Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

tình hình xuất khẩu thủy sản của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.71 KB, 41 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết
2. Mục tiêu đề tài
2.1 Mục tiêu tổng quát
2.2 Mục tiêu cụ thể
3. Phương pháp nghiên cứu
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng
4.2 Không gian, thời gian
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN TẠI VIỆT
NAM.
1.1Cơ sở lý luận
1.1.1 Khái quát về thị trường
1.1.1.1 Khái niệm thị trường
1.1.1.2 Vai trò
1.1.2 Khái quát về xuất khẩu
1.1.2.1 Khái niệm về xuất khẩu
1.1.2.2 Vai trò
1.1.2.3 Nhiệm vụ
1.1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu
1.1.3 Khái quát về ngành thủy sản
1.1.4 Vị trí và vai trò xuất khẩu thủy sản trong nền kinh tế Việt Nam
1.2Cơ sở thực tiễn
Tình hình xuất khẩu thủy sản thế giới
CHƯƠNG II: KẾT QUẢ THẢO LUẬN VÀ NGHIÊN CỨU
2.1 Các đặc điểm về nguồn lợi thủy sản tại Việt Nam.
2.2 Mạng lưới xuất khẩu thủy sản Việt Nam.
2.3 Kim ngạch xuất khẩu thủy sản.
2.4 Thị trường xuất khẩu thủy sản Việt Nam


2.4.1 Thị trường Mỹ
2.4.2 Thị trường Nhật Bản
2.4.3 Thị trường EU
2.4.4 Các thị trường khác
2.5 Mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam
2.5.1 Thị trường xuất khẩu tôm
2.5.2 Thị trường xuất khẩu cá basa, cá basa
2.6 Xu hướng chuyển dịch thị trường xuất khẩu thủy sản
2.7 Khả năng cạnh tranh xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đối với các nước trên thế
giới
2.8 Đánh giá tình hình thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
2.8.1 Kết quả đạt được
2.8.2 Hạn chế tồn tại
2.8.3 Nguyên nhân hạn chế
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN
CỦA VIỆT NAM
3.1 Một số định hướng
3.2 Giải pháp
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1.Kết luận
2.Kiến nghị
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngành thủy sản là một ngành kinh tế quan trọng đóng vai trò thiết yếu trong việc
cung cấp thực phẩm cho con người. Đối với Việt Nam đây được coi là ngành kinh tế
chiến lược của đất nước, ngành đã có nhiều đóng góp to lớn cho lĩnh vực xuất khẩu, giải
quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động và góp phần đáng kể cho việc tăng thêm
nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia. Đặc biệt từ khi Việt Nam gia nhập WTO để đảm bảo
cho ngành thủy sản hội nhập với nền kinh tế thế giới thì Đảng và Nhà Nước đã có
chương trình, chính sách hỗ trợ lớn cho việc chuyển đổi, phát triển ngành thủy sản.

Ngành đã có nhiều chuyển biến tích cực và đạt nhiều thành tựu. Đến nay trung bình mỗi
năm ngành thủy sản đóng góp khoảng 18% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của đất nước
và là một trong những nghành có kim ngạch xuất khẩu cao nhất. Với tốc độ tăng trưởng
ổn định, cơ cấu mặt hàng đa dạng, chất lượng ngày càng được nâng cao, quy mô không
ngừng mở rộng ngành thủy sản đã và đang khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế
quốc dân. Trong điều kiện tự do hóa thương mại đang diễn ra mạnh mẽ thì Đảng và Nhà
nước chú trọng phát triển ngành thủy sản là điều tất yếu.
Mặt hàng thủy sản Việt Nam đã xuất hiện trên 160 quốc gia, các sản phẩm thủy
sản của Việt Nam đang được ưa chuộng trên thị trường thế giới. Sự kiện Việt Nam chính
thức là thành viên của WTO đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng thị trường xuất
khẩu thủy sản của Việt Nam ra thế giới đồng thời kèm theo những khó khăn mà ngành
thủy sản Việt Nam phải đối mặt trong quá trình hội nhập kinh tế. Đứng trước những thời
cơ và thách thức đó, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh hàng thủy sản của Việt Nam
với các nước trong khu vực và trên thế giới, mà cụ thể là nâng cao chất lượng các mặt
hàng thủy sản, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm là điều rất quan trọng.Vì vậy nhóm
chúng em đã chọn đề tài “Tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam” nhằm nghiên
cứu hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, tìm ra những hạn chế còn tồn tại và
nguyên nhân gây ra, từ đó đưa ra giải pháp hữu ích nhằm khắc phục những khó khăn,
thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng thủy sản, thực hiện phát triển thủy sản theo hướng bền vững
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1 Mục tiêu tổng quát
Đánh giá tình hình sản xuất xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam sang các thị
trường khác trong thời gian qua.
2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa các vấn đề có tính chất lý luận và thực tiễn về thị trường xuất khẩu
thủy sản tại Việt Nam
- Phân tích, đánh giá thực trạng xuất khẩu ngành thủy sản và những kết quả đạt
được cũng như những vấn đề còn tồn tại trong quá trình xuất khẩu thủy sản, từ đó chỉ ra
các vấn đề cần giải quyết hoàn thiện và phát triển xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam.

- Đưa ra các quan điểm, phương hướng và đề xuất các giải pháp để thúc đẩy hoạt
động xuất khẩu mặt hàng thủy sản trong giai đoạn tới nhằm thực hiện mục tiêu của ngành
trước tiến trình hội nhập KTQT và phát triển bền vững ngành thủy sản.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: thu thập số liệu và các thông tin liên quan
đến đề tài qua các báo cáo.
- Phương pháp phân tích và xử lí số liệu: Xử lí các số liệu đã thu thập để thiết kế
bảng biểu, so sánh được sự biến động xuất khẩu thủy sản qua các năm.
-Phương pháp kế thừa: Kế thừa các số liệu có sẵn để làm tài liệu tham khảo và
nghiên cứu trong quá trình thực hiện đề tài.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động kinh doanh xuất khẩu thủy sản của Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu từ năm 2009-2013
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN TẠI VIỆT NAM.
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái quát về thị trường
1.1.1.1. Khái niệm:
Thị trường là biểu hiện của quá trình mà trong đó thể hiện các quyết định của
người tiêu dùng về hàng hóa hay dịch vụ cũng như của các doanh nghiệp về số lượng,
chất lượng, mẫu mã của hàng hóa. Đó là những mối quan hệ giữa tổng số cung cầu của
từng loại hàng hóa cụ thể.
Thị trường là nơi mà người mua và người bán đến với nhau thông qua trao đổi
thăm dò, tiếp xúc để nhận lấy lời giải đáp mà mỗi bên cần thiết.
Trên thị trường các quyết định người lao động, người tiêu dùng và của các doanh
nghiệp đều tác động đến quan hệ cung cầu thông qua giá cả. Tuy nhiên hiện nay ở tất cả
các nước có nền kinh tế thị trường, tác động đến quan hệ cung cầu theo cơ chế gián tiếp
còn có các quyết định của chính phủ từng nước.
1.1.1.2 Vai trò
Thị trường có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc gia. Qua thị trường

có thể nhận biết được sự phân phối của các nguồn lực sản xuất thông qua hệ thống giá cả.
Trên thị trường giá cả hàng hóa về tư liệu sản xuất, các nguồn lực về tư liệu sản xuất, sức
lao động,… luôn luôn biến động nhằm đảm bảo các nguồn lực giới hạn này được sản
xuất đúng hàng hóa, dịch vụ mà xã hội có nhu cầu. Thị trường là khách quan do đó từng
doanh nghiệp không có kahr năng làm thay đổi thị trường. Nó phải dựa trên cơ sở nhận
biết nhu cầu xã hội và thế mạnh kinh doanh của mình mà có phương án kinh doanh phù
hợp với đòi hỏi của thị trường.
1.1.2 Khái quát về xuất khẩu
1.1.2.1 Khái niệm về xuất khẩu
Xuất khẩu là một công cụ hay nói đúng hơn là 1 hình thức hoạt động giao lưu
thương mại nhằm dung hòa lợi ích của mọi người trên thế giới. Như vậy xuất khẩu được
hiểu trước hết là một hình thức trao đổi hàng hóa, dịch vụ trên thị trường mà thị trường
đó là thị trường thế giới nhằm đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng hàng hóa của một
quốc gia không thể tự đáp ứng cho chính mình, đồng thời phát huy hết nội lực kinh tế và
mang lại nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia xuất khẩu trong công cuộc phát triển kinh tế đất
nước. Xuất khẩu là một hình thức thương mại nhằm thu được doanh lợi từ việc bán hàng
hóa và dịch vụ ra nước ngoài.
1.1.2.2 Vai trò :
Xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế đất nước, điều
này được thể hiện qua các vai trò sau:
- Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn quan trọng để thõa mãn nhu cầu nhập khẩu và tích lũy
sản xuất.
- Đẩy mạnh xuất khẩu được xem là yếu tố quan trọng kích thích sự tăng trưởng kinh
tế. Việc đẩy mạnh xuất khẩu cho phép mở rộng quy mô sản xuất, nhiều ngành mới
ra đời phục vụ cho xuất khẩu gây phản ứng dây chuyền giúp cho ngành kinh tế
khác phát triển, làm tăng tổng sản phẩm xã hội.
- Xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường thế giới.
- Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tác động đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế ngành theo
hướng sử dụng có hiệu quả nhất lợi thế so sánh tuyệt đối và tương đối của đất

