Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

TÍNH dân tộc TRONG bài THƠ VIỆT bắc của tố hữu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.45 KB, 16 trang )

TÍNH DÂN TỘC TRONG BÀI THƠ VIỆT BẮC CỦA TỐ HỮU

MỞ ĐẦU
Một thống tìm tới bài ca dao xưa cũ khiến tơi nhớ về câu chuyện của văn chương nghệ
thuật:
“Có hát thì hát cho bổng, cho cao, cho gió lọt vào
cho chúng chị nghe;
Chị cịn ngồi võng ngọn tre
Gió đưa kĩu kịt chẳng nghe tiếng gì.”
Đọc mấy dịng thơ trên, ta thấy bận bịu trong lòng bởi cái sức sống văn thơ thấp bé chưa tới nổi
với quần chúng, tấm gương văn thơ mờ ảo đến độ nhân dân chẳng thể soi nổi bộ mặt dân tộc
mình, nhiều bài thơ tiếng hát quá thấp, quần chúng “ngồi võng ngọn tre”, gió thổi lộng trời
nhưng khơng nghe thấy. Cha đẻ của những áng văn thơ ấy đã gây thất vọng thật nhiều khi mải
miết đem ngòi bút lao vào vòng quay ngoại hóa, vào cuộc sống cơng nghiệp hiện đại, trốn chạy
khỏi miền đất cộng đồng. Nhưng hơn hết ta phải lạc quan, tin tưởng vào những nhà ngơn từ chân
chính “đắm mình trong dân tộc của mình”, “tự muốn mình là tiếng nói của dân tộc mình” như
Tố Hữu. Và phấn khởi chào đón thi nhân đưa khúc hùng ca “Việt Bắc” “bắt nguồn trở lại vào
hồn thơ cổ điển của dân tộc”.
NỘI DUNG
1. Tính dân tộc trong văn học
Trước khi đi vào tìm hiểu tính dân tộc trong văn học, ta cần cắt nghĩa khái niệm trừu
tượng những vô cùng thiêng liêng “dân tộc”. Theo nghĩa thông thường, dân tộc là một cộng
đồng người có chung ngơn, lịch sử - nguồn gốc, đời sống văn hoá và ý thức tự giác dân tộc. Hiểu
rộng ra, khái niệm dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người cùng sinh sống trong một quốc gia,
một nước. Hai cách hiểu nêu trên tuy là hai vấn đề khơng giống nhau, nhưng có liên quan mật
thiết với nhau. Bởi khi nói đến dân tộc Việt Nam, ta không thể kể đến 54 dân tộc đang sinh sống
trên khắp dải dài chữ S và ngược lại, khi nói đến các dân tộc ở Việt Nam, ta không thể không
bàn tới cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Vấn đề tính dân tộc đã có lịch sử nghiên cứu từ lâu nhưng vẫn luôn là đề tài hấp dẫn và
mới mẻ. Tính dân tộc là phẩm chất tư tưởng – thẩm mĩ độc đáo của sáng tác văn học, thể hiện sự
gắn bó giữa tác phẩm văn học với văn hóa và tinh thần dân tộc. Mỗi dân tộc trên thế giới đều có


cuộc sống, cách cảm thụ thế giới và hệ giá trị riêng do truyền thống văn hóa, phong tục tập qn,
tâm lí và ngơn ngữ tạo thành. Sự biểu hiện tập trung các phương diện ấy vào nội dung và hình
thức của tác phẩm làm thành tính dân tộc của văn học.


Văn học là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Người nghệ sĩ ngôn từ dù định
viết thế nào, viết cho ai hay để làm gì cũng khơng qn chấm ngịi bút của mình vào nghiên mực
cuộc sống. Suy cho cùng chất liệu của văn học vẫn xuất phát từ cội nguồn văn hóa dân tộc. Theo
Bêlinxki: “Nếu việc mơ tả cuộc sống là chân thật thì cũng có tính dân tộc”. Hơn nữa văn nghệ
tuy là sản phẩm tinh thần của cá nhân người sáng tạo nhưng không thể phủ nhận cá nhân người
nghệ sĩ sinh trưởng trong một cộng đồng dân tộc nhất định, mang bản tính, cốt cách riêng của
cộng đồng dân tộc đó. Vậy nên tính dân tộc là một điều thường tại của văn học, là “một thuộc
tính tất yếu trong việc sáng tạo, và thuộc tính này khơng địi hỏi một sự nỗ lực nào ở nhà sáng
tạo cả”.
Trong sáng tác văn chương, tính dân tộc hiện diện ở mọi khía cạnh từ nội dung đến hình
thức. Về nội dung, tính dân tộc thể hiện ở cảnh sắc thiên nhiên, nhịp điệu đời sống. Nội dung căn
bản của tính dân tộc là ở tinh thần dân tộc, “tính cách dân tộc và cái nhìn dân tộc đối với cuộc
đời”. Tính cách dân tộc ấy là những nét đẹp ẩn chứa trong tâm hồn mỗi người lặp đi lặp lại tạo
thành bộ mặt tinh thần của dân tộc nay xuyên thấm trong từng hình tượng, nhân vật văn chương.
Đặc biệt tính dân tộc cịn in đậm trong các hình thức nghệ thuật. Mỗi nền văn học dân tộc lại có
một hệ thống thể loại, phương tiện ngôn từ rất được ưa chuộng, thể hiện được bản sắc riêng
trong tư duy và tâm hồn dân tộc mình, đã trở thành truyền thống và được trọng dùng trong bao
sáng tác văn thơ sau này.
Nhìn về tiến trình phát triển của văn học dân tộc, ta nhận thấy tính dân tộc của văn học
Việt đã có từ thời văn học trung đại nhưng còn chưa tự giác. Phải đến đầu thế kỉ XX trở đi, cùng
với sự mở rộng và giao lưu, ý thức dân tộc ngày càng được mài sắc, tính dân tộc của văn học lúc
bây giờ mới được biểu hiện rõ nét và phong phú.
Nhà văn Nga A. Tôn xtôi đã từng khẳng định: "Nghệ thuật dân tộc là nghệ thuật mang
mùi hương đất đai, trong tiếng mẹ đẻ mỗi từ dường như có hai lần ý nghĩa nghệ thuật… ". Thật
vậy ẩn sau cái bóng của nhà cầm bút là hình bóng của chính dân tộc mình. Tính dân tộc đã trở

thành một dấu ấn độc đáo, riêng biệt, không lặp lại của văn học dân tộc này so với văn học dân
tộc khác, đồng thời góp phần là phong phú hơn kho tàng văn học nhân loại.

