Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển thương mại điện tử ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.64 KB, 54 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÔN: NGHIỆP VỤ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI:
TÌM HIỂU NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN
TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Ở VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Diệu Linh
Sinh viên thưc hiện: Nhóm 1
04 – 2013
MỤC LỤC
[Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển TMĐT ở VN] [NVTMQT – Nhóm 1]
PHẦN 1:
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Trong hai thập kỷ qua, công nghệ thông tin và thương mại điện tử đã
xâm nhập vào mọi góc cạnh của đời sống xã hội nói chung và của doanh
nghiệp nói riêng. Đối với doanh nghiệp, thương mại điện tử góp phần hình
thành những mô hình kinh doanh mới, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh
doanh. Đối với người tiêu dùng, thương mại điện tử giúp mua sắm thuận tiện
các hàng hóa và dịch vụ trên các thị trường ở mọi nơi trên thế giới.
Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng quay của thương mại điện tử.
Trong những năm gần đây, thương mại điện tử Việt Nam đã phát triển rất
mạnh mẽ và đã đạt được nhiều thành công lớn. Tuy nhiên, việc phát triển
thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay vẫn đang còn khá hạn chế so với sự
phát triển của thế giới. Vậy, Việt Nam có những thuận lợi và khó khăn gì trong
việc phát triển thương mại điện tử? Để có thể trả lời cho câu hỏi này và hiểu
rõ hơn về những vấn đề mà Việt Nam gặp phải trong việc phát triển thương
mại điện tử, nhóm chúng tôi đã quyết định thực hiện đề tài tìm hiểu những


thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam.
2. Mục tiêu và đối tượng nghiên cứu
• Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu chung: phân tích được những khó khăn và thuận lợi trong việc phát
triển thương mại điện tử ở Việt Nam, từ đó đề ra một số giải pháp nhằm phát
triển TMĐT ở Việt Nam.
- Mục tiêu cụ thể:
 Hiểu được cơ sở lý thuyết chung về thương mại điện tử và các vấn đề về
thương mại điện tử.
 Hiểu được cách thức hoạt động và những yêu cầu cần thiết đối với ứng
dụng thương mại điện tử.
3
[Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển TMĐT ở VN] [NVTMQT – Nhóm 1]
 Phân tích những khó khăn và thuận lợi trong việc phát triển thương mại
điện tử ở Việt Nam
 Đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển thương mại điện tử ở Việt
Nam
 Phân tích sự thành công của một công ty TMĐT hàng đầu ở Việt Nam
hiện nay
• Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là:
- Những hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam:
 Các phương tiện kỹ thuật của thương mại điện tử
 Các hình thức hoạt động và giao dịch của thương mại điện tử
- Những thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển các hoạt động thương mại
điện tử này ở Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu định tính: Trong giới hạn và tính chất của bài nghiên cứu chủ yếu
mang tính chất tìm hiểu, mô tả và lý luận, nên để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng
phương pháp nghiên cứu định tính, nghiên cứu các tài liệu, sách báo, Internet để thu

thập dữ liệu thứ cấp nhằm hiểu rõ hơn về thương mại điện tử và thấy được những
thuận lợi và khó khăn trong sự phát triển TMĐT ở Việt Nam.
4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Thương mại điện tử ra đời đã khắc phục được những hạn chế của hình thức
thương mại truyền thống, đem lại nhiều lợi ích cho các tổ chức, người tiêu dùng và xã
hội. Tuy nhiên, không phải quốc gia nào, khu vực nào cũng thành công với việc ứng
dụng hình thức thương mại điện tử này. Mỗi nước đều có những thuận lợi và khó khăn
riêng trong việc phát triển ứng dụng hình thức thương mại này. Qua việc tìm hiểu
những thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển triển thương mại điện tử ở Việt
Nam, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về những thuận lợi và khó khăn đối với việc phát triển
thương mại điện tử ở Việt Nam. Qua đó, chúng ta sẽ đề xuất những giải pháp để có thể
khai thác tốt những thuận lợi và khắc phục, hạn chế được các khó khăn trong phát triển
4
[Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển TMĐT ở VN] [NVTMQT – Nhóm 1]
thương mại điện tử ở Việt Nam để thúc đẩy thương mại điên tử Việt Nam phát triển lên
một tầm cao mới, theo kịp được tiến độ phát triển của thương mại điện tử thế giới.
5. Tổng quan tài liệu
Có khá nhiều đề tài nghiên cứu về lĩnh vực thương mại điện tử, tuy nhiên đối với chủ đề:
“nghiên cứu về sự thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam” thì số
lượng đề tài còn khá hạn chế, nhất là những năm gần đây.
Có thể kể ra một số đề tài như:
- Khóa luận tốt nghiệp (2006), Thương mại điện tử và sự phát triển ở Việt Nam.
Đề tài này nêu ra những nét khái quát về các vấn đề liên quan đến thương mại điện tử, đồng
thời đi sâu phân tích thực trạng sự phát triển của thương mại điện tử ở Việt Nam, qua đó đưa ra giải
pháp thúc đẩy sự phát triển của thương mại điện tử ở Việt Nam.
Điểm mạnh của đề tài này là phân tích rất sâu và cặn kẽ thực trạng thương mại điện tử ở Việt
Nam và giải pháp phát triển
Tuy nhiên, đề tài thực hiện năm 2006, nên phạm vi thời gian để thu thập số liệu thứ cấp từ
năm 2006 trở về trước, đây là hạn chế rất lớn đối với tài liệu này để tham khảo đối với đề tài mà chúng
tôi đang thực hiện, nhất là trong bối cảnh internet và thương mại điện tử phát triển với tốc độ nhanh

như vũ bão những năm trở lại đây.
- Tiểu luận (2004), Những thuận lợi và khó khăn của thương mại điện tử ở Việt Nam và so sánh
với sự phát triển của thế giới.
Đề tài này nêu ra những nét khái quát về các vấn đề liên quan đến thương mại điện tử, đồng
thời đi sâu phân tích thực trạng sự phát triển của thương mại điện tử ở Việt Nam và thế giới, phân tích
những thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam, qua đó đưa ra giải
pháp thúc đẩy sự phát triển của thương mại điện tử ở Việt Nam.
Điểm mạnh của đề tài này là có sự so sánh giữa sự phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam
so với mặt bằng chung của thế giới và một số nước trên thế giới. Phân tích được một số thuận lợi và
khó khăn trong việc phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam.
Tuy nhiên, đề tài này cũng là một đề tài cũ (thực hiện năm 2004) nên rất nhiều mặt mà đề tài
này phân tích đã thay đổi rất nhiều sau một thời gian dài.
- Khóa luận tốt nghiệp (2002), Thương mại điện tử - thực trạng và giải pháp
Điểm mạnh của đề tài này là đi sâu phân tích các đòi hỏi để phát triển thương mại điện tử,
cũng như phân tích khá sâu về thực trạng phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam và đặc biệt chú
trọng đến hệ thống giải pháp nhằm phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam.
Tuy nhiên đề tài này cũng mắc một hạn chế như hai đề tài trên đó là thực hiện vào năm 2002,
số liệu cũng như hệ thống lý luận khá cũ và khác xa so với thực tại.
5
[Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển TMĐT ở VN] [NVTMQT – Nhóm 1]
PHẦN 2:
NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Khái niệm thương mại điện tử
Thương mại điện tử (sau đây viết tắt là TMĐT) (còn gọi là E-Commerce
hay E-Business) là quy trình mua bán hàng hóa và dịch vụ thông qua các
phương tiện điện tử và mạng viễn thông, đặc biệt là qua máy tính và mạng
Internet.
2. Các hình thức hoạt động và giao dịch của thương mại điện tử
6

[Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển TMĐT ở VN] [NVTMQT – Nhóm 1]
2.1. Các hình thức hoạt động của thương mại điện tử
2.1.1. Thư điện tử (Email)
Email giúp cho doanh nghiệp đạt được mục tiêu truyền gửi thông tin một
cách nhanh nhất và tiết kiệm chi phí.
Một địa chỉ email tốt:
• Ngắn gọn -> dễ nhớ, tránh gõ nhầm,
• Gắn với địa chỉ website và thương hiệu.
=> Để tăng tính đồng nhất giữa địa chỉ website và địa chỉ email-> lấy địa
chỉ website làm phần gốc
2.1.2. Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) - electronic data interchange
EDI là việc trao đổi trực tiếp các dữ liệu dưới dạng "có cấu trúc" giữa
các máy tính điện tử của các công ty hay tổ chức đã thoả thuận buôn bán với
nhau, một cách tự động mà không cần có sự can thiệp của con người.
Sự tiện lợi:
• Chi phí giao dịch thấp
• Khả năng đối chiếu chứng từ tự động, hiệu quả, nhanh chóng và
chính xác
• Quan hệ đối tác đem lại hiệu suất cao
2.1.3. Bán hàng qua mạng
Website bán lẻ là hình thức để trưng bày hình ảnh hàng hoá giao dịch
và bán hàng hoá cho người tiêu dùng.
Kinh doanh những món hàng có giá trị nhỏ và vừa, những mặt hàng tiêu
dùng thường ngày, hàng hoá có thể số hoá, dịch vụ,
Quy trình mua bán trên một website bán lẻ thường diễn ra như sau:
• xem hàng
• “Đặt mua”
• Sau khi xem và chọn hàng xong->“Giỏ mua hàng”
• Thanh toán-> người mua sẽ điền mã số khách hàng (nếu đã đăng
ký) hoặc điền các thông tin về địa chỉ nhận hàng và chọn phương

thức thanh toán.
=> Là 1 nhà phân phối hàng hoá, không trực tiếp sản xuất, không cần
diện tích quá lớn để làm cửa hàng.
7
[Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển TMĐT ở VN] [NVTMQT – Nhóm 1]
2.1.4. Quảng cáo trực tuyến
Hình thành một website riêng -> đăng hình quảng cáo, trực tiếp gửi thư
điện tử tới từng khách hàng, đối tác tiềm năng
2.1.5. Thanh toán trực tuyến
Là hình thức thanh toán tiến hành trên môi trường internet, thông qua
hệ thống thanh toán điện tử.
Được sử dụng khi chủ thể tiến hành mua hàng trên các siêu thị ảo và
thanh toán qua mạng.
2.2. Các hình thức giao dịch của thương mại điện tử
• Giữa các doanh nghiệp và người tiêu dùng B2C: Các doanh nghiệp bán cho công chúng thường
thông qua danh mục sử dụng phần mềm giỏ mua hàng
• Giữa các doanh nghiệp với nhau B2B: Các công ty kinh doanh với nhau.
• Giữa doanh nghiệp với Chính phủ; B2G: Giao dịch giữa doanh nghiệp với cơ quan nhà nước,
trong đó cơ quan nhà nước đóng vai trò khách hàng.
• Giữa người tiêu dùng với nhau; C2C: Các cá nhân có thể mua bán với nhau nhờ hệ thống thanh
toán trực tuyến
• Giữa người tiêu thụ với Chính phủ; C2G: Là loại hình giao dịch giữa cơ quan nhà nước với cá
nhân. Đây chủ yếu là các giao dịch mang tính hành chính, nhưng có thể mang những yếu tố của
TMĐT.
3. Vai trò của thương mại điện tử
Có thể nói rằng thế kỷ 21 đã và đang chứng kiến sự phát triển tột bậc trong ngành công nghệ
thông tin.
Công nghệ thông tin đã và đang thay đổi thế giới cũng như tạo nên một cuộc cách mạng thực
sự trong mọi lĩnh vực của khoa học và đời sống Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động
SXKD cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Khái niệm ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động

thương mại hay còn gọi là thương mại điện tử ra đời và đang trở thành xu thế mới thay thế dần phương
thức kinh doanh cũ với rất nhiều ưu thế nổi bật như nhanh hơn, rẻ hơn, tiện dụng hơn, hiệu quả hơn và
không bị giới hạn bởi không gian và thời gian…vv.
Tuy nhiên đối với một số nước đang phát triển nói chung và việt nam nói riêng TMDT lại là
một điều khá mới mẻ dẫu rằng việc nắm bắt xu thế và phát triển đã và đang ở cả chiều rộng lẫn chiều
sâu.
Các doanh nghiệp và các cá nhân có thể dùng TMĐT để giảm các chi phí giao dịch bằng cách
đẩy luồng thông tin và tăng cường thêm sự phối hợp các hoạt động để giảm bớt tình trạng không rõ
ràng. Bằng việc giảm bớt chi phí tìm kiếm thông tin về người kinh doanh, người bán và tăng số lượng
tham gia thị trường, TMĐT có thể thay đổi sự thu hút thống nhất theo chiều thẳng đứng đối với rất
8
[Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển TMĐT ở VN] [NVTMQT – Nhóm 1]
nhiều công ty. Cũng chưa thể chắc rằng là việc chấp nhận TMĐT sẽ khiến cho các tổ chức theo cấu
trúc vòm quay trở lại cấu trúc thị trường cũ của họ, nhưng đây cũng là một khả năng hoàn toàn có thể.
TMĐT có thể khiến cho các mạng lưới dựa hoàn toàn vào chia sẻ thông tin này có thể duy trì
và quản lý dễ dàng hơn. Một số nhà nghiên cứu tin tưởng rằng những hình thức tổ chức thương mại
này sắp tới sẽ trở nên có ưu thế.
Mặc dù đã có rất nhiều doanh nghiệp biết ứng dụng và phát triển TMDT và trở thành điển
hình trong lĩnh vực này như công ty Vietgo, công ty cổ phần vật giá với sàn giao dịch TMĐT:
vatgia.com; công ty peaceoft solution với trang web: chodientu.vn, …vv.
Tuy nhiên, việc khai thác và ứng dụng TMDT luôn là hai mặt của một vấn đề:
• Thứ nhất chúng ta đang ở giao thời giữa kinh doanh truyền thống và phương thức kinh doanh
TMDT, do vậy luôn có sự so sánh thực dụng và ngắn hạn về tính hiệu quả giữa hai phương
thức này.
• Thứ hai TMDT cũng đòi hỏi phải có cách nhìn nhận khác hơn, trí tuệ hơn và khó hơn (không
theo lối tư duy cũ), việc ứng dụng và phát triển TMDT đỏi hỏi sự nhận thức sâu rộng trong xã
hội và môi trường làm việc cũng như quản lý và hạn chế các mặt tiêu cực như việc gian lận,
niềm tin, phá hoại vv đã và đang ở trên rất khó kiểm soát vì tính nhanh, mạnh và kỹ thuật cao
của loại hình này.
4. Tổng quan về thương mại điện tử ở Việt Nam

