảo hộ thương mại đã khiến hàng loạt đồng tiền ở khu vực châu Á giảm
mạnh so với USD (Hình 4). Những đồng tiền mất giá nhiều nhất phải kể đến là đồng
Rupee của Ấn độ (10,15%), Rupiad của Indonesia (8,46 %), Peso của Phillipinnes

(7,19%) và Won của Hàn Quốc (6,8%) so với thời điểm đầu năm 2018, VND của Việt
Nam. Như vậy, so với tương quan các đồng tiền ngoại tệ khác thì VND chỉ mất giá
hơn 1%. Đây là mức chấp nhận được trong bối cảnh hiện nay, bởi lẽ nếu VND khơng
mất giá thì vơ hình chung VND sẽ lên giá so với các đồng tiền của các quốc gia trong
khu vực, cũng như các nước bạn hàng.


=> NHTƯ đã lần lượt thực hiện hai điều chỉnh về yết giá bán ngoại tệ. Lần thứ nhất,
yết giá bán ở mức 23.050 trong bối cảnh thanh khoản thị trường căng thẳng, chênh
lệch lãi suất VND-USD ở mức âm. Sau khi tỷ giá liên tục duy trì ở mức cao thậm chí
vượt tỷ giá bán ra 23.050, NHTƯ đã thay đổi giá bán ngoại tệ linh hoạt theo công thức
là tỷ giá bán ra = tỷ giá trần – 50 điểm
=> NHTƯ đã can thiệp trực tiếp thông qua việc bán ngoại tệ từ nguồn dự trữ ngoại hối
nhằm cân xứng kịp thời lượng cung cầu trên thị trường ngoại hối, qua đó giảm áp lực
tới tỷ giá hối đối. Theo tính tốn, dự trữ ngoại hối tại thời điểm quý III/2018 là
khoảng 60 tỷ USD. Như vậy, trong giai đoạn tỷ giá căng thẳng trên thị trường ngoại
hối, 6 tháng cuối năm, NHTƯ đã bơm ra thị trường tổng cộng gần 7 tỷ USD, góp phần
ổn định thị trường ngoại hối và tỷ giá.

Về lãi suất liên ngân hàng: Một yếu tố khác ảnh hưởng đến diễn biến tỷ giá, đó là lãi
suất liên ngân hàng được duy trì khá thấp trên thị trường. Số liệu thống kê cho thấy, lãi
suất trên thị trường liên ngân hàng bắt đầu có xu hướng giảm mạnh trên tất cả các kỳ
hạn và duy trì dao động trong khoảng từ 1 - 2% từ tháng 2 cho đến trung tuần tháng
7/2018. Diễn biến này khiến cho các tài sản ghi bằng nội tệ khơng cịn đủ sức hấp dẫn
đối với các nhà đầu tư, chính vì vậy, các nhà đầu tư có tổ chức (chủ yếu là các NHTM)
có xu hướng nắm giữ ngoại tệ thay vì nội tệ, đẩy tỷ giá tăng lên.
=> NHTƯ Việt Nam đã có động thái điều hành, chỉ đạo các tổ chức tín dụng, NHTM
đẩy mặt bằng lãi suất VND tại các kỳ hạn tăng lên quanh mốc 4% nhằm duy trì mức



hấp dẫn đối với các tài sản ghi bằng nội tệ so với tài sản bằng ngoại tệ, qua đó giảm
tâm lý đầu cơ nắm giữ tài sản bằng ngoại tệ.

Còn một yếu tố khác tác động lên tỷ giá trong giai đoạn này đó là lạm phát, tuy nhiên
áp lực của lạm phát tương đối nhỏ, không rõ rệt như các nhân tố khác
=> Kết quả:
- Đưa tỷ giá về một mặt bằng mới phù hợp hơn với diễn biến của thị trường trong nước
và quốc tế.
- Giải tỏa tâm lý của thị trường sau những áp lực dồn nén liên tục trước đó.
Giai đoạn 3: Từ tháng 9/2018 đến ngày 12/12/2018
Tỷ giá VND/USD đã dần ổn định trở lại, xoay quanh mức cân bằng mới 23 .400VND/
1 USD.