2. Tính dân tộc trong phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu
Tố Hữu được xem như cánh chim đầu đàn của thơ ca cách mạng Việt Nam, một “nhà thơ
cách mệnh có tài”, một “nhà thơ của tương lai”. Các chặng đường thơ của người nghệ sĩ luôn
song hành với các chặng đường đấu tranh cách mạng đầy gian khổ, hi sinh nhưng cũng nhiều
vinh quang, thắng lợi của dân tộc. Điều ấy khiến thơ Tố Hữu mang tính biên niên sử với nội
dung trữ tình chính trị, giàu khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Những lẽ sống lớn,
tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người cách mạng trong nhà thi sĩ được thổi vào thơ qua cái
giọng “hờn dịu ngọt” của người Huế đầy tâm tình, thương mến. Cây bút cách mạng ấy đã kế
thừa thật xuất sắc truyền thống của thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ ca dân gian và thơ ca cổ điển.


Theo giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh “Sức hấp dẫn mạnh nhất của thơ Tố Hữu đối với quần
chúng đông đảo là tính dân tộc, tính truyền thống đậm đà và nhuần nhuyễn”. Những “cánh lửa”
của đời sống cách mạng, những tình cảm chính trị, đạo lí cách mạng qua sự cảm nhận và thể
hiện của Tố Hữu đã gắn bó, hịa nhập vào truyền thống tinh thần, tình cảm và đạo lí của dân tộc,
đồng thời góp thêm tiếng ca đa dạng hơn cho truyền thống ấy. Ông cũng mượn lớp áo của thơ ca
truyền thống, mượn thể lục bát hay song thất lục bát quen thuộc để làm bùng lên “những vần thơ
tươi xanh”, “những vần thơ lửa cháy”. Đọc thơ ông, người ta dễ dàng bắt gặp lối so sánh, cách
diễn đạt yêu thích của thơ ca dân gian. Những ngơn từ bình dị, hình ảnh ước lệ tượng trưng đã
thân thuộc từ lâu, tất cả được tấu lên trong âm điệu ngọt ngào, trầm bổng nhịp nhàng nhờ hịa
thanh, phối vần dễ ngâm, dễ thuộc.
3. Tính dân tộc trong bài thơ “Việt Bắc”
3.1. Giới thuyết chung về bài thơ “Việt Bắc”
“Việt Bắc” là một trong những đỉnh cao thơ Tố Hữu và là một trong những bài thơ xuất
sắc thời kháng chiến chống Pháp. Khúc hùng ca và tình ca “Việt Bắc” tiêu biểu cho phong cách
thơ Tố Hữu, đặc biệt thấm đẫm “linh hồn dân tộc” trong cả nội dung và hình thức nghệ thuật.
Bài thơ ra đời trong hồn cảnh “khơng viết khơng được” trước cuộc chia tay của người cán bộ

chiến sĩ với đồng bào Việt Bắc sau chín năm gắn bó. Tố Hữu mượn bài thơ để biểu lộ tình nghĩa
đối với quê hương cách mạng, đối với kháng chiến để mọi người trong niềm vui của cuộc sống
hịa bình, niềm tin về ngày mai tươi sáng vẫn luôn ý thức được nguồn gốc thắng lợi, nhớ về cái
nôi cách mạng với đoạn đường gian khổ nhưng nghĩa tình.
3.2. “Việt Bắc” chứa đựng nội dung thấm đẫm tính dân tộc
Chính Tố Hữu từng nhận xét: “Thơ là tấm gương của tâm hồn”. Nhìn lại chặng đường thơ
của Tố Hữu, người ta thấy thơ ông là tấm gương phản ánh tâm hồn của một người chiến sĩ trung
thành với lí tưởng của Đảng, sẵn sàng phấn đấu, hi sinh vì dân tộc. Cái tơi của Tố Hữu là cái tôi
nhân danh Đảng, cộng đồng. Vì lẽ đó ta dễ dàng nhận thấy cả một tâm hồn dân tộc trong thơ
ơng. Và Việt Bắc chính là một “tác phẩm sinh động mà nhân dân ta, dân tộc ta nhìn vào có thể tự
soi gương thấy được hình ảnh chân thật của mình”. Trên phương diện nội dung, Tố Hữu đã gửi
vào “Việt Bắc” vấn đề trọng đại của lịch sử, đặc trưng về địa lí, về tâm hồn, tính cách của con
người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.
Nhà viết sử bằng thơ đã bắt đầu thi phẩm của mình trước một sự kiện mang ý nghĩa lớn
lao của toàn dân tộc. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954, Hiệp định Giơnevơ
được kí kết, hồ bình được lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách
mạng được mở ra. Tháng 10/1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến
khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt: từ chiến tranh sang hồ
bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao băn khoăn, trăn trở về tấm lòng son sắt, thủy chung nơi
những con người đã từng được bao bọc, chở che, bao lưu luyến, nghĩa tình với những tấm lịng
từng “đồng cam cộng khổ”, “chia ngọt sẻ bùi”, những bâng khuâng thương nhớ của kẻ ở và


những bịn rịn, trống trải ở người đi đã trào ra. “Mười lăm năm” ấy đã được tái hiện lại dưới ngịi
bút thi nhân là mười lăm năm kí ức khơng chỉ của cá nhân nhà thơ mà cịn của cả dân tộc.
Những bản tình ca cách mạng, những khúc hùng ca kháng chiến đã trào về.
Đi vào phương diện lịch sử của dân tộc, vấn đề dựng nước và giữ nước là một nội dung
chủ đạo. Tố Hữu cũng gửi vào thơ mình những hiện thực kháng chiến tràn đầy tính dân tộc như
vậy trong thơ mình. Đọc những trang thơ “Việt Bắc” người ta lại nghẹn ngào trước buổi đầu
kháng chiến cịn gian khổ. Chính thi nhân đã cắt hình ảnh “miếng cơm chấm muối” ra từ trong