4.1. Sơ lược quá trình phát triển của thương mại điện tử ở Việt Nam
Thương mại điện tử ở Việt nam, nếu xét theo nghĩa rộng (bao gồm cả các phương tiện truyền
thống như: điện thoại, telex, fax hay việc sử dụng máy tính như một công cụ độc lập) thì đã hình
thành từ lâu. Tuy nhiên, nếu xét theo nghĩa chặt chẽ hơn (thương mại điện tử chủ yếu là tiến hành trao
đổi dữ liệu và mua bán dung liệu, hàng hoá, dịch vụ qua mạng Internet và các phân mạng của nó) thì
sự tham gia của Việt nam chỉ mới bắt đầu từ cuối năm 1997.
Tháng 11/1997, Việt nam chính thức kết nối vào mạng Internet. Ngày 05/03/1997, Nghị định
21/CP được ban hành kèm theo quy chế tạm thời về quản lý, thiết lập, sử dụng mạng Internet ở Việt
nam.
Để xúc tiến hoạt động thương mại điện tử tại Việt nam, tháng 6/1998, Ban chỉ đạo quốc gia về
Công nghệ thông tin thành lập Tổ công tác thương mại điện tử. Đến tháng 12/1998, Bộ thương mại đã
thành lập Ban thương mại điện tử.
Giữa năm 1999, Chính phủ giao cho Bộ thương mại chủ trì dự án quốc gia “Kỹ thuật thương
mại điện tử”.
Trong năm 2000, Chính phủ giao cho Bộ thương mại làm đầu mối đàm phán với các nước
ASEAN xây dựng Hiệp định khung E-ASEAN và hiệp định này sau đó đã được lãnh đạo cấp cao các
nước ASEAN ký tại Singapore ngày 24/11/2000.
9
[Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển TMĐT ở VN] [NVTMQT – Nhóm 1]
Nghị quyết số 07/2000/NQ-CP ngày 5/6/2000 của Chính phủ về xây dựng và phát triển công
nghiệp phần mềm giai đoạn 2001 – 2005 nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước đầu tư, kinh doanh, sản xuất và cung ứng dịch vụ phần mềm.
Ngày 17/10/2000, Bộ chính trị có chỉ thị số 58-CT/TW về “Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển
công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá”.
Trong năm 2000, Thủ tướng Chính phủ cũng ký một loạt quyết định và nghị định nhằm mở
rộng việc sử dụng hệ thống thông tin điện tử tạo tiền đề cho sự phát triển của thương mại điện tử trong
tương lai: Quyết định 19/2001/QĐ-TTg, quyết định 81/2001/QĐ-TTg, Nghị định số 55/2001/NĐ/CP.
Trong Văn kiện đại hội Đảng lần thứ IX tháng 04/2001 cũng đã khẳng định quyết tâm phải phát triển
thương mại điện tử ở Việt nam. Đây chính là kim chỉ nam quan trọng mở đường và là động lực mạnh
mẽ thúc đẩy sự phát triển của công nghệ thông tin và thương mại điện tử ở Việt nam.

Quyết định 112/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 25/7/2001 nhằm thiết lập hệ
thống thông tin từ Trung ương đến các Bộ, ngành, địa phương phục vụ công tác điều hành các hoạt
động của Chính phủ.
Cuối năm 2001, Bộ thương mại đã hoàn thành và trình lên Chính phủ bản đề án Phát triển
thương mại điện tử tại Việt nam giai đoạn 2001-2005. Bản đề án này giúp Chính phủ có những đánh
giá về hiện trạng ban đầu về tình hình phát triển thương mại điện tử trong nước và trên thế giới. Từ
những đánh giá này, Chính phủ cũng có những định hướng thống nhất và tạo ra một môi trường thuận
lợi cho sự phát triển thương mại điện tử ở Việt nam. Có thể coi Bản đề án trên là một bước đi quan
trọng và thiết thực thể hiện quyết tâm của Việt nam hội nhập vào nền kinh tế kỹ thuật số của khu vực
và thế giới.
Ngày 1/3/2006 Luật giao dịch điện tử Việt Nam chính thức có hiệu lực.
Ngày 9/6/2006 Chính phủ ban hành Nghị định về Thương mại điện tử với việc thừa nhận
chứng từ điện tử có giá trị pháp lý tương đương chứng từ truyền thông trong mọi hoạt động thương
mại từ chào hàng, chấp nhận chào hàng, giao kết hợp đồng cho đến thực hiện hợp đồng.
Ngày 15/2/2007 Nghị định số 26/2007/NĐ-CP quy định chi tiết về Chữ ký số và Dịch vụ
chứng thực chữ ký số được ban hành.
Ngày 23/2/2007 Chính phủ ban hành Nghị định số 27/2007/NĐ-CP qui định chi tiết thi hành
Luật Giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính.
Hệ thống cấp phép nhập khẩu tự động được triển khai từ năm 2008 có 656 Doanh nghiệp tham
gia.
Ngày 23/3/2011 triển khai mở rộng Hải quan điện tử tại Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên
Huế, Bình Định, Đắc Lắc, Tây Ninh, Long An. Năm 2011 cả nước có 46.919 Doanh nghiệp tham gia
thí điểm Hải quan điện tử.
10
[Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển TMĐT ở VN] [NVTMQT – Nhóm 1]
Cho đến nay, thương mại điện tử đã phát triển mạnh. Đánh giá về thương mại điện tử trong
năm 2012, ông Nguyễn Hòa Bình, Trưởng ban truyền thông của VECOM nói: "Năm 2012 đã xây
dựng hoàn thiện được hệ thống hệ tầng cho thương mại điện tử, có thể nói gần như theo kịp tiến bộ
của thế giới". Hiện các mô hình hay công cụ hỗ trợ như rao vặt, sàn giao dịch, website bán lẻ trực
tuyến, mua theo nhóm, giải pháp thanh toán online, vận chuyển, đều có tại thương mại điện tử Việt