nước.
- Đẩy mạnh xuất khẩu làm tăng sản lượng sản xuất của quốc gia thông qua việc mở
rộng thị trường quốc tế.
- Đẩy mạnh phát triển xuất khẩu có tác động tích cực và có hiệu quả nâng cao mức
sống của nhân dân.
- Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các quốc gia
trên thế giới.
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu là hướng phát triển có tính chất chiến lược để đất nước
thành một nước công nghiệp hóa hiện đại hóa trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2.3 Nhiệm vụ
- Đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hóa nhằm tạo ra nguồn thu ngoại tệ,
giảm tình trạng nhập siêu.
- Đảm bảo kim ngạch xuất khẩu hàng năm của đất nước.
- Khai thác có hiệu quả lợi thế tuyệt đối và tương đối của đất nước.
- Góp phần tăng tích lũy vốn, mở rộng sản xuất, tăng thu nhập cho nền kinh tế.
- Từng bước cải thiện và nâng cao đời sống của người dân.
- Phát triển quan hệ đối ngoại với tấc cả ác nước trên thế giới.
1.1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu
Đặc điểm của thị trường: những thông tin về những nét văn hóa và thị hiếu tiêu dùng của
thị trường.
Quy chế chính sách của thị trường xuất khẩu:
• Thuế quan
• Hạn ngạch
• Hạn chế xuất khẩu tự nguyện
• Hàng rào kỹ thuật về tiêu chuẩn công nghệ , lao động, về vệ sinh an toàn
thực phẩm , môi trường, …
• Chính sách ngoại thương
• Nguyên tắc tối huệ quốc MFN ( Most Favoured Nation )
• Thuế quan ưu đãi phổ cập GSP ( Generalized System of Preference )
Đối thủ cạnh tranh: là những doanh nghiệp trong và ngoài nước hoạt động sản xuất kinh

doanh cùng loại sản phẩm hoặc những sản phẩm tương tự có thể ảnh hưởng đến hoạt
động kinh doanh của nước. Đối thủ cạnh tranh gồm có: đối thủ cạnh tranh hiện tại, đối
thủ cạnh tranh tương lai, đối thủ cạnh tranh trực tiếp và gián tiếp.
Thị trường nguyên liệu: là nơi diễn ra hoạt động mua bán nguyên liệu , cung cấp cho các
doanh nghiệp nguyên liệu sản xuất sản phẩm. Chính sách, kế hoạch phân phối sản phẩm
của công ty.
1.1.3. Khái quát về nghành thủy sản
Ngành thủy sản là ngành nghiên cứu về khai thác, nuôi trồng, vận chuyển thuỷ sản khai
thác; bảo quản, chế biến, mua bán, xuất khẩu, nhập khẩu thủy sản; dịch vụ trong hoạt
động thủy sản; điều tra bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản.
1.1.4 Vị trí và vai trò xuất khẩu thủy sản trong nền kinh tế Việt Nam
- Cung cấp thực phẩm, tạo nguồn dinh dưỡng cho mọi người dân Việt Nam
Số liệu cho thấy 50% sản lượng đánh bắt hải sản ở vùng biển Bác Bộ , Trung Bộ và 40%
sản lượng đánh bắt ở vùng biển Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ được dùng làm thực phẩm
cho nhu cầu của người dân Việt Nam . Nuôi trông thủy sản phát triển rộng khắp, tới tận
các vùng sâu vùng xa , góp phần chuyển đổi cơ cấu thực phẩm trong bữa ăn của người
dân Viêt nam, cung cấp nguồn dinh dưỡng dồi dòa. Từ các vùng đồng bằng đến trung du
miền núi, tất cả các ao hồ nhỏ đều được sủ dụng triệt để cho các hoạt động nuôi trồng
thủy sản. Trong thời gian tới, các mặt hàng thủy sản sẽ ngày càng có vị trí cao trong tiêu
thụ thực phẩm của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam.
- Đảm bảo an ninh lương thực , thực phẩm
Ngành thủy sản là một trong những ngành tạo ra lương thực, thực phẩm, cung cấp các
sản phẩm tiêu dùng trực tiếp. Ở tầm vĩ mô, dưới giác độ ngành kinh tế quốc dân, Ngành
thủy sản đã góp phần đảm bảo an ninh lương thực , thực phẩm, đáp ứng được yêu cầu cụ
thể là tăng nhiều đạm và vitamin cho thức ăn. Có thể nói Ngành Thủy sản đóng vai trò
quan trọng trong công việc cung cấp thực phẩm cho người dân , không những thế nó còn
là một ngành kinh tế tạo cơ hội công ăn việc làm cho nhiều cộng đồng nhân dân, đặc biệt
ở những vùng nông thôn và vùng ven biển. Những năm gần đây, công tác khuyến ngư đã
tập trung vào hoạt động trình diễn các mô hình khai thác và nuôi trồng thủy sản, hướng
dẫn người nghèo làm ăn.

Hiện tại, mô hình kinh tế hộ gia đình được đánh giá là đã giải quyết cơ bản công ăn việc
làm cho ngư dân ven biển. Bên cạnh đó, mô hình kinh tế tiểu chủ và kinh tế tư bản tư
nhân đã góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động ở các vùng, nhất là lao động
nông nhân ở các tỉnh Nam Bộ và Trung Bộ.
- Xóa đói giảm nghèo
Ngành thủy sản đã lập nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo bằng việc phát triển các
mô hình nuôi trồng thủy sản đến cả vùng sâu, vùng xa, không những cung cấp nguồn
dinh dưỡng, đảm bảo an ninh thực phẩm mà còn góp phần xóa đói giảm nghèo. Tại các
vùng duyên hải, từ năm 2000, nuôi thủy sản nước lợ đã chuyển mạnh từ phương thức
nuôi quảng canh sang quảng canh cải tiến , bán thâm canh và thâm canh, thậm chí nhiều
nơi đã áp dụng mô hình nuôi thâm canh theo công nghệ nuôi công nghiệp. Các vùng nuôi
tôm rộng lớn, hoạt động theo quy mô sản xuất hàng hóa lớn đã hình thành, một bộ phận
dân cư các vùng ven biển đã giàu lên nhanh chóng, rất nhiều gia đình thoát khỏi cảnh đói
nghèo nhờ nuôi trồng thủy sản.
- Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn
Việt Nam có đầy đủ điều kiện để phát triển một cách toàn diện một nền kinh tế biển. Nếu
như trước đây việc lấn ra biển, ngăn chặn những ảnh hưởng của biển để mở rộng đất đai
canh tác là định hướng cho một nền kinh tế nông nghiệp lúa nước thì hiện nay việc tiến ra
biển, kéo biển lại gần sẽ là định hướng khôn ngoan cho một nền kinh tế công nghiệp hóa
và hiện đại hóa.
Trong những thập kỷ qua, nhiều công trình hồ thủy điện đã được xây dựng, khiến nước
mặn ngoài biển thâm nhập sâu vào vùng cửa sông, ven biển. Đối với nền canh tác nông
nghiệp lúa nước thì nước mặn là một thảm họa, nhưng với nuôi trồng thủy sản nước mặn,
nước lợ thì nước mặn được nhận thức là một tiềm năng mới, vì hoạt động nuôi trồng thủy
sản có thể cho hiệu quả canh tác gấp hàng chục lần hoạt động canh tác lúa nước.
Tại nhiều vùng nông thôn, phong trào nuôi cá ruộng trũng phát triển mạnh mẽ. Đây là
hình thức nuôi cho năng suất và hiệu quả khá lớn, được đánh giá là một trong những
hướng chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp, góp phần làm tăng thu nhập cho người lao
động và xóa đói giảm nghèo ở nông thôn.
- Tạo nghề nghiệp mới, tăng hiệu quả sử dụng đất đai.

Ao hồ nhỏ là một thế mạnh của nuôi trồng thủy sản ở các vùng nông thôn Việt Nam.
Người nông dân sử dụng ao hồ nhỏ như một cách tận dụng đất đai và lao động. Hầu như
họ không phải chi phí nhiều tiền vốn vì phần lớn là nuôi quảng canh. Tuy nhiên, ngày
càng có nhiều nông dân tận dụng các mặt nước ao hồ nhỏ trong nuôi trồng thủy sản nước
ngọt với các hệ thống nuôi bán thâm canh có chọn lọc đối tượng cho năng suất cao.
- Là nguồn xuất khẩu quan trọng.
Trong nhiều năm liền, ngành thuỷ sản luôn giữ vị trí cao trong bảng danh sách các ngành
có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất đất nước.
1.2 Cơ sở thực tiễn
Tình hình xuất khẩu thủy sản của Thế Giới
1.Nhu cầu tăng mạnh:
Theo số liệu của Tổ chức Nông Lương Liên Hiệp Quốc (FAO), thủy sản hiện đang
là mặt hàng thực phẩm được tiêu thụ mạnh nhất với khoảng 102 tỉ đô la năm 2008. Cũng
theo số liệu của FAO thì từ nay cho đến năm 2015, tiêu thụ thủy sản tính theo đầu người
trên toàn cầu sẽ tăng trưởng khoảng 0,8%/năm, tổng nhu cầu thủy sản và các sản phẩm
thủy sản sẽ tăng khoảng 2,1%/năm.
Như vậy, có thể thấy, nhu cầu thủy sản thế giới năm 2012 sẽ tiếp tục tăng so với
năm 2011. Đây là một điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt
Nam tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu trong năm 2012, nhất là với các thủy sản nuôi trồng
như tôm, cá tra, nhuyễn thể hai mảnh vỏ, cá ngừ
2.Nguồn cung tiếp tục gặp khó khăn:
Nếu như trong năm 2011, nguồn cung thủy sản gặp không ít khó khăn trong việc
đáp ứng nhu cầu của thị trường. Ngành thủy sản Nhật bị đe dọa sau thảm họa kép động
đất, sóng thần, ngành tôm Thái Lan và Việt Nam thiệt hại nặng nề do lũ lụt và dịch bệnh,
ngành cá da trơn chịu ảnh hưởng bởi chi phí đầu vào, thức ăn, con giống thì theo dự
báo của nhiều chuyên gia trong ngành, năm 2012, nguồn cung thủy sản thế giới có khả
năng sẽ tiếp tục thiếu.
Theo Tổng thư ký Hiệp hội chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam Trương Đình
Hòe, rất nhiều kho lạnh của Thái Lan tập trung ở thủ đô Bangkok và hầu hết những kho
này đã bị ảnh hưởng bởi lũ lụt, phải mất thêm một thời gian nữa mới có thể hoạt động trở