Có thể thấy, tỷ giá đã trải qua một năm biến động khá mạnh, chủ yếu do các tác động
tiêu cực từ thị trường quốc tế, nhưng sự ổn định kinh tế vĩ mô trong nước và công tác
điều hành tỷ giá thận trọng, linh hoạt, đồng bộ đã phần nào giúp "hóa giải" bớt áp lực
và mang lại thành công ổn định thị trường ngoại hối và tỷ giá ở mức hợp lý trong suốt
năm.
Nhìn lại năm 2018, mặc dù tỷ giá năm 2018 có mức tăng khá cao so với các năm
trước nhưng xét về tổng thế, có thể nói năm 2018 vẫn là một năm thành cơng trong
công tác điều hành tỷ giá của NHTƯ. NHTƯ đã điều tiết tỷ giá tương đối nhịp nhàng
thông qua 2 phương thức chính là cơ chế tỷ giá trung tâm và mua bán ngoại tệ linh
hoạt. Nhìn chung, các chính sách điều tiết tỷ giá của NHTƯ đã thể hiện rõ tính chủ
động, linh hoạt trước những biến động của thị trường ngoại hối trong nước và quốc tế,
với một số chính sách điều hành trong năm.
2.1.2.

Thực trạng biến động tỷ giá và quản lý tỷ giá của Ngân hàng


Nhà nước Việt Nam nửa đầu năm 2019.
- Từ tháng 1 đến hết tháng 4/2019


Đầu năm 2019, trên thị trường ngoại hối đã bắt đầu xuất hiện nhiều diễn biến “lạ” và
phát đi những tín hiệu đầu tiên về xu hướng của tỷ giá trong năm 2019.
Theo đó, ngay ngày giao dịch đầu tiên của năm 2019 (2/1), Sở Giao dịch Ngân hàng
Nhà nước (NHTƯ) nâng giá mua vào USD thêm 500 đồng lên mức 23.200
VND/USD. Đáng chú ý, đây là lần đầu tiên trong gần một năm qua (năm 2018), nhà
điều hành thay đổi giá mua vào USD.
Với việc điều chỉnh này, giá mua vào USD của NHTƯ đã chuyển từ trạng thái thấp
hơn trước đó trong năm 2018 sang cao hơn giá mua USD được các ngân hàng niêm
yết.
Tại buổi họp Chính phủ thường kỳ sáng ngày 31/1, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho
biết, trong tháng 1, NHTƯ đã mua vào hơn 4 tỉ USD dự trữ ngoại hối.
Bất chấp động thái mua ròng mạnh của NHTƯ, giá USD trên cả thị trường ngân hàng
và thị trường chợ đen đều diễn biến ổn định thậm chí giảm trong hơn một tháng qua,
cho dù đây là khoảng thời gian các doanh nghiệp có nhu cầu lớn về ngoại tệ để nhập
khẩu hàng hóa cho dịp Tết.
Theo đó, tại Vietcombank tỷ giá mua – bán USD niêm yết cho ngày 13/2 là 23.155 23.245 VND/USD, giá mua và giá bán tương đương với với mức đóng cửa năm 2018
Trên thị trường chợ đen, xu hướng sụt giảm còn diễn ra rõ ràng hơn khi tính từ đầu
năm giá USD đã giảm khoảng 40 đồng/USD ở cả hai chiều mua và bán, giao dịch ở
mức 23.210 - 23.240 VND/USD.


Đáng chú ý, hiện tại giá bán USD chợ đen đã xuống thấp hơn giá bán USD tại các
ngân hàng từ 10 - 20 đồng/USD. Đây là một diễn biến lạ, khác hẳn tình trạng giá chợ
đen cao hơn giá ngân hàng trong suốt gần 6 tháng cuối năm 2018.
Trong giai đoạn này, thị trường ngoại tệ chủ yếu bị ảnh hưởng đến từ nguồn cung
ngoại tệ và các hoạt động điều hành của Ngân hàng Nhà nước, xu hướng ơn hịa trong

