Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

Giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh theo hướng tiếp cận năng lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.4 KB, 72 trang )

Phần I: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong xã hội hiện đại, KNGT là một trong những thành tố quan trọng
hình thành nên nhân cách con người. Con người cần phải có KNGT để mỗi cuộc
giao tiếp đạt hiệu quả, đúng mục đích và khơng gây hiểu lầm. KNGT vừa mang
tính xã hội, vừa mang tính cá nhân sâu sắc. Vì thế, phải là nền tảng vững chắc và
trang bị cho các em KNGT trở thành vốn sống trong học tập và cuộc sống.
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học giáo dục đi trước, giáo dục KNGT
là một hoạt động có tính mục đích rõ ràng được xây dựng kế hoạch kĩ lưỡng,
bao gồm chương trình được quy định cụ thể, trong đó GV sẽ đóng vai trò chủ
đạo để định hướng các hoạt động giáo dục rèn luyện kĩ năng giao tiếp, HS đóng
vai trị trung tâm của hoạt động giáo dục KNGT, học tập và thực hành các
KNGT nhằm đáp ứng mục đích và yêu cầu của giáo dục KNGT đặt ra.
Tiểu học là bậc học đầu tiên, là nền tảng của hệ thống GDPT. Chính bậc
học nền móng này sẽ góp phần quan trọng hình thành nên nhân cách con người.
Độ tuổi 6 – 10 là độ tuổi của HS Tiểu học. Giai đoạn này, trẻ em rất nhạy cảm
và luôn chịu sự tác động của ngoại cảnh khiếm tâm sinh lí có nhiều biến động.
Chính điều đó sẽ góp phần tạo nên tính cách của các em. Nếu như nhận được sự
quan tâm, định hướng và hỗ trợ kịp thời, những hạt mầm nhân cách tốt đẹp sẽ
được gieo vào nhận thức của từng em. Bởi vậy, ngay tại nhà trường tiểu học, qua
các hoạt động giáo dục, trẻ em rất cần được giáo dục KNGT và thực tế là các em
đã được trau dồi kĩ năng này qua các môn học trong nhà trường, giúp các em tự
tin hơn trong giao tiếp hàng ngày, đánh thức thế mạnh của mỗi em HS bao gồm
cả khả năng tư duy và sáng tạo - những yếu tố quyết địnhtạo nên thành công của
HS trong học tập và trong đời sống.
Chính vì vậy, giáo dục KNGT ở bậc tiểu học là rất thiết. Đó là những viên
gạch đầu tiên trên hành trình xây dựng đạo đức, nhân cách cho người học.Từ
năm học 2010-2011, Bộ GDĐT đã chính thức bắt đầu đưa nội dung GDKNGT



2

lồng ghép vào một số môn học và HĐNGLL lên lớp ở bậc tiểu học. Đối với HS
tiểu học,giáo dục KNGTlà cần thiết để các em học cách nói chuyện phù hợp với
đối tượng và ngữ cảnh, học cách mạnh dạn bày tỏ suy nghĩ, quan điểm cá nhân,
đồng thời tôn trọng, tiếp thu ý kiến của người khác, đảm bảo được phương châm
lịch sự trong giao tiếp.
Trong những năm qua, vấn đề giáo dục KNGT cho HS các trường tiểu
học ở tỉnh Phú Thọ nói chung và việc giáo dục KNGT cho HS các trường tiểu
học Thị xã Phú Thọ nói riêng. Song, để đáp ứng chương trình GDPT mới, hoạt
động giáo dục KNGT ở nhiều trường vẫn còn nhiều điểm chưa hợp lí, vì lẽ đó
mà chưa đáp ứng được với những thay đổi của chương trình hiện nay.
Xuất phát từ bối cảnh thực tiễn và cơ sở lí luận như vậy như vậy, tác giả
đã lựa chọn đề tài: “Giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh theo hướng tiếp
cận năng lực” với mong muốn góp thêm một số hướng giải quyết để khắc phục
những tồn tại tronggiáo dục KNGT cho học sinh tiểu học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Các nghiên cứu trên thế giới
Nhà giáo dục người Nga J.A Comenxki (1592-1670) với những tư tưởng
giáo dục tiến bộ đã đưa ra quan điểm rằng “phải có sự kết hợp giữa giáo dục nhà
trường với hoạt động thực hành bên ngồi thơng qua hoạt động giao tiếp”. Với ý
kiến này, J.A Comenxki đã khẳng định sự quan trọng của môi trường giáo dục
đến kĩ năng giao tiếp của HS [6].
Donald Walters (2009) [7] trong các công bố kết quả nghiên cứu của
mình đã mang đến cho các nhà giáo dục, các bậc cha mẹ “tiếp xúc với một hệ
thống giáo dục nhấn mạnh đến sự kết hợp hài hòa giữa kiến thức sách vở với
những kinh nghiệm trực tiếp từ đời giao tiếp để tạo nên nghệ thuật giao tiếp cá
nhân bên cạnh việc giảng dạy các kiến thức cơ bản”. Ông đã đưa ra một ý kiến
đứng đắn đó là “thấy được tồn bộ cuộc giao tiếp là giáo dục và giáo dục không
chỉ giới hạn ở những năm tháng miệt mài trên ghế nhà trường...”.



3

Linda Maget (2008) [20] đã nghiên cứu sâu về những KNGT xã hội, giúp
trẻ em giải quyết những trở ngại trong giao tiếp, kết nối bạn bè và mở rộng các
mối quan hệ xã hội. Nghiên cứu này cũng đã giúp các bậc PHHS và HS lứa tuổi
tiểu học học được những KNGT xã hội cần thiết để ln có bạn bè và trưởng
thành trong học tập, đời sống và giao tiếp xã hội. Bà đặc biệt quan tâm tới việc
tạo lập môi trường giao tiếp để nâng cao khả năng giao tiếp cho trẻ em, giúp trẻ
có thể phát triển các mối quan hệ với bạn bè, với xã hội một cách thuận lợi hơn.
N.D. Lêvitov (1971) với cuốn Tâm lý học trẻ em và tâm lý học lao động
đã nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi tiểu học và đưa ra được những
KNGT trong đó có “kỹ năng lắng nghe, biết đặt mình vào vị trí của người khác
trong quá trình giao tiếp” [17][18].
. Đối với một số nước Đông Nam Á (Malaysia, Thái Lan) và New
Zealand, Pháp, các nhà quản lí, các nhà giáo dục cũng quan tâm xây dựng giáo
dục KNGT cho HS trong chương trình giáo dục của các nước này.
Tại Malaysia, trong chương trình dạy tiếng, người ta cho rằng "sự thành
thạo ngơn ngữ làm cho HS học tập có hiệu quả, vì vậy ngơn ngữ được coi trong
ở tiểu học. Khi học xong tiểu học HS biết sử dụng ngôn ngữ phù hợp với trình
độ phát triển của mình". Chương trình giảng dạy tiếng Thái Lan lại nhấn mạnh
"việc dạy tiếng phải trau dồi cho HS kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và khả năng
dùng ngơn ngữ....". Chương trình giáo dục của New Zealand đã tập trung giáo
dục các KNGT cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non, tiểu học để giúp trẻ tự tin vào
bản thân, khoẻ mạnh về thể chất và tâm hồn, có khả năng giao tiếp và tơn trọng
tri thức. Chương trình dạy tiếng Pháp cũng khẳng định rằng “việc nắm vững
tiếng Pháp quyết định thành quả học tập ở tiểu học và trở thành tiêu chuẩn quan
trọng để đánh giá kết quả đào tạo ở cấp tiểu học” (dẫn theo Ngô Giang Nam
(2013) [24, tr.8]).

