Tải bản đầy đủ (.docx) (115 trang)

Tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn từ lý thuyết Liên văn bản.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (625.47 KB, 115 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ CẨM VÂN

TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI NHÌN TỪ
LÝ THUYẾT LIÊN VĂN BẢN
Ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 9 22 01 21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS Trịnh Bá Đĩnh

Hà Nội, 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan các kết quả trình bày trong luận án là cơng trình
nghiên cứu của tơi dưới sự hướng dẫn của cán bộ hướng dẫn. Các nội dung
được nêu trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ theo
đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực,
khách quan và chưa từng được công bố trong các cơng trình nào trước đó.
Hà Nội, ngày 02 tháng 07 năm 2022
Tác giả

Đỗ Thị Cẩm Vân


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ĐƯỢC


SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN

LVB

:

Liên văn bản

VB

:

Văn bản


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU....................................................................................................................6
1.
Tính cấp thiết của đề tài.................................................................................6
2.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................7
2.1.
Mục đích............................................................................................................7
2.2.
Nhiệm vụ...........................................................................................................7
3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................7
3.1.
Đối tượng nghiên cứu.......................................................................................7

3.2.
Phạm vi nghiên cứu..........................................................................................8
4.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu............................................8
5.
Đóng góp mới về khoa học của luận án..........................................................9
6.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án......................................................9
7.
Kết cấu của luận án.........................................................................................9
Chương 1..................................................................................................................10
1.1. Khái quát một số điểm chủ yếu của lý thuyết liên văn bản......................10
1.1.1. Về khái niệm tính liên văn bản.......................................................................10
1.1.2. Liên văn bản và người đọc..............................................................................14
1.1.3. Thi pháp Liên văn bản....................................................................................16
1.2. Vấn đề nghiên cứu lý thuyết Liên văn bản.................................................19
1.2.1. Tình hình dịch thuật lý thuyết liên văn bản....................................................19
1.2.2. Tình hình nghiên cứu lý thuyết Liên văn bản ở Việt Nam..............................22
1.3. Tình hình vận dụng lý thuyết Liên văn bản trong nghiên cứu tiểu thuyết.26
Tiểu kết....................................................................................................................29
Chương 2..................................................................................................................31
2.1. Tiểu thuyết Việt Nam đương đại trong ngữ cảnh văn hóa mới................31
2.2. Từ cái nhìn mới về hiện thực và con người đến hiện thực nghệ thuật mới
32
2.2.1. Vấn đề kiến tạo hiện thực...............................................................................32
2.2.2. Vấn đề cá thể hóa nhân vật.............................................................................34
2.2.3. Đổi mới về bút pháp nghệ thuật......................................................................37
2.3. Hai khuynh hướng nổi bật của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.............40
2.3.1. Tiểu thuyết theo khuynh hướng hậu hiện đại..................................................40
2.3.2. Tiểu thuyết theo lối hư cấu lịch sử..................................................................43

2.4. Một hệ hình tiểu thuyết mới và yêu cầu cách tiếp cận nghiên cứu mới...46
2.4.1. Những hiện tượng của hệ hình tiểu thuyết mới..............................................46
2.4.2. Về cách đọc mới trước một hệ hình tiểu thuyết mới.......................................49


Tiểu kết....................................................................................................................52
Chương 3..................................................................................................................54
3.1. Giễu nhại – một hiện tượng phổ biến trong văn học Việt Nam đương đại.54
3.1.1. Giễu nhại như là hiện tượng liên văn bản.......................................................54
3.1.2. Vấn đề nghiên cứu hiện tượng giễu nhại trong tiểu thuyết Việt Nam đương
đại....................................................................................................................56
3.2. Các phương thức giễu nhại tiêu biểu trong tiểu thuyết Việt Nam đương
đại…………………………………………………………………………………57
3.2.1. Trích dẫn nhại.................................................................................................57
3.2.2. Viện dẫn nhại..................................................................................................63
3.2.3. Chỉ dẫn nhại....................................................................................................65
3.3. Giễu nhại và sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam đương đại..................70
3.3.1. Tiểu thuyết mang tính đối thoại......................................................................70
3.3.2. Tiểu thuyết đương đại – “tác phẩm mở”.........................................................74
Tiểu kết....................................................................................................................75
Chương 4..................................................................................................................77
4.1. Viết lại lịch sử trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại...............................77
4.1.1. Viết lại như là hiện tượng Liên văn bản..........................................................77
4.1.2. Những hình thức viết lại lịch sử trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại.........78
4.2. Tương tác thể loại trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại........................85
4.2.1. Tương tác thể loại như là hiện tượng liên văn bản.........................................85
4.2.2. Hai hình thức tương tác thể loại tiêu biểu.......................................................86
4.3. Viết lại lịch sử và tương tác thể loại với sự đổi mới tiểu thuyết................91
4.3.1. Viết lại lịch sử với tính đối thoại.....................................................................91
4.3.2. Huyền thoại hóa tiểu thuyết............................................................................93

Tiểu kết....................................................................................................................96
KẾT LUẬN..............................................................................................................99
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG
BỐ...........................................................................................................................101
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................102


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 1967, nhà nghiên cứu văn học người Pháp gốc Bulgaria: Julia Kristeva đề xuất khái niệm tính
liên văn bản (LVB) (tiếng Pháp: intertextualité; tiếng Anh: intertextuality). Kể từ khi thuật ngữ này ra
đời cho đến nay đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn chương hàng đầu
thế giới. Thực tế, về nguồn gốc của khái niệm, tính LVB được các nhà khoa học nhất trí cho rằng từ
quan điểm ngôn ngữ học của F. Saussure, rồi sau đó gắn với tư tưởng đối thoại của M. Bakhtin và các
nhà Hình thức luận Nga. Tuy nhiên, với tư cách là một khái niệm lí thuyết văn học thì Julia Kristeva
chính là người khởi xướng. Quan niệm của Kristeva sau đó được sự hưởng ứng của các nhà hậu cấu trúc
tên tuổi như R.Barthes, L.Bloom; các nhà cấu trúc luận – trần thuật học như M.Riffaterre, G.Genette,...
Từ khi thuật ngữ tính LVB ra đời, nó đã được vận dụng rộng rãi vào việc nghiên cứu văn học trên thế
giới. Những cơng trình nghiên cứu theo hướng LVB hiện nay trên thế giới trở nên hết sức phong phú, đa
dạng và phức tạp. Ở Việt Nam, lí thuyết này cho đến nay vẫn chưa được khảo sát và nghiên cứu một
cách hệ thống. Trong những năm gần đây, tuy đã có một số bài dịch, bài giới thiệu, cũng có những bài
viết, một số cơng trình dùng lý thuyết LVB để nghiên cứu văn chương nhưng chỉ tập trung ở một vài tác
phẩm hay một tác giả cụ thể, chưa có những cơng trình nhìn nhận đối với một giai đoạn văn chương.
Sau năm 1986, tiểu thuyết Việt Nam đã đi trên con đường hiện đại hóa làm thay đổi quan
niệm về thể loại và về lối viết. Tinh thần hậu hiện đại đã soi chiếu vào tư duy tiểu thuyết, có thể nói
đã tạo nên một sự biến đổi sâu sắc qua những sáng tác của Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh,
Nguyễn Việt Hà, Hồ Anh Thái, Nguyễn Xn Khánh, Nguyễn Bình Phương, Thuận, Đồn Minh
Phượng, Phong Điệp, Nguyễn Ngọc Tư,… Bằng cách đi sâu vào các vấn đề thế sự, đời tư, phát hiện
những mặt trái của đời sống, xã hội, vănhóa; họ tự vấn, phản biện, đối thoại với tinh thần dân chủ,
cởi mở. Xuất hiện những hình thức nghệ thuật mới rất đa dạng: đối thoại với văn bản (VB) xã hội

(social text) và diễn ngôn tập thể (collective discourse); vay mượn và giễu nhại huyền thoại, cổ
tích; quan tâm đến việc trích dẫn, viết lại, viết tiếp những văn bản cũ; rồi những pha trộn thể loại, hư
cấu lịch sử, giễu nhại văn chương và văn hóa truyền thống có tính chất khuôn sáo, giáo điều,... Sự
đổi mới tiểu thuyết, vừa diễn ra ở chủ thể nhà văn ở văn bản nghệ thuật vừa diễn ra ở chủ thể tiếp
nhận. Những nỗ lực cách tân của người viết đòi hỏi người đọc phải chủ động với cách đọc, cách cảm
thụ tác phẩm, tránh tình trạng quen với lối đọc của hệ hình văn học cũ. Những biểu hiện nêu trên ở
tiểu thuyết Việt Nam đương đại thể hiện rất rõ tính LVB. Vấn đề này cần được quan tâm nghiên cứu,
giải thích và đánh giá thỏa đáng. Đây là lí do chính để chúng tôi chọn đề tài Tiểu thuyết Việt Nam
đương đại nhìn từ lý thuyết liên văn bản. Trên cơ sở tìm hiểu, cập nhật, giới thiệu một cách tương
đối hệ thống lí thuyết LVB và soi chiếu lý thuyết này vào tiểu thuyết Việt Nam đương đại, chúng tôi
mong muốn nối tiếp những nghiên cứu còn rải rác theo hướng này đối với tiểu thuyết Việt Nam
đương đại từ đó phát hiện và đánh giá những giá trị sáng tạo của nhà văn trong một cái nhìn bao
quát để thấy được bước phát triển của văn chương 6Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Vấn đề trung


tâm của luận án không chỉ nằm ở một cuộc khảo sát các biểu hiện của LVB trong tiểu thuyết Việt
Nam sau đổi mới, mà cịn ở việc lí giải sự tồn tại của nó như một lựa chọn tất yếu trong quan niệm
sáng tạo văn chương gắn với hoàn cảnh xã hội - văn hoá, đồng thời đặt ra những vấn đề

về khả

năng gây ảnh hưởng tới thẩm mĩ văn chương như một nỗ lực đổi mới tiểu thuyết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam đương đại từ góc nhìn của lý thuyết LVB, luận án hướng tới
vận dụng lý thuyết LVB như một cơng cụ để tìm hiểu tiểuthuyết Việt Nam đương đại. Qua thao tác
đó, luận án chỉ ra sự vận động của thể loại này trong sự vận động phát triển chung của văn học Việt
Nam đương đại.
Với hướng tiếp cận từ lý thuyết LVB, luận án cũng mong muốn đóng góp về mặt phương pháp
luận đối với việc nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam. Bởi nghiên cứu văn học nói chung cần có nhiều cách