lại. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ tới xuất khẩu tôm của Thái Lan trong năm 2012.
Bên cạnh đó, một số nước xuất khẩu tôm lớn khác như Trung Quốc, Indonesia
cũng đang gặp nhiều khó khăn. Trung Quốc đang trải qua thời kỳ giá lạnh, làm ảnh
hưởng đến sản lượng tôm. Indonesia đang phải đối mặt với dịch bệnh. Đồng thời, ở
những thị trường tiêu thụ lớn là Mỹ, EU và Nhật Bản, nguồn cung tôm nội địa được dự
báo là sẽ thấp trong năm tới.
Về mặt hàng cá da trơn, trong năm 2011, lũ lụt ở Mississippi – một trong 4 bang
nuôi cá da trơn Mỹ cũng đã làm ảnh hưởng đến diện tích nuôi loài này ở Mỹ, giảm 39%
so với năm 2010. Và theo dự báo, ở Việt Nam, tình hình thiếu cá tra nguyên liệu sẽ xảy ra
trong năm 2012.
Theo báo cáo của FAO, thủy sản nuôi hiện là nguồn cung cấp đạm động vật tăng
trưởng nhanh nhất của thế giới và đáp ứng gần một nửa sản lượng thủy sản tiêu thụ toàn
cầu. Báo cáo nuôi trồng thủy sản thế giới năm 2010 cho thấy, sản lượng thủy sản nuôi
của thế giới đã tăng hơn 60% từ 32,4 - 52,5 triệu tấn trong giai đoạn 2000 - 2008. Và dự
kiến trong năm 2012, thủy sản nuôi sẽ đáp ứng hơn 50% lượng tiêu thụ thủy sản của thế
giới.
Trước tình hình sản lượng thủy sản khai thác toàn cầu đang sụt giảm trong khi dân
số ngày càng bùng nổ thì nuôi trồng thủy sản được cho là có tiềm năng lớn nhất trong
tương lai và có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng đối với các sản phẩm có chất
lượng và an toàn. Hiện, thủy sản nuôi đang góp phần giảm nghèo và cải thiện an ninh
lương thực ở nhiều khu vực trên thế giới. Tuy nhiên, nuôi trồng thủy sản phát triển không
đồng đều ở các khu vực. Châu Á - Thái Bình Dương được xem là khu vực có ảnh hưởng
nhất về nuôi trồng thủy sản của thế giới. Trong số 15 nước nuôi trồng thủy sản đứng đầu
thế giới, có 11 nước thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Một số nước dẫn đầu về sản lượng nuôi trồng một số loài chính như Trung Quốc
dẫn đầu về cá chép; Thái Lan, Việt Nam, Indonesia và Ấn Độ chiếm ưu thế về tôm cỡ
nhỏ và cỡ lớn; Na Uy và Chilê dẫn đầu về sản xuất cá hồi.
CHƯƠNG II: KẾT QUẢ THẢO LUẬN VÀ NGHIÊN CỨU.
2.1 Các đặc điểm về nguồn lợi thủy sản tại Việt Nam.
Việt Nam có đường bờ biển dài hơn 3.260 km từ Móng Cái đến Hà Tiên, trải qua

13 vĩ độ từ 8
o
23' bắc đến 21
o
39' bắc. Diện tích vùng nội thủy và lãnh hải của Việt Nam
rộng 226.000 km
2
với vùng đặc quyền kinh tế biển rộng hơn 1 triệu km
2
rộng gấp 3 lần
diện tích đất liền.
Trong vùng biển Việt Nam có trên 4000 hòn đảo, trong đó có nhiều đảo lớn như
Cô Tô, Bạch Long Vĩ, Cát Bà, Hòn Mê, Phú Quí, Côn Đảo, Phú Quốc … có cư dân sinh
sống, là nơi có tiềm năng để phát triển du lịch đồng thời đã, đang và sẽ được xây dựng
thành một tuyến căn cứ cung cấp các dịch vụ hậu cần, trung chuyển sản phẩm cho đội tàu
khai thác hải sản, đồng thời làm nơi trú đậu cho tàu thuyền trong mùa bão gió.
Bên cạnh đó Việt Nam cũng có nhiều vịnh, vụng, đầm, phá, cửa sông, chẳng hạn
vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long, vịnh Cam Ranh, phá Tam Giang … và trên 400 nghìn
hecta rừng ngập mặn, là những khu vực đầy tiềm năng cho phát triển giao thông, du lịch,
đồng thời cũng rất thuận lợi cho phát triển nuôi, trồng thủy sản và tạo nơi trú đậu cho tàu
thuyền đánh cá.
Về mặt kỹ thuật trong lĩnh vực khai thác hải sản, người ta thường chia vùng biển
nước ta thành 4 vùng nhỏ, nhiều khi cũng ghép thành 3 vùng, đó là vùng biển Bắc Bộ,
vùng biển miền Trung và vùng Đông - Tây Nam Bộ. Vùng biển Bắc Bộ và Đông - Tây
Nam Bộ có độ sâu không lớn, độ dốc nền đáy nhỏ, trên 50% diện tích vùng biển có độ
sâu nhỏ hơn 50m. Trong đó vùng biển miền Trung có nét khác biệt lớn với các vùng trên,
mang đặc tính biển sâu, nền đáy rất dốc.
Điều kiện địa lý vùng biển và các mặt nước nội địa của Việt Nam đã tạo nên
những vùng sinh thái khác nhau đối với các loài thủy sinh vật. Có thể chia thành 4 dạng
môi trường sống cơ bản đối với các loài thủy sinh vật: vùng nước mặn xa bờ, vùng nước

mặn gần bờ, vùng nước lợ và vùng nước nội địa (vùng nước ngọt).
Theo các nghiên cứu khoa học, nguồn lợi hải sản Việt Nam có: 75 loài tôm, 25
loài mực, 7 loài bạch tuộc, 653 loài rong biển, trong đó rong kinh tế chiếm 14% (90 loài),
san hô (loài san hô cứng) tạo rạn có 298 loài, thuộc 76 giống, 16 họ và trên 10 loài san hô
sừng. Cá có trên 2.100 loài, trong đó hơn 130 loài có giá trị kinh tế. Theo những đánh giá
mới nhất, trữ lượng cá biển trong toàn vùng biển là 4,2 triệu tấn, trong đó sản lượng cho
phép khai thác là 1,7 triệu tấn/năm, bao gồm 850 nghìn tấn cá đáy, 700 nghìn tấn cá nổi
nhỏ, 120 nghìn tấn cá nổi đại dương.
Bị chi phối bởi đặc thù của vùng biển nhiệt đới, nguồn lợi thuỷ sản nước ta có
thành phần loài đa dạng, kích thước cá thể nhỏ, tốc độ tái tạo nguồn lợi cao. Chế độ gió
mùa tạo nên sự thay đổi căn bản điều kiện hải dương học, làm cho sự phân bố của cá
cũng thay đổi rõ ràng, sống phân tán với quy mô đàn nhỏ.
Phân bố trữ lượng và khả năng khai thác cá đáy tập trung chủ yếu ở vùng biển có
độ sâu dưới 50m (56,2%), tiếp đó là vùng sâu từ 51 - 100m (23,4%). Theo số liệu thống
kê, khả năng cho phép khai thác cá biển Việt Nam bao gồm cả cá nổi và cá đáy ở khu vực
gần bờ có thể duy trì ở mức 600.000 tấn/năm. Nếu kể cả các hải sản khác, sản lượng cho
phép khai thác ổn định ở mức 700.000 tấn/năm, thấp hơn so với sản lượng đã khai thác ở
khu vực này hằng năm trong một số năm qua. Trong khi đó, nguồn lợi vùng xa bờ còn
lớn chưa khai thác hết.
Theo vùng và theo độ sâu, nguồn lợi cá cũng khác nhau. Vùng biển Đông Nam Bộ
cho khả năng khai thác hải sản xa bờ lớn nhất, chiếm 49,7% khả năng khai thác cả nước,
tiếp đó là Vịnh Bắc Bộ (16,0%), biển miền Trung (14,3%), Tây Nam Bộ (11,9%), các gò
nổi (0,15%), cá nổi đại dương (7,1%).
Bên cạnh cá biển còn nhiều nguồn lợi tự nhiên như trên 1.600 loài giáp xác, sản
lượng cho phép khai thác 50 – 60 nghìn tấn/năm, có giá trị kinh tế cao nhất là mực và
bạch tuộc (cho phép khai thác 60 – 70 nghìn tấn/năm); hằng năm có thể khai thác từ 45
đến 50 nghìn tấn rong biển có giá trị kinh tế như rong câu, rong mơ… và còn rất nhiều
loài đặc sản quí như bào ngư, đồi mồi, chim biển và có thể khai thác vây cá, bóng cá,
ngọc trai ….
2.2 Mạng lưới xuất khẩu thủy sản của Việt Nam

Theo số liệu của Tổng Cụ Hải quan Việt Nam, tháng 5/2010 cả nước đã xuất khẩu
được khoảng 3,9 nghìn tấn thủy sản chế biến, đạt giá trị 17,7 triệu USD, giảm 0,5 về
lượng nhưng lại tăng về giá trị so với tháng 4/2010. Xuất khẩu thủy sản chế biến trong
tháng 5/2010 của cả nước bị “chững lại” một phần do nguồn nguyên liệu thủy sản trong
nước thiếu trầm trọng từ đầu năm đến nay. Khó khăn này sẽ càng chồng chất khi mà việc
nhập khẩu nguyên liệu gia công, chế biến nguyên liệu gia công, chế biến hàng xuất khẩu
lại phải chịu sự kiểm soát chồng chéo.
Các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam cho biết, đơn đặt hàng từ các nhà NK bắt
đầu tăng nhưng nguồn nguyên liệu trong nước vẫn chưa được cải thiện. 5 tháng đầu năm
2010, sản lượng hải sản khai thác giảm mạnh so với cùng kì năm ngoái nên họ phải NK
và thu gom nguyên liệu với giá cao hơn để đáp ứng các đơn đặt hàng đã ký. Ngoài ra,
một số doanh nghiệp tại miền Nam và Trung Bộ cũng đang phải cạnh tranh nguyên liệu
với các ông chủ Trung Quốc do phía Trung Quốc mua phá giá.
Biểu đồ 4: Xuất khẩu hàng thủy sản sang các thị trường chính năm 2011 và năm 2012
Nguồn: Tổng cục Hải quan