Các nghiên cứu ở nước ngoài đã cho thấy KNGT và giáo dục KNGT cho
HS từ lâu đã được các nhà khoa học giáo dục lưu tâm, họ đã chỉ ra mối quan hệ


4

giữa sự phát triển các KNGT với các tác động giáo dục và môi trường sống của
trẻ là mối quan hệ chặt chẽ. Những nghiên cứu trên là những tiền đề quan trọng
cho việc nghiên cứu giáo dục KNGT cho HS theo các tiếp cận khác nhau để phát
triển KNGT cho HS.

2.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề giao tiếp và phát triển KNGT cho HS đã được nhiều
nhà nghiên cứu khoa học giáo dục chú trọng nghiên cứu, có thể kể đến các cơng
trình nghiên cứu của Phạm Minh Hạc (1988)[9], Nguyễn Văn Hộ (2005) [12],
Trần Trọng Thủy (1996)[30],Đặng Thành Hưng (2015)[13][14] và nhiều tác giả
khác được công bố, xuất bản và phục vụ trong đời sống giao tiếp ở nhà trường,
gia đình và xã hội đã góp phần vào việc phát triển KNGT ở người học.
HSTH miền núi để từ đó đưa ra các biện pháp phù hợp trong giáo dục
KNGT cho HSTH theo những tiếp cận khác nhau của Ngô Giang Nam (2013)
[24], Lý Thị Lan (2018) [22]; nghiên cứu giáo dục KNGT cho HS phổ thông qua
các môn học khác nhau hoặc các HĐGD ngoài giờ lên lớp của Lục Thị Nga
(2009) [25], Tất Quốc Thắng (2012) [28]. Dựa trên các nghiên cứu này, có thể
nghiên cứu sâu hoặc mở rộng, phát triển những KNGT cho HS để thích nghi với
q trình dạy học, giáo dục, tổ chức các hoạt động trải nghiệm phù hợp với điều
kiện bình thường mới và áp dụng trong giáo dục, trong đời sống xã hội.
Đặng Thành Hưng (2015) [13][14] đã chú trọng về giao tiếp và KNGT
dưới góc nhìn năng lực, tiếp cận năng lực, qua đó tìm ra bản chất của giao tiếp
và KNGT. Ơng cho rằng, về chức năng, các KNGT có nội dung và phương thức
kĩ thuật tương tự những kĩ năng nhận thức, quản lý và lãnh đạo. Bởi vì xét về

khía cạnh này, giao tiếp chính là tìm cách nhận thức đối phương và hoàn cảnh,
cố gắng quản lý những điều kiện hiện có và lãnh đạo tiến trình giao tiếp.
Trên phương diện quản lý giáo dục KNGT cho HSTH, những năm trở lại


5

đây đã có một số nhà giáo dục, tác giả quan tâm, nghiên cứu dựa trên những
cách tiếp cận khác nhau. Nguyễn Thị Thêu (2018) [29] đã tìm hiểu và đưa ra
một số biện pháp quản lý giáo dục KNGT cho HSTH thơng qua hoạt động trải
nghiệm; Hồng Trà My (2020) [23] lại tập trung và đưa ra một số biện pháp
quản lý giáo dục KNGT cho HSTH theo chương trình GDPT 2018; Nguyễn Thị
Lê Nga (2021) [25] cũng đào sâu và đưa ra được các KNGT cần giáo dục cho
HSTH theo định hướng phát triển năng lực trong bối cảnh thiên tai, đại dịch và
điều kiện bình thường mới.
Những thành quả của những cơng trình nghiên cứu đã đạt được và công
bố là cơ sở khoa học, đối với những trường hợp cụ thể ở các trường tiểu học Thị
xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ để áp dụng tốt, linh hoạt tinh thần của nội dung,
chương trình GDPT 2018.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về giáo dục KNGT cho HSTH,
đề tài đề xuất các biện pháp giáo dục KNGT cho HSTHtheo hướng tiếp cận
năng lực nhằm thực hiện tốt chương trình GDTH hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát, đánh giá thực trạng giáo dục KNGTcho HS theo tiếp cận năng
lực tại các trường tiểu học Thị xã Phú Thọ.
- Đề xuất một số biện pháp giáo dục KNGTtheo tiếp cận năng lực cho
HSTHđể thực hiện tốt chương trình GDTH hiện nay.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp giáo dục KNGT cho HSTH Thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ theo
tiếp cận năng lực.
4.2. Phạm vi nghiên cứu


6

- Về nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp giáo
dục KNGT cho HSTH theo tiếp cận năng lực .
- Về địa bàn nghiên cứu và thực nghiệm sư phạm: 5Trường Tiểu học Thị
xã Phú Thọ (Trường Tiểu học Phú Hộ 2; Trường Tiểu học Hà Lộc; Trường Tiểu
học Văn Lung; Trường Tiểu học Lê Đồng; Trường Tiểu học Trường Thịnh)
trong năm học 2020 - 2021.
5.Quan điểm, hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Quan điểm, hướng tiếp cận
5.1.1. Quan điểm hệ thống - cấu trúc
Khi nghiên cứu giáo dục KNGT cho HSTHtheo định hướng phát triển
phẩmchất, năng lực người học thì phải xem xét mối tương quan và đặt vấn đề
nghiên cứu trong sự tương tác với các yếu tố trên.
5.1.2. Quan điểm lịch sử - logic
Giáo dục KNGT cho HSTH theo định hướng phát triển phẩm chất, năng
lực người học là một q trình phức tạp và lâu dài. Do đó khi nghiên cứu đề tài
phải quan tâm, chú ý đến quá trình phát triển và đặc trưng từng giai đoạn của cá
nhân HS và tập thể HSTH.
5.1.3. Quan điểm thực tiễn
Quá trình nghiên cứu của đề tài luận văn phải đảm bảo sự kết hợp hài hịa
giữa lí luận chung với thực tiễn hoạt động giáo dục KNGT cho HSTH. Kết quả
nghiên cứu phải có tính ứng dụng cao đối với các trường tiểu học Thị xã Phú
Thọ, tỉnh Phú Thọ.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Cácphươngpháp nghiêncứulíluận
- Phương pháp phân tích lịch sử-logic để tổng quan, chọn lọc tư liệu khoa
học có liên quan đến trị chơi giáo dục, trị chơi dân gian, giáo dục kĩ năng xã
hội ở tiểu học.