lịng cuộc chiến ấy. Những ngày tháng ấy, vũ khí đạn dược phục vụ chiến trận cịn thơ sơ, cũ kĩ.
Đó đâu chỉ là “áo rách, quần vá”, “tay không” đi đánh giặc… trong trang thiết bị mà lương thực
cung cấp cho kháng chiến cũng vô cùng hạn chế đã trở về trong thơ của Chính Hữu, Quang
Dũng… Nghĩ thơi mà đã thấy xót xa.
Nhớ về cuộc kháng chiến, Tố Hữu cịn gợi lại khơng khí khủng khiếp của bạo loạn từ
quân thù: “Nhớ khi giặc đến giặc lùng”. Nhà thơ không miêu tả chi tiết, cụ thể cảnh tượng quân
thù tàn phá nhưng vẫn gợi ra trong hồi tưởng độc giả những hoảng loạn, tan tác, những đau
thương, mất mát của quân và dân Việt Bắc. Nỗi ám ảnh ấy đã đi vào bao áng thơ văn của dân
tộc:
“Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng.
Từng cái lán, nó đốt đi trơ trụi,
Nó vơ hết áo quần trong túi”
(Dọn về làng – Nông Quốc Chấn)
Đi vào cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc năm 1948, Tố Hữu đã “phát triển tính
chất dân tộc trong văn hóa” bằng cách “phát triển tình u nước, chí căm thù”. Cả miền xi và
miền ngược, cán bộ chiến sĩ và đồng bào Việt Bắc đều nhận thức được mối thù chung của toàn
dân bây giờ. Ấy là mối thù với bọn thực dân Pháp, bọn phát xít Nhật, tất cả bè lũ bán nước và
cướp nước. Có thể thấy trong bất cứ thời điểm nào, với bất cứ thế lực ngoại xâm nào, nhân dân
ta đều ý thức được tinh thần dân tộc và niềm căm thù giặc sâu sắc. Niềm căm thù ấy có thể cụ
thể hóa, có thể cân sức nặng, “sờ thấy” và cảm nhận được ở trên vai.
Gợi về cuộc kháng chiến, Tố Hữu đã gợi về hình ảnh con người kháng chiến với phẩm
chất của cả cộng đồng. Dù cuộc kháng chiến cịn nhiều gian khó nhưng nhân dân ta trong cuộc
chiến vẫn mang tinh thần kiên trì, bền bỉ với ý chí quyết tâm cao độ và tinh thần lạc quan vượt
qua mọi khó khăn, gian khổ. Dân tộc ta vẫn ln tin về tính chính nghĩa của cuộc chiến đấu và
một ngày không xa đây thôi, đất nước ta sẽ sạch bóng qn thù. Vì vậy mọi người dân cùng
nhau đoàn kết, hợp sức lại; đồng bào Việt Bắc và cán bộ kháng chiến trong giá rét, đói kém vẫn
đồng cam cộng khổ, vẫn đùm bọc lẫn nhau để hướng về nhiệm vụ cao cả. Họ nhường nhau cả
miếng cơm, chia nhau từng chút một, san sẻ nhau từng đũa một để ấm bụng, để có sức khỏe tiếp
tục cuộc chiến đấu:



“Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.”
Họ cũng mang trong mình nét đẹp tâm hồn truyền thống của người Việt: lạc quan, yêu
đời. Ông cha ta từ xưa đã răn nhau rằng: “Chớ than phận khó ai ơi/ Cịn da lơng mọc cịn chồi
nảy cây”. Nay trong khói lửa chiến tranh gian truân, vất vả, người lính vẫn hồn nhiên cất tiếng
ca:
“Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.”
Người chiến sĩ vẫn tin tưởng vào một ngày mai nhất định thành cơng, thắng lợi, ý chí của
họ vẫn cao hơn những khó khăn trước mắt. Trong gian khổ ta cất tiếng ca vui, trong tối tăm ta
vẫn nhìn ra ánh sáng:
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
Chặng đường thơ của Tố Hữu luôn song hành với chặng đường đấu tranh cách mạng của
cả dân tộc. Thi nhân miêu tả dân tộc ta trong những buổi đầu kháng chiến đến khi quân đội đã
lớn mạnh, trưởng thành. Nhà thơ đã chớp lấy khí thế ra trận hào hùng của quân đội ta, tư thế
hiên ngang, tinh thần dũng cảm, ý chí mạnh mẽ, khơng gì cản phá nổi của quân và dân ta. Một
khúc hùng ca đẹp đẽ hiện về sống động trong kí ức bao người, mở ra sáng tươi trong trí óc thế hệ
mai này:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đồn
Bước chân nát đá, mn tàn lửa bay.”
Cuộc hành qn trong đêm nhưng khơng khí vẫn diễn ra khẩn trương, sơi động với ý chí
quyết chiến quyết thắng rung chuyển đất trời. Đồn qn ấy đơng đảo, hùng mạnh, nối dài trên
khắp nẻo đường Việt Bắc những tưởng là một cuộc duyệt binh lớn. Từ bộ đội đến dân cơng, ai ai
cũng hăng hái góp sức mình vào cuộc kháng chiến. Họ - những người lính cầm súng chiến đấu,

bảo vệ Tổ quốc, tiêu diệt kẻ thù. Họ - lực lượng dân cơng với tình thần quả cảm “chèn lưng cứu
pháo, lấy thân mình lấp lỗ châu mai”, “dốc Pha Đin chị gánh anh thồ”, không ngần ngại “đêm
nay ngủ ngồi rừng”. Họ có ý chí kiên cường vượt qua mọi gian khó, oai hùng, lẫm liệt như
“tam quân tì hổ”, vươn mình thành người khổng lồ để giành lấy chiến tích về cho Tổ quốc. Và


chính họ là một trong những con người làm nên huyền thoại của Việt Nam ở thế kỉ XX, là mảnh
ghép khơng thể thiếu cho bức tranh sử thi hồnh tráng của dân tộc.
Và chiến thắng vinh quang đã đến với toàn quân, toàn dân ta. Một niềm vui phơi phới
ngập tràn trên khắp cung đường Tổ quốc ta. Tố Hữu đã hịa mình trong niềm vui ấy để reo lên
khúc khải hồn ca vang dội, giịn giã, trong một ngày hội lớn của dân tộc:
“Tin vui chiến thắng trăm miền
Hịa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Quãng thời gian dài gắn bó đã làm nảy nở trong người cán bộ xiết bao tình cảm đẹp đẽ về
cảnh, về người nơi quê hương Việt Bắc. Tố Hữu từng có tâm sự thế này: “Cảnh vật và tinh thần
Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, máu thịt tôi, Việt Bắc như đã ở trong tơi”. Vì vậy thi nhân mới có
thể khám phá bức tranh thiên nhiên Việt Bắc chân thực đến vậy. Tính dân tộc của bài thơ khơng
thể nói được nó đã tăng lên nhường nào qua những khung cảnh đặc trưng của Việt Bắc, chỉ cần
đọc lên thôi đã thấy được cái mùi đất, mùi nước, mùi khí hậu nơi đây. Đến cái khắc nghiệt của
khí hậu khắc nghiệt, dữ dội, sức càn quét của “suối lũ”, sự buốt giá, âm u của “mây mù” giăng
kín, thi nhân cũng chẳng hề né tránh hay tơ sơn:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?”
Chính điều ấy đã góp phần làm nên diện mạo đặc trưng, không lẫn vào đâu được của dải
đất này. Từ khí hậu đến sản vật thiên nhiên đều mang dấu ấn riêng chỉ ở mảnh đất núi rừng, chỉ
có trên đất nước bình dị này.
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.”