Trong 4 thị trường chính nhập khẩu hàng thủy sản Việt Nam, EU là thị trường duy
nhất có mức suy giảm trong năm 2012, đạt 1,13 tỷ USD, giảm mạnh tới 16,7% so với
năm 2011. Xuất khẩu thủy sản sang ba thị trường chính Hoa Kỳ, Nhật Bản và Hàn Quốc
đều có mức tăng trưởng dương, lần lượt là 0,6%, 6,7% và 3,9%.
Trong năm qua, kim ngạch xuất khẩu hàng thủy sản sang các thị trường Trung
Quốc (đạt 275 triệu USD), Ôxtrâylia (182 triệu USD) và Ai Cập (80 triệu USD), tuy
không nhiều về quy mô nhưng lại có mức tăng trưởng khá ấn tượng, đạt lần lượt là
23,1%, 11,7% và 26,6%. Bên cạnh đó một số thị trường khác cũng đạt được tốc độ tăng
trưởng dương như: Đài Loan đạt 135 triệu USD, tăng 4%; Hồng Kông đạt 131 triệu USD,
tăng 8,9%;
Ngược lại, xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam trong năm 2012 sang một số thị
trường khác lại suy giảm với các mức độ khác nhau như: Canađa đạt 130 triệu USD,
giảm 9,6%; Mêxicô đạt 110 triệu USD, giảm 2,5%; Nga đạt 100 triệu USD, giảm 5,9%;
Braxin đạt 79 triệu USD, giảm 8,3%;

Xuất khẩu thủy sản sang các thị trường là thành viên Hiệp hội các Quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN) trong năm qua cũng đạt mức tăng trưởng khả quan, đạt kim ngạch 344
triệu USD, tăng 8,7% so với năm trước. Hiện nay, trong số các thành viên ASEAN thì
Thái Lan, Singapore và Malaixia là ba thị trường dẫn đầu về nhập khẩu hàng thủy sản
của Việt Nam với tỷ trọng gần 80% trong tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này của
cả Hiệp hội
Các doanh nghiệp thủy sản cho biết, Cục Y dược và thực phẩm Nhật đã đánh giá
cao công tác quản lý và kiểm soát an toàn vệ sinh thủy sản của Việt Nam. Kể từ khi
Quyết định 06/2007 được thực thi tỉ lệ lô hàng thủy sản của Việt Nam nhập khẩu vào
Nhật Bản giảm đáng kể từ 4% xuống còn 0,39% năm 2009.
Mặc dù cánh cửa vào thị trường EU đang bị thu hẹp dần do quy định IUU nhưng
XK chế biến sang thị trường này vẫn lạc quan. Tháng 5/2010, EU là thị trường NK thủy
sản chế biến lớn thứ 2 của Việt Nam với gần 1,4 nghìn tấn, trị giá trên 4,5 triệu USD,
chiếm 25,71% tổng giá trị XK của cả nước. Tuy nhiên, các nhà XK cũng đang đau đầu
trước yêu cầu giảm giá bán cả các nhà nhập khẩu EU do đồng EUR mất giá so với USD.
Bên cạnh Nhật Bản, EU, nhu cầu thủy sản chấ biến tại Mỹ, ASEAN, Trung Quốc
và Hồng Kông cũng cao. Tháng 5/2010 Mỹ đã nhập 336 tấn thủy sản chấ biến (chủ yếu là
cua, nghẹ và giáp xác đóng hộp) từ Việt Nam trị giá 3,4 triệu USD, chiếm 19,42% tổng
giá trị XK của cả nước. XK thủy sản chế biến sang ASEAN trong tháng 5/2010 đạt 567
tấn, trị giá 737 triệu USD, chiếm 4,15 tổng giá trị XK của cả nước.
Năm 2012 chứng kiến việc Hoa Kỳ chính thức vượt EU trở thành thị trường dẫn
đầu về nhập khẩu hàng thủy sản của Việt Nam với kim ngạch đạt 1,17 tỷ USD, chiếm
19,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thủy sản của cả nước. Trong năm này Hoa
Kỳ, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản và Hàn Quốc là 4 đối tác lớn nhất nhập khẩu và
tiêu thụ hàng thủy sản xuất xứ từ Việt Nam. Tính chung, tổng kim ngạch hàng thủy sản
xuất sang 4 thị trường này đạt 3,89 tỷ USD, chiếm tới 64% tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng thủy sản của cả nước.
Bảng 2: Cơ cấu xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam năm 2012 theo mã HS
trong danh mục biểu thuế
Stt Mã HS Trị giá (Triệu USD) Tỷ trọng (%)

1 03.03 201 3,3
2 03.04 2.416 39,7
3 03.06 1.593 26,2
4 03.07 462 7,6
5 16.04 373 6,1
6 16.05 847 13,9
7 HS khác 196 3,2
Tổng cộng 6.088 100,0
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Cơ cấu xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam xuất ra thế giới chủ yếu là nhóm
hàng cá đông lạnh (mã HS 03.03); phi lê cá & các loại thịt cá khác (HS 03.04); tôm đã và
chưa chế biến (HS 16.05 và HS 03.06); mực, bạch tuộc (HS 06.07); và cá ngừ đã được
chế biến (HS 16.04).
2.3. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2009-2012
Trong nhiều năm qua, hàng thủy sản luôn là một trong những mặt hàng xuất khẩu
chủ lực của Việt Nam ra thị trường thế giới. Trong năm 2012, xuất khẩu ngành hàng này
chiếm tỷ trọng 5,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu tất cả các mặt hàng của cả nước.
Bảng 1: Kim ngạch và tỷ trọng của 10 nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
trong năm 2012
Tên hàng Thứ hạng
Kim ngạch
(Tỷ USD)
Tỷ trọng (%)
Hàng dệt may 1 15,09 13,2
Điện thoại các loại & linh kiện 2 12,72 11,1
Dầu thô 3 8,21 7,2
Máy vi tính sản phẩm điện tử &
linh kiện
4
7,84

6,8
Giày dép 5 7,26 6,3
Hàng thủy sản 6 6,09 5,3
Máy móc thiết bị dụng cụ & phụ
tùng
7
5,54
4,8
Gỗ & sản phẩm gỗ 8 4,67 4,1
Phương tiện vận tải & phụ tùng 9 4,58 4,0
Gạo 10 3,67 3,2
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Kể từ thời điểm Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), xuất khẩu thủy sản của Việt Nam liên tục đạt được mức kim ngạch và tốc độ
tăng khả quan trừ năm 2009. Cụ thể, khởi điểm năm 2006, xuất khẩu thủy sản đạt gần 3,4
tỷ USD, có mức tăng trưởng cao 22,6%. Sang năm 2007, con số này đạt 3,76 tỷ USD,
tăng 12,1% so với năm trước. Đến năm 2009, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế
giới, xuất khẩu nhóm hàng này bị suy giảm (giảm 5,7%) với mức kim ngạch là 4,25 tỷ
USD. Trong năm 2010 và năm 2011, xuất khẩu thủy sản khởi sắc với mức kim ngạch và
tốc độ tăng lần lượt là 5,02 tỷ USD, 18% và 6,11 tỷ USD, 21,8%. Số liệu Thống kê Hải
quan cho thấy trong năm 2012 xuất khẩu nhóm hàng này đạt 6,09 tỷ USD, giảm nhẹ 0,4
% (tương ứng giảm 24 triệu USD về số tuyệt đối) so với năm 2011.

Biểu đồ 1: Kim ngạch và tốc độ tăng giảm xuất khẩu thủy sản của Việt Nam giai đoạn
năm 2006-2012
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Từ nhiều năm qua, hàng thủy sản của Việt Nam xuất khẩu chủ yếu theo loại hình
xuất kinh doanh và xuất hàng sản xuất từ nguyên liệu nhập khẩu (xuất sản xuất xuất
khẩu). Số liệu của Tổng cục Hải quan cho thấy trong năm 2012 tổng kim ngạch xuất
khẩu thủy sản theo hai loại hình này đạt 5,77 tỷ USD, giảm nhẹ 1% so với năm trước và

chiếm 95% trong tổng kim ngạch xuất khẩu ngành hàng này của cả nước.
Biểu đồ 2: Tỷ trọng xuất khẩu theo các loại hình của hàng thủy sản năm 2012
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam thực hiện theo 2 loại hình chính này có
diễn biến trái chiều trong năm qua. Cụ thể, xuất khẩu theo loại hình kinh doanh đạt 4,37
tỷ USD, giảm 7,4% so với năm trước; trong khi xuất khẩu theo loại hình xuất sản xuất
xuất khẩu đạt 1,4 tỷ USD, tăng tới 26,1%.
Cũng theo số liệu Thống kê Hải quan nhiều năm qua cho thấy, do tính thời vụ, chu
kỳ xuất khẩu hàng thủy sản thường có tăng trưởng mạnh trong quý III và quý IV. Trong
năm 2012, quý III xuất khẩu đạt mức kim ngạch cao nhất năm với 1,62 tỷ USD, ngược
lại quý I có kim ngạch thấp nhất với 1,29 tỷ USD.
Nếu phân theo loại hình kinh tế thì xuất khẩu hàng thủy sản của khối các doanh
nghiệp trong nước chiếm tỷ trọng lớn trên 90% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm
hàng này của cả nước.
Biểu đồ 3: Kim ngạch xuất khẩu hàng thủy sản của doanh nghiệp trong nước và
doanh nghiệp FDI giai đoạn 2006-2012
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Trong năm 2012, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của khối doanh nghiệp trong nước
đạt 5,54 tỷ USD, giảm 2,8% so với năm trước và chiếm tỷ trọng 91%. Trong khi đó, con
số xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chỉ là 552 triệu
USD, tăng mạnh 32,6% so với năm 2011 và chỉ bằng 1/10 mức kim ngạch xuất khẩu
hàng thủy sản của doanh nghiệp trong nước.
2.3 Thị trường xuất khẩu thủy sản Việt Nam
2.3.1 Thị trường Mỹ
Mỹ là một trong những quốc gia chịu thiệt hại nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng
tài chính và suy thoái kinh tế hiện nay. Thương mại xuất nhập khẩu của Mỹ trong 7 tháng
đầu năm giảm mạnh, tuy nhiên mặt hàng thủy sản của Việt Nam vào Mỹ không hề suy
giảm mà còn tăng đáng kể. Đây là một điểm sáng trong thị trường xuất khẩu của Việt
Nam.
7 tháng đầu 2009, kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước đạt 2.17 tỷ USD, giảm