7

- Phương pháp so sánh lí luận để xem xét các nguồn lí thuyết giáo dục kĩ
năng, lí thuyết trị chơi giáo dục và kinh nghiệm từ các trường.
5.2.2. Cácphươngpháp nghiêncứuthựctiễn
- Phương pháp tiếp thu kinh nghiệm giáo dục KNGT và các biện pháp
giáo dục KNGT cho HSTH theo chương trình GDTH hiện nay.
- Phương pháp kiểm tra tác động của các biện pháp giáo dục KNGTtheo
tiếp cận năng lực cho HS
5.2.3.Các phương pháp khác
- Phương pháp chuyên gia để lấy ý kiến đánh giá các biện pháp giáo dục
KNGT cho HSTH theo tiếp cận năng lực.
- Phương pháp sử dụng thống kê tốn học để xử lí số liệu, đánh giá và
trình bày kết quả nghiên cứu.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được các biện pháp giáo dục KNGT theo tiếp cận năng lực
phù hợp với thực tiễn GDTH tại Thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ thì sẽ có kết quả
tốt trong cơng tác giáo dục KNGT cho HS Thị xã Phú Thọ theo chương trình
GDTH hiện nay.
7. Đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hố được những vấn đề cơ bảncủa cơ sở lí luận về giáo dục
KNGTcho HSTH theo tiếp cận năng lực.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng giáo dục KNGT cho HS theo tiếp cận năng

lực.
- Đề xuất một số biện pháp giáo dục KNGT theo tiếp cận năng lực cho
HSTH để thực hiện tốt chương trình GDTH hiện nay.
8. Cấu trúc của luận văn
Nội dung của luận văn ngoài phần phụ lục, nội dung gồm 3 chương.


8

CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀGIÁO DỤC KĨ NĂNG GIAO TIẾP
CHOHỌCSINH THEO TIẾP CẬN NĂNG LỰC

1.1. Một số khái niệm cơng cụ của đề tài
1.1.1. Kĩ năng giao tiếp
Hồng Anh và các cộng sự (2007) [1] đưa ra quan niệm KNGT là “năng lực
của con người được biểu hiện trong q trình giao tiếp góp phần biến giao tiếp
trở thành một nghệ thuật. Đó là khả năng sử dụng phù hợp hệ thống các thao tác
cử chỉ, điệu bộ hành vi được chủ thể giao tiếp phối hợp hài hòa với các phương
tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.” Nghiên cứu này của Hồng Anh đã mang đến
cái nhìn tồn diện về năng lực của mỗi người đối với kĩ năng giao tiếp.
Quan niệm về KNGT của Nguyễn Văn Đồng (2010) [8] lại có sự khác biệt
khi cho rằng. Quan niệm về KNGT của Nguyễn Văn Đồng đưa ra khá chi tiết
trong việc phân chia các kiểu loại của KNGT, song lại chưa có sự tuyệt đối hóa
cao giữa các tiểu loại.
Theo Đặng Thành Hưng (2015) [13]thì: “Giao tiếp là quá trình và kết quả
tương tác giữa các bên tham gia thông qua những hành vi tiếp xúc, phát ra thơng
điệp, tiếp nhận, xử lí, chọn lọc và đánh giá thông tin từ bên kia, trao đổi, chia sẻ,
ứng xử và gây ảnh hưởng lẫn nhau dựa vào các phương tiện mà các bên cùng



9

hiểu và chấp nhận để đạt mục đích của mỗi bên”. Đặng Thành Hưng cũng nhận
định trên khía cạnh KNGT“Đó là một dạng hành động có tính kĩ thuật giúp các
bên tiến hành giao tiếp, được thực hiện tự giác dựa trên tri thức về công việc
liên quan, khả năng vận động và những điều kiện sinh học - tâm lí và xã hội
khác của cá nhân để đạt được mục đích hay lợi ích giao tiếp đã định”[13, tr.18].
Nguyễn Quang Uẩn trong những nghiên cứu của mình đã kết luận
“KNGT là năng lực của chủ thể, tập hợp những quy tắc, nghệ thuật về cách ứng
xử, đối đáp được đúc kết qua những kinh nghiệm thực tế, giúp chủ thể thực hiện
thành công hoạt động giao tiếp. KNGT bao gồm các hành động, hành vi, thái độ
cách sử dụng ngơn ngữ của con người nhằm hồn thành mục tiêu giao tiếp, kĩ
năng giao tiếp bao gồm nhiều loại kĩ năng khác nhau như kĩ năng lắng nghe; kĩ
năng giao tiếp bằng mắt, bằng cử chỉ; kĩ năng thuyết trình” (Dẫn theo Hoàng
Trà My (2020) [23, tr.11]).
1.1.2. Giáo dục kĩ năng giao tiếp
Giáo dục KNGT“là một hoạt động có tính mục đích, tính kế hoạch, có nội
dung và chương trình được quy định cụ thể, được thực hiện dưới vai trò chủ đạo
của GV để định hướng cho các hoạt động giao tiếp của HS, cịn HS đóng vai trị
trung tâm của hoạt động giáo dục KNGT”. Tất cả các nội dung giáo dục, rèn
luyện đều tập trung vào HS mới đạt được yêu cầu của chương trình giáo dục
này. Muốn giáo dục KNGT thành công, điều quyết định cốt lõi là HS phải tích
cực, chủ động học tập và rèn luyện. Ngược lại, hiệu quả giáo dục sẽ không đạt
được. Vì thế, phải có sự phối hợp của 3 thành tố gia đình, nhà trường, xã hội
trong quá trình giáo dục HSTH. Có như vậy, các em mới tự tin để sử dụng yếu
tố ngôn ngữ và phi ngôn ngữ trong giao tiếp một cách tự nhiên và hợp lí để đạt
được mục đích và hiệu quả giao tiếp.
1.1.3. Năng lực và tiếp cận năng lực
Mơ hình cấu trúc của năng lực:



10

CẤU TRÚC BỀ MẶT
(ĐẦU VÀO)
()
(ĐẦU VÀO)

Kiến thức

Kĩ năng

Thái độ

KN thực tế

NL hiểu

NL làm

NL ứng xử

NL thực tiễn

CẤU TRÚC BỀ SÂU
(ĐẦU RA)
(ĐẦU RA)

(Nguồn Nguyễn Khải Hoàn [15][16])

TCNL là cách tiếp cận đảm bảo cho giáo dục vừa tập trung vào phát triển
năng lực của học sinh .Theo Đặng Thành Hưng (2012) [14], giáo dục theo
TCNL là kiểu giáo dục có 2 mặt: ). Như vậy, giáo dục KNGT theo TCNL có thể
hiểu gồm 2 nội dung chính: (i) Thứ nhất, xem năng lực giao tiếp hay KNGT của
người học là mục tiêu đào tạo, là kết quả giáo dục; (ii) Thứ hai, xem năng lực
giao tiếp hay KNGT là nền tảng, dựa vào năng lực giao tiếp của người học để
phát triển KNGT phù hợp với mục tiêu giáo dục.
1.2. Giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh tiểu học theo tiếp cận nănglực
1.2.1. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh Tiểu học
a) Đặc điểm về sự phát triển của các quá trình nhận thức
* Sự phát triển của tri giác
Hoạt động chủ đạo của HSTH là hoạt động học tập. Những câu hỏi về cuộc