thức tiếp cận, nhiều cách nhìn mới do lý thuyết phê bình đưa lại. Cách tiếp cận từ lý thuyết LVB sẽ góp
phần cùng với nhiều lý thuyết nghiên cứu khác chỉ ra trạng thái động trong đời sống thực tiễn của văn
học Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận án đặt ra và thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những lý thuyết về LVB như những công cụ nền tảng làm cơ sở phương pháp luận
cho luận án. Đồng thời, tìm hiểu những vấn đề về sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhất
là các xu hướng phát triển chính.
- Phân tích, lý giải các hiện tượng của tiểu thuyết đương đại Việt Nam biểu hiện tính LVB. Đây là
nhiệm vụ trọng tâm của luận án.
- Chỉ ra những thay đổi trong nghệ thuật tiểu thuyết so với trước đổi mới từ góc nhìn LVB. Nhiệm
vụ này sẽ được thực hiện lồng ghép thông qua các chương cụ thể của luận án.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án trước hết là tiểu thuyết Việt Nam đương đại về phương diện
tính LVB. Để tiến hành công việc nghiên cứu luận án cần khảo sát lí thuyết về tính LVB. Việc nắm
vững về lí thuyết tính LVB là cơ sở khoa học quan trọng để chúng tôi tiến hành triển khai nghiên cứu
các trường hợp cụ thể để góp phần “nội địa hóa” một lý thuyết vốn ra đời và thực hành ở văn hóa
phương Tây. Trong khi trình bày, phân tích lí thuyết LVB, chúng tơi sử dụng những ví dụ từ sáng tác
của các nhà tiểu thuyết Việt Nam Nguyễn Việt Hà, Hồ Anh Thái, Thuận, Nguyễn Xuân Khánh,
Nguyễn Mộng Giác,... và một số nhà văn khác.
Việc tìm hiểu tiểu thuyết Việt Nam từ lí thuyết LVB tập trung vào một số thủ pháp tiêu biểu
nhất như trích dẫn và giễu nhại, viết lại, sự đan xen thể loại,… Những thủ pháp này được nghiên cứu
7


gắn với hai khuynh hướng phát triển của tiểu thuyết Việt Nam đương đại: tiểu thuyết theo khuynh
hướng hậu hiện đại và tiểu thuyết theo lối viết truyền thống với đề tài lịch sử.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Do số lượng tác giả của tiểu thuyết Việt Nam đương đại rất lớn, mỗi nhà văn có một thế mạnh

khác nhau, luận án chỉ tập trung vào khảo sát và nghiên cứu những tác giả tiêu biểu theo hai khuynh
hướng chính. Đối với khuynh hướng hậu hiện đại, có các tác giả tiêu biểu như: Nguyễn Việt Hà, Hồ Anh
Thái, Thuận. Khuynh hướng theo lối viết truyền thống với đề tài lịch sử có các tác giả tiêu biểu như:
Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Mộng Giác, Võ Thị Hảo,… Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, chúng tơi
cũng có đề cập đến một số nhà văn khác, để có những minh chứng thuyết phục hơn về vấn đề đang được
triển khai tìm hiểu.
Từ lí thuyết LVB soi chiếu vào các tác phẩm tiểu thuyết Việt Nam đương đại, chúng tôi cung
cấp một cách có hệ thống việc vận dụng lí thuyết này trong đánh giá và phê bình văn học nhằm bắt kịp
theo xu thế chung của văn học thế giới. Từ đó có những phát hiện và đánh giá đóng góp của những
nhà văn Việt Nam đương đại trong giai đoạn hiện nay.
Đối với thực tế VB nghệ thuật, luận án chủ yếu khảo sát các bình diện diễn ngơn tư tưởng,
ngơn ngữ và thể loại. Các bình diện khác như hình tượng, cổ mẫu ít được đề cập.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích thi pháp văn bản
Nội dung trong tác phẩm phải được suy ra từ hình thức. Đó là hình thức mang tính nội dung.
Bằng cách phân tích các dấu hiệu hình thức của tác phẩm văn học, người đọc nhận ra giá trị thẩm mỹ
của nó. Đối với việc nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam đương đại từ góc nhìn của lý thuyết LVB, chúng
tơi tìm ra những dấu hiệu mang tính hình thức của tính LVB (trong việc sử dụng cáchình thức cụ thể
như: giễu nhại, tương tác thể loại, viết lại,...) trong việc cụ thể hóa nội dung của VB.
- Phương pháp cấu trúc hệ thống
Sử dụng phương pháp này nhằm hệ thống hóa các yếu tố LVB có trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại, xem xét mỗi VB như một LVB trong mạng lưới các VB khác: đó có thể là LVB trong sáng
tác của chính nhà văn; có thể là giữa các nhà văn trong cùng một thời đại và thậm chí là xuyên thời
gian, xuyên quốc gia.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
So sánh là một yêu cầu tự nhiên trong cuộc sống và khoa học. Để thực hiện nhiệm vụ của luận án,
chúng tôi đặt tiểu thuyết Việt Nam đương đại trong mối tương quan với tiểu thuyết Việt Nam ở các giai
đoạn trước và trong mối tương quan giữa các tác giả, tác phẩm của cùng một tác giả. Bằng cái nhìn so
sánh, luận án sẽ cho thấy được đặc điểm chung và riêng của yếu tố LVB trong các tác phẩm văn chương
đương đại được khảo sát, những mối liên hệ, giao lưu, tiếp biến văn hóa, văn học,... trong các VB tiểu

thuyết Việt Nam đương đại.
- Phương pháp tiếp cận văn hóa học
8


Văn học nghệ thuật là một phần của văn hóa. Mỗi VB đều nằm trong mạng lưới VB của văn hóa
(VB nghệ thuật, VB chính trị, đạo đức, tơn giáo,...). Vì thế về mặt bản chất, tính LVB của VB ln
hướng đến tính chất rộng lớn hơn đó là tính liên văn hóa bởi “VB được dệt bằng các trích dẫn gửi đến
cho hàng nghìn nguồn văn hố.” [111]. Từ cái nhìn văn hóa, chúng tơi sẽ thấy được mối quan hệ tương
hỗ, biện chứng giữa văn hóa và văn học, giữa tính LVB trong cái nhìn rộng hơn của tính liên văn hóa.
Nghiên cứu văn học theo hướng LVB không thể tránh khỏi việc vận dụng một số cách tiếp cận văn hóa
học.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Q trình nghiên cứu có hệ thống tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn từ lý thuyết LVB, luận
án sẽ nhận diện được đặc điểm mới của tiểu thuyết Việt Nam đương đại từ đó có những đánh giá về
sự phát triển, xu hướng vận độngcủa văn học Việt Nam hiện nay. Trong khi đã có nhiều hướng tiếp
cận khác nhau đối với tiểu thuyết Việt Nam đương đại, hướng nghiên cứu của luận án sẽ tiếp tục góp
phần hồn thiện về mặt phương pháp trong việc nghiên cứu văn học từ lý thuyết LVB.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận: trên cơ sở những cơng trình nghiên cứu về lí thuyết LVB trên thế giới, những cơng trình
nghiên cứu LVB ở Việt Nam và việc ứng dụng lí thuyết này để nghiên cứu ở nước ta, chúng tôi hệ thống
bổ sung để hồn chỉnh hơn lí thuyết này để dùng nó là cơ sở khoa học để nghiên cứu các vấn đề liên
quan đến tiểu thuyết Việt Nam hiện nay.
- Về thực tiễn: Từ sự tổng hợp những nghiên cứu cơ bản nhất về lý thuyết LVB trên thế giới và ở Việt
Nam, chúng tơi triển khai phân tích những biểu hiện của LVB trong các sáng tác của tiểu thuyết Việt
Nam đương đại. Từ đó có những đánh giá khách quan những đóng góp mới của các nhà văn đương
đại. Các hướng triển khai của luận án sẽ cung cấp những kết luận mang tính khoa học trong sự vận
dụng lí thuyết LVB để nghiên cứu văn chương và đồng thời cung cấp mơt cái nhìn khái qt về sự vận
động và phát triển của văn học Việt Nam trong bối cảnh hội nhập.
7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần Mở đầu và kết luận, Luận án được triển khai qua 4 chương Chương 1: Tổng
quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam đương đại Chương 3: Giễu
nhại trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại
Chương 4: Viết lại lịch sử và tương tác thể loại trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại

9


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Khái quát một số điểm chủ yếu của lý thuyết liên văn bản
1.1.1. Về khái niệm tính liên văn bản
Trước hết cần nói rằng, hai thuật ngữ tính LVB và LVB được sử dụng trong luận án này có nội
dung khoa học khác nhau. Tính LVB là một thuộc tính, là kết quả có ở mọi VB nghệ thuật. Khái niệm
này có ý nghĩa khoa học hơn vì là nội dung chủ yếu của lý thuyết LVB (intertextuality). Còn khái niệm
LVB là mối quan hệ giữa các VB, mục đích LVB là hoạt động của tổ chức VB, có nét nghĩa thi pháp
cũng gần với cách hiểu thông thường hơn (các kiểu, thủ pháp LVB). Tuy nhiên trong quá trình viết, ở
một số chỗ trong luận án, có lúc chúng được sử dụng cùng nghĩa, phù hợp với cách diễn đạt trong hoàn
cảnh cụ thể.
Cho đến nay, nội hàm của khái niệm tính LVB vẫn chưa được đóng khung, mà ở đó vẫn có
những lối mở như chính tên gọi của nó, do “xuất phát từ những hệ quy chiếu khác nhau, lý thuyết về
tính LVB trở nên phức tạp, đa nguyên, xuyên trường phái, mở và năng sản” [125, trxxv]. Jacques
Derrida cho rằng mỗi VB đều là một phức hợp “ghép nối” [76, tr.39]. Genette cho rằng LVB “... là
việc người đọc nhận thức được những mối quan hệ giữa một tác phẩm và những tác phẩm có sau hoặc
trước nó” và đồng nhất LVB với chính nghĩa chữ của nó “LVB là ... cơ chế riêng để đọc VB văn học.
Chỉ có mình nó làm sản sinh ra sự biểu đạt (signifiance) trong khi cách đọc theo tuyến tính, giống như
những VB văn học hoặc phi văn học, lại chỉ sản sinh ra nghĩa (sens)” [138, tr.86],... Còn Riffaterre đã
định nghĩa lại tính LVB như sau “nó là một hiện tượng hướng dẫn lối đọc VB, mà lối đọc này sau cùng
chi phối sự diễn giải về VB đó, và đó là lối đọc ngược lại với lối đọc tuyến tính. Lối đọc này là một

kiểu mẫu tiếp nhận VB chi phối quá trình sản sinh sự tạo nghĩa (signifiance), trong khi lối đọc tuyến
tính chỉ chi phối q trình sản sinh ý nghĩa (sens)...” [105].
Dù có những giới thuyết khác nhau nhưng chúng tơi có thể hiểu, LVB là một tính năng của tất
cả VB. LVB là điều kiện để tạo ra VB. Bất kỳ VB nào khi ra đời, để có thể tồn tại và hiểu được chỉ
bằng cách thông qua các mối quan hệ với các VB trước nó. Nhờ đó mà VB tạo ra một quy trình mở
trong đó nó vượt qua ranh giới của VB hiện tại để mở rộng đến những gì có thể là bên ngồi nó (bối
cảnh, ý thức xã hội, thực tế,...). Ý nghĩa của một ý nghĩa được xác định bởi một ý nghĩa khác, đến lượt
nó được giải thích bởi một ý nghĩa khác và cứ thế tiếp tục. Từ sự phân tích trên, chúng tơi khái qt:
LVB là một thuộc tính của diễn ngơn văn học, làm cho văn bản trở thành một đơn vị liên kí hiệu. Tính
liên văn bản định hình ý nghĩa của một văn bản trong mối quan hệ với những văn bản khác tạo nên
diễn ngơn về văn hóa. Do đó, ý nghĩa văn bản là vô hạn và luôn ở dạng tiềm năng cho đến khi nó
được kích hoạt bởi hoạt động đọc.
1.1.1.1. Liên văn bản và nội hàm khái niệm văn bản