8.9% so với cùng kỳ năm trước. Mỹ là thị trường XK thủy sản lớn thứ 2 của Việt Nam,
chỉ đứng sau Nhật Bản. Xuất khẩu thủy sản 7 tháng đầu năm của Việt Nam vào Mỹ đạt
380.83 triệu USD, tăng 11.36% và là một trong ít thị trường có kim ngạch XK thủy sản
tăng.
Biểu đồ 7: Kim ngạch XK 7 tháng năm 2009 và sovới cùng kì năm 2008
Nguồn: TCTK và Vietstock tổng hợp
Quan sát biểu đồ trên cho thấy, 10 thị trường có kim ngạch XK lớn nhất trong 7
tháng đầu năm 2009 (chiếm 65.73% kim ngạch XK thủy sản) có 5 thị trường tăng trưởng
so với cùng kỳ năm 2008. Trung Quốc tăng lớn nhất với gần 46%, tuy nhiên giá trị XK
vào thị trường này tương đối nhỏ (chỉ 52 triệu USD trong 7t/2009). Các thị trường khác
như Hàn Quốc, Đức và Tây Ban Nha cũng đạt được tốc độ tăng trưởng khá. Từ biểu đồ
trên ta cũng thấy được tầm quan trọng của Hoa Kỳ đối với mặt hàng thủy sản của Việt
Nam.
Biểu đồ 8: Xuất khẩu thủy sản vào Mỹ 7T/2009 theo các mặt hàng
Nguồn: Bộ công thương và Vietstock tổng hợp
Các mặt hàng thủy sản XK chính gồm tôm, chiếm 26,4% tổng giá trị XK tôm
của Việt Nam; cá tra (11% tổng XK cá tra); cá ngừ (45,3%); nhuyễn thể (3,7%).
Tôm là sản phẩm xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam vào Mỹ phân theo mặt hàng, Tôm vẫn
là mặt hàng có giá trị lớn nhất trong các mặt hàng XK của Việt Nam vào Mỹ, kim ngạch
7 tháng đầu năm 2009 đạt 185 triệu USD chỉ đứng sau thị trường Nhật Bản (242 triệu
USD). Điều này cho thấy Mỹ vẫn là một thị trường quan trọng đối với tôm XK của Việt
Nam. XK tôm 9 tháng đầu năm nay có chuyển biến rất tích cực, từ mức giảm khá sâu
trong cả năm 2009, cả về khối lượng và giá trị (giảm 8,3% và 15,4% tương ứng). Giá trị
XK 9 tháng đầu 2010 đạt 376 triệu USD, chỉ thấp hơn không đáng kể so với cả năm
2009.
Sản phẩm từ cá tra và basa đứng thứ 2 trong số các mặt hàng thủy sản lớn nhất XK
vào Mỹ. Kim ngạch XK 7 tháng đàu năm đạt 88 triệu USD, chiếm 9.64% giá trị XK của
mặt hàng này.Ngoài tôm, cá tra và cá basa, các sản phẩm khác như cá ngừ, trứng cá và
cua đều đạt kim ngạch trên 10 triêu USD, các sản phẩm còn lại trị giá 53 triêu USD
Biểu đồ 8: Xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Mỹ năm 2004-9T/2010

Nguồn:
Qua biểu đồ ta thấy, năm 2009, Việt Nam xuất gần 123.000 tấn thủy sản sang
thị trường Mỹ, trị giá trên 713 triệu USD, tăng 14.6% về khối lượng nhưng giảm
4,2% về giá trị.
9 tháng đầu năm 2010. XK thủy sản Việt Nam sang Mỹ đạt trên 108.000 tấn,
trị giá 666,66 triệu USD, tăng đáng kể so với cùng kỳ năm ngoái, nhất là tốc độ tăng
giá trị (37,4%) bằng gần gấp rưỡi so với khối lượng (23,7%). Như vậy thủy sản XK sang
Mỹ đã có cải thiện đáng kể về giá và mức độ chế biến sâu.
Từ đầu những năm 2000, Mỹ đã trở thành một trong ba thị trường tiêu thụ nhiều
nhất thủy sản của Việt Nam. Những năm gần đây, giá trị XK sang Mỹ thường chiếm
khoảng 16-22% tổng giá trị XK thủy sản của Việt Nam; riêng 9 tháng đầu năm 2010
chiếm 19%, tăng đáng kể so với mức trên 16% của cả năm 2009.
Bảng 3: Số liệu xuất khẩu hàng thủy sản sang thị trường Hoa Kỳ năm 2011-2012

Chỉ tiêu Năm 2011 Năm 2012
Kim ngạch xuất khẩu hàng
thủy sản sang Hoa Kỳ (tỷ USD)
(A)
1,16 1,17
Kim ngạch xuất khẩu hàng
thủy sản cả nước (tỷ USD)
(B)
6,11 6,09
Tỷ trọng trong tổng kim ngạch
xuất khẩu thủy sản cả nước (%)
(C)=(A/B)*100
19,0 19,2
Tổng kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam sang Hoa Kỳ (tỷ USD)
(D)

16,93 19,67
Tỷ trọng trong tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả nước sang Hoa
Kỳ (%)
(E)=(A/D)*100
6,9 5,9
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Cơ cấu xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam xuất ra thế giới chủ yếu là nhóm hàng cá
đông lạnh (mã HS 03.03); phi lê cá & các loại thịt cá khác (HS 03.04); tôm đã và chưa
chế biến (HS 16.05 và HS 03.06); mực, bạch tuộc (HS 06.07); và cá ngừ đã được chế
biến (HS 16.04).
Thị trường Mỹ mặt dù không tăng mạnh như thị trường khác nhưng vẫn đạt tốc độ tăng
khả quan.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, 7 tháng đầu năm 2009 có 182 doanh nghiệp của
Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Công ty TNHH chế biến thủy sản Minh Phát có
kim ngạch lớn nhất và đạt 32 triệu USD, công ty đứng thứ 2 là Hùng Vương Vĩnh Long.
Điều đáng chú ý là những công ty đứng đầu trong XK thủy sản của Việt Nam không phải
là những công ty có kim ngạch XK lớn vào Mỹ. Trong số 15 công ty thủy sản đang niêm
yết trên sàn chỉ có 4 công ty XK vào thị trường Mỹ.
Bảng 3: Danh sách các công ty có kim ngạch XK lớn nhất vào Hoa Kỳ năm
2010
STT Tên doanh nghiệp Gía trị XK USD năm 2010
1 Cty TNHH CBTS Minh Phát 32.309.440
2 Cty TNHH Hùng Vương Vĩnh Long 26.090.017
3 Cty cổ phần chế biến thủy sản XK Minh
Hải
23.402.797
4 Cty TNHH Thủy sản Hải Long Nha
Trang
17.658.777

5 Cty cổ phần Thủy đặc sản1 7.641.322
6 Cty TNHH Công Nghiệp thực phẩm
PATAYA
16.504.093
7 Cty TNHH Kim Anh 16.083.877
8 Cty TNHH Tân Thành Lợi 15.513.930
9 Cty cổ phần chấ biến và XNK thủy sản
Csdovimex
11.094.699
10 Cty cổ phần chế biến thủy sản Út xi 10.878.643
11 Cty cổ phần thủy sản Cà Mau 10.094.253
12 Doanh nghiệp khác 182.759.504
Tổng cộng 380.122.261
Như vậy bất chấp kim ngạch XNK của Mỹ đều suy giảm mạnh nhưng XK thủy
sản của Việt Nam vào Mỹ vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng khá.
2.3.2. Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là một thị trường NK thủy sản hàng đầu thế giới có kim ngạch nhập
khẩu trung bình 15 tỷ USD/ năm. Với dân số hơn 120 triệu người (2009), GDP đạt trên
5000 tỉ USD (khoảng 473.000 tỷ yên), bình quân đầu người xấp xỉ 40.000 USD/năm,
Nhật Bản đang là thị trường XK tiềm năng của Việt Nam.
Việt Nam luôn nằm trong nhóm 10 quốc gia XK thủy sản hàng đầu vào thị trường Nhật
Bản với kim ngạch đạt gần 800 triệu USD trong năm 2009. Các sản phẩm thủy sản của
Việt Nam xuất sang thị trường Nhật Bản bao gồm chủ yếu tôm và các loại cá tra, cá basa,
cá hồi, cá đuối, cá bò, cá ghim, cá ngừ hun khói, mực, bạch tuột, ghẹ. Tốc độ tăng kim
ngạch XK thủy sản trung bình hàng năm sang Nhật Bản đạt bình quân 5,4% . Với đà tăng
trưởng này, dự báo kim ngạch XK thủy sản sang Nhật Bản sẽ đạt 1.083 triệu USD vào
năm 2015.
Năm 2009, XK thủy sản của Việt Nam sang Nhật Bản chiếm 17,8% tổng giá trị
kim ngạch xuất khẩu, đạt 757.92 triệu tấn. Năm 2010, Nhật Bản tiếp tục giữ vị trí nhà
NK thủy sản lớn thứ hai của Việt Nam với kim ngạch XK đạt 549 triệu USD (tăng