11

sống xung quanh của HS dần được những quan sát xã hội và trải nghiệm của HS
làm sáng tỏ.
Tri giác của HSTH có nhiều sự thay đổi theo cấp độ tăng dần, từ chỗ tri
giác chung chung, khái quát, ít đi vào chi tiết tới tri giác có phân tích, tổng hợp.
Tuy nhiên, trong q trình tri giác, tính trực quan vẫn chi phối nhiều tư duy của
các em, chẳng hạn như tri giác thời gian vẫn dễ nhầm lẫn.
* Sự phát triển của trí nhớ, chú ý
Với giai đoạn tiểu học, HS đã dần hình thành và phát triển trí nhớ có chủ
định, nghĩa là cố gắng ghi nhớ và ghi nhớ có mục đích rõ ràng. Trí nhớ có chủ
định sẽ phát triển nhiều lên khi HS về cuối cấp.
* Sự phát triển của tư duy, tưởng tượng
Ở bậc tiểu học, các em dễ xúc cảm và luôn sinh động hóa, hình ảnh hóa với
tất cả những điều bắt gặp và suy nghĩ. Điều này lí giải vì sao lứa tuổi HSTH lại
là lứa tuổi có sự phát triển phong phú về tưởng tượng.

b) Những đặc điểm về nhân cách nổi bật của học sinh tiểu học
* Đặc điểm giao tiếp xã hội
HSTH cũng sử dụng ngôn ngữ không lời một cách thành thạo khi giao tiếp
với những đối tượng quen thuộc, đặc biệt là những người bạn thân. Giao tiếp là
một bước khởi đầu để HS có những người bạn mới, là việc cùng hợp tác để giải
quyết các nhiệm vụ học tập, giao tiếp của các em trong mơi trường chủ yếu là
gia đình, nhà trường.
* Đời sống giao tiếp tình cảm
HSTH là lứa tuổi sống theo cảm xúc và bị chi phối bởi xúc cảm dẫn đến
một điểm yếu là các em khó kiềm chế xúc cảm của mình. Điều này dẫn đến việc
các em dễ hành động theo cảm xúc dẫn đến những hành vi khơng phù hợp.
Song, tình cảm ở lứa tuổi này còn mong manh, thiếu bền vững, chưa sâu sắc và
sễ bị dẫn dắt. Tuy nhiên, có thể khẳng định ở giai đoạn tiểu học,những tình cảm


12

bộc lộ của các em đã có nội dung phong phú hơn và bền vững hơn lứa tuổi mầm
non. Qua đó, đời sống giao tiếp tình cảm thể hiện ở tình cảm đạo đức, tình cảm
trí tuệ và tình cảm thẩm mĩ..
* Đặc điểm về ý chí và tính cách

1.2.2. Nguyên tắcgiáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh Tiểu học theo
tiếp cận năng lực
a) Các hoạt động giáo dục kĩ năng giao tiếpcho học sinh tiểu học phải phát
huy được tính tích cực, chủ động giao tiếp của học sinh.
Lứa tuổi HSTH chuyển từ tuổi chơi sang tuổi học, quan hệ xã hội của HS
được mở rộng, vì vậy giáo dục KNGT cho HS là việc làm có ý nghĩa, biết bày tỏ
thái độ, quan điểm của mình bằng lời nói cử chỉ, điệu bộ, nét mặt và bằng cả
những việc làm khi cần thiết.

Hoạt động giáo dục KNGT cho HSTH theo TCNL muốn đạt hiệu quả cần
phải khơi gợi được sự hào hứng và tính tích cực hoạt động của HS. Chỉ khi HS
tích cực hoạt động thì các em mới có những trải nghiệm thực tế, rèn luyện các
KNGT, rút ra những kinh nghiệm và kiến thức từ thực tế. Đối với lứa tuổi này,
cần khơi gợi, hướng dẫn cách giao tiếp khi làm việc theo nhóm để tăng khả năng
giao tiếp và hình thành những phẩm chất, năng lực cần thiết trong quá trình giao
tiếp. Khi được giáo dục KNGT theo tiếp cận năng lực,
b) Giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh tiểu học phải gắn với cuộc sống
thực của các em
Giáo dục KNGT cần phải gắn với cuộc sống thực của lứa tuổi HSTH KNGT
giúp cho HS biết vận dụng để giải quyết những tình huống trong cuộc sống hàng
ngày, là phương tiện để các em bày tỏ những suy nghĩ, mong muốn của mình,
đồng thời biết lắng nghe, tơn trọng và thấu hiểu người khác, khiến các em tự tin,
năng động, kinh hoạt hơn trong cuộc sống. Giáo dục KNGT cho HSTH là việc


13

làm đúng đắn để trang bị cho các em những tri thức, những khái niệm ban đầu
về giao tiếp. Nếu HS thiếu những KNGT cần thiết trong cuộc sống thực thì sẽ có
những khiếm khuyết trong sự hình thành và phát triển nhân cách.
c)Giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh tiểu học phải hướng tới sự hợp
tác giữa các em với những người khác.
Giao tiếp là con đường ngắn nhất với học sinh ở tiểu học để thảo luận tri
thức, thông tin trong học tập, rèn luyện, chia sẻ các vấn đề khác nhau trong cuộc
sống. Ở đây, ta thấy vai trị của KNGT trong hình thành các mối quan hệ ở lứa
tuổi học trò bậc tiểu học. Những tiếp xúc rộng rãi với bạn bè, quan hệ với các
thầy cô giáo thông qua việc học tập, trải nghiệm, các hoạt động tập thể, sinh
hoạt, vui chơi... mà HS đã xuất hiện nhu cầu giao tiếp, hình thành các mối quan
hệ xã hội mới trong lớp, trong trường.

d) Giáo dục kĩ năng giao tiếp phải phù hợp với đặc điểm tâm lí và xã hội
của học sinh tiểu học.
Các HĐGD nhằm trang bị cho HSTH các kiến thức, KNGT cần thiết song
không nên biến HS thành những người lớn thu nhỏ. Trong giáo dục KNGT cho
HSTH theo tiếp cận năng lực, nhà giáo dục không nên áp đặt hay đưa ra những
khuôn mẫu hành vi, ngôn ngữ của người lớn vào lứa tuổi HSTH mà phải dựa
trên nền tảng ngôn ngữ, kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm thực tế mà HSTH đã có
theo lý thuyết về vùng cận phát triển của Vưwgơtxki. Đơi khi những sai sót, vấp
váp trong q trình thực hiện một cơng việc nào đó sẽ khiến HS có thêm kinh
nghiệm và làm tốt hơn ở những lần tiếp theo.
e)Giáo dục kĩ năng giao tiếp phải đảm bảo việc thực hành và luyện tập
thường xuyên.
Muốn hình thành và phát triển các KNGT cho HSTH theo tiếp cận năng lực
cần tạo điều kiện cho HS được luyện tập thường xuyên với nhiều hình thức khác
nhau như hoạt động học tập, vui chơi, trải nghiệm, sinh hoạt tập thể, dã ngoại
theo nhóm. Việc luyện tập KNGT thường xuyên theonhóm hợp tác giúp HS tăng