Đề xuất khái niệm tính LVB trên cơ sở quan điểm tiên phong của Bakhtin, Julia Kristeva chính
là người đã mở đường cho lý luận phê bình hậu hiện đại với những quan điểm quan trọng về nội hàm
của VB: VB là “liên văn bản”, là “bức khảm các trích dẫn”, là “sự hấp thu và biến đổi của văn bản
khác”,... [2, tr.234]. Đây là lối đi mở ra cho các nhà hậu cấu trúc, để cùng nhau bổ sung và hồn thiện
nội hàm lý thuyết về tính LVB. Một khái niệm cho đến nay vẫn chưa hoàn tất và xong xuôi.
Qua tác phẩm Từ, đối thoại, tiểu thuyết, Kristeva đã giới thiệu Bakhtin đến các nước phương
Tây. Trong công trình này, bà đã đề xuất khái niệm LVB thay thế cho tính đối thoại/tính liên chủ thể
của Bakhtin. Kristeva viết “khám phá mà Bakhtin là người đầu tiên đưa vào trong lý thuyết văn
chương: mọi VB đều được xây dựng như một bức chạm khảm những trích dẫn. Mọi VB đều là sự hấp
thu và chuyển hóa một VB khác”. [2, tr.234]; Kristeva đã sử dụng phép ẩn dụ của một bức tranh khảm
để mơ tả cách giải thích của mình về nội hàm của LVB trên cơ sở sự hiểu biết sâu sắc về tính đối thoại
của Bakhtin. Một bứctranh khảm thể hiện sự tương tác của nhiều màu sắc, kích cỡ và loại vật liệu
khác nhau. Mặc dù một bức tranh khảm là một màn hình cụ thể trong lịch sử của một người nào đó
diễn giải hoặc tạo ra một ý tưởng, nhưng bản thân bức tranh khơng phải là một điểm cố định. Nó có
thể phát triển hơn nữa. Chính nó, là một giao điểm của các mẫu, màu sắc và kiểu dáng khác nhau phối

kết thành một VB. Các VB tiếp nhận, tiêu thụ, kết hợp và tiếp thu các VB khác, đồng thời, các chủ đề
LVB này được tiếp thu và biến đổi trong các VB khác. Đối với Kristeva, ý nghĩa không thể được xem
là một sản phẩm hồn chỉnh, mà nó ln trong q trình sản xuất. Khái niệm tính LVB từ nay thay thế
cho khái niệm tính liên chủ thể.” [98]. Nếu như Bakhtin quan niệm ngữ cảnh là hoàn cảnh xã hội thì
Kristeva đã định vị cấu trúc văn chương trong tổng thể xã hội và tổng thể xã hội đó được xem như một
tổng thể VB: “hầu như mọi thứ đều được coi như VB: văn học, văn hóa, xã hội, lịch sử và chính bản
thân con người; từ đây xuất hiện lí thuyết về tính LVB.” [66, tr.240]. Như vậy, đối với Kristeva thì ngữ
cảnh là văn bản xung quanh nó. Từ đó, Kristeva tiến hành quy chiếu VB vào một biểu đồ gồm có hai
trục: trục ngang (horizotal axis) – thể hiện mối liên hệ giữa tác giả và người đọc; và trục dọc (vertical
axis) – thể hiện cho sự kết nối một VB này với hệ thống VB khác bao quanh nó. Bằng cách cùng quy
chiếu hai trục ngang và trục dọc lên một VB, độc giả sẽ nhận ra quy tắc cốt lõi vận hành VB: “mọi VB
ngay từ khi bắt đầu đã chịu ảnh hưởng và nằm trong phạm vi tác động của những giải trình ngơn ngữ
khác nhau, mà mỗi giải trình ngôn ngữ như thế, luôn luôn chịu chi phối bởi một vũ trụ gồm nhiều VB
khác.” [101]. Trong mối quan hệ của trục dọc mà sơ đồ của Kristeva đề xuất, VB nghiên cứu đã được
đặt vào một mạng LVB rộng lớn xung quanh, đó có thể là những VB đồng đại hoặc lịch đại. Độc giả
cần là những người thơng thái để có thể phát hiện ra sự biến đổi hoặc dấu vết của sự biến đổi có sự
ảnh hưởng từ những VB khác. Cũng cần phải chú ý một vấn đề quan trọng là việc tìm dấu vết của một
VB, khơng nhằm mục đích truy tìm nguồn gốc, mà chỉ cho thấy sự liên kết đan xen, chồng chất giữa
chúng. Bởi việc truy tìm xuất phát điểm củamột VB là điều khó thực hiện, vì “bất cứ VB nào cũng
tạo nên như một bức tranh khảm chứa đựng cả một thiên hà các trích dẫn, bất cứ VB nào cũng mang
dấu vết của sự hấp thụ và chuyển thể từ các VB khác.” [101]. Với quan niệm này, tư tưởng của


Kristeva đã đảo ngược lại với tư tưởng của các nhà cấu trúc luận. Nếu các nhà cấu trúc đóng khung
VB trong một giới hạn khép kín của cấu trúc thì Kristeva đặt ra vấn đề “thay vì phải khoanh vùng sự
chú ý của chúng ta vào giới hạn cấu trúc của VB, tại sao chúng ta không thử nghiên cứu tính chất cấu
trúc ấy bắt nguồn từ đâu?” [101]. Điều này được Kristeva giải thích rõ: “những mã (code) của một cấu
trúc VB như là sự chuyển hóa những lớp (những mã) được lấy từ những VB khác.” [98] và “sự tương
tác VB nảy sinh bên trong một VB duy nhất” [98]. Những quan niệm trên của Kristeva về tính LVB đã
đặt tiền đề cho lý luận phê bình hậu hiện đại. Theo quan niệm của bà LVB là “chỗ giao cắt của các mặt

phẳng VB khác nhau” “sự đối thoại của các kiểu viết khác nhau” [2, tr.239]. Vì thế nên “đối với chủ
thể có nhận thức, tính LVB là một dấu hiệu cho thấy bằng phương cách nào một VB đọc lịch sử và
được cài lồng vào trong lịch sử.” [98]. Kristeva đặt ra quan niệm về trị chơi tự do của cấu trúc trong
tác phẩm Kí hiệu học – Sémiotiké (1969), mà sau này Derrida cũng đã tun ngơn về lí thuyết trị chơi
cấu trúc trong việc giải cấu trúc thơng qua bài báo cáo có tên “Cấu trúc, kí hiệu và trị chơi trong diễn
ngơn của các khoa học nhân văn – La structure, le signe et le jeu dans le discours des sciences
humaines”. Sự tự do của trò chơi cấu trúc được Kristeva thực hiện thông qua khái niệm genotext –
văn bản tương đương hay cận văn bản. Geno-text, Kristeva giải thích, “khơng phải là một cấu trúc mà
là một “số nhiều tạo nghĩa”, nằm trong quan hệ với “fenotext” – VB mang tính hiện tượng (sản phẩm
cuối cùng của lao động) tái hiện chỉ “một nghĩa có giới hạn”, vì thế, đó là sự nghèo nàn.” [94, tr.222].
Như vậy cấu trúc VB giờ đây không phải là một cấu trúc đã được bê tơng hóa, khơng khơ cứng, đơng
đặc hay đã được định hình sẵn theo khn ngay từ lúc sinh ra. Giới hạn nghĩa cho nó, nghĩa là cấp cho
VB một ý nghĩa sau cùng. Đồng thời, bà đã đề xuất thuật ngữ idéologème– chức năng phối kết “sự tổ
chức, phối kết của một VB bên trên những cấu trúc khác” [98]. Sự tổ chức phối kết làm nên tính giao
xuyên VB và sự giao xuyên này đã “làm thay đổi lẫn nhau giữa những đơn vị thuộc về những VB khác
nhau” [98].
1.1.1.2. Liên văn bản và tính đối thoại/đa thanh/phức điệu
Tính đối thoại/đa thanh/phức điệu xuất phát từ Mikhain Mikhailơvích Bakhtin. Những cơng
trình chủ yếu của M. Bakhtin như Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepski (1929), Sáng tác của
Phrăngxoa Rabơle và văn hóa dân gian thời Trung đại và phục hưng (1965), Những vấn đề văn học
và mĩ học (1975), Mĩ học sáng tác ngôn từ (1979), Những bài báo phê bình văn học (1986),... Bakhtin
được xem là nhân vật có ảnh hưởng bậc nhất trong nền lí luận phê bình thế giới bởi tư tưởng của ông
trải dài ở nhiều khía cạnh: triết học, mĩ học, lí luận văn học,... Đây là những tiền đề cơ bản để nhiều
nhà lí luận phê bình sau này kế thừa và đối thoại lại các vấn đề mà Bakhtin đã từng đặt ra. Trong số
đó, có khái niệm LVB được Kristéva đề xuất.
Theo Bakhtin, đơn vị trực tiếp trong giao tiếp lời không phải là “từ” hay “câu” mà chính là các
phát ngơn. Trong quá trình giao tiếp, người ta thực hiện các phát ngơn, điều đó có nghĩa là các phát
ngơn đã giúp cho người sử dụng ngôn ngữ bày tỏ “ý kiến”, “suy nghĩ” của mình. Ngơn ngữ phục vụ
hai kẻ phát ngôn cùng lúc, diễn tả hai ý định khác nhau cùng một lúc: một ý định trực tiếp của nhân



vật (tức người đang nói) và một ý định bị khúc xạ bởi chính tác giả (người đang viết). Dù phục vụ kẻ
phát ngơn nào thì người tham gia giao tiếp bao giờ cũng có những ý đồ cụ thể, hướng đến một khách
thể bên ngồi. Như vậy, ngơn ngữ tiểu thuyết luôn chứa đựng ý thức của người sáng tác và “ý thức của
người sáng tạo ra tiểu thuyết đa thanh có mặt thường xuyên và khắp nơi trong tiểu thuyết đó và có vai
trị tích cực ở mức độ cao nhất ở đấy.” [9, tr.57], “những ý thức này cũng chưa kết thúc và chưa hồn
tất như chính nó.” [9, tr.57,]. Ngồi chủ thể phát ngơn, Bakhtin quan niệm ngôn ngữ luôn được đặt
trong mối quan hệ tương tác qua lại trong ngữ cảnh, bởi lời nói nào cũng đượcnhúng vào trong môi
trường, trong bối cảnh xã hội mà nó được sinh ra. Phát ngơn chính là sản phẩm của mối quan hệ xã
hội: “Một lời nói phát biểu sống động, nảy sinh một cách có ý thức trong một thời điểm lịch sử nhất
định và trong một môi trường xã hội nhất định.” [8, tr.94].
Với Bakhtin, VB thực hiện không phải nhiều mà là vô số cuộc đối thoại khác nhau về rất nhiều
vấn đề của cuộc sống. Chính những cuộc đối thoại này lại tiếp tục mở ra những cuộc giao tiếp đối
thoại khác: đó là cuộc đối thoại giữa người đọc và các vấn đề xã hội được nói đến trong VB mà
Bakhtin cho rằng “sự giao tiếp đối thoại chính là lĩnh vực đích thực của cuộc sống của ngôn ngữ.” [9,
tr.172]. Bakhtin chú ý đến ngữ cảnh của lời nói. Mỗi ngữ cảnh khác nhau sẽ nảy sinh những cánh hiểu
và quan điểm khác nhau của người tiếp nhận. Đây được xem là tư tưởng tiến bộ của Bakhtin. Bằng
việc đề xuất tính nhiều tiếng nói này, ơng đã đi ngược lại với quan điểm của Saussure và các nhà hình
thức luận lúc bấy giờ.
Phát triển nguyên lý carnaval (hội giả trang) trên nền tảng văn hóa dân gian thời trung cổ và
Phục hưng Châu Âu, Bakhtin gắn thuật ngữ này với nội hàm khái niệm rộng hơn: “như là tổng thể các
lễ hội có nguồn gốc khác nhau mà đặc điểm nổi bật của nó là niềm vui hội hè của nhân dân.” [108].
Trong cơng trình Sáng tác của Francois Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung cổ và phục hưng,
Bakhtin đã cho thấy nền tảng của carnaval gắn liền với một hệ quan niệm thẩm mỹ đặc thù đó là nhận
thức duy vật tự phát và biện chứng tự phát về sự sinh tồn thông qua phương pháp sáng tác chủ nghĩa
hiện thực nghịch dị. Và cái nghịch dị lại xuất hiện ở bản chất tái sinh tiếng cười. Giễu nhại chính là
một trong những hình thức thể hiện bản chất tái sinh tiếng cười đó. Tính chất tái sinh này không lấy
quá khứ tuyệt đối làm đối tượng miêu tả, mà sẽ chọn đối tượng miêu tả là hiện thực đang tiếp diễn.
Điều này có nghĩa là quá khứ có thể trở thành đối tượng xuất hiện trong văn cảnh nhưng đó khơng
phải là đối tượng miêu tả. Hành vi nhại lại q khứ khơng nhằm mục đích thay đổi ý nghĩa ban đầu