18,9%) trong 8 tháng đầu năm 2010.
Cơ cấu hàng thủy sản XK sang Nhật Bản trong 6 tháng đầu năm 2010 bao gồm cá các
loại đạt 27,2 nghìn tấn với trị giá là 90,5 triệu USD, tăng 81,6%; tôm đạt 26,3 nghìn tấn
với trị giá gần 256 triệu USD, Tăng 20%: mực và bạch tuột đạt 7,47 nghìn tấn, trị giá gần
46 triệu USD, giảm 7,2% so với cùng kỳ năm 2009. NB là nước NK nhiều nhất nhuyễn
thể chế biến của Việt Nam.
*Nhóm sản phẩm tôm (chủ yếu là tôm đông lạnh): là nhóm sản phẩm quan trọng
nhất trong cơ cấu XK thủy sản của Việt Nam vào Nhật Bản (chiếm 29,76% giá trị XK)
với doanh thu đạt hàng năm 400 triệu USD.Mặc dù Việt Nam vẫn là nhà cung cấp tôm số
1 của Nhật Bản. Tuy nhiên cạnh tranh từ phía các nhà cung cấp khác ngày càng gia tăng,
đặc biệt là từ Thái Lan làm cho XK tôm của Việt Nam vào Nhật Bản giảm.Trong khi NK
tôm của Nhật Bản từ Việt Nam giảm 11% thì NK tôm thừ Thái Lan vào Nhật Bản lại tăng
28,7% trong 9 tháng đầu năm 2009.
Theo số liệu của Hiệp hội chế biến và XK thủy sản Việt Nam, Việt Nam XK tôm sang
NB đạt kim ngạch 413 triệu USD trong 9 tháng đầu năm 2010 (chiếm 28,9%), đúng trong
top ba nước XK lớn nhất mặt hàng tôm sang NB ( sau Indonesia và Thái Lan). Do năng
suất và chất lượng nuôi tôm của Việt Nam chưa cao làm cho chi phí, giá thành tôm XK
đắt, khả năng cạnh tranh kém. Thêm vào đó, trình độ và kinh nghiệm marketing, quảng
bá và tiếp thị trên thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp còn yếu, nguồn lực đầu tư
cho việc mử rộng thị trường còn hạn chế làm giảm sản lượng tôm XK sang Nhật Bản.
*Nhóm sản phẩm mực (mực ống, mực nang), bạch tuột: được đánh giá cao trên thị
trường Nhật Bản nên lượng tiêu dùng có xu hướng tăng. Tuy nhiên, do sản phẩm mực,
bạch tuột được đánh bắt tự nhiên nên sản lượng và giá thành không ổn định vì cậy thời
gian tới khả năng tăng trưởng của mặt hàng này bị hạn chế.
* Nhóm sản phẩm cá (các ngừ tươi, cá tra, cá basa, cá đông lạnh): được thị
trường Nhật Bản đánh giá cao về chất lượng. Tuy nhiên cũng giống như mặt hàng mực,
bạch tuột được đánh bắt tự nhiên nên khả năng tăng trưởng của sản phẩm cá ngừ cũng bị
hạn chế. Việt Nam đã chủ động tìm nguồn nguyên liệu ca hồi thay thế. Xuất khẩu cá hồi
sang Nhật Bản trong 6 tháng đầu năm 2010 đạt gần 60 triệu USD.
Để tăng cường XK vào Nhật Bản, cần tiếp tục đa dạng hóa và phát triển các mặt hàng

thủy sản mới XK sang Nhật Bản như cá hồi, cua huỳnh đế, các sản phẩm tinh chế từ tôm
như tôm sushi, cá ngừ sushi và các sản phẩm phối chế khác nhằm nâng cao hơn nữa giá
trị gia tăng của mặt hàng thủy sản XK Việt Nam sang Nhật Bản. Để thâm nhập và đứng
vững trên thị trường Nhật Bản phải có một chiến lược với tầm nhìn sâu rộng thông qua
nghiên cứu thị trường một cách kỹ lưỡng, đầy đủ và tạo được hình ảnh đáng tin cậy cho
các sản phẩm XK.
2.4.3 Thị trường EU
EU hiện nay là thị trường XK thủy sản chiến lược của Việt NAM, 27 nước thuộc
khối EU đã tiêu thụ khoảng 26 % tổng kim ngạch XK thủy sản của ta. Trong top 10 thị
trường tiêu thụ thủy sane lớn nhất của Việt Nam, có 4 quốc gia thuộc khối EU là Đức,
Tây Ban Nha, Hà Lan, Italia.
Kim ngạch XK thủy sản của Việt Nam trong năm 2009 giảm 4,3% so với năm
2008; trong đó XK vào EU đạt giá trị 1,11 tỷ USD, giảm 4,6% so với năm trước đó. Tuy
nhiên mức giảm của thị trường EU vẫn chưa quá mạnh nếu so sánh với kim ngạch XK
thủy sản sang Mỹ và NB với mức giảm lần lượt là 7,2% và 12%.
Theo nghiên cứu sở dĩ trong năm 2009, XK thủy sản sang EU không sụt giảm nhiều như
XK sang Mỹ và NB là bởi nhiều nguyên nhân.
+ Một là, kinh tế của khối EU trong năm 2009 tuy đã rơi vào tình trạng suy thoái nhưng
vẫn còn sáng sủa hơn so với Nhật Bản và Mỹ.
+ Hai là, các doanh nghiệp Việt Nam đã khá chú trọng các hoạt động xúc tiến thương mại
và mở rộng thị trường tại châu Âu, tham gia nhiều hoạt động quảng bá, hội chợ triển lãm
thủy sản.
Nhờ vậy, đã có thêm 30 doanh nghiệp Việt Nam XK thủy sản vào EU, nâng cao
tổng số các doanh nghiệp được XK thủy sản vào thị trường này lên 330.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, XK thủy sản của nước ta trong 6 tháng
đầu năm đ ạt 2 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kì năm ngoái. Tôm đã trở thành mặt hàng
có tốc độ tăng trưởng về giá trị XK mạnh nhất, kim ngạch trong 6 tháng đầu năm 2010 đã
tăng mạnh tới 27,1% so với cùng kì năm ngoái.
Nhờ vậy, mặt hàng tôm đã vượt qua cá tra, cá basa để vươn lên vị trí đứng đầu
trong nhóm thủy sản của Việt Nam. Có được thành quả này, một phần là nhờ thị trường

Mỹ đã phục hồi nhanh, đồng thời do sự cố tràn dầu nên nguồn cung tôm ở châu Mỹ đang
sụt giảm nghiêm trọng.
Tính trong 6 tháng đầu năm, thị trường tiêu thụ hàng thủy sản số một của Việt
Nam vẫn là EU, chiếm 25% tổng kim ngạch XK thủy sản nước ta, tiếp theo là Nhật Bản
chiếm 18%, Mỹ đứng thứ ba với 17,1%.
Một số thị trường đáng chú ý có mức tăng trướng tiêu dùng và có xu hướng ưa
thích các sản phẩm cá tra của Việt Nam như các nước Đông Âu cũ, hoặc Bắc Âu như
Thụy Điển, Luxembourg, Bulgaria, Slovenia, Romania, Estonia, Australia, Hungary,
Slovakia, Anh. Các hỗ trợ về xúc tiến thương mại của Nhà nước thay vì tập trung vào các
thị trường lớn đã bão hòa hoặc có xu hướng suy giảm, nên chú trọng vào các thị trường
mới, hỗ trợ doanh nghiệp về thông tin thị trường, thị hiếu tiêu dùng, thông tin doanh
nghiệp nhập khẩu, kênh phân phối…kết hợp với các chương trình quảng bá sản phẩm
Việt Nam có tính chiến lược lâu dài.
mạnh NK thủy sản từ Việt Nam. Đời sống người dân tăng lên đã khiến Trung Quốc dần
trở thành nhà NK thủy sản đáng nể trên phạm vi thế giới trong khi Việt Nam có vị trí
2.4.4 Thị trường khác
Hàn Quốc là thị trường duy nhất luôn duy trì mức tăng NK trong suốt nhiều năm
qua, bất chấp các cuộc khủng hoảng hay suy thoái kinh tế. Đến hết tháng 11/2010, Hàn
Quốc đã nhập khẩu 99.600 tấn thủy sản từ Việt Nam, trị giá 334,9 triệu USD, chiếm 7,4%
tổng giá trị XK thủy sản của Việt Nam, tăng 10,8% khối lượng và 23,3% giá trị. Hiện
Hàn Quốc là nhà NK thủy sản lớn thứ 4 của Việt Nam. Những năm gần đây Hàn Quốc đã
nâng cao các tiêu chuẩn chất lượng và VSATTP đối với thủy sản NK, nhu cầu sản phẩm
chế biến cao hơn, với các yêu cầu gần tương đương như Nhật Bản. Dự báo, XK thủy sản
của Việt Nam sang thị trường này tiếp tục tăng trưởng tốt, mặc dù giá bán có thể không
cao bằng một số thị trường lớn khác.
Trung quốc: Năm 2010 tiếp tục ghi nhận sự tăng địa lí thuận lợi về biên giới chung
với Trung Quốc nên rất thuận tiện cho việc giao thông đi lại và giao lưu buôn bán cung
cấp hàng sang thị trường này. Sản phẩm chính Trung Quốc mua là tôm chủ yếu ở dạng sơ
chế, và một số loài nhuyễn thể. Dự đoán XK sang Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng do nhu cầu
tiêu thụ tại các vùng duyên hải nằm gần Việt Nam củ nước này đang tăng lên đáng kể.

Thị trường khác: Tiêu thụ mạnh thủy sản của Việt Nam còn có thị trường các nước
ASEAN, Úc, Canada, với giá thị NK từ 193 đến 203 triệu USD trong năm 2010.
2.5 Mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam
Năm 2010, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đều đạt mức
tăng trưởng cao hơn nhiều cả về khối lượng và giá trị so với năm 2009. Riêng cá tra, tuy
năm 2010 chỉ tăng nhẹ về giá trị, nhưng cũng đã tiến bộ hơn nhiều so với mức giảm
-7,6% của năm 2009
2.5.1 Thị trường xuất khẩu tôm
Trước cơn sóng gió của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu ảnh hưởng mạnh mẽ
đến nhiều mặt hàng xuất khẩu, song mặt hàng tôm vẫn bứt phá và đạt được kim ngạch
xuất khẩu khá cao. Trong năm 2009, tôm là mặt hàng hiếm hoi đạt được mức tăng cả về
kim ngạch và giá trị trong xuất khẩu.
Điều nổi bật đáng ghi nhận của xuất khẩu tôm Việt Nam trong năm qua là khối
lượng xuất khẩu tôm đạt gần 210 nghìn tấn với kim ngạch đạt trên 1,67 tỉ USD. So với
năm 2008, tăng 9,4% về khối lượng (KL) và 3% về giá trị (GT). Trong số 4 mặt hàng
thủy sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam gồm tôm, cá tra, cá ngừ và nhuyễn thể chân đầu
thì tôm là mặt hàng duy nhất tăng trưởng trong năm 2009.
Một số thị trường xuất khẩu chính vẫn chiếm vị trí cao như EU, năm 2009, Việt
Nam xuất 41 nghìn tấn tôm sang EU, thu về 281 triệu USD. So với năm 2008, lượng xuất
khẩu tăng 26,5% và giá trị tăng hơn 20% kéo theo thị phần xuất khẩu tăng từ 14,4% lên
16,8% năm 2009. Đối với thị trường Hàn Quốc, xuất khẩu tôm sang thị trường này năm
2009 cũng rất đáng ghi nhận. Khối lượng xuất khẩu tăng 35,3% (đạt 16.429 tấn), giá trị
tăng 26,2% (đạt 107 triệu USD). Thị phần xuất khẩu sang nước này đã tăng từ 5,2% năm
2008 lên 6,4% năm 2009. Còn Ôxtrâylia, không phải là một thị trường nổi bật nhưng
cũng không thể không nhắc đến thị trường này trong bức tranh tổng thể xuất khẩu tôm
trong năm 2009, Việt Nam xuất khẩu trên 8 nghìn tấn tôm sang Ôxtrâylia, thu về gần 72
triệu USD, tăng 9,2% về khối lượng và 1,8% về giá trị.
Tuy nhiên, kinh tế suy thoái mạnh, tiêu dùng trong nước giảm là nguyên nhân
chính dẫn tới thị trường giảm nhập khẩu tôm từ hầu hết các nhà cung cấp truyền thống
như Nhật Bản, Ấn Độ… Đặc biệt là Mỹ, năm 2009, kim ngạch xuất khẩu tôm sang Mỹ