14

cường nhận thứ..Xuất phát từ vai trò quan trọng của KNGT đối với q trình
phát triển nhân cách HS địi hỏi nhà trường, GV, PHHS cần có nhận thức đúng
về KNGT và tiến hành giáo dục KNGT cho HS.
1.2.3. Nội dung giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh Tiểu học theo tiếp
cận năng lực
Chương trình GDPT 2018 đã nhấn mạnh tới 5 phẩm chất và 10 năng lực cần
hình thành và phát triển cho HSTH. Do đó, để đáp ứng yêu cầu chương trình
GDPT 2018, hệ thống KNGT cần giáo dục cho HSTH theo tiếp cận năng lực
bao gồm [11]:
a) “Kĩ năng tự khẳng định về bản thân:HS tiểu học đa phần còn rụt rè,

thiếu tự tin. Giáo dục để HS có thể mạnh dạn đứng trước đám đơng để nói ra suy
nghĩ của mình đãlà một thành cơng. Bên cạnh đó, các emphải biết giới thiệu về
bản thân với người khác, biết chào hỏi lễ phép và tôn trọng người khác, biết
chào hỏi lễ phép đối với thầy cô, người trên tuổi, biết nhường nhịn em nhỏ. Tất
cả những điều này là phương thức đầu tiên để các em khẳng định tính cách,
phẩm chất của bản thân”.
b) “Kĩ năng nói lời yêu cầu đề nghị, nói lời cảm ơn, xin lỗi:Không phải
ngẫu nhiên mà bài học đầu tiên của HS bậc mầm non, tiểu học lại là biết nói lời
yêu cầu đề nghị, nói lời cảm ơn, xin lỗi. Đó là cách để trẻ bày tỏ những nhu cầu,
mong muốn thiết yếu nhất cũng như biết trân trọng những điều tốt đẹp mọi
người dành cho mình hay biết hối lỗi khi mình làm người khác khơng hài lòng
hay làm tổn thương người khác”.
c) “Kĩ năng từ chối u cầu đề nghị của người khác:Biết cách nói
“khơng” và học từ chối cũng là một kĩ năng cần rèn luyện cho HS để các em biết
phân biệt đúng sai, tốt xấu cũng như tự bảo vệ bản thân mình”.
d) Kĩ năng xử lý tình huống:Kĩ năng này cũng rất quan trọng bởi trong
cuộc sống HS sẽ bắt gặp nhiều tình huống khó xử u cầu các em phải có kĩ
năng ứng xử phù hợp, biết phân tích đúng, sai trong việc ứng xử. Kĩ năng xử lí


15

tình huống được trau dồi thường xuyên sẽ giúp các em năng động, tự tin và chủ
động hơn trong học tâp, lao động và sinh hoạt hàng ngày
e) Kĩ năng lắng nghe:Biết lắng nghe là điều cần thiết để rèn luyện sự tập
trung của HS. Giáo dục HS kỹ năng lắng nghe nhằm giúp HS tôn trọng người
khác, học hỏi được nhiều hơn. Kĩ năng lắng nghe cần rèn luyện làlắng nghe một
cách tích cực, chủ động để tiếp nhận thơng tin và xử lý thơng tin có ích cho bản
thân với những mục đích tốt đẹp.
f) Kĩ năng thương lượng: Trong giao tiếp, đơi khi sẽ có những tranh luận

để tiến tới thống nhất một vấn đề. Tuy nhỏ tuổi nhưng rất cần giáo dục cho HS
biết thương lượng với người khác. Đây chính là cách để học sinh nêu quan điểm,
bảo vệ chính kiến của mình cũng như rèn tính kiên nhẫn, bình tĩnh khi giải quyết
các vấn đề khó khăn.
g) Kĩ năng chia sẻ:Nếu khơng biết chia sẻ, HS lứa tuổi tiểu học sẽ dễ tự ti,
thu mình hoặc phản ứng tiêu cực hơn như khơng nghe lời, hay nổi nóng. Việc
giáo dục kĩ năng chia sẻ giúp HS thoải mái khi giao tiếp với người khác, dễ
dàng bộc lộ những mong muốn của mình cũng như biết đồng cảm với những vui
buồn của người khác, đặc biệt là với cha mẹ, thầy cô, bạn bè. Từ đó hình thành
nên ở trẻ những đức tính tốt như lòng thương người, tốt bụng, lối sống hiền hòa,
thân thiện.
h) Kĩ năng thuyết trình trước đám đơng:Thơng qua việc vận dụng phối
hợp các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, giáo dục, giúp HS rèn luyện kĩ
năng trình bày một cách khoa học trước nhóm, trước tập thể. HS sẽ được trau
dồi kĩ năng nói đồng thời học cách chuẩn bị, sắp xếp những điều cần phát biểu
trước đám đông.
i) Kĩ năng thuyết phục:Thuyết phục người khác những điều tốt đẹp,
những tư tưởng chính đáng là điều HS sẽ gặp phải trong quá trình học tập, lao
động, sinh hoạt. Kĩ năng này cũng cần rèn luyện để luyện tập sự suy nghĩ sâu
sắc của HS trước những vấn đề cần có sự định hướng.


16

k) Kĩ năng giải quyết vấn đề:Giải quyết vấn đề là năng lực chung mà
chương trình giáo dục muốn HS đạt được. l) Kĩ năng làm việc hợp tác:Hợp tác
là kĩ năng cần thiết để hoàn thành các mục tiêu một cách dễ dàng và hiệu quả.
HS biết tìm những điểm phù hợp trong sức mạnh tập thể để dung hòa và phát
huy. Khi biết hợp tác, HS học được cách lắng nghe, tôn trọng người khác, học
hỏi những điều chưa biết và san sẻ những gì là thế mạnh của mình để đi tới sự

thống nhất chung.
m) Kĩ năng biểu lộ thái độ tình cảm: Như đã đề cập, HS lứa tuổi này vẫn
dễ bị cảm xúc chi phối. Vì vậy, GV cần có những sự dẫn dắt để HS tạo lập dần,
giúp HS hiểu rằng việc bộc lộ những cảm xúc tiêu cực như nóng giận, cáu gắt...
khơng phải ở thời điểm nào cũng đúng để không ảnh hưởng đến những người
xung quanh và chính bản thân mình trong quá trình học tập”.
1.2.4. Hình thức tổ chức giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh Tiểu học
theotiếp cận năng lực
1.2.4.1. Tổ chức dạy học trên lớp theo hướng lồng ghép, tích hợp nội
dung giáo dục kĩ năng giao tiếp trong chương trình dạy học, giáo dục học sinh
với các mơn học có ưu thế
Trải nghiệm được các KNGT gắn với bài học và thực tiễn giáo dục, trên
cơ sở đó HSsẽ hình thành và phát triển được các KNGT cần thiết. Để thực hiệc
tốt việc này, GV có thể lựa chọn các mơn học có tính liên quan cao như Đạo
đức, Tiếng Việt, Tự nhiên và xã hội và lồng ghép những nội dung giáo dục
KNGT.Để GV KNGT cho HS, rèn luyện KNGT cho HS.
Những kiến thức lồng ghép, tích hợp trong bài học, theo chủ đề, gắn với
các hoạt động, các hồn cảnh, mơi trường giao tiếp cần đơn giản, dễ hiểu, sát với
thực tiễn và phù hợp với nhận thức của HSTH. Sau cùng, GV cũng cần xây
dựng một bảng tiêu chí để đánh giá kết quả HS đạt được trong quá trình rèn
luyện KNGT ở trường học và có sự thơng báo với cha mẹ HS để có những định
hướng đúng đắn, kịp thời.