Nam.
Trưởng ban truyền thông VECOM cho rằng, năm 2013 các vấn đề vận chuyển hàng hóa sẽ trở
nên nóng hơn đối với mọi website bán hàng trực tuyến, đòi hỏi sự ra đời và khâu chuẩn bị tốt từ các
dịch vụ chuyển phát và logistic mang tính chất chuyên nghiệp hơn.
Mua hàng theo nhóm cũng được dự báo sẽ điều chỉnh sang mô hình các sàn giao dịch khuyến
mại giảm giá. Theo đó, các doanh nghiệp có nhu cầu sẽ tự đăng khuyến mại và chịu mọi trách nhiệm
về chất lượng sản phẩm, dịch vụ của mình. Người tiêu dùng cũng có tiếng nói hơn khi được đánh giá
thương hiệu của nhà cung cấp sau khi sử dụng chương trình ưu đãi.
4.2. Thành tựu sau hơn 10 năm phát triển
Qua hơn 10 năm phát triển, TMĐT Việt Nam đã đạt được một số thành tựu đáng kể:
• Một là, TMĐT đã được ứng dụng rộng khắp trong hoạt động của các doanh nghiệp. Theo
kết quả khảo sát của Bộ Công Thương, 100% doanh nghiệp tham gia khảo sát đã trang bị
máy tính. Hầu hết các doanh nghiệp đều chấp nhận việc đặt hàng hoặc nhận đặt hàng
thông qua các phương tiện điện tử, trong đó số lượng doanh nghiệp đặt và chấp nhận đặt
hàng thông qua internet ngày càng tăng. Các doanh nghiệp cũng đã nhận thức được và
quan tâm nhiều hơn tới những vấn đề đặc thù trong TMĐT như bảo đảm an toàn thông tin,
bảo vệ thông tin cá nhân. Doanh nghiệp cũng rất chú trọng tới việc xây dựng, quảng bá
hình ảnh và sản phẩm trên môi trường internet thông qua việc xây dựng website riêng;
tham gia các sàn giao dịch TMĐT, mạng xã hội; quảng cáo trên các báo điện tử, các
website tìm kiếm thông tin nổi tiếng như google.com, yahoo.com, v.v Với thực trạng
ứng dụng như vậy, TMĐT đã trở thành bạn đồng hành không thể thiếu của tất cả các
doanh nghiệp Việt Nam .
• Hai là, việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến liên quan đến thương mại được triển khai
khá nhanh. Đến nay, hầu hết dịch vụ công của các Bộ, ngành đã được cung cấp ở mức độ
2 trên trang thông tin điện tử của từng cơ quan. Đã có khá nhiều dịch vụ công trực tuyến
được cung cấp ở mức độ 3 và một số dịch vụ được cung cấp ở mức độ 4.
• Ba là, việc mua bán hàng hóa, dịch vụ qua internet đã dần trở nên quen thuộc với một bộ
phận người tiêu dùng tại các đô thị lớn. Phương thức thanh toán và giao hàng cũng được
doanh nghiệp thực hiện linh hoạt, đáp ứng yêu cầu của người mua.
• Bốn là, TMĐT đã phát triển rộng khắp các ngành, lĩnh vực và địa phương trên cả nước.

Sau 10 năm phát triển, TMĐT tử không còn chỉ tập trung tại hai thành phố lớn là Hà Nội
11
[Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển TMĐT ở VN] [NVTMQT – Nhóm 1]
và TP. Hồ Chí Minh mà đã phát triển rộng khắp cả nước. Cùng với việc ứng dụng thương
mại điện tử trong doanh nghiệp thuộc mọi ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh ngày càng
tăng, các cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương cũng rất quan tâm, chú trọng tới vấn đề
quản lý nhà nước về TMĐT.
4.3. Triển vọng tương lai
Các chuyên gia phân tích đánh giá, thị trường thương mại điện tử ở Việt Nam là “một thị
trường nhiều tiềm năng, đang hình thành và chuẩn bị phát triển”.
Thị trường Việt Nam là một thị trường hết sức tiềm năng. Tiềm năng của TMĐT Việt Nam thể
hiện ở 2 khía cạnh. Khía cạnh thứ nhất là mức độ chi tiêu. Người Việt Nam có tỷ lệ chi tiêu tiêu dùng
rất cao, có thể chiếm tới 60 – 70% thu nhập. Cùng với đó là sự phát triển mạnh mẽ của Internet và
mobile, phục vụ cộng đồng người sử dụng rất trẻ của Việt Nam với hơn 60% dân số dưới 35 tuổi. Đó
là những cơ sở để khẳng định TMĐT chắc chắn sẽ phát triển được.
Khía cạnh thứ 2 là yếu tố địa phương của TMĐT Việt Nam. Việc thành công tại Việt Nam đòi
hỏi những mô hình hết sức đặc thù. Thực tế cho thấy có nhiều hình thức TMĐT đã chứng minh được
sự phù hợp với Việt Nam trong thời gian vừa rồi, ví dụ như là gian hàng trực tuyến, mua theo nhóm,
hay các mô hình rao vặt trực tuyến. Bên cạnh đó có nhiều mô hình vẫn còn rất chật vật trong việc
chinh phục người tiêu dùng và doanh nghiệp Việt Nam như lĩnh vựcđấu giá trực tuyến hay lĩnh vực
sàn giao dịch B2B. Đối với những mô hình còn đang đi tìm sự phù hợp thì các công ty TMĐT sẽ nhìn
nhận đó là những cơ hội để sáng tạo những mô hình phù hợp với địa phương.
Tuy nhiên, con đường còn rất chông gai. Trong thời gian vừa rồi, TMĐT vẫn tăng trưởng
nhưng quy mô tăng trưởng thì không như kỳ vọng. Điều này cho thấy là người dùng đã có mức độ sẵn
sàng nhất định, nhưng các doanh nghiệp TMĐT còn rất nhiều việc để làm để đưa ra những lợi ích tốt
nhất và phù hợp nhất cho người dùng, qua đó thúc đẩy sự phát triển của TMĐT Việt Nam.
Có thể nói hiện nay, TMĐT Việt Nam đang ở cuối giai đoạn hình thành, đang ở bước chuyển
tiếp để bước sang giai đoạn phát triển.
12
[Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển TMĐT ở VN] [NVTMQT – Nhóm 1]

