Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

(SKKN mới NHẤT) một số biện pháp phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động làm quen văn học cho trẻ 5 6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 23 trang )

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng Sáng kiến kinh nghiệm Huyện Đại Lộc
Tơi kính đề nghị: Q đơn vị xem xét, cơng nhận sáng kiến như sau:
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Đại Minh
Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến - nếu có: Nguyễn Thị Thu Hà
Tên sáng kiến: Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt
động làm quen văn học cho trẻ 5 - 6 tuổi.
Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Áp dụng trong các trường Mầm Non toàn
Huyện.
Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử : 14/9/2021.
Hồ sơ đính kèm:
(02) tập báo cáo sáng kiến, các tài liệu hình ảnh
Văn bản đề nghị cơng nhận sáng kiến kèm Biên bản của Hội đồng sáng
kiến và quyết định công nhận sáng kiến của cơ quan, đơn vị nơi tác giả đang
công tác.
Chúng tôi/ tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực,
đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Đại Minh, ngày 23 tháng 3 năm 2022
Người nộp đơn
(Ký và ghi rõ họ tên)
Nguyễn Thị Thu Hà


2
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ THÔNG QUA HOẠT


ĐỘNG LÀM QUEN VĂN HỌC CHO TRẺ 5- 6 TUỔI
Mô tả bản chất của sáng kiến:
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân
là cấp học đặt nền móng đầu cho việc giáo dục lâu dài nằm hình thành và phát
triển nhân cách trẻ. Độ tuổi mầm non chính là giai đoạn “vàng” để giúp trẻ phát
triển tối ưu về trí tuệ, nhận thức, thể chất, tinh thần và đặc biệt là ngôn ngữ.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong trường mầm non luôn được chú trọng
hàng đầu, là một trong những mục tiêu quan trọng nhất. Vì ngơn ngữ sẽ giúp trẻ
bày tỏ, trao đổi và giao tiếp với nhau trong học tập cũng như vui chơi. Phát triển
ngơn ngữ cho trẻ cịn là phương tiện giúp giáo dục một cách tồn diện, góp phần
uốn nắn, hoàn thiện hơn về mặt tư duy nhận thức của trẻ. Trong đó hoạt động
làm quen văn học rất phù hợp, là phương tiện cơ bản cho việc phát triển ngôn
ngữ.
Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động làm quen văn học giữ vai trò
quyết định và được xây dựng trên cơ sở phát triển tâm lý, sự tưởng tượng của
trẻ, có ý nghĩa rất lớn trong đời sống tinh thần trẻ, là một trong những hình thức
nhận thức thế giới vô cùng hấp dẫn của trẻ, văn học giúp trẻ tích lũy được vốn từ
phong phú, đa dạng, phát âm chính xác, phát triển kỹ năng diễn đạt rõ ràng,
mạch lạc, biểu cảm. Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động làm quen văn học
là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo
đức, tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hố. Ngồi ra nó cịn là
phương tiện giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh, quan hệ giao tiếp, trao đổi,
thể hiện tình cảm và đặc biệt đối với trẻ 5 - 6 tuổi là yếu tố cần thiết góp phần
phát triển tồn diện cho trẻ trong cuộc sống hằng ngày, hiểu biết được tình cảm
đối với con người, các hiện tượng xung quanh trẻ, tạo điều kiện cho các con có
cơ hội tự do sáng tạo, tích lũy được những kiến thức về thế giới xung quanh một
cách tự nhiên nhất. Đặc biệt trẻ biết trình bày ý kiến, suy nghĩ, tự tin khi kể về
một sự vật hay sự kiện nào đó bằng chính ngơn ngữ của mình.
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ mẫu giáo lớn 5-6 tuổi nói riêng, trẻ
rất nhạy cảm với nghệ thuật ngôn từ. Việc giúp trẻ phát triển ngôn ngữ thông

qua hoạt động làm quen văn học là một nhiệm vụ quan trọng trong chương trình
giáo dục tồn diện trẻ và tạo tiền đề cho trẻ trước khi vào lớp 1. Chính vì vậy, tơi
đã chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động làm
quen văn học cho trẻ 5 - 6 tuổi”.
1.1. Các giải pháp thực hiện, các bước và cách thức thực hiện:


3
Giải pháp 1:Tạo môi trường hoạt động phong phú.
Môi trường cho trẻ hoạt động là nơi cung cấp nguồn thông tin phong phú,
mơi trường giúp trẻ tìm tịi khám phá và phát hiện những điều mới lạ hấp dẫn
trong cuộc sống. Môi trường đẹp, phong phú và phù hợp sẽ gây hứng thú, khích
thích sự tị mị, khám phá và sự chú ý của trẻ.
Ở lứa tuổi Mầm non: Hoạt động chủ đạo của trẻ “Chơi mà học, học mà
chơi” thông qua các hoạt động tôi đã xây dựng môi trường hoạt đông đa dạng
phong phú mà trẻ lĩnh hội kiến thức trong cuộc sống xung quanh trẻ.
Để đáp ứng được nhu cầu kích thích trẻ phát triển ngơn ngữ, sáng tạo, trí
tị mị thích cái mới, cái lạ của trẻ. Tơi đã trang trí, xây dựng mơi trường thêm 1
số góc mở đẹp và an tồn, từ một góc chơi trẻ có thể thay đổi nội dung chơi, chủ
đề chơi, hình ảnh, biểu tượng chơi một cách linh hoạt, sáng tạo, phát huy tài
năng kể chuyện của mỗi trẻ. (Hình 1a, 1b)
Ví dụ: góc thư viện, tơi đã kết hợp với góc văn học để tạo nên khu vườn
cổ tích, ở đó tơi chuẩn bị các loại rối như: Rối que, rối dẹt, một số bộ truyện
tranh hình ảnh, truyện tranh chữ to, thơ chữ to, tạp chí, hoạ báo đều có hình ảnh
minh hoạ …có liên quan đến nội dung câu chuyện- bài thơ, khi đến đó trẻ được
chơi với những con rối, tự chọn nhân vật mà trẻ thích, rồi cùng thảo luận và thể
hiện vai của nhân vật, hoặc kể chuyện theo ý tường sáng tạo của trẻ .
Ở góc học tập ngồi hình ảnh cây hoa sinh động, đẹp mắt, và hình ảnh hình
dạng nghộ nghĩnh, tơi chuẩn bị nhiều quyển sách rỗng, trang trí thêm 1 số chi tiết
ở trang bìa những bơng hoa chữ cái với chữ số, trong mỗi quyển sách tôi gắn các

túi dắt, cơ và trẻ có thể thay đổi nội dung, hình ảnh dể dàng, tiện lợi như: Hơm
nay cơ và trẻ chơi với các nhân vật, chọn hình ảnh dưới hộp học liệu và gắn theo
ý thích tạo thành quyển sách hoặc quyển sa bàn để tạo thành nội dung câu chuyện
theo ý trẻ và nội dung câu chuyện cô muốn dạy.
Trong mỗi hoạt động của trẻ, tôi đều quan sát, tận dụng mọi tình huống,
cơ hội để giúp trẻ gợi nhớ hay khắc sâu các tác phẩm văn học mà trẻ sẽ được
làm quen hoặc đã cho trẻ làm quen.
Ngay từ đầu năm học tôi đã lên kế hoạch làm đồ dùng, đồ chơi, tạo môi
trường bằng cách đưa hình ảnh nhân vật của các câu chuyện nổi bật vào góc văn
học và một số góc trong và ngoài lớp học thể hiện trên các mảng tường. Ngoài
việc tạo những bức tranh trên mảng tường, những tập truyện tranh chữ to tơi cịn
làm một số đồ dung trực quan cho trẻ hoạt động như: một số con rối dẹt có bánh
xe, có cử động tay chân và tận dụng những truyện tranh cũ, những sản phẩm vẽ
của trẻ, cắt dán bồi bìa cứng cho trẻ ghép tranh kể chuyện sáng tạo hoặc cắt rời
các con vật cho trẻ tự chọn các con vật đó để kể chuyện sáng tạo theo ý tưởng
của mình và làm ra các loại rối tay cho trẻ hoạt động theo nội dung, nhân vật của
câu chuyện trẻ kể, hay những đồ dùng di động dễ di chuyển, thiết kế có bánh xe
như sân khấu rối, la bàn, tranh lật, rối các loại, trẻ có thể xem kịch rối ngồi trời,
chơi đóng vai, kể chuyện sáng tạo… trẻ được hít thở khơng khí trong lành, thỏa
mái hoạt động theo ý thích của trẻ.