đạt trên 395 triệu USD, giảm 15,4% so với năm 2008, dẫn tới thị phần xuất khẩu sang thị
trường này giảm từ 28,7% năm 2008 xuống còn 23,6%. Mỹ là nước khởi nguồn của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ cuối năm 2008 nhưng nhập khẩu tôm Việt
Nam vào Mỹ chỉ thật sự giảm sâu kể từ tháng 8/2009. Mức giảm liên tục duy trì ở 2 con
số và kéo dài cho đến hết tháng 12/2009.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tính đến hết tháng 11/2009 có hơn 300
doanh nghiệp tham gia xuất khẩu trong đó 60 doanh nghiệp dẫn đầu chiếm hơn 80% kim
ngạch, 120 doanh nghiệp có giá trị xuất khẩu hơn 1 triệu USD.
Năm 2009, Việt Nam xuất khẩu tôm vào 92 thị trường trong đó 10 thị trường đầu tiên
chiếm hơn 80% cả về khối lượng lẫn giá trị gồm Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc, Đài Loan,
Đức, Trung Quốc, Ôxtrâylia, Canađa, Anh và Bỉ.
Theo báo cáo tổng hợp, năm 2012 có 30 địa phương nuôi tôm nước lợ với diện tích
655.000 ha, đạt sản lượng 487.960 tấn. Diện tích thả nuôi tương đương nhưng sản
trước, trong đó thị trường Mỹ và EU giảm mạnh tới 18,6 – 24,5%.
Có thể nói, 2012 là một năm “vận hạn” đối với ngành tôm Việt Nam. Cả nuôi
trồng, sản xuất lẫn xuất khẩu đều đối diện với nhiều thách thức. Người nuôi thì lao đao
với dịch bệnh xảy ra tại nhiều vùng nuôi ngay từ đầu năm khiến nguồn tôm nguyên liệu
giảm, giá cả lên xuống thất thường. Còn doanh nghiệp thì đối mặt với thiếu vốn, thiếu
nguyên liệu, hoạt động sản xuất cầm chừng, thậm chí còn đối diện với nguy cơ phá sản
6 tháng đầu năm 2012, xuất khẩu tôm sang thị trường Nhật Bản đạt mức tăng trưởng
hàng tháng từ 23 - 52,3% so với cùng kỳ, tuy nhiên, ngay sau khi Nhật Bản áp dụng kiểm
tra 100% tôm Việt Nam nhập khẩu vào Nhật Bản đối với Ethoxyquin, xuất khẩu tôm
sang Nhật Bản giảm rõ rệt, từ 1,5% (tháng 7/2012) lên đến 16,6% (tháng 11/2012), tính
chung cả năm chỉ tăng 5%.
Bên cạnh đó, xuất khẩu tôm Việt Nam còn phải chịu sự cạnh tranh gay gắt với các
nhà cung cấp khác như Indonesia, Ấn Độ hay Ecuador bởi giá bán cao hơn từ 15 – 20%
bởi giá thành sản xuất tăng cao do chi phí đầu vào liên tục tăng, sản lượng giảm 1,6% so
với niên vụ trước do có hơn 100.000 ha tôm bị thiệt hại do dịch bệnh. Trong khi đó, giá
tôm nguyên liệu biến động bất thường, có thời điểm giảm tới 50% do nhu cầu tiêu thụ
tôm trên thị trường thế giới giảm. Năm 2012, Việt Nam xuất khẩu tôm sang 92 thị trường

với tổng giá trị khoảng 2,24 tỷ USD, giảm 6,6% so với năm 2011. Xu hướng tiêu thụ tôm
giá thấp và cỡ nhỏ hơn trên thị trường toàn cầu cùng với sự sụt giảm mạnh sản lượng ở
Thái Lan - nước sản xuất tôm chân trắng hàng đầu thế giới - đã hậu thuẫn cho sản xuất và
xuất khẩu tôm chân trắng của Việt Nam trong năm 2013.
7 tháng đầu năm 2013, xuất khẩu tôm Việt Nam sang thị trường Mỹ vẫn ổn định
đạt mức 337,6 triệu USD, chiếm 24% tổng kim ngạch xuất khẩu tôm 1,4 tỷ USD. Trong
khi đó xuất khẩu tôm sang các thị trường khác đang có mức gia tăng đáng kể, giá trị xuất
khẩu tôm vào thị trường Nhật Bản tăng 11%, thị trường EU tăng 3% so với cùng kỳ năm
ngoái. Theo thống kê của Tổng cục Thủy sản, tính đến tháng 9/2013, diện tích nuôi tôm
tại 22 tỉnh trên cả nước là 628.724 ha (bằng 98,3% so với cùng kỳ 2012), trong đó diện
tích nuôi tôm sú là 581.441 ha, còn tôm chân trắng là 47.283 ha. Tổng sản lượng tôm thu
hoạch là 258.782 tấn (bằng 116,4% so với cùng kỳ 2012). Hơn nữa, hiện nay hầu hết các
nhà máy chế biến tôm của Việt Nam đều có tỷ trọng chế biến sản phẩm tôm giá trị gia
tăng cao (có nhà máy đến 80%), khiến đơn giá sản phẩm tôm tăng lên rõ rệt.
Sản lượng tôm chân trắng tăng lên đã góp phần bổ sung đáng kể vào nguồn
nguyên liệu và đáp ứng yêu cầu của nhiều thị trường về các cỡ tôm trung bình và nhỏ với
giá cả phải chăng.
2.5.2 Thị trường xuất khẩu cá tra, cá basa
Cá tra tiếp tục là mặt hàng xuất khẩu chiến lược thứ 2 của Việt Nam, hiện chiếm
hơn 90% sản lượng cá tra xuất khẩu của thế giới. Năm 2011, giá trị xuất khẩu cá tra cả
nước đạt 1,85 tỷ USD và 10 tháng đầu năm 2012, giá trị xuất khẩu đã đạt 1,46 tỷ USD.
Mặc dù giá trị xuất khẩu không đạt mức dự kiến, nhưng cá tra vẫn chiếm hơn 28% tổng
thị phần thủy sản xuất khẩu của Việt Nam và được tiêu thụ trên 140 thị trường thế giới.
Cá tra không đạt mức tăng trưởng cao, có thể là hậu quả của một số nguyên nhân như
việc tiếp tục cắt giảm nhập khẩu cá tra của Nga và Ucraina, sản lượng cá tra xuất khẩu
tăng quá nhanh, đe dọa ngày càng nhiều thị phần của các sản phẩm cá thịt trắng truyền
thống khác nên đã phải hứng chịu nhiều chiến dịch bôi nhọ ở các thị trường khác, giá
xuất khẩu của cá tra Việt Nam liên tục giảm trong mấy năm gần đây cũng là yếu tố khiến
mức giá trị xuất khẩu thấp hơn nhiều sơ với mức tăng khối lượng. Một nguyên nhân khác
khiến giá trị xuất khẩu không mấy cải thiện là cá tra được xuất khẩu gần như 100% dưới

dạng philê nguyên liệu, do đó phần gia tăng giá trị đáng kể lại phụ thuộc về các nhà tái
chế nước ngoài. Tình trạng thiếu nguyên liệu cá và giá tăng cao cũng gây ảnh hưởng tiêu
cực đến việc gia tăng xuất khẩu cá tra.
Trong 6 tháng đầu năm 2012, xuất khẩu vào châu Âu tuy sụt giảm so với cùng kỳ
năm trước song được dự báo sẽ phục hồi trong tháng 9 và EU vẫn là thị trường nhập khẩu
cá tra Việt Nam nhiều nhất, chiếm 25 - 27% tổng giá trị xuất khẩu cá tra của cả nước.
VASEP cho biết, giá xuất khẩu cá tra khó có khả năng tăng trong quý 3 và sẽ giữ ổn định
như quý 2 vì hiện nay, hầu hết giá của các loài cá thịt trắng hoặc cá rô phi có nguồn cung
lớn trên thị trường thế giới đều đã và đang giảm, nên giá cá tra cũng sẽ giảm theo.
Gần đây, việc thiếu vốn và sự sụt giảm của thị trường EU là 2 yếu tố chi phối mạnh nhất
đến sản xuất và xuất khẩu cá tra trong quý 1 và 2/2012. Xuất khẩu cá tra trong quý 1 tăng
13% nhưng đến quý 2, chỉ tăng 6% so với cùng kỳ năm trước, đạt 428,3 triệu USD, trong
đó tháng 6 giảm mạnh nhất (14,4%).
Sáu tháng đầu năm 2012, xuất khẩu cá tra chỉ tăng 3% so với cùng kỳ năm trước,
đạt 853,7 triệu USD. Tháng 7, xuất khẩu cá tra tiếp tục giảm gần 10%, mức giảm đã thấp
hơn so với tháng 6 nhưng chưa phải là dấu hiệu tích cực. Hiện 3 thị trường nhập khẩu cá
tra lớn nhất của Việt Nam vẫn là EU, Mỹ và khối ASEAN. Từ cuối quý 2 năm 2012 và
đến hết quý 3, xuất khẩu cá tra tăng trưởng mạnh tại hầu hết các thị trường khác, bao
gồm các thị trường lớn như Mỹ tăng 27 – 30%, ASEAN tăng 30 - 40% và Trung Quốc
tăng từ 40 – 60% nên giá trị xuất khẩu cá tra trong quý 3 đạt giá trị cao nhất so với các
quý trong năm. Việc khủng hoảng cá tra nguyên liệu 6 tháng đầu năm 2012 đang khiến
nhiều người lo ngại sẽ thiếu lượng lớn cá tra nguyên liệu vào cuối năm nay và đầu năm
2013. Nguyên nhân là thời gian qua, nhiều diện tích sản xuất giống và nuôi cá đã bỏ hoặc
chậm thả nuôi lại. Nhiều doanh nghiệp và người nuôi thiếu vốn và phải xử lý các khoản
nợ ngân hàng nên cũng khó có khả năng đầu tư toàn diện và kịp thời.
Về cá tra, đến hết năm 2012, tổng diện tích nuôi cá tra toàn vùng đạt 5.910 ha, sản
lượng đạt 1,28 triệu tấn, tăng 100.000 tấn. Tương tự như mặt hàng tôm, do cầu thị trường
giảm và dịch bệnh, kim ngạch xuất khẩu cá tra giảm mạnh, hiện dao động từ 19.200-
23.500 đ/kg trong khi giá thức ăn tăng thêm 700 – 1.200 đồng/kg khiến người nuôi chịu
lỗ 2.000 - 5.000 đồng/kg. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012 đạt 1,744 tỷ USD, giảm