“Trám bùi”, “măng mai” khơng chỉ là kí ức của một thời chiến đấu, là lương thực nuôi
sống quân và dân thời gian khó mà đó cịn là dấu hiệu nhận biết miền đất quê hương. Nào có ai
đọc câu thơ này lên mà không nghĩ ngay đến Việt Bắc, không tưởng ngay đến dân tộc mình.
Đi vào một khía cạnh rất nhỏ nhưng vơ cùng được u thích của thơ ca từ ngàn đời là
thiên nhiên cũng đủ thấy phong quang và vẻ đẹp của nó đậm đà tính dân tộc thế nào. Nay trong
bức tranh dân tộc người ta còn khám phá được tình cảm mang cốt cách dân tộc: tình u thiên
nhiên, sự hài hịa đến mức tuyệt diệu của cảnh và người của con người Việt Nam. Việt Bắc hiện
về trong nỗi nhớ thương dâng đầy theo thời gian sớm chiều, ăm ắp trong khơng gian sơng suối.
Tình yêu thiên nhiên đã mở lối cho bức tranh Việt Bắc thơ mộng, yên bình đến lạ với ánh nắng
chiều nhẹ xuống nương ngô, với vầng trăng bàng bạc nơi đầu núi, với bản làng bồng bềnh trong
sương khói. Cảnh vật hiện ra có khi chung chung là “rừng nứa, bờ tre” mà ta có thể bắt gặp ở bất


cứ đâu trên dải đất này, có khi cụ thể với những địa danh “ngịi Thia, sơng Đáy, suối Lê” in hằn
trong bản đồ địa lí của Tổ quốc. Tất cả được nhìn bằng đơi mắt của nỗi nhớ người yêu da diết,
dạt dào:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngịi Thia, sơng Đáy, suối Lê vơi đầy.”
Thiên nhiên không chỉ hiện lên với vẻ đẹp tự tại mà còn gắn với đời sống sinh hoạt, chiến
đấu của con người. Tình cảm thiết tha, vơ hạn của con người với thiên nhiên đã được ghi lại
bằng những hình ảnh thật ấm áp và tươi sáng:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hịa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”
Mối tình dân tộc với cảnh quyện hòa với người Việt Bắc. Trong nỗi nhớ cảnh luôn bịn rịn
nỗi nhớ nhung với người. Bức tranh tứ bình mở ra với màu đỏ rực cháy bùng trên phơng xanh
đại ngàn trầm tình. Gam màu nóng bật lên trên nền lạnh đã đánh bay đi cơn đơng gió rét của núi
rừng. Con người đứng trên đèo cao chiếm lĩnh núi rừng, trong tư thế làm chủ quê hương, đất
nước. Xuân đến với sắc màu trẻ trung, ấm áp, tinh khôi và dạt dào sự sống từ những đợt “mơ nở
trắng rừng”. Nổi bật trong bức tranh xuân là hình ảnh con người lao động tỉ mỉ, tài hoa, trau
chuốt, phảng phất dáng hình của những nghệ nhân nơi các làng nghề. Mùa hạ đặc trưng của Việt
Bắc hiện ra qua bức tranh sơn mài óng ả, rộn ràng từ màu vàng của phách đổ tới dàn đồng râm
ran của những chú ve. Con người chỉ có một mình trong bức tranh thơ nhưng không hề cô đơn
mà mang tới cảm giác hài hòa đến lạ lùng với cảnh vật. Cuối cùng nhà thi sĩ đã khép lại bức
tranh tứ bình bằng bức tranh mùa xuân, bức tranh của hịa bình, của ân tình thủy chung trong
tiếng hát vọng lại của đêm trăng. Cảnh đẹp thiên nhiên đất nước hùng vĩ, ngọt ngào, con người
lao động cần cù và tỉ mỉ. Hồn dân tộc từ bức tranh cứ tỏa ra ngày một đầy, nhè nhẹ đi vào tâm trí
của những đứa con đến với “Việt Bắc”.


Một điều đặc trưng nữa mà Tố Hữu không thể bỏ qua khi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc mà
rộng ra là thiên nhiên trong những năm tháng kháng chiến. Đứng ở góc nhìn lịch sử, ta nắm giữ
vị trí địa lí vơ cùng đắc địa, một trong ba yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa của dân tộc. Tố Hữu
đã nói về thực tế lịch sử đầy hào hùng, tình nghĩa giữa thiên nhiên và con người trong kháng
chiến. Một tình đồn kết, ruột thịt rất Việt Nam:
“Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lịng.”
Khơng chỉ trong bức tranh lớn về phương diện địa lí, lịch sử của đất nước một thời, tính
dân tộc nơi “Việt Bắc” cịn biểu hiện trong nét đẹp của truyền thống tinh thần, tình cảm và đạo lí

của dân tộc. Tố Hữu viết về nỗi lịng của kẻ ở người đi mà dựng lên bức chân dung tâm hồn đẹp
đẽ của con người kháng chiến. Đó là lối sống trọng tình, trọng nghĩa, là đạo lí thủy chung trước
sau như một của con người Việt Nam. Dân tộc ta vốn rất giàu tình cảm. Đó là sức mạnh giúp con
người trải bao đắng cay ngọt bùi: “Lịng nóng bỏng căm thù vẫn mát tươi tình bạn”. Những
nghĩa tình, sẻ chia, keo sơn, gắn bó trong suốt một thời kì kề vai sát cánh đã khiến “Mười lăm
năm ấy thiết tha mặn nồng”. Một mối tình cảm đậm sâu cùng bao da diết, vấn vướng đã trào ra
mãnh liệt. Dòng cảm xúc ấy bật ra trước tiên trong những tâm hồn trống trải của người ở lại.
Trong tâm trí của người dân Việt Bắc, người cán bộ kháng chiến khơng chỉ là những anh hùng,
có nhiệm vụ giải phóng dân tộc mà cịn là những người chiến hữu, là những người thân thuộc
như anh em, con cái trong một gia đình. Với họ người cán bộ có ơn đem lại “rừng thu hịa bình”,
mang n vui, trở về no ấm cho nhân dân. Đồng thời cũng có cùng nhau bao kí ức sinh tử thời
gian khó. Thế nên khi giờ phải chia xa, người ở lại một mình đối diện với khơng gian giăng mắc
nhung nhớ mà vấn vương, bịn rịn trong lịng:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.”
Để tạo sự trịn đầy cho mối tình dân tộc ấy, Tố Hữu đã để người ra đi thả vào lời thơ sau
bao niềm nhớ thương, yêu mến. Người cán bộ kháng chiến trong giờ phút chia tay lưu luyến,
ngập ngừng:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay...”
Người ở lại trong lịng người ra đi cùng chiếm một vị trí đặc biệt với tình cảm đầy trân
trọng. Tố Hữu sử dụng hàng loạt các từ láy Hán Việt để miêu tả nhiều cung bậc cảm xúc của cán