chính sách tiền tệ của Fed cùng với sự phục hồi của đồng nhân dân tệ.
Thứ nhất, nguồn cung ngoại tệ là dồi dào. Phát biểu tại chương trình Xn q hương
2019, Tổng Bí thư - Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cho biết lượng kiều hối đổ về
Việt Nam trong năm 2018 ước đạt khoảng 16 tỉ USD. Con số này gấp hơn 100 lần so
với năm 1993 và tăng 2,2 tỉ USD so với năm 2017.
Vào dịp đầu năm 2019 cũng là giai đoạn cận kề Tết Nguyên đán của Việt Nam, đây là
thời gian cao điểm kiều hối tập trung chuyển về nước, chưa kể Việt kiều về quê ăn Tết
mang theo ngoại tệ. Do đó, có thể một nguồn cung ngoại tệ lớn đã được bổ sung vào
thị trường thơng qua dịng kiều hối trong những tháng gần Tết.
Bên cạnh đó, trong tháng 1/2019, Vietcombank cho biết đã phát hành riêng lẻ thành
công hơn 111 triệu cổ phiếu mới cho quỹ đầu tư quốc gia của Singapore (GIC Private
Limited - GIC) và Ngân hàng Mizuho của Nhật Bản (Mizuho Bank Ltd) và thu về
khoảng khoảng 265 triệu USD. Và đây cũng là một nguồn cung ngoại tệ khá lớn cho
hệ thống ngân hàng trong giai đoạn cận Tết.
Như vậy, trong những tháng đầu năm 2019 nguồn cung ngoại tệ đã có nhiều diễn biến
thuận lợi và có thể là ngun nhân chính góp phần làm lặng sóng “tỷ giá”.
Thứ hai, một yếu tố khác giúp tỷ giá ổn định trong giai đoạn này là do phương thức
điều hành chủ động của NHTƯ thông qua động thái bán ngoại tệ kỳ hạn cho các tổ
chức tín dụng trong hai ngày 23/11 và 26/11/2018.
Trong đó, đáng chú ý, ngày đến hạn (ngày các nhà băng nhận về USD) của đợt mua
này là ngày 31/1/2019, tức trước Tết Nguyên đán hai tuần. Việc bán kì hạn ngoại tệ
như một cam kết "bảo hiểm" nguồn cung, giãn cầu ngoại tệ nhằm tạo sự ổn định cho
thị trường ngoại tệ.
Thứ ba, sự ơn hịa hơn của Fed và xu hướng hồi phục của đồng Nhân dân tệ
Trong những tháng đầu năm Fed đã tỏ ra “ơn hịa” hơn trong các động thái chính sách
của mình. Rõ ràng nhất là tại cuộc họp chính sách tháng 1/2019, Fed đã quyết định giữ
nguyên mức lãi suất cho vay qua đêm trong khoảng 2,25 – 2,5%.


Bên cạnh đó, một động thái đánh dấu sự thay đổi lớn trong hoạt động điều hành của

Fed là khi cơ quan này đã bỏ cụm từ thể hiện có thể nâng lãi suất thêm như đã đề cập
trong các cuộc họp trước đó. Điều này báo hiệu sự linh hoạt hơn trong q trình điều
hành chính sách tiền tệ.
Mặc dù đồng USD đã bắt đầu hồi phục trở lại trong những ngày đầu năm do lo ngại về
xung đột thương mại Mỹ - Trung nóng trở lại và nhà đầu tư quay về tìm kiếm nơi trú
ẩn an tồn tại đồng USD. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia quốc tế nhận định với xu hướng
ơn hịa hơn của Fed thì đồng bạc xanh khó có khả năng tăng giá mạnh trong năm 2019.
Trước đó, đồng USD đã liên tục tăng giá trong những tháng cuối năm 2018 do các
động thái tăng lãi suất của Fed. Và khi Fed trở nên ôn hòa hơn, đồng USD thiếu đi một
phần hậu thuẫn khiến cho nó trở nên yếu hơn, điều này tác động làm ổn định tỷ giá
trong nước.
Cùng với sự ổn định trở lại của đồng bạc xanh, đồng nhân dân tệ của Trung Quốc cũng
đã có một khoảng thời gian tăng giá mạnh. Theo đó, tính từ đầu năm tới nay đồng
nhân dân tệ đã tăng khoảng 1,1% so với đồng USD và tăng khoảng 3% so với mức đáy
được tạo lập vào cuối tháng 10. Với mối quan hệ kinh tế chặt chẽ giữa Việt Nam và
Trung Quốc, việc đồng nhân dân tệ phục hồi trở lại đã làm giảm sức ép mất giá của
tiền đồng.
- Từ đầu tháng 5/2019 đến hết tháng 6/2019
Đầu tháng 5/2019, tỷ giá VND/USD biến động mạnh hơn, khiến cho tính đến hết ngày
24/5/2019, tỷ giá giao dịch đã tăng khoảng 0,95% so với đầu năm; riêng giai đoạn từ
ngày 6/5 đến 24/5/2019, tỷ giá giao dịch đã tăng khoảng 0,5%.
Nguyên nhân chủ yếu là do: (i) đồng USD mạnh lên trên thị trường thế giới, (ii) lo
ngại về cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung leo thang; qua đó tác động đến tâm lý và
hoạt động của các doanh nghiệp, nhà đầu tư và người dân, còn quan hệ cung - cầu
ngoại tệ cơ bản ổn định. Đáng lưu ý là từ ngày 20/5 đến nay, tỷ giá đã ổn định trở lại,
thậm chí VND có xu hướng tăng giá nhẹ so với USD.