CHƯƠNG 2:
PHÂN TÍCH NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG
PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
1. Thuận lợi
Thuận lợi trong quá trình phát triển TMĐT ở nước ta hiện nay là:
• Chính sách của Chính phủ
Nhà nước đã có định hướng chính sách rõ ràng nhằm thúc đẩy sự phát triển của TMĐT. Năm
2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 222/2005/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch tổng thể
phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2006-2010. Với thành công của việc triển khai Quyết định này,
giữa năm nay, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1073/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch
tổng thể phát triển thương mại điện tử lần thứ hai cho giai đoạn 2011-2015. Thực hiện Quyết định của
Thủ tướng, đến cuối tháng 10/2011, đã có 56 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xây dựng và ban
hành Kế hoạch phát triển thương mại điện tử giai đoạn 5 năm tới của địa phương mình.
• Hạ tầng pháp lý cho TMĐT đã hình thành.
Luật Giao dịch điện tử và Luật Công nghệ thông tin đã đặt nền tảng để Chính phủ và các Bộ,
ngành ban hành các văn bản dưới Luật điều chỉnh những lĩnh vực cụ thể của giao dịch điện tử. Từ năm
2006-2010, 7 văn bản cấp Nghị định đã được ban hành, bao gồm: Nghị định về TMĐT, Nghị định về
Chữ ký số và Dịch vụ chứng thực chữ ký số, Nghị định về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính,
Nghị định về Giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng, Nghị định về Ứng dụng công nghệ thông
tin trong cơ quan Nhà nước, Nghị định về Chống thư rác, Nghị định về Quản lý, cung cấp, sử dụng
dịch vụ internet và cung cấp thông tin điện tử trên internet. Các Bộ, ngành cũng đã ban hành nhiều văn
bản hướng dẫn chi tiết triển khai các Nghị định trên.
Hình 1: Các Nghị định về Luật TMĐT
13
[Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển TMĐT ở VN] [NVTMQT – Nhóm 1]
Hình 2: Các Nghị định xử phạt trong TMĐT
• Công nghệ thông tin, Internet ở Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục phát triển nhanh.
14
[Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển TMĐT ở VN] [NVTMQT – Nhóm 1]
Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng Internet nhanh nhất trong khu vực và nằm trong số

các quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng cao nhất trên thế giới. Theo Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền
thông Lê Nam Thắng, đến năm 2012, Việt Nam đứng thứ 18 trên tổng số 20 quốc gia có số lượng
người dùng Internet nhiều nhất trên thế giới, xếp thứ 8 tại khu vực châu Á và thứ 3 Đông Nam Á. Báo
cáo toàn cảnh 15 năm của Hiệp hội Internet Việt Nam (VIA) cũng cho thấy, đến tháng 9/2012, số
lượng người sử dụng Internet tại Việt Nam đã đạt trên 31 triệu, chiếm 35,49% dân số, và được dự đoán
sẽ tăng lên 37 triệu người vào năm 2016 (theo BMI). Con số của VIA đưa ra cũng cho thấy, không
những số người sử dụng internet tăng lên, mà họ còn dành nhiều thời gian cho việc truy cập internet
hơn, người sử dụng Internet Việt Nam dành khá nhiều thời gian để lên mạng với trung bình là 142
phút/ngày trong tuần (2012), cao hơn 3 lần so với năm 2008 (43 phút/ngày) . Việc truy cập Internet
chủ yếu qua máy tính để bàn (84%), máy tính xách tay (38%) và thiết bị di động (27%)…
• Công nghệ để thực hiện một thị trường điện tử đã rẻ đi rất nhiều.
Thêm vào đó là xu hướng kết nối nhiều thông tin chào hàng khác nhau thông qua các giao
diện lập trình ứng dụng để thành lập một thị trường chung có mật độ chào hàng cao.
• Dân số Việt Nam là dân số trẻ, tiếp thu công nghệ mới nhanh, lại rất nhanh nhạy trong
các việc kinh doanh online.
Theo khảo sát của hãng nghiên cứu IDC Việt Nam, có 58% người sử dụng Internet ở Việt
Nam đã từng mua hàng Online.
• Nhà nước chủ trương đào tạo nguồn nhân lực thúc đẩy thương mại điện tử phát triển
TMĐT cũng đã chính thức được đưa vào trong chương trình đào tạo ở các bậc đại học, cao
đẳng và sau đại học, tạo cơ sở vững chắc để tạo nên một đội ngũ có chuyên môn cao về lĩnh vực này.
Việc đào tạo chính quy về TMĐT phát triển khá nhanh. Tính đến năm 2010, có 77 trường đã tiến hành
đào tạo TMĐT, bao gồm 49 trường đại học và 28 trường cao đẳng. Trong số các trường đại học đã đào
tạo TMĐT, có 01 trường đã thành lập khoa TMĐT, 10 trường thành lập bộ môn TMĐT. Trong số các
trường cao đẳng, có 01 trường thành lập khoa TMĐT, 4 trường thành lập bộ môn TMĐT. Từ năm
2008-2010, có thêm 15 trường tổ chức giảng dạy TMĐT.
15
[Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển TMĐT ở VN] [NVTMQT – Nhóm 1]
• Doanh nghiệp đầu tư ngày càng nhiều vào thương mại điện tử
Kết quả điều tra khảo sát năm 2011 cho thấy 100% doanh nghiệp đều trang bị máy tính. Kết
quả này phù hợp với thực tế là các doanh nghiệp đều quan tâm tới việc nâng cấp, mua mới máy tính,

đồng thời các doanh nghiệp mới thành lập hầu như đều trang bị ít nhất một máy tính ngay từ khi bắt
đầu hoạt động.
Hình: Số lượng máy tính trong doanh nghiệp qua các năm
0
%
10
%
%
20
%
30
%
40
%
50
60
%
70
%
1-10

11-20

21-50

Trên 50

2006

2007

16
[Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển TMĐT ở VN] [NVTMQT – Nhóm 1]
2008