bộ ra về. Thi nhân mượn âm thanh “tha thiết” để gợi về những khắc khoải khơn ngi, bao ân
tình, trìu mến. Ơng gửi vào “bâng khng” cả nhớ nhung, luyến tiếc, cả buồn, vui lẫn lộn, chồng
lấn lên nhau. Ông cũng tỏ tâm trạng thấp thỏm, nôn nao, hồi hộp và day dứt trong lòng qua hai
tiếng “bồn chồn”. Cuối cùng nhà thi sĩ đúc kết lại đoạn tình cảm này trong cái “cầm tay” xiết

chặt. Chỉ một cái cầm tay thôi nhưng thay cho biết bao điều muốn nói. Người đi kẻ ở chẳng biết
nào gì dù có q nhiều điều để nói. Thơi đành để dấu ba chấm ngân hộ thật dài khúc tình ca cảm
động này.
Chính bởi những ân tình sâu nặng như vậy nên trong buổi chia tay, người ở lại đã dâng
trong lòng nhiều dự cảm. Lời nhắc nhở về đạo lí thủy chung của dân tộc đã xuất hiện thật đúng
lúc:
“Mình về mình có nhớ khơng
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn?”
Nhà thơ mượn hình ảnh “cây, núi, sơng, nguồn” để gợi ra hai thế giới không gian miền
xuôi, miền ngược, hai chiều thời gian quá khứ, tương lai. Nếu “cây, sông” gợi nhắc vùng đồng
bằng – nơi mà trong tương lai gần đây thôi người cán bộ kháng chiến sẽ trở về, sống giữa chốn
phồn hoa đơ hội thì “núi, nguồn” lại gắn liền với vùng núi cao, tượng trưng cho chiến khu Việt
Bắc – nơi mà trong quá khứ người lính đã từng cùng đồng bào kề vai chiến đấu. Nhà thơ băn
khoăn về lịng người ra đi: khơng biết có cịn nhớ về ân tình đã qua hay khơng và cũng nghiêm
nghị nhắc nhở đạo lí “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Lời nhắc ấy khơng chỉ
gợi ra một lần, nó dường như đã trở thành một niềm trăn trở của người ở lại:
“Mình về thành thị xa xơi
Nhà cao, cịn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đơng, cịn nhớ bản làng
Sáng đèn, cịn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”
Trước những suy tư ấy của đồng bào Việt Bắc, người cán bộ kháng chiến đã có khẳng
định chắc nịch về lòng thủy chung “trước sau như một của mình”. Tình cảm cao đẹp ấy chính là
tình cảm mang tính truyền thống, đã ăn sâu bám rễ vào cốt tủy của biết bao thế hệ người Việt
Nam cả người cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc cũng vậy. Trong tâm trí của người đi, họ
khơng bao giờ quên tấm lòng son sắt của đồng bào Việt Bắc:
“Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lịng son”
Câu thơ có sự xuất hiện của những mái nhà lá đơn sơ, mộc mạc, hình ảnh những ngọn lau
xám hắt hiu trong gió. Lời thơ đảo ngữ càng nhấn mạnh nét tiêu sơ, buồn bã của núi rừng Việt
Bắc cùng hình ảnh tương phản “hắt hiu lau xám” và “đậm đà lịng son” đã ghi tạc tình cảm sắt

son của nhân dân Việt Bắc với cán bộ kháng chiến. Trong những ngôi nhà tranh vách đất là


những tấm lịng nghĩa tình, thủy chung. Người Việt Bắc có thể nghèo về vật chất nhưng họ lại
rất giàu về tình nghĩa. Màu lau xám, cái nghèo khổ càng làm tơn lên sự thắm tình đượm nghĩa
của nhân dân với cách mạng. Và người cán bộ mai này về xuôi sẽ chẳng bao giờ quên những
kiên trung, son sắt, một lòng với Đảng, với Bác, với cách mạng, với kháng chiến.
Và đáp lại tình cảm mặn nồng của đồng bào Việt Bắc với mình, xua tan đi những thắc
mắc trong tâm trí người ở lại, người cán bộ kháng chiến cất lời thề chung thủy:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”
Kim Kiều xưa dưới trăng thề nguyền “Đinh ninh hai mặt một lời song song”. Nay người
cán bộ cũng mượn hai chữ “đinh ninh” từng xuất hiện trong lời thề đôi lứa đề khắc ghi tấm lịng
mình. Câu thơ gợi lại truyền thống đạo lí thủy chung, nghĩa tình, sống có trước có sau của người
Việt. Tố Hữu dùng từ “sau trước” còn gợi lại cả khoảng thời gian xa xăm từ quá khứ đến hiện tại
và tới cả tương lai sau này. Những năm tháng trong quá khứ đã tạo ra mối tri âm bền chắc của
hiện tại. Những sẻ chia, cùng khổ thời chiến tranh đã làm “đậm đà”, sâu sắc, thấm thía cho nghĩa
tình của hai ta. Và thời gian sau này chính là liều thuốc thử cho những “đậm đà” ấy. Nhưng
người ra đi đã khẳng định “đinh ninh” như một lời khắc ghi, đóng dấu. Ân nghĩa ấy với người ở
lại, cán bộ kháng chiến sẽ không bao giờ qn. Dù thời gian có ngày một đầy, hồn cảnh có
nhiều biến động cũng khơng thể nào xóa nhịa, lay chuyển tình cảm của người cán bộ kháng
chiến với đồng bào Việt Bắc, thậm chí chính thử thách của thời gian khiến tình cảm “ta”, “mình”
thêm đằm thắm hơn:
“Nước trơi, lịng suối chẳng trơi
Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhịa.”
“Tính dân tộc lại càng xun thấm trong việc thể hiện hình tượng và nhân vật, kể cả nhân
vật trữ tình, với những tâm hồn và tính cách dân tộc độc đáo”. Hình ảnh người anh hùng Việt
Nam bất khuất, anh hùng nhưng hiền từ, trung hậu là một trong những điểm nổi bật của cá tính