4
Ngồi ra tơi tìm kiếm những ngun vật liệu thiên nhiên sẵn có ở địa
phương như: Vải vụn, bìa, hộp bánh, chai nhựa, ống hút, nắp nhựa, vỏ sửa chua,
vỏ ngao, xò, rơm rạ sạch… tất cả những nguyên vật liệu cần đảm bảo an tồn,
khơng gây độc hại, khơng sắc nhọn, không nặng nề đối với trẻ. Từ những
nguyên vật liệu trên tôi đã tạo ra nhiều không gian học, không gian chơi và rất
nhiều dùng, đồ chơi, mô hình ngộ nghĩnh cho từng câu chuyện ở góc văn học,
thư viện cho trẻ. (Hình 1c, 1d)

Dựa và từng chủ đề tôi triển khai kế hoạch làm đồ dùng đồ chơi một cách
cụ thể mỗi chủ đề có một bộ đồ chơi phục vụ cho quá trình giảng dạy và vui
chơi tơi cho trẻ vào hoạt đơng chơi góc để trẻ tạo ra những đồ chơi làm bằng lá
cây, giấy vụn, hột hạt vẽ và tô màu những bức tranh, những hình ảnh trẻ sưu tầm
gợi mở cho trẻ tưởng tượng kể chuyện .
Từ những quần áo, vải vụn, ống giấy, tôi hướng dẫn trẻ làm ra những con
rối thật xinh xắn từ câu truyện cổ tích trẻ học được, sáng tạo ra những nhân vật
trẻ thích.
Ví dụ: Làm tranh bằng phế liệu, tơi dùng giấy bìa, vỏ hộp bánh cùng trẻ
cắt, vẽ, tơ màu các hình ảnh để thành tranh các nhân vật như Gấu, Cáo, Ong,
Nhím.. gây sinh động tạo hứng thú hơn cho trẻ hoạt động.
Khi kể chuyện tùy vào nội dung câu chuyện ở mỗi chủ đề tôi sẽ lựa chọn
đồ dùng phù hợp. Trước khi kể cho trẻ nghe tô tập sử dụng đồ dùng sao cho thật
khéo léo, uyển chuyển theo nội dung câu chuyện, có thể sử dụng rối, mơ hình,
mũ múa, tranh ảnh có màu sắc đẹp để gây hứng thú cho trẻ từ đó trẻ thích nghe
cơ kể, thích xem tranh và biết cách sử dụng đồ dùng và giữ gìn tranh ảnh.
Tơi ln khuyến khích trẻ cùng cơ sưu tầm, chuẩn bị học liệu, cùng cô
làm đồ chơi, cùng cô trang trí cho chủ đề, góc kể chuyện, sân khấu rối… Thu
hút sự tham gia của trẻ vào việc xây dựng môi trường hoạt động của lớp càng
nhiều càng tốt. Đây là những cơ hội quý báu để trẻ ứng dụng kiến thức và kỹ
năng trẻ đã được học theo cách của mình mà khơng bị gị bó.
Ví dụ: Với học liệu, đồ dùng đồ chơi thì trẻ cùng cơ tham gia chuẩn bị, tôi
chuẩn bị các hộp học liệu, đánh dấu kí hiệu riêng cho từng loại học liệu khác
nhau để trẻ có thể sưu tầm, tự phân loại vật liệu theo nhóm cơ đã chuẩn bị. Trẻ
cùng cơ trang trí sa bàn, sân khấu rối, cắt dán hình ảnh những truyện tranh sáng
tạo theo chủ đề, các con vật cắt rời cho trẻ tự chọn để trẻ ghép tranh hoặc làm
những con rối que, rối tay cho trẻ hoạt động theo nội dung, nhân vật của câu
chuyện. Như chủ đề “gia đình” tơi hướng dẫn trẻ tự in, vẽ, cắt, xé hình các thành
viên trong gia đình, đồ dùng nhu cầu của gia đình…, để dán lên trang trí góc chủ
đề, sân khấu rối, thư viện, làm abum câu chuyện, qua đó tơi thấy trẻ hoạt động

tích cực, hiệu quả.
Mỗi một chủ đề tơi trang trí, thay đổi hình ảnh tạo mơi trường thân thiện
khác nhau nhằm giúp trẻ làm quen với các câu từ, các tình tiết qua tranh ảnh,
giúp cho trẻ có sự tưởng tưởng về tác phẩm văn học đó.