17

1.2.4.2. Tổ chức các hoạt động trải nghiệm, các hoạt động giáo dục ngồi
giờ lên lớp có tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh
Theo lý luận dạy học và giáo dục, việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm,
các HĐGD ngoài giờ lên lớp cũng là một trong những con đường cơ bản và

quan trọng trong giáo dục KNGT cho HSTH.
Để thu hút HS chủ động, tích cực tham gia và hoạt động mang tính hiệu
quả, các hình thức tổ chức giáo dục KNGTcho HS phải có tính hấp dẫn và phù
hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi HSTH. Nếu khơng có sự thay đổi trong
phương thức thực hiện sao cho phông phú, hấp dẫn thì việctổ chức giáo dục
KNGT cho HS sẽ trở nên tẻ nhạt, thiếu sức hút và HS sẽ khơng có khả năng ứng
dụng vào thực tế .
Các hoạt động trải nghiệm và HĐGD ngoài giờ lên lớp được xây dựng
một cách đa dạng như tham quan, dã ngoại, tìm hiểu thực tế, thuyết trình, chơi
trị chơi theo chủ đề... sẽ giúp cho HS tiếp cận với đời sống thực tế hằng ngày,
nắm rõ được chủ đề và tiếp xúc với các tình huống thực tiễn trong giáo dục và
đời sống hàng ngày.
1.2.4.3. Tổ chức các hoạt động sinh hoạt tập thể thơng qua đó giáo dục
kỹ năng giao tiếp cho học sinh tiểu học
Sinh hoạt tập thể cũng là một trong những con đường giáo dục KNGT cho
HSTH các kĩ năng giao tiếp cần thiết. Với các hình thức như lao động, vui chơi,
hoạt động xã hội tập thể và các mối quan hệ giao tiếp ngoài xã hội khác tạo cơ
hội và điều kiện cho HS tự rèn luyện, biến những yêu cầu giáo dục KNGT thành
hành vi, KNGT tương ứng. Trong sinh hoạt tập thể, HS được rèn luyện, biết
đoàn kết thương yêu, giúp đỡ và chia sẻ, hợp tác với nhau giúp HS tự tin, mạnh
dạn hòa đồng với tập thể.
1.3.4.4. Tổ chức các hoạt động xã hội, chung sức cùng cộng đồng, huy
động nhiều nguồn lực phục vụ cho mục tiêu giáo dục kĩ năng giao tiếp
Hoạt động xã hội giữ vai trị khơng thể thiếu trong hoạt động giáo dục


18

KNGT cho HS. Tác động của xã hội từ nhiều phía, từ các tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp, từ các cấp, các ngành và các yếu tố khác trong

xã hội tham gia vào mơi trường giáo dục.
Năng lực GV là nhân tố có tính quyết định đến kết quả giáo dục KNGT
cho HS. Do vậy, các cơ quan quản lý giáo dục và nhà trường phải thường xuyên
tổ chức bồi dưỡng nâng cao năng lực cho GV nói chung và năng lực giáo dục
KNGTcho HS nói riêng; đồng thời tổ chức tuyên truyền rộng rãi trong tập thể sư
phạm về vai trò, tác dụng của giáo dục KNGT cho HSTH, để từ đó tạo sự đồng
thuận về quan điểm, thống nhất về tổ chức thực hiện và phát huy sức mạnh tập
thể trong hoạt động giáo dục KNGT cho HS.
Ngoài giờ lên lớp ở trường, HS có một khoảng thời gian khá dài ở gia
đình, chịu sự tác động rất lớn từ gia đình, đặc biệt là trong hồn cảnh dịch bệnh
bùng phát, không thể đến trường để học tập trực tiếp mà phải học trực tuyến tại
gia đình. Từ ăn uống, nghỉ ngơi, học hành, vui chơi... đều ảnh hưởng bởi tác
động của gia đình và PHHS. Do đó, trong hoạt động giáo dục KNGT cho HS,
nhà trường.

1.3.5. Kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh
theo tiếp cận năng lực
Để giáo dục KNGTcho HS theo tiếp cận năng lựcđạt được hiệu quả cao,
cần phải thực hiện đầy đủ nội dung, phương pháp, hình thức và đúng quy trình
giáo dục, trong đó có cơng tác đánh giá kết quả giáo dục KNGT cho HSTH.
Đánh giá kết quả giáo dục KNGT, các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt độnggiáo dục
KNGT cho HS là việc làm cần thiết, quan trọng nhằm bổ sung, điều chỉnh và tổ
chức thực hiện tốt hơn sau đánh giá. Có rất nhiều khung tham chiếu, tiêu chuẩn,
tiêu chí khi đánh giá kết quả giáo dục KNGT, tuy nhiên đối với lứa tuổi, môi
trường GDTH hiện nay đang cần hình thành và phát triển 5 phẩm chất, 10 năng
lực theo Chương trình GDPT 2018 nên việc đánh giá kết quả giáo dục KNGT


19


cho HS cần được thực hiện thông qua đánh giá kỹ năng hành vi giao tiếp [11]:
“(i) Tính tự giác của hành vi thực hiện: HS tự giác thực hiện hành vi giao
tiếp khơng cần sự kiểm sốt của người khác
(ii) Tính chuẩn xác của hành vi: Hành vi thực hiện phù hợp với chuẩn
mực giao tiếp trong quan hệ của HS ở gia đình, nhà trường và xã hội.
(iii) Động cơ của hành vi: Động cơ phải phù hợp với mục đích, nội dung
giao tiếp, hồn cảnh giao tiếp, phương tiện giao tiếp
(iv) Mức độ thành thạo của hành vi: HS thực hiện hành vi giao tiếp một
cách linh hoạt, có sự phối hợp một cách hợp lý giữa lời nói, cử chỉ, thái độ và
hành động hỗ trợ khác, có phản ứng kịp thời trước những tình huống xảy ra”.
Việc đánh giá kết quả, chất lượng giáo dục KNGT cho HSTH trên cơ sở
đánh giá những nội dung trên. Ngồi ra, việc đánh giá KNGT của HS cịn phải
quan tâm đến đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới HĐGD. Đó là đánh giá nhận
thức và thái độ của HS về KNGT mà HS thể hiện. Coi trọng việc đánh giá môi
trường giáo dục, sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội trong giáo dục
KNGT cũng như việc thực hiện chương trình giáo dục, việc triển khai và thực
hiện kế hoạch bồi dưỡng, tập huấn... nâng cao năng lực cho GV trong hoạt động
giáo dục KNGT cho HS.Thông qua việc đánh giá, nhà trường và GV xây dựng
kế hoạch, chương trình, nội dung mới trong giáo dục KNGT cũng như tổng kết,
rút kinh nghiệm về các yếu tố tác động để có những điều kiện tốt hơn trong giáo
dục KNGT cho HS trong nhà trường.
Theo Ngô Thị Minh Phú (2018) [30, tr.37], Trong quá trình xây dựng kế
hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm tra, đánh giá cần thực hiện theo các
nội dung sau:
(3) Trong quá trình kiểm tra, đánh giá việc tổ chức các hoạt động, nếu có
những nội dung khơng phù hợp với thực tiễn quản lý thì cần điều chỉnh kế
hoạch.