2009


2010
2011

67
%
55
%
56
%
47
%
%
50
%
72
15
%
18
%
%
20
23
%

%
23
16
%
12
%
16
%
16
%
21
%
%
21
%
9
%
6
%
12
%
8
10
%
6
%
%
3
Hầu hết các doanh nghiệp đã kết nối Internet, tỷ lệ các doanh nghiệp chưa kết nối Internet chỉ
còn 2% (2011). Hình thức kết nối Internet phổ biến nhất là ADSL với tỷ lệ là 78%, tỷ lệ này có xu

hướng giảm đi khi nhiều doanh nghiệp đã sử dụng hình thức kết nối Internet qua đường truyền riêng
với tỷ lệ là 19%. Hình thức kết nối Internet qua quay số chiếm 1%.
Hình: Hình thức kết nối Internet cả nước năm 2011
1
%
19
%
78
17
[Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển TMĐT ở VN] [NVTMQT – Nhóm 1]
%
2
%
ADS
L

Quay số
Đường truyền riêng
Không kết nối
Nhìn chung, cơ cấu đầu tư cho công nghệ thông tin năm 2011 không có sự khác biệt
nhiều với các năm 2009 và 2010. Tỷ lệ chi phí cho phần cứng là 55%, tiếp tục chiếm tỷ trọng
lớn nhất. Tỷ lệ này tăng lên nhiều so với hai năm trước. Đây là xu hướng chung của tình hình
ứng dụng và triển khai công nghệ thông tin trong nhiều năm qua và chưa có dấu hiệu thay đổi
mang tính bước ngoặt. Tỷ lệ chi phí dành cho phần mềm là 29%, tương đương với tỷ lệ tương
ứng của năm 2010. Tỷ lệ chi phí cho đào tạo và chi khác là 8% và 9%, thấp hơn các tỷ lệ
tương ứng của năm 2010.
18
[Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển TMĐT ở VN] [NVTMQT – Nhóm 1]
• Hệ thống ngân hàng đang có sự chuyển mình mạnh mẽ.
Nhiều ngân hàng đầu tư xây dựng hệ thống ngân hàng lõi, hệ thống chuyển mạch, cung cấp

dịch vụ thanh toán trực tuyến, Intenet banking.
19
[Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển TMĐT ở VN] [NVTMQT – Nhóm 1]
• Học hỏi kinh nghiệm của các nước phát triển
Chúng ta có thể học tập được kinh nghiệm từ các thị trường có nhiều điểm tương đồng về văn
hóa với Việt Nam như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản
2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi, quá trình phát triển TMĐT ở nước ta cũng gặp phải
không ít khó khăn.Cụ thể:
2.1. Khó khăn chung
• Hành lang pháp lý về thương mại điện tử còn mông lung, chưa cụ thể
Theo nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc tế (IDRC), các
chính sách về thương mại điện tử của Việt Nam có một số nhược điểm sau: Thiếu sự
liên kết chặt chẽ giữa các chính sách với nhau và giữa các chính sách nội địa với
những chính sách quốc tế. Cơ chế quản lý Nhà Nước về thương mại điện tử chưa thích
hợp. Không có sự hợp tác hiệu quả giữa các đơn vị làm luật. Có rất ít, thậm chí không
có sự trao đổi giữa nhà làm luật và các cá nhân, đơn vị ảnh hưởng bởi luật. Thiếu
thông tin và những phân tích về ảnh hưởng của thương mại điện tử. Các quy định,
chính sách còn khái quát, mơ hồ, thiếu tính cụ thể. Chính phủ không thể đóng vai trò
tiên phong…Ví dụ như về chính sách thuế:
20
[Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển TMĐT ở VN] [NVTMQT – Nhóm 1]
Về đăng ký thuế theo quy định của Luật Quản lý Thuế, các chủ thể kinh doanh
trên lãnh thổ Việt Nam đều phải khai thuế trước khi bắt đầu tiến hành các hoạt động
kinh doanh. Các doanh nghiệp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam bán
hàng hoá, cung cấp dịch vụ vào Việt Nam cho tổ chức, cá nhân kinh doanh thì tổ chức,
cá nhân kinh doanh trong nước là người mua sẽ phải khai thuế theo từng hợp đồng và
khấu trừ nộp thay thuế cho doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên, việc đăng ký thuế khi
doanh nghiệp nước ngoài cung cấp dịch vụ trực tiếp cho người tiêu dùng ở Việt Nam
hiện nay chưa được quy định cụ thể do điều này chỉ xảy ra trong TMĐT theo nghĩa

hẹp.
Về nguyên tắc, người mua không phải là người nộp thuế đối với thuế GTGT,
Tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) hoặc Thu nhập doanh nghiệp (TNDN) nhưng do người bán
ở ngoài lãnh thổ Việt Nam nên việc yêu cầu đăng ký còn bị hạn chế. Nên chăng cần có
một quy định là trước khi cung cấp dịch vụ qua biên giới cho người tiêu dùng, doanh
nghiệp nước ngoài cung cấp dịch vụ cần đăng ký thuế (điện tử) với cơ quan Thuế Việt
Nam và trích tiền thuế khấu trừ khi người mua trả tiền mua dịch vụ theo chính sách
thuế mà Việt Nam ban hành.
Các hoạt động mua bán hàng hoá truyền thống giữa những người tiêu dùng hiện
nay không phải là đối tượng điều chỉnh của các loại thuế nên không phải đăng ký thuế.
Tuy nhiên, trong tương lai việc cung cấp dịch vụ trong TMĐT qua hình thức C2C hoặc
C2B phát triển, nếu không quản lý và điều chỉnh sẽ gây thiệt thòi cho những doanh
nghiệp kinh doanh TMĐT và không tạo công bằng trong môi trường kinh doanh.
• Cơ chế giám sát, chế tài chưa đủ mạnh
Do hoạt động TMĐT được thực hiện trên môi trường điện tử nên giám sát việc
thực thi các văn quản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này là một thách thức lớn đối
với các cơ quan quản lý nhà nước. Nguồn lực giám sát còn hạn chế, tần suất các hoạt
động thanh tra, kiểm tra chuyên ngành thấp, hiệu quả chưa cao, chưa có cơ chế giám
sát trực tuyến các hoạt động trên môi trường điện tử. Bên cạnh đó, nhiều quy định về
mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực TMĐT còn thấp, chưa đủ
mạnh để răn đe, tạo ra sự tuân thủ tốt trong xã hội. Đây sẽ là những vấn đề cần được
21
[Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển TMĐT ở VN] [NVTMQT – Nhóm 1]
tập trung khắc phục trong giai đoạn tới để tăng cường hiệu lực của hệ thống pháp luật,
tạo môi trường thật sự lành mạnh và an toàn cho TMĐT phát triển.
• Ý thức thi hành pháp luật của người dân chưa cao
Các cơ quan quản lý nhà nước đã triển khai nhiều biện pháp để đưa các văn bản
quy phạm pháp luật đến với người dân và doanh nghiệp như tổ chức hội thảo, hội nghị
để hướng dẫn trực tiếp, tuyên truyền phổ biến qua đài phát thanh, đài truyền hình, báo
chí, cung cấp nội dung văn bản và thông tin liên quan lên các trang thông tin điện tử về