Việt Nam. Trong văn học cách mạng nói riêng và thơ ca Tố Hữu nói chung, Bác Hồ chính là
hình tượng tiêu biểu nhất cho phẩm chất anh hùng mà bình dị ấy. Hình ảnh Bác Hồ hiện lên thật
bình dị, gần gũi và thiết tha trong chất tình, chất họa, chất nhạc nơi ngịi bút Tố Hữu:
“Mình về với Bác đường xi
Thưa giùm Việt Bắc khơng ngi nhớ Người
Nhớ Ơng Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương


Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi, rừng núi trơng theo bóng Người...”
Nhà thơ Xuân Diệu cho rằng đây là một bức họa. Một bức họa vẽ theo tinh thần của hội
họa phương Đơng nhưng đầy thơ, đầy nhạc; vừa có tính trữ tình lại giàu sức gợi tả. Tố Hữu đã
gây ra niềm xúc động mạnh trước bức chân dung, tâm hồn, phong cách rất Việt Nam ở Bác –
một hình ảnh giản dị, ung dung mà thanh thoát. Thi nhân hướng tiếng gọi Bác đầy thân thương,
lời gọi Người đầy tôn kính và cách xưng Cụ thật tha thiết, ân tình, gần gũi. Tố Hữu tránh đi
những màu sắc rực rỡ, tìm về nghệ thuật dân gian để dệt lên câu chuyện thần tiên mà Bác Hồ
chính là ơng tiên trong câu chuyện đó. Ơng Tiên ấy có đơi mắt sáng ngời tựa vì sao cuối trời, có
dáng điệu hiền từ và mặc chiếc áo nâu, đeo túi vải – những trang phục rất bình dị của con người
Việt Nam, đã trở thành đặc điểm riêng dễ nhận thấy. Hình bóng Bác hiện lên trong niềm lưu
luyến chẳng muốn rời của con người kháng chiến. Bác không chỉ là người cha hiền từ mà còn là
ánh sáng, niềm tin của cả dân tộc trong những tháng ngày tăm tối nhất:
“Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi”
Đây là hình ảnh trở thành điểm quy tụ mọi suy nghĩ và tình cảm. Bác Hồ - vị lãnh tụ kính
yêu và tài ba của dân tộc, người là linh hồn và là người truyền ánh sáng cho muôn dân. Ánh sáng
tỏa ra ở người rạng rỡ đến độ bóng tối và sự u ám của qn thù khơng thể lấn át được. Ánh sáng
ấy đã cứu vớt con người khỏi ách lầm than, đã truyền cho con người lí tưởng lớn, đã thức tỉnh

con người trên con đường lớn. Trong những năm tháng mờ mịt, ta đặt trọn niềm tin vào Đảng,
vào Bác, vào cái nôi của cách mạng, để từ đấy chiến thắng tỏa đi muôn nơi. Và chân lí mn đời
ấy vẫn ln được khắc ghi trong lòng mỗi người dân Việt:
“Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng lên cộng hòa.”
Nhân dân từ đó cũng càng tin tưởng hơn, mơ ước về tương lai sáng tươi của dân tộc:
“Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng.
Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng
Phố phường như nấm như măng giữa trời.”
3.3. “Việt Bắc” mang hình thức nghệ thuật đậm đà tính dân tộc
Trong lời tựa tập thơ “Máu và hoa” (Pierre Emmanuel) có đoạn: “Nhà thi sĩ ấy tự muốn
mình là tiếng nói của dân tộc mình. Vậy thì dân tộc ấy có năng khiếu thơ thơng qua nhà thi sĩ.
Các dân tộc hiện đại, đã cơng nghiệp hóa rồi, đã bị san phẳng bởi những phương tiện tuyên


truyền, khơng cịn có một năng khiếu về hình tượng như thế nữa; khơng cịn suối nguồn ở bản
thân mình nữa. Nhưng Tố Hữu đắm mình trong dân tộc của mình, đồng thời là một thi sĩ độc
đáo, một nhà sáng tạo ra các hình thể. Người ta càng cảm thấy điều đó rõ hơn khi anh nói một
cách rất hay về thơ”. Đọc thơ Tố Hữu người ta không chỉ thấy tính dân tộc thấm đẫm trong nội
dung mà cịn đậm đà trong hình thức. Thi nhân vẫn miệt mài đưa ngịi bút của mình trở về với
ngọn nguồn dân tộc.
Nhiều nhà thơ hiện đại trong đó có Tố Hữu vẫn say mê với tiết tấu mềm mại, nhịp nhàng
và chuộng dùng thể lục bát truyền thống. Thể lục bát từ lâu đã gắn bó và trở thành “đặc sản tinh
thần” của dân tộc Việt. Người ta ước tính rằng có hơn 90% số bài ca dao sử dụng thể loại này.
Bởi nó có khả năng diễn tả thật da diết điệu tình cảm thắm thiết, sâu nặng, nỗi nhớ triền miên,
dai dẳng của chủ thể trữ tình. Vì vậy, “thể thơ lục bát có vai trị đặc biệt quan trọng và có sức
sống mạnh mẽ, lâu bền” trong thơ Tố Hữu. Ơng thậm chí đã sử dụng thể thơ này cho 30/72 tác
phẩm trong tập thơ “Một tiếng đờn”. Và trong những trang thơ “Việt Bắc” nhà thơ cũng đã vận
dụng điêu luyện sáng tạo thể thơ này, góp phần diễn tả thành cơng nghĩa tình sâu nặng của người