Nửa đầu tháng 6, VND đã tăng giá 0,4% so với USD
Ở thị trường ngoại hối trong nước, trong bối cảnh quốc tế khơng có diễn biến mới,

cung cầu trong nước thuận lợi khiến cho VND có một tuần tăng giá khá mạnh. Tỷ giá
giao dịch USD/VND giảm 80 đồng/USD trên ngân hàng về mức 23.265/23.385 đồng
(mua vào/bán ra) và 80 đồng/USD ở chiều mua vào, 85 đồng/USD chiều bán ra trên
thị trường tự do, về mức 23.310/23.330 đồng.
Như vậy, chỉ trong nửa đầu tháng 6, VND đã tăng giá 0,4% so với USD, giảm mức
mất giá của VND từ -0,84% vào cuối tháng 5 xuống chỉ còn -0,43% so với cuối năm
2018. Tỷ giá trung tâm giảm không đáng kể, giảm 1 đồng/USD, ở mức 23.059
đồng/USD.
Thị trường ngoại hối bước qua quý II nhiều biến động, tuy nhiên đang dần xuất hiện
những tín hiệu thuận lợi cho xu hướng ổn định của tỷ giá trong các quý tiếp theo.


2.2.

Đánh giá thực trạng quản lý tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước
2.2.1. Thành tựu và nguyên nhân

Trong khoảng thời gian từ 2018 đến đầu năm 2019, NHTƯ Việt Nam đã:
- Ổn định sức mua của đồng Việt Nam, góp phần hạn chế tác động tăng chỉ số giá.
- Giá cả ngoại tệ từng bước được gắn với cung cầu, góp phần ổn định kinh tế vĩ mơ,
cải thiện cán cân thương mại và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu trên do NHTƯ đã có nhiều chuyển biến
tích cực về mặt chính sách theo hướng điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt. Thị
trường quốc tế ổn định cũng như sự thích ứng nhanh với các biến động của thị trường
cũng là một trong các nguyên nhân của những thành tựu kể trên
2.2.2. Khó khăn và nguyên nhân

- Cung và cầu ngoại tệ chưa thể hiện đúng tình hình thị trường ngoại hối trong nước.
- Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động kém hiệu quả, tình trạng “chợ đen”
ngoại tệ phổ biến.

- Vẫn tồn tại hiện tượng “đơla hóa”.
- Quy định quản lý còn nhiều bất cập, chế tài xử lý chưa nghiêm khắc.
Khó khăn trong chính sách điều hành tỷ giá của NHTƯ do NHTƯ chưa triệt để trong
các biện pháp hạn chế tình trạng đơ la hố, các chính sách, chủ trương của NHTƯ
chưa được quán triệt và triển khai rõ ràng để hạn chế các tình trạng trên
2.3.

Các đề xuất nhằm tăng cường quản lý tỷ giá của NHTƯ Việt Nam trong thời
gian tới
Từ diễn biến thực tế trên thị trường hiện nay, bài viết đề xuất một số khuyến nghị
chính sách nhằm giúp NHTƯ ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối như sau:
Thứ nhất, NHTƯ tiếp tục phát đi thơng điệp về điều hành chính sách tiền tệ thận trọng
linh hoạt nhằm ổn định lạm phát, kinh tế vĩ mô, thúc đẩy sản xuất và tái cấu trúc nền
kinh tế. Biện pháp này góp phần làm gia tăng niềm tin của công chúng vào hoạt động
điều hành của NHTƯ và giá trị nội tệ, qua đó góp phần ổn định thị trường tài chính nói
chung và thị trường ngoại hối nói riêng.
Thứ hai, tiếp tục kiên định với các biện pháp hạn chế tình trạng đơ la hóa, tình trạng
vàng hóa nền kinh tế. Đồng thời, cần chú ý đặc biệt tới tình trạng đơ la hóa tiền mặt


×