của đối tượng mà trong văn cảnh mới, nó được cung cấpthêm những ý nghĩa mới, nó mang “tính đa
phong cách và tính nhiều giọng điệu” [9, tr.104]. Bởi vì carnaval “bao trùm các bình diện khác nhau
của tác phẩm, từ cấp độ ngôn ngữ, qua thế giới nghệ thuật cho tới nội dung tư tưởng và cấu trúc thể
loại, như một thành phần vững bền của văn hóa” [108], nên chắc chắn “canaval hóa là cơng cụ diễn
giải có lợi trong việc phân tích tác phẩm cụ thể cũng như các tiến trình văn hóa và văn học ở những
thời đại khác nhau.” [108]. Nó góp phần “loại trừ mọi sự nghiêm chỉnh giáo điều, phiến diện, khơng
cho phép tuyệt đối hóa một quan điểm nào, một cực nào của cuộc sống và ý nghĩ.” [9, tr.151].


Đa thanh là một đặc điểm nổi bật nhất của tiểu thuyết mà không một thể loại văn học nào có
thể thay thế. Đa thanh được hiểu là tính nhiều tiếng nói và ý thức khơng hịa làm một, một sự đa thanh
thực thụ của các tiếng nói. Bakhtin quan niệm từ trong bản chất “tiểu thuyết đa thanh toàn bộ là mang
tính đối thoại” [9, tr.33], “ngay từ đầu tiểu thuyết đã vang lên tất cả các tiếng nói chủ yếu của một cuộc
đối thoại lớn. Các tiếng nói này khơng khép kín và cách biệt nhau.” [9, tr.67]. VB đa thanh hòa trộn
nhiều giọng: giọng nhân vật, giọng người kể chuyện, giọng tác giả tạo nên độ căng và sự tương phản
đáng kể bởi những giá trị tự thân và sự độc lập tương đối của các “tiếng nói”. Đây chính là cơ sở
khẳng định tính chất đối thoại trong tiểu thuyết.” [2, tr.246]. Tính nhiều tiếng nói đó lại đặt nền móng
trên nền tảng của tính đối thoại. Đối thoại trong tiểu thuyết là đối thoại mang tính chất sinh tồn, là cái
quyết định giá trị của lời nói “chữ nghĩa khơng có giá trị gì, nếu ta tách nó ra khỏi lời nói. Và lời nói
cũng khơng có nghĩa lý gì, nếu ta tách nó ra khỏi đối thoại.” [71, tr.253]. Là đặc trưng cơ bản của tiểu
thuyết, tính nhiều tiếng nói góp phần thực hiện “q trình khơi sâu tính đối thoại” và tất yếu cần phải
“mở rộng nó và làm cho nó ngày càng trở nên tinh tế.” [8, tr.128]. Quá trình khơi sâu và mở rộng này
làm cho tiểu thuyết là thể loại ln ở thì hiện tại chưa hồn thành. Khi mà “mọi lời văn dường như
sống ở biên giới giữa văn cảnh của mình với văn cảnh của người” [8, tr.11] thì ranh giới giữa của ta và
của người là khó phân định vì mọitình huống trong cuộc sống đều có thể gặp nhau, và dù có thể gặp
nhau thì việc xử lí chất liệu và ngữ cảnh của câu chuyện kể cũng làm cho việc tiếp nhận lời văn không
thể giống nhau.
Tính đối thoại/đa thanh/phức điệu là tiền đề lý luận quan trọng tạo cơ sở cho Kristeva kế thừa
và khát quát thành tên gọi LVB.
1.1.2. Liên văn bản và người đọc

Tuyên cáo về cái chết của tác giả và khai sinh ra người đọc, từ đó đặt ra những quan niệm về
sự phân biệt VB với tác phẩm, Roland Barthes là người đã tiếp tục khẳng định và phát triển nội hàm
của khái niệm tính LVB. Những nghiên cứu của ơng đã đóng góp quan trọng trong lý luận phê bình ký
hiệu học nửa sau thế kỉ XX.
Một trong những tác phẩm thể hiện rõ quan niệm của Roland Barthes về tính LVB là bài viết
Cái chết của tác giả. Khi tuyên cáo cái chết của tác giả, Roland Barthes đã đối lập tư tưởng của mình
với nhiều tư tưởng của các nhà lập thuyết trước đó. Roland Barthes cho rằng “văn chương là thứ
khơng gian trung tính, phức hợp, lạc hướng, trong đó mọi chủ thể đều mất hút, là hố đen nhấn chìm
mọi bản thể, trước tiên là bản thể của con người cầm bút viết.” [45, tr.300]. Xét vai trò tác giả, theo R.
Barthes: “tác giả chẳng qua là chủ thể của hành động viết, cũng như “tôi” chẳng qua là kẻ đã thốt nên
“tôi”” [45, tr.303]. Tác giả theo cách hiểu truyền thống được R. Barthes thay thế bằng người viết hiện
đại. Anh ta chỉ là “người biên chép sinh thành cùng lúc với VB của mình; người đó khơng được trang
bị một tồn tại có trước hoặc vượt ra ngồi bản thân sự viết” [45, tr.303]. Cần phải có một cách hiểu
đúng đắn nhất bản chất của phát ngôn “gây sốc” về “cái chết của tác giả” mà Roland Barthes tuyên
cáo. Phát ngôn này chỉ nhằm giải thiêng và lật đổ quyền uy của tác giả, một thứ quyền uy tối thượng


đã ăn sâu trong tư tưởng của nhiều nhà lập thuyết trước đó. Trên thực tế, và chắc là cả trong cách hiểu
của R. Barthes vai trò của tác giả đối với tác phẩm, là khơng thể hồn tồn xóa bỏ.
Khai tử tác giả, Roland Barthes khai sinh ra người đọc: “nhưng có một nơi tập hợp đa nguyên
này được tập trung lại, và nơi đó khơng phải tác giả, như chúng ta vẫn lầm trước kia, mà là độc giả.”
[45, tr.306], “độc giả chính là khơng gian trên đó chép lại mọi trích dẫn làm nên sự viết” [45, tr.306].
Vậy thì, có chăng, khi khai tử tác giả và khai sinh ra người đọc, Roland Barthes đã hoàn toàn trao
quyền năng cho độc giả và những người làm công việc phê bình? Giờ đây, giá trị của tác phẩm có phải
hồn tồn do độc giả quyết định? Thực ra, ông tuyên bố “sự sinh thành của người đọc phải trả giá
bằng cái chết của tác giả.” [45, tr.306], nhưng đồng thời ông khẳng định rằng “độc giả là một con
người khơng có lịch sử, khơng có tiểu sử, khơng có tâm lí; đó chỉ là một kẻ đã thâu tóm lại mọi con
đường tạo thành VB vào một cánh đồng duy nhất.” [45, tr.306], từ đó ơng đã kết luận “Tác giả đã chết,
VB là LVB, sự đọc là sự sản xuất ý nghĩa.” [45, tr.306]. Vậy là, không phải nhà văn, không phải quyền
năng của độc giả, mà chính văn chương mới là sự sống, mới mở ra đến vơ tận ý nghĩa của mình. Người

đọc chỉ đóng vai trị là người thâu tóm mọi VB mà nó mở ra vào “một cánh đồng duy nhất”.
Phát triển nội hàm của tính LVB, R.Barthes quan niệm “Mỗi VB là một LVB; những VB có
mặt trong nó ở các cấp độ khác nhau dưới những hình thái ít nhiều nhận thấy được: những VB của văn
hóa trước đó và những VB của văn hóa thực tại chung quanh. Mỗi VB đều như một tấm vải mới được
dệt bằng những trích dẫn cũ.”, “Văn hóa nhân loại cũng được coi như một thứ LVB mà đến lượt mình,
nó đóng vai trị tiền VB cho bất cứ VB nào xuất hiện tiếp theo.” [2, tr.240]. Tính đa trị là một trong
những đặc trưng của VB mà Roland Bathes đã xuyên suốt nhắc đến trong những cơng trình nghiên
cứu của mình. VB là “một khơng gian đa chiều, nơi có nhiều kiểu viết va đập, tranh chấp, xáo trộn vào
nhau mà khơng có cái nào nguyên mẫu cả.”. Đằng sau một VB bao giờ cũng thấp thống ít nhiều một
VB khác nên khơng hề có VB “ngun chất”. Vì nằm trong những mối quan hệ chằng chịt qua lại như
vậy nên VB bao giờ cũng mang tính đa nghĩa. Tác phẩm được tái tạo và luôn xuất hiện những mâu
thuẫnnội tại bên trong để tái sinh những nét nghĩa mới. Trong tác phẩm S/Z cơng bố 1970, ơng viết:
“dựa vào tính đa trị từ đó VB được tạo ra” [94, tr.178], “Trong VB lý tưởng này, các mạng lưới là rất
nhiều, chúng tự cung cấp mà khơng cần một cái nào đó lộ ra, khi xếp chồng lên nhau, thống ngự hay
điều khiển những cái khác; cái tất cả này là một thiên hà của cái biểu đạt, mà không phải là một cấu
trúc của những cái biểu đạt.” [94, tr.178], “Nếu chúng ta quan tâm chú ý đến tính đa trị của một VB
(số lượng giới hạn tùy ý) thì chúng ta cần phải từ bỏ cấu trúc hiện hình trong một khối lượng thống
nhất như các nhà tu từ học cổ điển hay phê bình hàn lâm vẫn làm, cũng khơng xuất phát từ việc xây
dựng VB; tất cả phải tạo nghĩa không ngừng và tạo nghĩa nhiều lần, cũng không cần phải đi tới việc
cho ra một cái toàn thể lớn lao cuối cùng, hay một cấu trúc cuối cùng.” [94, tr.178]. Trong bài nghiên
cứu Từ tác phẩm đến văn bản (De l’oeuvre au texte), xuất bản 1971, ông nêu lên quan điểm tính đa trị
của VB. Tính đa trị không thể hiểu là sự riêng rẽ về ý nghĩa để gộp lại thành số nhiều mà trước hết
phải hiểu nó là sự khơng xác định mang tính ngữ nghĩa “VB là đa trị. Điều này khơng có nghĩa chỉ vì


trong VB tồn tại nhiều nghĩa, mà trước tiên, nó đa trị bởi vì nó thực hiện một số nhiều mang nghĩa,
một số nhiều không thể giản quy. VB không phải là cái đang tồn tại đồng thời những gì được hiểu, mà
là sự chuyển dời, xuyên qua; nó trả lời không phải cho một diễn giải hay chỉ cho một tự do diễn giải
mà là cho một sự bùng nổ, cho một sự phát tán.” [94, tr.179]. R.Barthes đã xác lập tư tưởng phân mảnh
thay thế cho tư tưởng tổng thể trước đây.