5
Ví dụ: Ở chủ đề “nghề nghiệp” tơi dán tranh ảnh có nội dung về anh em
nhà thỏ trồng rau để trẻ có thể kể chuyện theo trình tự và sáng tạo. Hay ở chủ đề
“ Thế giới động vật” tôi chuẩn bị các con vật, thức ăn, cây cỏ để trẻ có thể vừa
tư duy, sáng tạo kể chuyện theo ý tưởng của mình vào những thời điểm phù hợp.
Qua việc tạo môi trường hoạt động cho trẻ trong nhóm lớp, tơi thấy đây là
một việc làm vơ cùng quan trọng bởi nó là chỗ dựa, là cơ sở vững chắc cho trẻ
làm quen tác phẩm văn học 1 cách dễ dàng. Từ môi trường hoạt động về nội
dung các bức tranh, các nhân vật trẻ được xem và được kể lại, được nói lên nhận
xét của mình về các đồ dùng đó. Như vậy ngơn ngữ cuả trẻ được phát triển một
cách phong phú và đa dạng.
Giải pháp 2: Thơng qua kể chuyện sáng tạo.
Đây là một hình thức kể chuyện mới với hình thức kể chuyện sáng tạo
giúp trẻ phát triển khả năng ngôn ngữ, diễn đạt, khích thích tư duy, tạo cơ hội
cho mọi đứa trẻ được chủ động, sáng tạo, tích cực, tự chiếm lĩnh kiến thức, kinh
nghiệm. Để thực hiện phương pháp này, tôi đã sử dụng đa dạng các hình thức để
dạy trẻ, thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo nhằm phát triển ngôn ngữ cho
trẻ.
Dạy trẻ sử dụng rối tay: Dạy trẻ sử dụng từng con một, kết hợp với lời
nói, ngôn ngữ biểu cảm cùng với cách diễn rối qua cử động các con rối đi lại,
những cử chỉ phù hợp với lời thoại trong truyện.
Ví dụ: Với câu chuyện “Chú Thỏ Thơng Minh”, tơi sử dụng mơ hình sân
khấu là một đầm lầy nhỏ, có hoa, cỏ, cây....nhân vật trong truyện được cách điệu
đầu chú thỏ là một quả bóng nhỏ, tơi dùng len móc thành chiếc váy cho chú thỏ

thêm ngộ nghĩnh.
Việc sử dụng rối trong tiết học gây được sự chú ý, tò mò của trẻ tạo điều
kiện cho trẻ tiếp cận với nghệ thuật múa rối, một môn nghệ thuật truyền thống
của dân tộc, sử dụng rối tay khi cho trẻ kể lại truyện không chỉ phát triển ngôn
ngữ cho trẻ qua việc kể chuyện sáng tạo mà còn giúp trẻ biết thể hiện các cử chỉ,
điệu bộ trong giao tiếp để tăng tính linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả. ( hình 2a)
Dạy trẻ được trải nghiệm qua hình tượng các nhân vật trong thơ chuyện
mơ hình sân khấu.
Ví dụ: Câu truyện “Ba cơ gái” tơi sử dụng mơ hình sân khấu có màn che,
rồi trang trí cảnh phù hợp, nhà, vật dụng, hoa, cỏ, cây,…nhân vật trong truyện
được cách điệu hố Sóc mặc quần áo, đội mũ, mang ba lô, đi bằng 2 chân. Khi
sử dụng rối, tôi hướng dẫn trẻ dùng cánh tay lồng vào con rối, điều khiển con rối
bằng ba ngón tay ( ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa) sao cho những cử chỉ phù hợp
với lời thoại trong truyện. Nhờ việc sử dụng nghệ thuật múa rối sẽ càng làm tăng
khả năng cảm thụ văn học của trẻ lên cao, đồng thời giúp trẻ khắc sâu các tác
phẩm văn học hơn.( hình 2b)
Cho trẻ kể chuyện theo tranh: Chuyện gì xảy ra trong bức tranh này? Các
con hãy kể cho cô về bức tranh ?


6
Ví dụ: Tranh một cậu bé đứng trên cây táo: Cậu bé này là ai? Tại sao cậu
ta lại đứng trên cây? Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? Cậu bé sẽ làm gì? Cậu ta có
cần giúp khơng? Ai sẽ giúp cậu bé? Người đó từ đâu đến? Tại sao họ lại giúp
cậu bé? Sau đó cậu bé nên làm gì? Nếu là con thì con sẽ làm gì?
Ngồi ra, tôi cho trẻ sử dụng bộ đồ chơi sáng tạo là “Hộp q kì diệu” tơi
cho đại diện của nhóm lên bấm đèn chọn bức tranh có nội dung câu chuyện và
nhóm đó phải kể lại chuyện tương ứng với bức tranh.
Dạy trẻ ghép tranh, nhân vật kể chuyện: chọn những tranh, nhân vật mà
trẻ thích ghép thành một dải câu chuyện theo ý thích sau đó kể từng tranh kết