20


Nguyễn Thị Thêu (2018)[29, tr.29] đã nhận định“kiểm tra, đánh giá là
khâu rất quan trọng trong quá trình quản lý”. Như vậy, thường xuyên kiểm tra,
đánh giá việc thực hiện kế hoạch giúp người GV, CBQL.
Kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục KNGT cho HS theo tiếp cận năng
lực sẽ góp phần đánh giá chất lượng giáo dục tồn diện trong nhà trường. Qua
việc này, CBQL sẽ đánh giá khả năng thực hiện của đội ngũ GV, mức độ tích
cực tham gia của HS và q trình thực hiện, áp dụng trong nhà trường diễn ra có
đảm bảo đúng kế hoạch, tiến độ hay khơng. Đó cũng là căn cứ để nhà trường
xây dựng mục tiêu, nội dung, đội ngũ, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt
động giáo dục KNGT cho HS theo tiếp cận năng lực.

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh tiểu
học theo hướng tiếp cận năng lực
1.4.1.Các yếu tố khách quan
a) Đặc điểm tâm sinh lý, đặc điểm nhân cáchlứa tuổi học sinh tiểu học
Lứa tuổi HSTH ở Việt Nam hiện nay nói chung khoảng từ 6 đến 11 tuổi.
Quá trình nhận thức của các em chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1, từ lớp 1 đến
lớp 3; giai đoạn 2, từ lớp 4 đến lớp 5. Tâm lý của trẻ ở lứa tuổi này đã có sự thay
đổi nhất định. Q trình học tập cũng như nhận thức của trẻ được đặt lên hàng
đầu gắn với việc tìm tịi, phát hiện những điều đơn giản trong cuộc sống cũng
tạo cho các em những hứng thú nhất định.
Ở lứa tuổi này, quá trình nhận thức của HS không chỉ đi từ “trực quan sinh
động” đến “tư duy trừu tượng” mà các em còn biết sử dụng thao tác tư duy để
nhận thức vấn đề. Ham học hỏi, hiểu biết, thích khám phá những điều mới mẻ
trong cuộc sống và bước đầu các em cũng đã có những hứng thú và quan tâm
nhất định đến những vấn đề mang tính chất xã hội như: ơ nhiễm môi trường, các
bệnh thường gặp trong cuộc sống, các hiện tượng tự nhiên trên trái đất, tệ nạn xã
hội... nhận thức của các em ngày càng được mở rộng ra thế giới bên ngoài theo



21

xu hướng xã hội.
Tâm lí giao tiếp của trẻ bị ảnh hưởng lớn bởi đối tượng giao tiếp. Những
người thân quen, gần gũi và thường xuyên giao tiếp sẽ giúp các em tự tin, mạnh
dạn hơn trong giao tiếp. Ngược lại, những đối tượng xa lạ sẽ làm cho các em e
dè, ngại giao tiếp, thiếu tự tin vì chưa đủ trải nghiệm để đánh giá, lựa chọn cách
thiết lập quan hệ giao tiếp, nội dung giao tiếp. Nội dung vấn đề mà trẻ phải thực
hiện giao tiếp ảnh hưởng tới việc hình thành và phát triển KNGT.
Tình cảm của HS ở lứa tuổi này là tính hồn nhiên, giàu cảm xúc và dễ xúc
động. Vì quá trình nhận thức của các em chưa thực sự hoàn chỉnh nên trẻ rất dễ
bị lay chuyển ý kiến, chưa có lập trường vững vàng. Bởi vậy, các em rất cần sự
uốn nắn và kết hợp dạy dỗ của gia đình và nhà trường, nhất là về các KNS,
KNGT. Việc hình thành cho HS những KNGT cần thiết sẽ trang bị cho các em
một hành trang bước vào cuộc sống và sẵn sàng đối mặt với những vấn đề của
cuộc sống. Những HS ở độ tuổi cuối cấp tiểu học, các em đã có những lý thức
nhất định về việc làm của mình. Những việc làm của các em dù lớn, dù nhỏ
cũng đã phần nào thể hiện nhân cách của các em. Chính vì vậy mà giáo dục
KNGT cho HS theo tiếp cận năng lực ở lứa tuổi này là hoàn toàn phù hợp để
thực hiện Chương trình GDPT 2018.
b) Mơi trường văn hóa, mơi trường giáo dục và mơi trường giao tiếp
Mơi trường giáo dục KNGT cho HSTH có vai trị tiên quyết để giáo dục
KNGT cho HS đạt hiệu quả tốt. Để giáo dục KNGT cho HS đạt hiệu quả nhất
định, rất cần thiết phải có sự thống nhất của các môi trường giáo dục mà HS
đang được chú ý: nhà trường, gia đình và xã hội trong việc tổ chức giáo dục
KNGT cho HS. Thầy cô giáo, PHHS và cộng đồng địa phương phải có sự gắn
kết, tương tác và thống nhất trong việc giáo dục KNGT có văn hóa cho thế hệ
trẻ. Có theer khẳng định rằng, mơi trường giáo dục có vai trị quan trọng trong
q trình giáo dục KNGT cho HS theo định hướng phát triển năng lực.