1.1.3. Thi pháp Liên văn bản
Quan điểm thi pháp LVB ở đây chúng tôi căn cứ vào quan điểm của Genette - người mô tả rõ
ràng nhất các cấp độ và quan niệm LVB trong cơng trình nổi tiếng của ông: Palimpsests: văn chương
ở độ hai. Trong cơng trình này, ngay tên gọi Palimpsests đã ngầm ví mỗi VB là một Palimpsest, tức
“một bản viết trên miếng da, được viết lần hai, lần viết đầu đã bị cạo xóa” [125, tr.236]. Ơng chú trọng
đến cấu trúc nội tại của VB và phát triển khái niệm tínhLVB thành xuyên văn bản (transtextuality), với
mong muốn có thể thay thế khái niệm tính LVB mà Kristeva đã đề xuất. Genette đã khẳng định giá trị
của tính xuyên VB khi tiến hành tham chiếu tiền VB vào trong mạng lưới VB mới. Quá trình tham
chiếu thực hiện trên cơ sở các loại tương tác khác nhau của VB. Genette đề xuất năm loại tương tác: 1/
Liên văn bản (intertextualité) bao gồm trích dẫn, đạo văn, ám chỉ; 2/ Cận VB (paratextualité) như là mối
quan hệ giữa VB với phụ đề, lời nói đầu, lời bạt, đề từ,...; 3/ Siêu VB (métatextualité) như sự chú giải
hoặc viện dẫn VB trước đó một cách có phê phán; 4/ Thậm phồn VB (hypertextualité) như sự cười cợt
hay giễu nhại của VB này đối với VB khác; 5/ Kiến tạo VB (architextualité) được hiểu như mối quan hệ
thể loại giữa các VB.
- Quan hệ liên văn bản (intertextualité)
Trong Palimpsests, khái niệm LVB của Genette có nội hàm hẹp hơn so với khái niệm LVB mà
Kristeva đề xuất. LVB chỉ là một trong những kiểu quan hệ giữa các VB: quan hệ đồng hiện diện. Ở
mối mối quan hệ tương tác VB này, quan niệm của Genette về LVB đã được hiểu một cách đơn giản là
“mối quan hệ cùng hiện diện giữa hai VB hay một vài VB trong một VB cụ thể” [125, tr.237] và nó
được biểu hiện qua ba hình thức: ám chỉ (allusion), đạo văn (plagirism) và trích dẫn (citation). Sau
này, Marko Juvan, với cơng trình Lịch sử và thi pháp của tính Liên văn bản (History and Poetics of
Intertextuality) (2000) đã tiếp tục phân loại phương thức biểu hiện LVB có hạt nhân trích dẫn bao gồm
miêu tả (description), chuyển vị (transposition) và bắt chước (imitation). Miêu tả LVB còn bao gồm
các thể loại trích dẫn như tóm tắt (summary), phê bình (criticism), diễn giải (interpretation).
Về hình thức ám chỉ, Genette miêu tả như sau: “đó là một sự phát ngơn hoàn toàn giả định với
đầy đủ ý nghĩa nhằm nhận thức về một mối quan hệ giữa nó và một VB khác.” [125, tr.237]. Đạo văn
trong LVB không được hiểu như cách hiểu thông thường là hiện tượng ăn cắp bản quyền của người
khác nhằm lấy sản phẩm của người khác trở thành sản phẩm của mình, mà đặc tínhcủa nó là việc
khai thác những VB có sẵn để tạo ra sản phẩm mang ý nghĩa mới. Nhờ thao tác này, mà VB được tái
sinh không ngừng.



Trích dẫn là một trong những thuộc tính quan trọng của tính LVB. Vì trích dẫn biểu hiện rõ
ràng sự kết nối của VB này với VB khác. Thao tác trích dẫn đưa người đọc ra ngồi phạm vi của VB,
mở rộng đường biên sang các VB khác (chính trị, lịch sử, triết học, văn học,...). Cách thức trích dẫn có
thể là: tồn bộ một VB (ví dụ VB thơ, âm nhạc, truyện kể,...), trích lược/tóm tắt,... có thể trích trực tiếp
hoặc gián tiếp,… Tùy theo mục đích khác nhau mà chức năng của thao tác này cũng đa dạng.
- Quan hệ cận văn bản (paratextualité)
Ở mức độ tương tác VB đơn giản hơn, theo quan niệm của Genette, tiểu thuyết có tính LVB khi
chú ý khai thác paratext (cận VB – cịn dịch là yếu tố ngồi cốt truyện). Đây “là sự thực hiện mang
tính truyền thống về việc trích dẫn (với ngoặc kép, với hoặc khơng có lời dẫn chính xác)” [138]. Theo
Genette, paratext bao gồm nhan đề, phụ đề, lời mở đầu, lời đề tặng, lời bạt, chú thích, thơng báo, tên
các chương, tranh minh họa... nghĩa là những cái bên lề VB. Tuy không phải là nội dung chính mà VB
hướng đến nhưng chúng cũng có những mã mang thông điệp ý nghĩa nhất định. Nguyễn Việt Hà mở
đầu cuốn tiểu thuyết Thị dân tiểu thuyết bằng lời nhận định: “tiểu thuyết là ngôi lời kể lể nhỏ - SYNOPSIS”, mở đầu cho Ba ngôi của người “Và tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ
chúng con (Kinh lạy cha)”, mở đầu cho tiểu thuyết Cơ hội của chúa “sự cùng quẫn cuối cùng của con
người đấy là cơ hội của Chúa”. Nguyễn Mộng Giác bắt đầu Sông Côn mùa lũ bằng lời đề tặng: “Tặng
nhà tôi Nguyễn Khoa Diệu Chi và các con Đào Tiên, Thụy Vũ, Mai Tiên. Nguyễn Xuân Khánh bắt
đầu tiểu thuyết Đội gạo lên chùa bằng việc trích dẫn (cả phiên âm và dịch thơ) bài thơ Cư trần lạc đạo
phú của Trần Nhân Tông,... Tất cả những nội dung trên, dù khơng phải là tình tiết, là chi tiết chính của
truyện, nhưng nó mang âm hưởng, màu sắc, phong cách, kiểu tư duy,... từđó tác động và định hướng
tâm thế ban đầu của độc giả trong hành trình tìm ra những mã của tác phẩm.
- Quan hệ siêu văn bản (Métatextualité)
Siêu văn bản đề cập đến hiện tượng một VB bình luận rõ ràng hoặc khơng rõ ràng về một VB
khác. Sự bình luận này thể hiện quan điểm, sự đánh giá đối với nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời
sống. Thao tác này làm cho tiểu thuyết gắn với phê bình, mang màu sắc của khoa học, của tư duy phản
biện. Tiểu thuyết giờ đây không phải chỉ là địa hạt của các sự việc, của các tình tiết gây cấn, hồi hộp.
Mà là sự đan xen của quy luật tư duy phân tích, đánh giá, nhìn nhận... Sự bình luận có thể thể hiện sự
đồng tình hay khơng đồng tình, ca ngợi hay phê phán, có khi là giải thiêng lại những vấn đề từng được
xem là thiêng liêng, là chuẩn mực đối với xã hội. Điều này có thể nhận thấy ở nhiều nhà văn Việt Nam

đương đại. Họ bình luận VB thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội và có khi bình luận
ln ngay cả tác phẩm của chính mình. Hồ Anh Thái có những thao tác đề cập đến những VB khác từ
đó đưa ra những bình luận. Trong tiểu thuyết Năm lá quốc thư, tác giả đã bình luận về câu chuyện của
một nhà văn Pháp thể kỉ XIX: Alfred de Musset “Đồng thời ở đây, cịn có thể thấy một câu chuyện
khác, từ hình ảnh những cái mỏ háu đói của đàn con sục vào chén sạch tim gan lòng ruột của cha
chúng. Câu chuyện về đức hy sinh của người cha, cũng là chuyện về sự háu đói vơ tình của đàn con.
Ta nhìn thấy trong ấy câu chuyện chén bằng sạch, moi bằng sạch, rút ruột bằng sạch. Mà rút ruột của


ai? Của chính người cha mình, người lẽ ra có thể tồn tại lâu dài để tiếp tục nuôi ta.” [119, tr.213]. Và
câu chuyện ấy chính là hình ảnh ẩn dụ và là cái cớ cho sự bình luận câu chuyện của hiện tại: “những
con bồ nông của Alfred de Musset đã vô tư hồn nhiên được một bữa no. Thảo nào ta có thể gọi tắt vơ
tư hồn nhiên là vô hồn. Chúng đã mở đại tiệc trên cái bụng phanh ra của người cha mà không biết rằng
một khi người cha đã chết rồi, đại tiệc ấy là sự hủy diệt của chính chúng.” [119, tr.217]. Siêu VB trong
tiểu thuyết đã trở thành đối tượng cho nhiều nhà văn giải thiêng nhiều vấn đề thiêng liêngnhằm nhạo
báng các hiện tượng trong cuộc sống hiện đại. Vậy là biên độ của một VB được mở rộng, thế giới
không chỉ là một VB mà còn là một siêu VB để nhà văn có thể hoạt tác bằng nhiều cách thức và con
đường khác nhau.
- Quan hệ thậm phồn văn bản (Hypertextualité)
Thậm phồn VB là thuật ngữ Genette “dùng để chỉ hiện tượng một văn bản B nào đó (được ơng
gọi là hypertext/thượng VB hoặc hậu bản) phát sinh từ một văn bản A nào đó đã tồn tại trước đó (được
gọi là hypotext/hạ bản hoặc tiền bản) bởi sự cải biến (transformation) hoặc bởi sự bắt chước
(imitation). Theo đó những hình thức như giễu nhại (parody), chế nhạo (travesty) và chuyển vị
(transposition) thuộc về quan hệ cải biến hạ VB; trong khi phỏng nhại (pastiche), châm biếm
(caricature) và giả mạo (forgery) là những hình thức bắt chước.” [125, tr.244]. Cải biến và bắt chước
có thể xem là quan hệ điển hình cho việc nối kết nhiều VB thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời
sống bằng nghệ thuật xử lý của nhà văn đối với tiền VB. Phần này chúng tôi sẽ đi sâu hơn ở chương
ba của luận án.
Thuật ngữ giễu nhại (tiếng Anh: parody, tiếng Pháp: parodie) có gốc từ tiếng Hi Lạp cổ đại là
parodia. Từ này gồm có hai phần kết hợp lại: tiền tố para (vừa có ý nghĩa là đối lại vừa có ý nghĩa là