3,4% so với năm trước. Theo Ngân hàng Nhà nước, trong năm 2012, vốn vay cho cá tra
đạt 51.876 tỷ đồng, tăng 16,5% so với năm 2011. Đến đầu năm 2013, dư nợ cho vay nuôi
trồng, chế biến xuất khẩu cá tra của các tổ chức tín dụng trong khu vực ĐBSCL đạt
22.777,5 tỷ đồng. Dư nợ cho vay nuôi, chế biến tôm đạt 22.975 tỷ đồng.
Theo dự báo năm 2013 của Bộ Công Thương, xuất khẩu tôm, cá tra sẽ gặp khó khăn.
Kim ngạch cá tra ở mức 1,8 tỷ USD, nếu diễn biến xấu chỉ đạt mức thấp 1,2 tỷ USD.
Xuất khẩu tôm chỉ có khả năng đạt chỉ đạt 1,9 tỷ USD kim ngạch.
* Ngoài 2 mặt hàng xuất khẩu chính là Tôm và Cá Tra, Việt Nam còn xuất khẩu
Nhuyễn thể và Cá ngừ.
+ Nhuyễn thể: sau sụt giảm năm 2009, sang 2010 xuất khẩu nhuyễn thể đã phục hồi khá
tốt, giá trị xuất khẩu 11 tháng đạt 437 triệu USD, tăng 15% về giá trị so với năm 2009.
Chiếm khoảng 9,7% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Sự phục hồi của mặt hàng
này phần lớn nhờ vào sức mua tăng lên của thị trường truyền thống Italia, Tây Ban Nha
và Hàn Quốc.
+ Cá ngừ: là mặt hàng có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao nhất trong các mặt hàng thủy
sản xuất khẩu của Việt Nam năm 2010. Giá trị xuất khẩu cá ngừ 11 tháng đạt gần 266
triệu USD, tăng tới 62% so với năm 2009. Mỹ là nhà nhập khẩu lớn nhất chiếm gần một
nửa (45,2%) giá trị và tăng tới 94% so với cùng kỳ năm 2009. Nhập khẩu của EU và
Nhật Bản cũng tăng mạnh so với năm trước. Trên các thị trường thế giới, cá ngừ đang
dần dần lấy lại vị trí là mặt hàng tiêu thụ phổ biến, nhất là cá ngừ đại dương đông lạnh và
cá ngừ đóng hộp.
2.6 Xu hướng chuyển dịch thị trường xuất khẩu thủy sản
Theo dự kiến, các nước phát triển sẽ giảm lượng nhập siêu thủy sản và các sản
phẩm thủy sản xuống còn khoảng 10,6 triệu tấn vào năm 2010 và khoảng 10,3 triệu tấn
vào năm 2015. Xét theo khu vực, Bắc Mỹ có thể sẽ tăng khối lượng nhập siêu từ 1,7 triệu
tấn hiện nay lên 2,4 triệu tấn vào năm 2015, Tây Âu dự kiến sẽ giảm lượng nhập siêu từ
2,6 triệu tấn hiện nay xuống còn khoảng 0,2 triệu tấn vào năm 2015. Các bước phát triển
khác, đáng chú ý là Nhật Bản, dự kiến sẽ duy trì khối lượng thủy sản nhập khẩu hiện nay.
Bước sang năm 2010, nền kinh tế thế giới, nhất là các đối tác lớn của ta như: Mỹ, EU,
Nhật Bản… đang trên đà phục hồi là cơ hội tốt cho mặt hàng thủy sản của ta. Ngoài ra,

hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA) đã chính thức có hiệu lực, theo
đó, từ 1/10/2009, trên 86% hàng nông sản, thủy sản của Việt Nam được hưởng ưu đãi rất
lớn về thuế, trong đó các mặt hàng tôm đã được giảm thuế xuất nhập khẩu xuống 1 – 2%.
Hơn nữa, sau 3 năm hội nhập và phát triển các mặt hàng thủy sản Việt Nam đã được một
số nước công nhận, đánh giá cao về chất lượng và chiếm được cảm tình của người tiêu
dùng. Bên cạnh đó là những khó khăn từ các thị trường nhập khẩu như: xu hướng bảo hộ
thương mại tinh vi, các rào cản kỹ thuật và kiểm định chặt chẽ, đồng thời thường xuyên
ban hành các tiêu chuẩn mới khắt khe hơn về dư lượng kháng sinh, an toàn vệ sinh thực
phẩm, và những khó khăn từ trong nước như: tình trạng thiếu con giống và nguyên liệu
không ổn định. Tuy khó khăn chồng chất nhưng xuất khẩu thủy sản nước ta năm 2010 đã
đạt kết quả mỹ mãn, tổng giá trị xuất khẩu thủy sản cả nước đã vượt quá kế hoạch do
BNN&PTNT đề ra hòi đầu năm. Theo số liệu hống kê chính thức của Hiệp hội chế biến
và xuất khẩu thủy sản Việt Nam.
BẢNG 2: Biểu đồ mô tả cơ cấu GDP của các ngành kinh tế từ năm 2009-2012
Nguồn: www.vietnamplus.vn
Theo như biểu đồ trên, ta thấy các ngành Nông, Lâm, Thủy sản có GDP thấp hơn
so với các ngành kinh tế khác như Công nghiệp, Xây dựng hay Dịch vụ. Riêng ngành
Nông, Lâm, Thủy sản có sự sụt giảm tỷ lệ đóng góp vào Tổng sản phẩm quốc nội trong
giai đoạn 2009 – 2010 khoảng 4,77% do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, sau đó từ
2010 – 2012, các nền kinh tế lớn của thế giới trên đà hồi phục kéo theo sự gia tăng về
xuất khẩu của các ngành Nông nghiệp trong đó có Thủy sản, tỷ lệ GDP tăng lên 5,76%
theo giá hiện hành.
Trong những năm gần đây, khác với thị trường nhiều loại mặt hàng thực phẩm trì
trệ hay chậm phát triển, thị trường thủy sản thế giới khá năng động. Điều này một phần
liên quan đến đặc điểm về tính chất quốc tế của mặt hàng thủy sản, phần khác là do tương
quan cung – cầu về thủy sản trên thế giới chưa cân đối gây ra. Dù sao thị trường thế giới
vô cùng đa dạng, phong phú với hàng trăm dạng sản phẩm được trao đổi mua bán trên
nhiều thị trường trong nước và khu vực khác nhau. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu đã phần nào làm ảnh hưởng tới năng suất đánh bắt và sản lượng tiêu thụ
của các nước nhập khẩu Thủy sản trên thế giới. Trong khi sản lượng đánh bắt giảm sút

liên tục thì khu vực nuôi trồng có những bước tăng trưởng khá cao khoảng 75%/năm
trong mười năm qua. Những nước đứng đầu về sản lượng đánh bắt thủy sản là Trung
Quốc, Pê Ru, Nhật Bản, Mỹ, Nga, Chi Lê, Indonesia, Thái Lan, Ấn Độ, AiLen, Na Uy,
Hàn Quốc, chiếm hơn một nửa tổng sản lượng thế giới. Trong lĩnh vực nuôi trồng thủy
sản, Trung Quốc chiếm hơn 70% tổng sản lượng nhưng chỉ 50% tổng kim ngạch xuất
khẩu. Trong khi đó, Nhật Bản chỉ chiếm 3,7% tổng sản lượng thế giới nhưng đạt gần
10% tổng kim ngạch trao đổi thủy sản nuôi trồng nhờ những sản phẩm có giá trị kinh tế
cao như: ngọc trai, cá ngừ… Thị trường trao đổi thủy sản thế giới rất rộng lớn bao gồm
195 nước xuất khẩu và 180 quốc gia nhập khẩu thủy sản trong đó nhiều quốc gia vừa
xuất khẩu vừa nhập khẩu thủy sản như Mỹ, Pháp, Anh…
Hiện nay Thái Lan là nhà sản xuất thủy sản lớn nhất với kim ngạch xuất khẩu hơn
4 tỷ USD, tương đương 8% tổng kim ngạch thế giới. Sau đó là Mỹ, Nauy, Trung Quốc,
Pêru, Đài Loan…
Trong năm 2010, thị trường Pháp được ghi nhận là có mức tăng trưởng mạnh nhất
đạt khoảng 68%. Tuy nhiên, nếu xét về giá trị xuất khẩu thì thị trường Mỹ đứng đầu với
971 triệu USD, chiếm khoảng 19,3% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Tiếp đến
là Nhật Bản: 897 triệu USD, 17,8%; Hàn Quốc: 386 triệu USD, 7,7%; Trung Quốc và
Hồng Kông: 247 triệu USD, 4,9%; Đức: 210 triệu USD, 4,1%; Tây Ban Nha: 167 triệu
USD, 3,3%; Australia: 153 triệu USD, 3%; Italia: 136 triệu USD, 2,6% và Pháp: 122
triệu USD, 2,4%.
Căn cứ vào những khó khăn trong năm 2010, nhu cầu của các thị trường trên thế
giới, VASEP dự báo năm 2011 xuất khẩu thủy sản Việt Nam sẽ gặp không ít khó khăn do
các vấn đề nội tại. Tuy nhiên, do nhu cầu thủy sản thế giới vẫn tiếp tục tăng mạnh nên

×