cán bộ kháng chiến với quê hương cách mạng và đồng bào Việt Bắc. Chắc hẳn nếu Tố Hữu thay
thế thể lục bát bằng thể thơ ngũ ngôn, thất ngơn hay thậm chí là thơ tự do thì người đọc sẽ khó
mà thấy được cái điệu ngọt ngào, đằm thắm, nhớ thương của nghĩa tình cách mạng. Nhờ sự vận
dụng nhuần nhị thể thơ lục bát mà tình cảm thiết tha của kẻ ở người đi mấy tự nhiên như thế
bước vào cõi lòng bạn đọc, khiến trái tim họ nghẹn ngào, xúc động. Lời thơ duyên dáng mang
âm hưởng ca dao dân ca đã cất cánh trên muôn nẻo đường của Tổ quốc, níu giữ trái trái tim và
ngấm sâu trong tâm khảm bao thế hệ người đọc:
“Ta với mình, mình với ta
Lịng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...”
Tố Hữu đã xây dựng kết cấu rất đặc biệt cho bài thơ “Việt Bắc”. Thi nhân mượn kết cấu
đối đáp quen thuộc trong ca dao giao duyên:
“Mình về ta chẳng cho về
Ta níu vạt áo ta đề câu thơ.”
Đối đáp giao duyên là một nét đẹp văn hóa độc đáo của người Việt. Kết cấu độc đáo ấy
giúp nhân vật trữ tình có thể vừa kể lể sự việc vừa bộc lộ được tình cảm dạt dào, vơ hạn của
mình với “đối phương” qua lời hát đầy tính nghệ thuật. Tố Hữu đã vận dụng đắc địa kiểu kết cấu
ấy khi viết về một đề tài không mới là cuộc chia ly nhưng để ghi lại một sự kiện lịch sử vừa mới
diễn ra. Không phải là cuộc chia tay chàng – nàng, anh – em, cá nhân chia tay với cá nhân mà là
của tập thể với tập thể, của chiến sĩ ra về với nhân dân ở lại. Lời thơ vì thế đọc lên ngỡ như lời
của đôi trai gái lúc xa nhau. Mối quan hệ của cán bộ kháng chiến và đồng bào Việt Bắc hiện lên


sao mà khăng khít, bền chặt đến lạ lùng. Bao kỉ niệm, bao lời ướm hỏi, thề thốt vì thế cứ tn
trào mãnh liệt:
“- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?”
“Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...”

Khơng phải ngẫu nhiên Tố Hữu được gọi là nhà thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn. Cũng
khơng phải ngẫu nhiên phong cách đậm nét của thơ ơng lại là tính dân tộc đậm đà từ vỏ ngoài”
đến “lõi trong”. Bên ngồi xây dựng hình thức đối đáp nhưng bên trong thực chất là lời độc
thoại. Lời đối đáp ấy không chỉ là sự ướm hỏi mà để bày tỏ tình cảm, tạo ra âm thanh mang tính
điệp trùng cộng hưởng, đồng vọng không dứt, âm vang của thời đại. Từ lời đối đáp mang âm
hưởng dân tộc ấy, nghĩa tình cứ trào ra, nỗi nhớ cứ ùa về ăm ắp.
Ngôn ngữ được coi là yếu tố thứ nhất của văn học. Vì vậy sẽ thật thiếu xót nếu chúng ta
qn đi vào khai thác biểu hiện của tính dân tộc ở khía cạnh này. Trong “Mười tám điều tự răn
về cơng tác viết văn”, đồng chí Trường Chính đã nhấn mạnh: “Dân tộc hóa:
1. Khơng được dùng một chữ nước ngồi nếu khơng cần thiết.
2. Khơng viết một câu theo cách đặt câu nước ngoài”.
Người con của cách mạng, của dân tộc ln tự khắc ghi trong đầu mình những điều quan
trọng ấy. Thi nhân yêu tha thiết tiếng nói tâm tình của dân tộc mình để từ đó đưa vào thơ ca
những ngôn từ thuần Việt, gần gũi, giản dị, dễ nhớ, dễ thuộc. Rời xa thứ ngôn ngữ xồng, bóng
bẩy, Tây Tàu, lối nói trang trọng dùng những điển tích, điển cố, Tố Hữu tìm về đời sống của
nhân dân, hịa mình vào lời ăn, tiếng nói của họ. Ơng chân thật trong cách sử dụng ngơn ngữ với
những: “sắn lùi”, “chăn sui” …
Thi nhân đã vận dụng thật nhuần nhuyễn và sáng tạo cặp đại từ xưng hơ “ta – mình” ngọt
ngào hương vị ca dao nghe thân mật, gần gũi đến lạ kì:
“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.”
Cách xưng hơ “mình – ta” gợi ta nhớ tới những khúc hát yêu thương tình nghĩa của con
người Việt Nam từ thuở xa xưa. Đặc biệt cách xưng hô ấy thường xun xuất hiện trong lời tâm
tình đơi lứa u nhau, trong mối quan hệ vợ chồng keo sơn, bền chặt:
“Mình nói với ta mình hãy cịn son
Ta đi qua ngõ thấy con mình bị
Con mình những trấu cùng tro
Ta đi xách nước rửa cho con mình.”



Hay:
“Mình về mình bỏ ta đây
Như con tơ rối gỡ ngày nào xong.”
Trong suốt toàn bộ tác phẩm, cặp đại từ “mình – ta” được sử dụng vơ cùng linh hoạt. Có
lúc “mình” là người đi, “ta” là kẻ ở trong lời hỏi của người ở lại “Mình về mình có nhớ ta”. Có
khi “ta” lại là người đi, cịn “mình” là kẻ ở trong lời đáp của người ra đi “Ta về mình có nhớ ta”.
Và thậm chí “ta” và “mình” gắn bó đến mức hịa là một giống như lời ca: “Mình với ta tuy hai
mà một/ Ta với mình tuy một mà hai”. Câu thơ “Mình đi mình có nhớ mình” cứ thế dâng đầy
những nghĩa tình, những keo sơn, bền chặt.
Tố Hữu đã mượn những yêu thương, nồng thắm trong hai chữ “mình – ta” để gửi vào
cuộc chia tay giữa những con người đã từng kề vai sát cánh, đồng cam cộng khổ. Cuộc chia tay
vì thế cứ đầy ắp những bịn rịn, vấn vương. Lời hỏi đáp buông ra như những lời thủ thỉ, tâm tình,
vỗ vào lịng độc giả. Những lời dặn dị vừa riêng tư lại vừa đậm đà sắc thái dân tộc. Tình cảm
trong bài thơ vì thế càng lớn lao, cao đẹp, mang tính phổ quát của cả một cộng đồng. Đó là tình
cảm giai cấp, tình cảm vùng miền, tình nghĩa đồng bào và bao trùm hơn cả là tình u máu thịt
với đất nước mình.
Có lần, đồng chí Phạm Văn Đồng ngợi ca: “Tiếng ta thật là hay và đẹp, dù để diễn tả ý và
tình, màu sắc và hình ảnh, lại có thể dùng ít chữ để gợi lên nhiều ý”. Nhà văn hay là nhà văn biết
khai thác nguồn chất liệu quý báu ấy. Tố Hữu chính là một nhà thơ như thế. Tính dân tộc trong
ngơn ngữ thơ ơng khơng cịn thể hiện ở những tiềm năng và biện pháp tu từ. Đó là khi thi nhân
sáng tạo ngôn từ trên cơ sở tục ngữ, ca dao, mượn cách nói ẩn ý, hình tượng đặc trưng của kho
tàng văn học dân gian.
Lấy ý từ câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”, nhà thơ đã khéo léo truyền tải lối sống ân
nghĩa, thủy chung của dân tộc:
“Mình về mình có nhớ khơng
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn?”
Cũng có khi là lối so sánh ví von của câu ca cổ:
“Qua đình ngả nón trơng đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.”
Ca dao thường chọn cấu trúc so sánh tương đối đơn giản: “như”, “bao nhiêu - bấy nhiêu”

để dễ dàng ứng tác nhanh chóng trong các tình huống xướng hoạ. Tố Hữu cũng mượn lối so sánh
này để bày tỏ nỗi nhớ, tình cảm dạt dào trong lòng người đi kẻ ở, mối quan hệ gắn bó bền chặt
của đơi ta:
“Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu.”