bên cạnh) và danh từ ode (có nghĩa là bài hát). Giễu nhại vừa được hiểu là một bài hát “chống lại” bài
hát khác, vừa đồng thời được hiểu là bài hát được hát bên cạnh bài hát khác mà khơng chống lại nó.
Chính những cách hiểu này đã dẫn đến tính chất lưỡng nghĩa của từ nguyên mà cho đến nay, việc đưa
ra một giới thuyết duy nhất về nội hàm của khái niệm giễu nhại là chưa đi đến thống nhất. Vẫn cịn đó
những quan niệm và cách tiếp cận khác nhau. Trong phạm vi của luận án, chúng tôi quan tâm đến một
số quan niệm về parody/nhại phổ biến của các nhà lập thuyết tiêu biểu từ thế kỉ XX đến những năm
đầu của thế kỉ XXI. Từ đó gắn với thực tiễn của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
- Quan hệ kiến tạo văn bản (Architextualité)
Thuật ngữ Architextualité được hiểu là “toàn bộ các yếu tố xác định quan hệ về mặt thể loại
của các VB.” [125, tr.245]. Điều đáng chú ý là “bản thân kiến trúc VB không phải là phạm trù riêng
biệt và thuần túy mà là sự va chạm, tương tác và chồng lấn lên nhau giữa các thể loại. Va chạm, tương
tác không phải là sự dịch chuyển cơ học các yếu tố thể loại trong hệ thống văn học mà là sự tương sinh
và biến đổi địa vị, chức năng của mỗi yếu tố khi chúng tham sự vào tấn kịch văn học” [125, tr.245246]. Trong quan hệ kiến tạo VB, Genette một mặt phân loại và một mặt chú ý đến các kiểu tương tác
LVB. Theo quan niệm của Genette, tính LVB tự xác định qua “sự hiện diện của một hoặc nhiều VB


trong một VB và mối quan hệ giữa chúng”. [138]. Quan niệm này gần với quan niệm của Bakhtin về
sự tương tác giữa các thể loại văn học. Bakhtin quan niệm: “Tiểu thuyết cho phép đưa vào, lắp ghép
vào trong nó nhiều thể loại khác nhau, cả những thể loại nghệ thuật (những truyện ngắn, những bài thơ
trữ tình, những trường ca, những màn kịch nói,...) lẫn những thể loại phi nghệ thuật (các thể văn đời
sống hàng ngày, văn hùng biện, khoa học, tôn giáo,...), về nguyên tắc bất cứ thể loại nào cũng có thể
được đưa vào cấu trúc tiểu thuyết và trên thực tế rất khó tìm được một thể loại nào chưa bao giờ và
chưa được ai đưa vào tiểu thuyết” [9, tr.32]. Theo đó, tiểu thuyết có thể thu nạp nhiều thể loại, nhiều
VB khác nhau trong một chỉnh thể tác phẩm. Ví dụ như sự xâm nhập của truyện ngắn trong tiểu thuyết
Việt Nam đương đại đã tham gia vào kiến trúc của VB, tạo cho VB nhiều không gian nhỏ làm nên tiểu
tự sự, góp phần cho bức tranh đời sống hiện lên đa chiều kích, bao quát được nhiều vấn đề của cuộc
sống đương đại.
Trong phạm vi của luận án, chúng tôi tiến hành nghiên cứu các kĩ thuật giễu nhại, tương tác thể
loại và viết lại. Bởi đây là các vấn đề tiêu biểu, đặc trưng nhất của tính LVB gắn với hai khuynh hướng
chính của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.

1.2. Vấn đề nghiên cứu lý thuyết Liên văn bản
Những cơng trình nghiên cứu lý thuyết LVB hiện có trên thế giới số lượng rất lớn, rất đa dạng,
khó có thể mơ tả đầy đủ. Vì thế ở đây chúng tơi chỉ nêu một số đường hướng chính. Nhiệm vụ trọng
tâm của luận án là phân tích văn học Việt Nam, cụ thể là tiểu thuyết đương đại Việt Nam. Vì vậy, ở
chương này, luận án tập trung vào một số tư tưởng về tính LVB, các nghiên cứu LVB của các nhà lý
luận thế giới và tổng thuật vận dụng lý thuyết LVB ở Việt Nam trong mấy thập niên gần đây.
1.2.1. Tình hình dịch thuật lý thuyết liên văn bản
Hiện nay, rất nhiều cơng trình trực tiếp đặt ra vấn đề tính LVB và ứng dụng nó trong nghiên
cứu văn học vẫn chưa được giới thiệu chu đáo ở Việt Nam chẳng hạn như cơng trình quan trọng hàng
đầu của Kristeva – Từ, Đối thoại và Tiểu thuyết – nơi thuật ngữ LVB lần đầu tiên xuất hiện vẫn chưa
được dịch. Các cơng trình quan trọng khác có bàn trực tiếp đến thuyết LVB của R.Barthes,
M.Riffaterre, G.Genette, H.Bloom,... cũng ít được giới thiệu, tìm hiểu. Với nỗ lực của một số nhà
nghiên cứu, dịch thuật, hiện chúng ta có một số bản dịch sau đây giới thiệu và phân tích một vài điểm
lí thuyết LVB. Đầu tiên, có thể kể đến bài nghiên cứu của tác giả người Nga do Ngân Xuyên dịch –
L.P. Rjanskaya, LVB – sự xuất hiện của khái niệm về lịch sử và lí thuyết của vấn đề (Nghiên cứu văn
học, số 11/2007). Bài nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề nguồn gốc và những cách hiểu về khái niệm
LVB: khái niệm LVB là môt khái niệm “động”, nội hàm của khái niệm có thể biến đổi tùy thuộc vào
“các lập trường triết học và nghiên cứu của các nhà khoa học.”. Có hai quan niệm về tính LVB: LVB
được xem như là một thủ pháp văn học, và LVB được xem như là “thuộc tính bản thể của mọi VB”,
cách hiểu thứ hai này là cách hiểu gắn liền với Kristéva trong cơng trình Từ, Đối thoại và Tiểu thuyết.
Quan niệm về tính LVB gắn liền với quan niệm về VB và vai trò của độc giả bởi “LVB nhằm tới sự
tương đối hóa các mã văn hóa, tương đối hóa tính thống nhất và toàn vẹn của chúng, và tới sự tước


bỏ ý nghĩa tuyệt đối của chúng… Ý nghĩa là linhhoạt, sự tương tác sống động của các VB sinh ra
những nghĩa mới của chúng.” [106, tr.197]. Người viết đã đưa ra dẫn chứng các VB văn học Anh và có
sự minh giải để cho thấy “sự tương quan giữa VB của mình và VB của người khác” [106, tr.199] trong
một số sáng tác của Magaret Dabble, Anita Brookner,
A.S Byett, Bayette, Emma Tennant, W. Golding, Graham Swift,… Từ đó người viết khẳng định rằng:
“Việc hiểu hạn hẹp thuật ngữ chỉ như là mối tương quan cấu trúc của hai hay một số VB có tác giả

hoặc việc chuyển dịch tư tưởng LVB như là hình ảnh thế giới sang các thời đại khác sẽ gây khó khăn
cho việc sử dụng và tiếp nhận khái niệm” [106, tr.212]. Tiền đề lí thuyết này có vai trị quan trọng
trong việc vận dụng nội hàm khái niệm để tiến hành nghiên cứu và giải mã VB.
Trong cuốn Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và
Hoa Kỳ thế kỉ 20 (chủ biên I.P. Ilin và E.A. Tzurganova) khái niệm LVB đã được lý giải khá tường tận.
Phần mục viết về LVB, ngoài việc chỉ ra xuất xứ của khái niệm, các soạn giả đề cập đến một thực tế:
“nội dung cụ thể của thuật ngữ thay hình đổi dạng một cách cơ bản tùy thuộc vào những tiền đề lý
luận và triết học.” [66, tr.444]. Tuy có sự thay hình đổi dạng như thế nhưng “cái chung cho tất cả họ là
định đề: bất cứ VB nào cũng là sự “phản ứng” đối với các VB có trước nó.” [66, tr.444]. Sau nhận
định trên, các soạn giả đã trích dẫn ý kiến của một số nhà khoa học. R. Barthes khái niệm LVB “Mỗi
VB là một LVB, những VB khác có mặt trong nó ở các cấp độ khác nhau dưới những hình thái ít nhiều
nhận thấy được: những VB của văn hóa trước đó và những VB của văn hóa thực tại xung quanh. Mỗi
VB đều như là tấm vải mới được dệt từ những trích dẫn cũ. Những đoạn của các mã văn hóa, các định
thức, các cấu trúc nhịp điệu, những mảnh vụn biệt ngữ xã hội,…- tất cả đều bị văn bản ngốn nuốt và
đểu bị hòa trộn trong VB và xung quanh nó bao giờ cũng tồn tại ngơn ngữ. Với tư cách là điều kiện
tồn tại ban đầu cho mọi VB, tính LVB khơng thể bị lược quy vào vấn đề nguồn gốc hay ảnh hưởng; nó
là trường quy tụ những định thức nặc danh, khó xác định nguồn gốc, nhữngtrích dẫn vơ thức hoặc
máy móc được đưa ra khơng có ngoặc kép” [66, tr.445].M. Riffaterre khẳng định: “bản thân tư tưởng
tính VB khơng những khơng tách khỏi tính LVB, mà cịn dựa vào nó.” [66, tr.445]. M. Gresset cho
rằng: “LVB là một bộ phận hợp thành của văn hóa nói chung” và “ràng buộc” bằng “tấm lưới văn
hóa” mà “khơng có kẻ nào có khả năng thốt ra khỏi.” [66, tr.446]. Tuy nhiên, không phải các nhà
nghiên cứu văn học ở phương Tây trong các cơng trình của mình đều dùng và chấp nhận cách lý giải
rộng rãi về khái niệm LVB. Dù cịn đó những vấn đề chưa được xác quyết rõ ràng nhưng vị trí của tính
LVB là khơng thể phủ nhận bởi “ý nghĩa của quan niệm LVB vượt ra ngoài phạm vi những cắt nghĩa
thuần lý thuyết” lý thuyết này có tính đại chúng rộng rãi vì “LVB ảnh hưởng đến chính thực tiễn nghệ
thuật và sự tự ý thức của nghệ sĩ hiện nay.” [66, tr.449].
Bửu Nam – Phạm Thị Anh Nga dịch Lí thuyết về tính LVB của tác giả người Pháp: Pierre –
Marc de Biasi. Nội dung của bài viết trình bày lịch sử lí thuyết LVB, từ lúc hình thành khái niệm đến
những cách tiếp cận đầu tiên trong những năm 1970 và những sự tái lập khái niệm từ những năm 1980
đến nay. Bản dịch của Nguyễn Văn Thuấn về bài báo của Andrea Lesis – Thomas: Đằng sau Bakhtin:



chủ nghĩa hình thức Nga và thuyết LVB của Kristeva. Bài viết đề cập đến mối quan hệ và đóng góp
của các nhà hình thức luận Nga, Bakhtin và Kristeva đối với quá trình sinh thành và sự triển nghĩa của
thuyết LVB. Bài viết khẳng định những đóng góp của chủ nghĩa hình thức Nga với tư cách là những
người tiên phong, đặt nền móng cho lí thuyết LVB. Ngồi ra, Nguyễn Văn Thuấn còn tiến hành dịch
cuốn Lý thuyết Liên văn bản của Graham Allen. Tuy tài liệu này chỉ lưu hành nội bộ, chưa được phát
hành rộng rãi, nhưng đây là một trong những tài liệu tham khảo, giúp cho người đọc hình dung rõ hơn
nội hàm của LVB và những vấn đề xung quanh nó. Việc hồn thiện bản dịch này sẽ là cơ sở lí luận
quan trọng trong nghiên cứu và vận dụng lí thuyết LVB ở Việt Nam.
Năm 2011, Lã Nguyên dịch bài viết Một nền thi pháp học sụp đổ của Julia Kristéva. Nội dung
bài dịch đã khái quát nguồn gốc và sự vận động trong tư tưởng, các nguyên tắc trong lí luận phê bình
của Bakhtin. Julia Kristéva đã phân tích sâu sắc tư tưởng đối thoại, nguyên tắc phức điệu của Bakhtin
và chỉ ra tính quá độ của Bakhtin khi “khám phá ra cả một đại lục mà công cụ của thi pháp học không
thể ứng dụng” [74, tr.21]. Bên cạnh việc khẳng định những đóng góp của Bakhtin, Kristéva đồng thời
cũng chỉ ra những phần cịn khiếm khuyết: “ơng làm xê dịch ý nghĩa của các thuật ngữ ngôn ngữ học
và đôi khi không đưa ra những định nghĩa nghiêm nhặt cho các thuật ngữ ấy.” [74, tr.22]. Tuy nhiên
với những gì Kristéva chỉ ra và phân tích thì bài viết của bà có giá trị quan trọng trong việc tiếp nhận
tư tưởng của Bakhtin – tiền đề lí luận quan trọng trong nội hàm khái niệm “tính LVB” mà bà đề xuất.
Năm 2013, Lê Nguyên Cẩn dịch và giới thiệu cơng trình Thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại của
Liviu Petrescu (Rumani). Đây là cơng trình đã mang lại một cách nhận diện có hệ thống, dựa trên nền
tảng triết học phương Tây theo tiến trình lịch sử, lí giải cội nguồn của xu hướng văn học hậu hiện đại
qua các đại diện tiên biểu gắn với các thời kì phát triển của văn chương phương Tây nói chung và văn
học Rumani nói riêng. Tuy khơng phải là cơng trình dành riêng cho LVB nhưng trong sự kiến giải các
vấn đề của chủ nghĩa hậu hiện đại, tác giả có đề cập đến vấn đề LVB trong diễn ngôn văn học. Trong
vấn đề này, người viết đã chỉ ra hướng tiếp cận mở rộng của LVB ở cấp độ “văn hóa vĩ mơ” và phong
trào của “Chủ nghĩa lịch sử mới”. Tác giả đã dẫn ra quan niệm của một số nhà nghiên cứu, đầu tiên là
Linda Hutcheon, người đã nhìn nhận “ngữ cảnh diễn ngơn ngơn ngữ học” và thêm vào “ngữ cảnh phổ
quát”, nơi diễn ra thao tác phát ngôn, về bản chất ngữ cảnh này vừa mang tính xã hội, và đặc biệt vừa
mang tính LVB. Tác giả hướng sự chú ý đến J. Greenblatt (người khởi xướng chủ nghĩa lịch sử mới),

người đã nghiên cứu quan hệ giữa các kiểu diễn ngôn khác nhau và kết luận “việc ngữ cảnh hóa diễn
ngơn văn học khởi phát từ tiền đề tính đa trị của mọi nền văn hóa.” [94, tr.189]. Bằng việc chỉ ratính
đặc thù của diễn ngôn văn học hậu hiện đại, tác giả đã đặt LVB trong diễn ngơn văn học, ở đó LVB
được mở rộng tối đa, nó khơng bị giới hạn trong một phạm vi của VB văn học mà nó cịn là sự hội tụ
của nhiều VB trong xã hội – nơi xuất hiện nhiều diễn ngơn khác nhau.
Ngồi các sách lý thuyết LVB, một số những cơng trình của các nhà khai sáng thuyết LVB
cũng đã được dịch ở Việt Nam dù khơng chun bàn về LVB. Trước hết đó là cơng trình Giáo trình
ngơn ngữ học đại cương của Saussure, các cơng trình cơ bản của Bakhtin (Những vấn đề thi pháp


Đốt-xtơi- épxki, Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Sáng tác F.Rabelais và nền văn hóa dân gian trung cổ
và Phục hưng), các cơng trình của R. Barthes (Cái chết của tác giả, Từ tác phẩm đến văn bản, Vương
quốc ký hiệu), của J. Derrida (Về văn phạm học, Chữ ký – sự kiện – bối cảnh), của Eco (Đi tìm sự thật
biết cười),… Tuy nhiên, ở Việt Nam, những cơng trình này chỉ được tiếp nhận như là những cơng trình
thuần túy ngơn ngữ học, thi pháp học, lí thuyết thể loại, ký hiệu học, triết học,… mà chưa được nhận
diện như là những cơng trình đặt nền móng và phát triển lí thuyết LVB.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu lý thuyết Liên văn bản ở Việt Nam
Hiện nay ở Việt Nam, việc tìm hiểu lí thuyết này được thực hiện xen kẽ trong q trình nghiên
cứu lí thuyết chung của lí luận văn học, trong mối tương quan với lí thuyết hậu hiện đại.
Thuật ngữ LVB được giới thiệu sớm nhất tại Việt Nam trong một số cơng trình của Giáo sư
viện sĩ Hồng Trinh. Cơng trình Từ kí hiệu học đến thi pháp học (1993), khi làm rõ khái niệm VB, tác
giả đã viết như sau: “Một VB bao giờ cũng kế thừa những VB có trước và bao giờ cũng mang nhiều
tiếng nói hội nhập vào nhau. Đó là tính LVB của mọi VB” [137, tr.476]. Ơng cịn giải thích: “một tác
phẩm văn học mang dấu ấn của sự kế thừa và của tính LVB rất rõ ở nhiều chỗ tác phẩm trước đó đã
được tác giả sau này đọc, mô phỏng tham khảo hoặc vận dụng” [137, tr.476]. Đồng thời Hoàng Trinh
phân biệt sự khác nhau giữa thuật ngữ LVB với thuật ngữ tính đối thoại củaBakhtin. Theo ơng, tính
đối thoại là quan hệ vi mơ, tồn tại trong một VB, cịn tính LVB là vĩ mơ, là quan hệ giữa VB này với
VB khác. Ơng cho rằng: “lí luận về thi pháp học của Bakhtin (Liên Xơ) đã chỉ rõ tính LVB trong tác
phẩm của Ra-bơ-le (Rabelais) và Đơ-xtơi-ép-xki, tạo ra tính “đa âm” (polyponique) và “tính đối thoại”
(dialogique) hết sức chân thực và sống động trong các tiểu thuyết” [137, tr.476]. Cũng trong cơng

trình này, Hồng Trinh giới thiệu phương pháp phân tích thơ của M.Riffaterre, qua đó, gián tiếp giới
thiệu quan niệm LVB của chủ nghĩa cấu trúc – ký hiệu học. Như vậy, trong cơng trình của Hồng
Trinh, thuật ngữ LVB chỉ được nhắc đến một cách khái quát, chưa có hệ thống và tại thời điểm ra đời,
nó chưa gây được những tác động đáng kể đến lí luận phê bình.
Cơng trình thứ hai có nhắc đến thuật ngữ LVB là bài giới thiệu Bakhtin của Trần Đình Sử
(Những vấn đề thi pháp Đốt-xtôi-épxki - 1993). Trong bài viết, tác giả khẳng định vai trò đặc biệt của
tác phẩm, giới thiệu những tư tưởng của M.Bakhtin về thi pháp học, tính đối thoại, về tiểu thuyết đa
thanh/phức điệu và có nhắc đến thuật ngữ LVB. Ông viết: “Ở đâu cuốn sách cũng gây được hứng thú
sâu sắc, thúc đẩy tìm tịi. J.Krixtêva [J.Kristéva] vận dụng quan niệm đối thoại của Bakhtin đã xây
dựng khái niệm LVB được công nhận rộng rãi ở phương Tây” [9, tr.12]. Việc Kristéva vận dụng
Bakhtin để sáng tạo ra thuật ngữ LVB gắn với khơng khí học thuật Pháp lúc bấy giờ, đó là khi tư
tưởng giải cấu trúc xuất hiện, địi xem xét lại tồn bộ các quan niệm của chủ nghĩa cấu trúc về văn học
và ngôn ngữ, họ phát hiện ra sự bất ổn của nghĩa và đòi tuyên bố về cái chết của chủ thể. Cho nên tính
đối thoại (của Bakhtin) và tính LVB (ở Kristeva và các nhà giải cấu trúc khác) có những điểm khác
biệt. Lúc đó, Trần Đình Sử không quan tâm nhiều đến vấn đề này. Tác giả chú ý đến lí thuyết thi pháp
học. Năm 1995, trong cơng trình Lí luận phê bình văn học, Trần Đình Sử tuy khơng nhắc đến lí thuyết


LVB, nhưng tác giả đã phân tích tư tưởng đối thoại của Bakhtin và chỉ ra những sai lầm của nghiên
cứu lí luận phê bình những năm đầu thế kỉ XX khi độc tơn vai trị của tác giả. Trần Đình Sửcho
rằng: “Phê bình đối thoại là con đường thâm nhập vào cội nguồn văn hóa của tác phẩm, bộc lộ sự đa
dạng về văn hóa của văn học.” [109, tr.173]. Năm 2008, trong giáo trình Lí luận văn học (Tập 2) Tác
phẩm và thể loại văn học, ơng có cập nhật ngắn gọn lí thuyết LVB khi diễn giải quan niệm của
Kristeva và R.Barthes về VB và tác phẩm văn học: “mọi VB đều là LVB với nghĩa là bao hàm tiền
VB, VB văn hóa, VB nhìn thấy và VB khơng nhìn thấy, sự dẫn văn vơ thức và tự động,… VB và ý
nghĩa của nó là sản phẩm của q trình tiếp nhận có tính xã hội” [110, tr.23]. Như vậy, những tiền đề
của tính đối thoại và vấn đề LVB đã xuất hiện nhiều lần trong công trình nghiên cứu của Trần Đình
Sử. Đây cũng là một trong những tiền đề lí luận để triển khai nghiên cứu và vận dụng thuyết LVB vào
phê bình văn chương.
Đỗ Đức Hiểu, trong cuốn Thi pháp hiện đại viết “Ký hiệu văn chương là một vật sống và cũng