quản lý chuyên ngành v.v Tuy nhiên, hiệu quả của các hoạt động này còn nhiều hạn
chế. Chẳng hạn, đối với nhiều quy định, mặc dù đã được tổ chức tuyên truyền, giáo
dục khá tốt về nội dung, đồng thời việc tuân thủ sẽ tạo thuận lợi hơn cho đối tượng
(như Thông tư hướng dẫn Nghị định Thương mại điện tử về cung cấp thông tin và giao
kết hợp đồng trên website TMĐT của Bộ Công Thương, Thông tư hướng dẫn Nghị
định về chống thư rác của Bộ Thông tin và Truyền thông, v.v ), nhưng việc thi hành
vẫn còn thấp.
• Tâm lý người dân Việt Nam
Không chỉ trở ngại từ phía nhà cung cấp dịch vụ và doanh nghiệp, khó khăn còn
được tạo ra từ tâm lý và thói quen thanh toán theo kiểu thương mại truyền thống của
người dân là “tiền trao cháo múc” nên người tiêu dùng rất lo ngại mua phải sản phẩm
không dùng được hoặc chất lượng không đạt như mong muốn. Những khái niệm
“thanh toán điện tử”, “thẻ tín dụng”, “dịch vụ eBanking” còn khá lạ lẫm đối với đại
đa số người tiêu dùng. Hơn nữa hình thức mua bán và thanh toán gián tiếp tạo cảm
giác bất an cho người tiêu dùng. Ông Nguyễn Việt Trường, Phụ trách Kinh Doanh của
Công ty OnePay, một đơn vị hàng đầu trong lĩnh vực thanh tóan điện tử hiện nay tại
Việt Nam, cho biết: “Tỉ lệ thanh toán qua thẻ trong tổng chi tiêu tiêu dùng lẻ ở Việt
Nam chiếm tỉ trọng rất nhỏ nhoi, chỉ xấp xỉ cỡ khoảng 1%.” Trong khi đó tại các nước
phát triển, tài khoản của người mua hàng gồm những chiếc thẻ thanh toán nhỏ gọn
Master Card, Visa, Và động tác thanh toán cho mỗi sản phầm đơn giản chỉ là một cú
click chuột hoặc động tác quẹt thẻ tại máy thanh toán. Với việc mua hàng qua mạng,
khách hàng có thể yên tâm thanh toán bằng tài khoản ngân hàng , thông tin tài khoản
được đảm bảo và sản phẩm sẽ chắc chắn đến tay mình với sự an toàn rất cao.
22
[Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển TMĐT ở VN] [NVTMQT – Nhóm 1]
Vấn đề đáng lo ngại tiếp theo đó là sự lo lắng về nội dung số. Người tiêu dùng
Việt Nam vẫn có thói quen chạm và dùng thử mọi sản phẩm họ sẽ sử dụng. Họ muốn
kiểm tra chất lượng vải của quần áo, cầm các thiết bị điện tử trong tay và kiểm tra hoạt
động của chúng. Các bà nội trợ Việt Nam là những người quyết định việc mua sắm
trong gia đình và họ luôn cẩn thận với các khoản chi tiêu lớn như đồ điện tử sinh hoạt

hay quần áo. Lựa chọn ngay trên mạng không đem lại cho họ đủ thông tin khiến họ tin
tưởng đó là một quyết định đầy đủ.
Nguyên nhân chủ yếu khiến thương maị điện tử Việt Nam phát triển chậm đó là người tiêu
dùng vẫn còn chưa hiểu và chưa tin vào các giao dịch thông qua hình thức thương mại điện tử. Lòng
tin của người tiêu dùng về bảo vệ thông tin cá nhân, bảo vệ người tiêu dùng và việc giải quyết các
tranh chấp trong giao dịch mua bán trực tuyến là một trong những rào cản lớn đối với sự phát triển
thương mại điện tử Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, tâm lý tin dùng dịch vụ nước ngoài của người dùng sẽ khiến các công ty TMĐT
trong nước có thể thua từ ngay trên sân nhà. Người dùng có thể trả tiền để đặt sách trên Amazon (Mỹ)
và chở chuyển về Việt Nam hay mua hàng tá hàng thời trang trên Gmarket (Hàn Quốc). Nhưng sẽ dè
dặt hơn khi mua hàng của một công ty TMĐT trong nước vì chưa tin tưởng
Một nguyên nhân nữa làm người tiêu dùng không tin tưởng vào các giao dịch trực tuyến đó là
nạn hàng giả và hàng nhái. Người mua cần phải xem xét hàng hóa trực tiếp để đảm bảo chất lượng khi
tiến hành giao dịch. Không có ai đảm bảo về chất lượng của các sản phẩm, cũng không có bất kì một
quy định nào để kiểm soát các loại hàng hóa được rao bán trên các trang thương mại điện tử của Việt
Nam hiện nay dẫn đến tình trạng hàng hóa không có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Đối với các hàng hóa
ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dùng như thực phẩm, mỹ phẩm thì việc mua các sản phẩm
không rõ chất lượng và nguồn gốc xuất xứ là điều khá nguy hiểm. Đó là lí do vì sao khách hàng không
tin tưởng vào chất lượng hàng hóa trên các trang thương mại điện tử. Thực tế cho thấy, nhiều khách
hàng đã rất thất vọng với sản phẩm mà mình nhận được vì nó khác xa so với sự mô tả của sản phẩm
khi được quảng cáo. Niềm tin vào hình thức mua bán trực tuyến vì thế cũng bị lung lay.
Nguyên nhân của thực trạng này được chỉ ra là do mô hình TMĐT đã bị lạm dụng, bóp méo
bởi các nhà cung cấp thiếu chuyên nghiệp. Đặc biệt, trong năm 2012 còn ghi nhớ sự xuất hiện các mô
hình hoạt động trá hình TMĐT mà vụ Muaban24 là một điển hình. Vụ việc đã khiến người tiêu dùng
hiểu sai về hình thức kinh doanh này, gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của các đơn vị làm ăn chân
chính khác. Ông Trần Hữu Linh, Cục trưởng Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin cho
biết, một số doanh nghiệp đã lợi dụng danh nghĩa phát triển TMĐT để thu lợi từ việc lôi kéo người
tham gia website mà không tập trung nâng cao chất lượng thông tin trên website, làm tổn hại đến niềm
tin của cộng đồng, cản trở sự phát triển của lĩnh vực TMĐT.
23

[Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển TMĐT ở VN] [NVTMQT – Nhóm 1]
Chưa hết, một số công ty cũng lợi dụng danh nghĩa TMĐT để kinh doanh đa cấp không lành
mạnh, gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Có những doanh nghiệp đã lợi dụng TMĐT để huy động
lượng tiền mặt lớn từ mạng lưới người tham gia. Cách thức hoạt động điển hình của những doanh
nghiệp dạng này là thiết lập một website cung cấp dịch vụ sàn giao dịch TMĐT, trên đó cho phép
những thành viên đã nộp tiền được mở một gian hàng ảo để giới thiệu, quảng bá sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ. Sau khi đóng một khoản phí ban đầu thì bên cạnh việc được mở gian hàng ảo trên website,
mỗi thành viên được thêm quyền lợi là giới thiệu những người khác tham gia mua gian hàng ảo và
hưởng hoa hồng vài chục phần trăm cho mỗi hợp đồng mà mình giới thiệu. Do mức hoa hồng hấp dẫn
và cơ chế phân chia hoa hồng đa cấp, phần lớn những người nộp phí mua gian hàng ảo trên website
đều hướng tới mục tiêu thu lợi nhuận từ hoạt động giới thiệu, lôi kéo người khác tham gia thay vì để
tiến hành kinh doanh trên những gian hàng này. Kết quả, đa số gian hàng trên website là những gian
hàng trống, không có thông tin về chủ gian hàng cũng như sản phẩm cần bán.
• Phương thức thanh toán chưa phát triển
Việc thiếu hình thức thanh toán cũng là một cản trở TMĐT phát triển, theo ông
Nguyễn Chiến Thắng, Tổng Giám đốc PayNet - một trong những cổng thanh toán trực
tuyến đầu tiên tại Việt Nam, cho biết: Hiện các cơ quan chức năng đều yêu cầu các
doanh nghiệp khi xuất nhập hàng hóa phải có hóa đơn đỏ, chữ ký, con dấu tươi, điều
này khiến TMĐT chưa thực sự phát triển. Vì vậy có tới 74,1% doanh nghiệp sử dụng
hình thức thanh toán là khách hàng trả tiền mặt khi nhận hàng, 74,8% doanh nghiệp
chấp nhận thanh toán chuyển khoản qua ngân hàng và chỉ có 25% doanh nghiệp thanh
toán bằng chuyển tiền qua bưu điện. Bên cạnh đó không phải tất cả các ngân hàng đều
cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến cũng như đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng
khi mua bán thông qua TMĐT. Mặt khác, nếu có cổng thanh toán thì cũng chỉ chấp
nhận những thẻ quốc tế như VISA Card, Master Card trong khi không phải tất cả mọi
người đều có loại thẻ này. “Nếu so sánh về số lượng thì đến 80% người có đủ tiền mặt,
nhưng chỉ khoảng 20% người có thẻ ghi nợ, và khoảng 1% có thẻ tín dụng. Rõ ràng đó
là một hạn chế”, ông Thắng nói.
• Bảo mật thông tin là một trong những rào cản lớn nhất đối với sự phát
triển của thương mại điện tử ở Việt Nam

Ông Dương Hoàng Minh, Phó cục trưởng Cục Thương mại điện tử và Công
nghệ thông tin cho biết: một trong những hình thức vi phạm bảo vệ dữ liệu cá nhân rất
phổ biến là việc thu thập địa chỉ thư điện tử trái phép để phục vụ cho nhiều mục đích
24
[Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển TMĐT ở VN] [NVTMQT – Nhóm 1]
khác nhau, từ quảng cáo trực tuyến đến bán danh sách các địa chỉ này chongười có nhu
cầu. Bên cạnh đó là các hiện tượng ăn cắp, lừa đảo lấy thông tin tài khoản cá nhân,
phát tán thông tin và hình ảnh riêng tư, lừa đảo qua thẻ ATM. Một kết quả khảo sát
khác của Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin trong giai đoạn 3 năm (từ cá
nhân, luôn được các doanh nghiệp đánh giá là một trong những rào cản lớn nhất (xếp
2006- 2008) cho thấy, vấn đề bảo mật, an toàn thông tin, trong đó bao gồm cả thông
tin thứ 3 trong số 7 trở ngại lớn nhất) đối với sự phát triển TMĐT ở Việt Nam. Theo
ông Dương Hoàng Minh, Phó Cục trưởng Cục Thương mại điện tử (TMĐT) và Công
nghệ Thông tin, Bộ Công thương đưa ra một ví dụ về việc hơn 7 triệu địa chỉ email
công ty, doanh nghiệp, cá nhân, kèm theo phần mềm phát tán thư rác chuyên nghiệp
đang được rao bán trên một số diễn đàn với giá không thể "bèo bọt" hơn là 350.000
VND, tức là chưa đầy 20USD. Cảnh báo về rủi ro mất an toàn thông tin, ông Vũ Quốc
Thành, Phó chủ tịch Hiệp hội An toàn thông tin Việt Nam (VNISA) đưa ra những con
số khảo sát: hiện chỉ có 37% tổ chức có quy chế về an toàn thông tin, 33% tổ chức sẽ
xây dựng quy chế trong thời gian tới, còn lại tới 30% tổ chức chưa có ý định này.
• Dịch vụ giao nhận
- Chưa có đơn vị thứ 3 thực sự chuyên nghiệp để đảm bảo tốt dịch vụ giao nhận mà
không ảnh hưởng đến chất lượng phục vụ, hầu hết các đơn vị làm TMĐT đều phải tự
xây dựng đội ngũ giao nhận để nắm quyền chủ động trong việc kiểm soát và điều phối
hiệu quả cũng như chất lượng phục vụ khách hàng
- Do đặc thù địa lý Việt Nam trải dài, mặt khác volume thị trường còn bé đồng thời
việc tự tổ chức đội ngũ giao nhận khiến cho chi phí giao nhận rất cao, chiếm từ 10-
15% giá trị của 1 giao dịch.
• Khó khăn từ phía doanh nghiệp
Xét một cách toàn diện thì các đơn vị làm TMĐT vẫn đang ở tâm lý vừa làm

vừa thăm dò thị trường và tìm cách phản ứng để phù hợp với tâm lý người tiêu dùng.
Do vậy việc triển khai khó có thể diễn ra bài bản ngày từ đầu và xuyên suốt trong quá
trình hoạt động.
Mặt khác, rất nhiều đơn vị làm TMĐT vẫn chưa hiểu rõ thấu đáo sự khác biệt
của TMĐT với bán hàng offline truyền thống, vẫn bê nguyên tư duy vận hành offline
lên online, dẫn đến sự phản ứng chậm chạp, thiếu chuyên nghiệp và không phát huy
hết lợi thế của online, chưa đánh trúng tâm lý của người tiêu dùng online
25

×