Đi hết thế giới ngôn ngữ, ta tiếp tục khai phá hệ thống hình ảnh thơ quen thuộc, gần gũi
với cuộc sống sinh hoạt, chiến đấu của dân tộc ta. Thi nhân đã sử dụng “bút pháp quần chúng
trong hình ảnh” để làm sống lại những kí ức, những biểu tượng thân thương của một thời.
Những hình ảnh bình dị đến độ tưởng như chẳng có gì để nói như: trám bùi, măng mai, lau xám,
mây mù… nơi núi rừng Việt Bắc đến người mẹ cháy lưng, bếp lửa sớm khuya… đều bước vào
thơ Tố Hữu. Người ta dễ dàng bắt gặp thế giới hình ảnh ấy trong cuộc sống hằng ngày nhưng Tố
Hữu đã thật tài tình khi gợi lại ở đó bao niềm xúc động về một thời gian khó nhưng tình nghĩa
của đồng bào Việt Bắc nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.
Theo Chế Lan Viên phong cách dân tộc ở Tố Hữu còn thể hiện ở chỗ “thơ anh giàu chất
nhạc, anh nắm rất vững cái âm điệu, vần điệu của dân tộc”. Thi nhân đã vận dụng một cách tài
tình âm điệu của tiếng Việt. Ơng khơng chỉ làm cho “Thi trung hữu họa” mà còn khiến “Thi
trung hữu nhạc” – một nhạc điệu mang tâm hồn dân tộc. Với “Việt Bắc”, Tố Hữu đã xây dựng
hệ thống từ láy, điệp từ giàu tính nhạc như “rầm rập”, “điệp điệp”, “trùng trùng”, … hay “nhớ”,
“vui”, … trải dài trên muôn nơi, mọi nẻo. Nhịp điệu dân tộc trong thơ còn được tạo ra từ những
câu lục bát rất chuẩn về thanh luật. Những nhịp của cảm xúc, của kỉ niệm cứ thể ngân lên đều
đặn, tha thiết. Có khi là nhịp 2/2/2/2, có khi là nhịp 4/4. Giọng điệu ấy hòa cùng nghệ thuật tiểu
đối được sử dụng với tần số cao không chỉ có khả năng biểu đạt rất xúc động nỗi lịng sâu kín
bồi hồi của người đi kẻ ở mà còn tạo ra sự tương xứng về cấu trúc và sự kết hợp nhịp nhàng của
ngôn từ:
“Mưa nguồn suối lũ / những mây cùng mù”
“Miếng cơm / mối thù”
“Trám / măng”
Tố Hữu đã tạo nên một âm điệu riêng ngọt ngào, tha thiết, mượt mà, uyển chuyển và

thắm đượm ân tình. Nhờ cách hài thanh, gieo vần, thi nhân đã tạo nên thứ ngôn ngữ thơ giàu
nhạc điệu dân tộc. Và mượn chính âm điệu ấy chuyên chở cả tâm hồn dân tộc, làm rung động
con tim và khối óc của biết bao người mê văn học Việt.
KẾT LUẬN
Tố Hữu yêu nhân dân, đất nước mình như người đàn bà mình u. Ơng hịa nhịp đập của
trái tim, thả cảm xúc của tâm hồn, để mạch đập phồng phồng với hiện thực cuộc sống. Hồn của
ông đã ngấm sâu vào điệu hồn dân tộc. Ông là con chim đứng trên ngọn núi thơ mà hát khúc
hùng ca về lịch sử của Tổ quốc mình, tấu bản tình ca về mối tình dân tộc mình. Người ta đọc thơ
Tố Hữu mà thấy linh hồn dân tộc ngấm sâu từ nội dung đến hình thức. Tố Hữu đã làm trịn
“trách nhiệm của nhà thơ là thể hiện rõ bản sắc của dân tộc mình trước thế giới.” Ơng khơng chỉ
gợi về kí ức với người xưa mà còn gửi tới hậu thế mai sau cảnh sắc thiên nhiên đất nước mình,
tên đất tên miền mang hồn thiêng dân tộc, lịch sử hào hùng của một thời gian khó hay những
phẩm chất tính cách của con người Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam dù đi đâu trong thế giới
này, mỗi lần đọc thơ Tố Hữu là một lần thấy bồi hồi, da diết, thấy tự hào, xúc động, thấy Tổ


quốc sao giàu mà đẹp thế, thấy con người sao hồn hậu, đáng yêu đến vậy. Mỗi vần thơ phảng
phất linh hồn dân tộc, mỗi vần thơ là một lời khẳng định mạnh mẽ cái bản sắc Việt Nam trước
bạn bè quốc tế. Yêu và đọc thơ Tố Hữu hay rộng ra yêu văn thơ chuyên chở điệu hồn dân là một
cách để quay về ngọn nguồn dân tộc.
Nhà văn hiện thực người Nga Gơgơn từng nói: “Nhà thơ có thể là nhà thơ dân tộc ngay cả
khi ông miêu tả một thế giới hồn tồn xa lạ, nhưng nhìn nó bằng con mắt của sinh hoạt dân tộc,
bằng con mắt của nhân dân mình, khi ơng ta cảm xúc và phát biểu thì những đồng bào của ơng ta
tưởng như chính họ đang cảm xúc và phát biểu”. Đó chính yêu cầu cao cả nhưng hết sức nặng nề
đối với người nghệ sĩ chân chính. Anh phải làm sao để giữa cái giao lưu trong bối cảnh toàn cầu,
anh vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc. Bản thân anh đã ngấm máu mình trong lịng dân tộc
nhưng để nói hay, nói đúng, nói một cách thần tình thì địi hỏi một cái tâm lớn và một cái tài lớn.
Hãy nhớ rằng biểu hiện phong phú của tính dân tộc trong sáng tác là một con đường làm cho văn
học dân tộc giữ được sức hấp dẫn đối với thế giới.




×