là đối thoại”, “Julia Kristéva phát triển tính đối thoại của Bakhtin thành khái niệm “tính LVB”
(Intertextualité)” [62, tr.58]. Trước đó, ơng viết: “Tiểu thuyết, bản thân nó là đối thoại hết sức đa dạng
và phức hợp. Đa âm, hoặc LVB (Intertextualité), bởi vì nó đối thoại với các VB đồng thời, nó quan hệ
với các VB khác, trước nó và sau nó, với các cấu trúc xã hội, nghệ thuật và văn hóa” [62, tr.56].
Kristéva phát triển lí thuyết về tính LVB từ quan niệm tính đối thoại của Bakhtin, mặc dù có những
điểm khác biệt giữa quan niệm tính LVB của Kristeva và quan niệm tính đối thoại ở Bakhtin. Nhưng
về cơ bản có thể thấy rằng các quan niệm về tính đa thanh, tính đối thoại của Bakhtin cũng là những
quan niệm khác nhau của tính LVB. Từ cách nhìn đó, Đỗ Đức Hiểu đã vận dụng tinh thần đối thoại ở
Bakhtin, tính LVB ở Kristeva và hướng tiếp cận LVB đối với văn học Việt Nam qua các bài viết:
Những lớp sóng ngơn từ trong Số đỏ, Phiên chợ Giát, Đọc Phạm Thị Hồi, Thân phận tình u của
Bảo Ninh,… Những nội dung nghiên cứu của Đỗ Đức Hiểu đã góp phần đặt thêm nền móng cho việc
nghiên cứu lý thuyết LVB, đây còn là những gợi ý quan trọng cho việc ứng dụng nghiên cứu những
sáng tác cụ thể. Sau này, Đỗ Đức Hiểu là người viết mục Tính LVB trong Từ điển văn học (Bộmới),
tác giả trình bày ngắn gọn những quan niệm khác nhau về khái niệm tính LVB. Như vậy, thuật ngữ
tính LVB đã chính thức có vị trí của riêng mình trong từ vựng nghiên cứu – phê bình văn học Việt
Nam hiện đại.
Trên tienve.org, Nguyễn Minh Quân có bài Liên văn bản – sự triển hạn vô cùng của tác phẩm
văn học (2001). Người viết đã trình bày những lý thuyết căn bản và sự ứng dụng của khái niệm LVB
trong phạm vi phê bình văn học hậu hiện đại. Theo tác giả, từ điểm nhìn tổng quát, người ta chia LVB
thành hai loại: Kinh điển và Hậu hiện đại. Có thể thấy rằng “Khái niệm LVB kinh điển sẽ khơng đóng
góp bao nhiêu vào việc sáng tạo”, nó vẫn có ích cho văn học Việt Nam ở chỗ “loại trừ được thói ăn
gian và biển lận tư tưởng đối với khơng ít người viết thích cầm nhầm tư duy của kẻ khác” và “giáo dục
người đọc tuân thủ một lối đọc nghiêm túc – tìm hiểu một vấn đề đến nơi đến chốn để tránh đi hai cố
tật: hàm hồ và nói leo.”. Ngược lại, LVB hậu hiện đại mới chính là phần trung tâm nhất của lý thuyết


về tính LVB. Tác giả khẳng định vai trị của tư duy LVB hậu hiện đại gắn chặt chẽ với lý thuyết của
việc đọc, chính tư duy này đã dẫn đến “sự cáo chung của chủ thuyết cấu trúc luận” vì “LVB đã phá vỡ
những hàng rào của cấu trúc để kéo dài biên cương của ngôn ngữ đến vô tận.”. Người viết đã có
những luận giải để cho thấy LVB chính là đặc trưng quan trọng nhất của chủ nghĩa hậu hiện đại.

Nguyễn Hưng Quốc trong các bài viết Văn bản và Liên văn bản (2005), Mấy vấn đề phê bình
và lí thuyết văn học (2007) cho rằng, nếu VB là một phát hiện quan trọng nửa đầu thế kỉ XX thì LVB
là một phát hiện quan trọng ở nửa sau thế kỉ XX. Tác giả đã phân tích chi tiết những luận điểm chính
làm nên nội hàm khái niệm LVB theo quan niệm của Kristéva: “VB không được hình thành từ những
ý đồ sáng tác riêng tây của người cầm bút mà chủ yếu là từ những VB khác đã hiện hữu trước đó: mỗi
VB là một sự hốn vị của các VB, nơi lời nói từ các VB khác gặp gỡ nhau, tan loãng vào nhau và
trung hịa sắc độ của nhau. Nói cách khác, khơng có VB nào thực sự cơ lập, một mình một cõi, như
một sáng tạo tuyệt đối: VB nào cũng chịu sự tác động của VB văn hóa (culturaltext), cũng chứa đựng
ít nhiều những cấu trúc ý thức hệ và quyền lực thể hiện qua các hình thức diễn ngơn khác nhau trong
xã hội” [102]
Nguyễn Nam (Viện Harvard-Yenching) quan tâm đến việc nghiên cứu LVB ở Mỹ và Trung
Quốc, tác giả nhận định: “Với LVB, cả người viết lẫn người đọc đều là những nhân tố thao tác giữa
những mạng VB, liên tưởng, chọn lựa, phối kết, và sáng tạo ra những VB mới của mình. Trong phê
bình, nghiên cứu văn học, chủ thể người đọc được chú trọng vì đây chính là nơi sản sinh ra những
cách đọc mới cho VB, làm phong phú thêm hàm nghĩa của nó, khiến cho sức sống của tác phẩm
không bị cạn kiệt mà luôn được sáng tân.” [87]. Như vậy, Nguyễn Nam cũng chú ý đến vai trò của
người đọc – người đồng sáng tạo VB. Luận điểm này tuy khơng mới, nhưng nó tiếp tục góp phần
khẳng định vị trí của lý luận phê bình hậu hiện đại trong nghiên cứu văn học Việt Nam hiện nay. Năm
2009, nhận lời mời của Khoa văn học Đại học KHXH & NV TP Hồ Chí Minh, TS Nguyễn Nam đã có
buổi thuyết trình về “Lý thuyết LVB trong nghiên cứu văn học và Hán Nôm” tại Khoa vào 14h ngày
24.4.2009. Tại buổi thuyết trình, Nguyễn Nam trình bày những cơng trình đã cơng bố của diễn giả liên
quan đến vấn đề LVB, cung cấp một cái nhìn tổng quan về vấn đề LVB - một vấn đề đang nhận được
sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu Văn học trong và ngoài nước hiện nay. Nguyễn Nam thể
hiện một quan niệm khá “uyển chuyển” về VB và LVB: tất cả VB đều là LVB, điều quan trọng là mỗi
người đọc phải tự thiết lập cho mình một mạng lưới LVB (rộng hơn là "liên văn hóa") riêng để tự tìm
ra cho mình một phương án lý giải tác phẩm. Tất nhiên, điều đó phụ thuộc vào “phơng văn hóa” của
mỗi người, khả năng ứng dụng nó để phân tích ra các tầng bậc ngữ nghĩa khác nhau trong tác phẩm
nghệ thuật. Thực chất, LVB là một khái niệm, cho phép nhận ra mối quan hệ phức hợp giữa một văn
bản với những VB khác. Theo hướng này, cả người viết lẫn người đọc đều được xem như những nhân
tố thao tác giữa những mạng VB, liên tưởng, chọn lựa, phối kết, và sáng tạo ra những VB mới của

mình. Trong phê bình, nghiên cứu văn học, chủ thể người đọc được chútrọng vì chính đây là nơi
sản sinh ra những cách đọc mới cho VB, làm phong phú thêm hàm nghĩa của nó, khiến cho sức sống


của tác phẩm không giới hạn mà luôn được mở rộng đa chiều. Những bài viết tiêu biểu của Nguyễn
Nam: Cái bóng và những khoảng trống trong văn chương (Đọc Chuyện người con gái Nam Xương)
(Nghiên cứu văn học, số 4/2004), Từ Chùa Đàn đến Mê Thảo, Liên văn bản trong văn chương và điện
ảnh (Nghiên cứu văn học, số 12/2006), Người đọc am tường, liên tưởng mở rộng, điểm qua mấy
hướng tiếp cận Liên văn bản ở nước ngoài (Tạp chí Đại học Sài Gịn, số chun đề 2011), Sự thực
tuyệt đối trong tự sự: Tiếp nhận và cải biên Rashõmon ở Việt Nam (Nghiên cứu văn học số 8/2012).
Trương Đăng Dung xuất phát từ cái nhìn hệ thống về ngôn ngữ học và triết học ngôn ngữ, tác
giả đã đề cập đến một vài khía cạnh và nguồn gốc của lí thuyết LVB. Tiêu biểu có các cơng trình
nghiên cứu như Tác phẩm văn học như là quá trình, Khoa học văn học hiện đại – hậu hiện đại, Tri
thức và ngôn ngữ trong tinh thần hậu hiện đại,… Theo ơng, “nói tác phẩm văn học như là quá trình
tức là thừa nhận những yếu tố LVB trong quá trình tiếp nhận và cắt nghĩa một tác phẩm văn học.” [27,
tr.16] “lí luận văn học hậu hiện đại đã khám phá ra quá trình tạo lập đời sống của VB văn học trong
quan hệ với sự tiếp nhận của người đọc.” [27, tr.17]. Người viết đã cho thấy cái nhìn mới về bản chất
của ngơn ngữ của triết học ngôn ngữ từ M. Heidegger đến H. G. Gadamer. Qua cơng trình, tác giả đã
cho thấy việc tiếp nhận, diễn giải VB, tất yếu phải đặt VB vào không gian LVB, nơi đó nghĩa “khơng
ổn định mà thường xun thay đổi” [32, tr.10], nơi mà “nghĩa được xác định không phải qua cái hệ
thống sức mạnh cá nhân, nhưng lại có hiệu lực thơng qua những hoạt động sử dụng kí hiệu cá nhân.”.
Những phân tích của Trương Đăng Dung hướng đến việc nghiên cứu vấn đề tính LVB như một sự đọc.
Đây có thể xem là một sự gợi ý cho việc nghiên cứu sâu hơn ở những cơng trình tiếp theo.
Trịnh Bá Đĩnh là một trong những nhà lí luận có nhiều nghiên cứu về lý thuyết tính LVB.
Trong bài nghiên cứu Nguyên lí đối thoại của Bakhtin tronghệ hình lí luận đương đại, tác giả đã “diễn
giải tư tưởng đối thoại của M.Bakhtin và bối cảnh của nó trong bối cảnh lí luận đương đại” [44]. Từ sự
lí giải cách hiểu đúng về thuật ngữ đối thoại theo quan niệm của Bakhtin, Trịnh Bá Đĩnh đã chỉ ra
những phạm vi mà đối thoại thực hiện và dấu hiệu nhận biết của nó: trong ngơn ngữ là “lời kẻ khác”,
trong văn học là tiểu thuyết phức điệu, trong văn hóa thì văn hóa như là giao tiếp. Những nội dung trên
khi được đặt vào trong hệ hình mới đã gắn liền với tính LVB (tên gọi này do Kristéva đề xuất dựa trên

nguyên lí đối thoại của Bakhtin) và lí thuyết Thơng diễn học (hermeneutics). Bài nghiên cứu cung cấp
những tri thức khoa học mang tính khái quát nhất về Tính đối thoại – là cơ sở để tìm hiểu tính LVB.
Trong một bài nghiên cứu khác Về các kiểu quan hệ Liên văn bản (Hay là “nghiên cứu văn học ở cấp
độ 2”), Trịnh Bá Đĩnh đã vạch ra hướng tiếp cận lý thuyết về tính LVB từ cơng trình Palimpsetste của
Genette. Cơng trình đã chỉ ra năm kiểu quan hệ LVB (theo quan niệm của Genette) và cụ thể hóa cách
hiểu lý thuyết này bằng những dẫn chứng lấy từ thực tiễn văn học Việt Nam. Cơng trình đã vạch ra
hướng thực hành tiếp cận lý thuyết LVB vào trong nghiên cứu văn chương. Trong một cơng trình
nghiên cứu dài hơi khác “Liên văn bản: Lí luận và thực tiễn văn học Việt Nam”, một cơng trình do
Trịnh Bá Đĩnh chủ biên (do quỹ Nafosted tài trợ), tính LVB đã được nghiên cứu một cách có hệ thống
và mang tính khoa học trong lý luận phê bình văn học Việt Nam đương đại. Cơng trình đi từ bình diện


×