Bên cạnh đó, một yếu tố cũng rất quan trọng, bổ sung và góp phần làm


22

phong phú mơi trường văn hóa, mơi trường giáo dục để có thể thực hiện được
việc dạy học, giáo dục trong điều kiện bình thường mới hoặc trong điều kiện dạy
học trực tuyến (online) do ảnh hưởng của thiên tai, đại dịch như thời gian vừa
qua, cả thế giới phải chịu tác động to lớn của đại dịch Covid-19 nên học sinh
khơng thể đến trường, đó là phải xây dựng, tạo lập được môi trường giao tiếp
trực tiếp, trực tuyến thông qua ứng dụng của CNTT và chuyển đổi số, cơng nghệ
số để có thể thiết lập được các khơng gian ảo, môi trường giao tiếp ảo gắn với
các hoạt động trải nghiệm có tác dụng tương tự như mơi trường giao tiếp thực tế
để HS không nhàm chán, không bị bó buộc trong 4 bức tường của gia đình và
cũng để PHHS có thể hợp tác, chia sẻ trong giáo dục KNGT cho HS.
c) Chính sách giáo dục hiện hành của quốc gia, địa phương và các yếu tố
quản lý
Đối với mỗi quốc gia, dân tộc, yếu tố mang tính điều kiện pháp lý cho
việc thực hiện các HĐGD tồn diện trong nhà trường trong đó có hoạt động giáo
dục KNGT cho HS theo tiếp cận năng lực làchính sách giáo dục. Những văn bản
quy định và những thông tư hướng dẫn cụ thể, kịp thời của là căn cứ cho việc
xác định mục tiêu, nội dung, hình thức tổ chức hoạt động giáo dục.
Song song với việc nâng cao năng lực của GV trong giáo dục KNGT cho
HSTH, cần tạo lập một môi trường giáo dục lành mạnh, thân thiện, thống nhất
trong việc thực hiện mục tiêu, nội dung giáo dục KNGT cho HSTH. Hoạt động
giáo dục KNGT cho HS phụ thuộc một phần vào các nguồn lực: tài chính, cơ sở
vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và học, vì vậy phải tăng cường nguồn lực
này nhằm phục vụ cho công tác giáo dục KNGT cho HSTH. Mặt khác, tính chất
địa phương, mơi trường văn hóa cũng ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giáo dục
KNGT, do đó phải có sự đầu tư phù hợp cho giáo dục, quan tâm đến nội dung

giáo dục KNGT, trong đó có giáo dục bản sắc văn hóa cho HSTH để các em có
điều kiện tham gia vào hoạt động trải nghiệm sáng tạo, hoạt động giáo dục nhằm
phát triển các KNGT. Ngồi ra, các yếu tố quản lý có tác động quan trọng trong
tổ chức các hoạt động giáo dục KNGT cho HS theo tiếp cận năng lực. Mỗi cơ sở


23

giáo dục cần thiết phải quan tâm đến công tác quản lý, chỉ đạo, tổ chức thực
hiện, kiểm tra, đánh giá trong hoạt động giáo dục KNGT cho HS tại cơ sở giáo
dục.
1.3.2. Các yếu tố chủ quan
a) Năng lực chuyên môn của giáo viên, sự am hiểu và phối hợp của phụ
huynh học sinh
Năng lực chuyên môn, kĩ năng sư phạm và KNGT của GV là nhân tố
quyết định chất lượng và hiệu quả của quá trình giáo dục KNGT cho HS theo
tiếp cận năng lực. Ở bậc tiểu học, HS đến trường, tiếp thu kiến thức, luyện tập,
thực hành kiến thức ấy theo sự hướng dẫn của GV để hình thành thói quen và
vận dụng thói quen đó. Bởi vậy, mỗi GV phải là một tấm gương mẫu mực để HS
học tập và làm theo.
Trong bối cảnh dạy học và giáo dục bị ảnh hưởng bởi thiên tai, đại dịch và
phải thích ứng với các điều kiện bình thường mới, HSTH có thể phải học tập
trực tuyến (online), khơng thể đến trường thì nhận thức và cách thức tổ chức
thực hiện của GV và PHHS trong quá trình giáo dục KNGT cho HS theo tiếp
cận năng lực cũng đóng một vai trị đặc biệt quan trọng. Khi cả GV và PHHS
đều có nhận thức đúng, đầy đủ về giáo dục KNGT theo tiếp cận năng lực để
thích ứng với điều kiện bình thường mới thì những tác động giáo dục đối với
HSTH mới có thể phù hợp với nhà trường, gia đình, xã hội. Năng lực sư phạm
của GV trong việc thiết kế và tổ chức hoạt động giáo dục KNGT trong điều kiện
bình thường mới đảm bảo việc thực hiện mục tiêu giáo dục đạt hiệu quả.

b) Tích tích cực, chủ động của học sinh
Trong dạy học và giáo dục, tính tích cực, chủ động của HS đóng một vai
trị đặc biệt quan trọng. Giáo dục KNGT cho HSTH theo tiếp cận năng lực sẽ
không thành công nếu chỉ thơng qua giao tiếp, thuyết trình, giảng giải, làm mẫu
của GV trên lớp hoặc theo hình thức trực tuyến. Để hoạt động giáo dục KNGT
có hiệu quả thì phải tiến hành song song hoạt động của GV và hoạt động, việc


24

làm cụ thể của HS.
Quá trình hình thành và phát triển KNGT của HSTH được thực hiện giai
đoạn đầu đa phần mang tính bắt chước, làm theo GV, sau này mới chuyển dần
thành hành vi tự nguyện, tự giác của HS. GV phải ý thức bản thân luôn giữ thái
độ, hành vi ứng xử chuẩn mực trong quá trình hình thành, rèn luyện, phát triển
KNGT cho HS để HS noi theo, đồng thời GV phải có nghệ thuật sư phạm, xây
dựng, tạo lập môi trường giao tiếp phong phú, gắn với thực tiễn sinh động để thu
hút HS tham gia. GV nắm giữ vai trị chủ đạo trong q trình này. Hiệu quả của
q trình giáo dục KNGT ngồi tác động có tính quyết định của GV, ln cần có
sự tích cực, hưởng ứng và chủ động tham gia vào quá trình giáo dục của HS.
Trong bối cảnh dạy học và giáo dục thích ứng với điều kiện bình thường
mới, các hoạt động giáo dục ln địi hỏi sự thống nhất quan điểm và phối hợp
hành động giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng, giáo dục KNGT cho HSTH
cũng không phải ngoại lệ. Đặc biệt là hoạt động giao tiếp của HS diễn ra ở mọi
lúc, mọi nơi theo hình thức trực tiếp hay trực tuyến nên sự phối hợp giáo dục
của PHHS tại gia đình và những nơi cơng cộng sẽ có tác dụng tăng cường hiệu
quả giáo dục đối với lứa tuổi HSTH.
Tiểu kết Chương 1
KNGT của HSTH là các thao tác hành vi giúp trẻ giao tiếp mình nhằm
bày tỏ những mong muốn cá nhân, thể hiện bản thân hay tiếp thu những điều

mới mẻ. HSTH có thể thực hiện vào mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp
giáo dục, đặc điểm tâm lý HS, năng lực giáo dục và KNGT của GV và các yếu
tố quản lý. Nếu hiểu rõ và phát huy được tất cả các thành tố trên trong quá trình
giáo dục KNGT cho HSTH thì quá trình giáo dục KNGT sẽ thành cơng và phát
triển được KNGT cho HS, để từ đó hình thành và phát triển những phẩm chất,
năng lực theo Chương trình GDPT 2018.
Trong điều kiện dạy học và giáo dục phải thích nghi với điều kiện bình
thường mới do ảnh hưởng của đại dịch Covid 19, HSTH có thể sẽ học tập theo


25

hình thức trực tiếp hay trực tuyến. Vì vậy, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà
trường, GVCN, GV bộ môn với PHHS và các lực lượng hỗ trợ khác để cùng
tham gia giáo dục KNGT cho HS. Bên cạnh đó phải tăng cường bổ sung cơ sở
vật chất, trang thiết bị nền tảng về ứng dụng CNTT, chuyển đổi số, tạo môi
trường giao tiếp phù hợpcho HS cho phù hợp với bối cảnh giáo dục hiện nay.


×