hợp với lời nói chỉ dẫn thơng qua các nhân vật trong tranh
Ví dụ: Trị chơi “Cùng nhau thi tài” mỗi đội sẽ có những nhân vật và hình
ảnh rời các con sắp xếp và dán vào bức tranh, tự nghĩ cho đội mình 1 câu
chuyện và đặt tên câu chuyện cho đội mình. (Hình 2c)
Để trẻ tham gia tích cực vào hoạt động tơi cịn thiết kế một số trị chơi
trên máy gây hứng thú cho trẻ.
Ví dụ: Thiết kế hình ảnh các nhân vật kết hợp chèn âm thanh lời thoại của
nhân vật đó. Trẻ lên click chọn nhân vật trẻ thích sau đó nghe nhân vật đó thể
hiện rồi thể hiện lại, một số phần quà hấp dẫn, trẻ lên chọn phần quà lắng nghe
giọng nói của nhân vật rồi đốn tên nhân vật đó là ai, hay hình ảnh nhân vật, đồ
dùng dụng cụ có và khơng có trong chuyện sau đó cho trẻ chọn đúng sai
Để giúp trẻ nhớ nội dung truyện và kể lại câu chuyện một cách tốt nhất,
ngoài việc đọc kể cho trẻ nghe, tôi lựa chọn những đề tài thiết kế tạo hiêu ứng
lồng ghép âm thanh, nhạc đệm, hình ảnh các con vật, làm thành đoạn phim hoạt
hình, hay đưa đoạn phim quay sẵn phù hợp với nội dung như thế rất thu hút và
gây hứng thú hơn cho trẻ, để trẻ được trực tiếp xem các hành động, cử chỉ của
các nhân vật và qua đấy trẻ được tiếp xúc với giọng kể hay, với ngôn từ phong
phú và đúng với tính cách nhân vật. Qua đó trẻ biết nhận xét, đánh giá về đặc
điểm tính cách của các nhân vật thơng qua ngơn ngữ nói của mình.
Để giúp trẻ hình thành những kỹ năng cơ bản nhất thông qua hoạt động kể
chuyện sáng tạo là tăng cường tổ chức hoạt động nhóm, cho trẻ việc làm theo
cặp hoặc nhóm lớn, nhóm nhỏ, trẻ có nhiều cơ hội học hỏi lẫn nhau, đàm phán
với bạn, học cách lựa chọn giải quyết vấn đề cùng nhau, hoạt động nhóm sẽ
quan sát trẻ ở các mơi trường khác nhau. (Hình 2d)
Ví dụ: Tơi vẽ 4 bức tranh minh họa cho một câu chuyện
+ Tranh 1: Thỏ mẹ và thỏ con
+ Tranh 2: Thỏ mẹ cho thỏ con kẹo
+ Tranh 3: Thỏ ngồi ăn kẹo
+ Tranh 4: Thỏ cho sóc kẹo.
Sau đó tơi cho trẻ về nhóm thảo luận. Mỗi nhóm sẽ cử ra 1 bạn nhóm

trưởng, trong nhóm sẽ sắp xếp các bức tranh theo câu chuyện của nhóm mình và


7
thảo luận nội dung lời thoại cho 4 bức tranh đó. Trẻ đại diện nhóm trả lời hoặc
cơ sử dụng câu hỏi gợi ý để cả nhóm cùng trình bày kết quả thảo luận. Sau khi
trẻ trả lời xong cô mời những ý kiến nhận xét, bổ sung cho nhóm bạn bằng cách
đưa ra yếu tố thi đua: “Ai nhanh tay sẽ được nhận phần thưởng”, “Những ý
kiến đóng góp đều nhận được quà từ ban tổ chức”. Cô sử dụng hệ thống câu
hỏi: “Nhóm bạn trả lời như thế nào?”, “Ai có ý kiến khác khơng?”, “Đội nào
nói được nhiều nhất?”, “Bạn nào có thể bổ sung để có câu trả lời đầy đủ nhất
nào?”…
Lúc này trẻ được hoạt động nhóm khả năng trình bày, khả năng tưởng
tượng, xử lý tình huống của trẻ cũng sẽ tốt hơn.
Ngồi ra để kích thích được sự sáng tạo của trẻ tơi thường tập cho trẻ kể
chuyện bằng sa bàn. Chọn những nhân vật mà trẻ thích kết hợp di chuyển các
nhân vật trên sa bàn. Nói đến đâu đưa nhân vật ra đến đó, lời kể đi theo các nhân
vật trong chuyện mình sử dụng, giúp trẻ linh hoạt sử dụng đồ dùng trực quan kết
hợp với ngơn ngữ nói rõ ràng mạch lạc, có kỹ năng tổng hợp về “ mắt nhìn,
miệng nói, tai nghe, tay sử dụng”. ( Hình 2e)
Để nâng cao được tính sinh động, hiệu quả của giờ dạy. Với mỗi đề tài tôi
luôn suy nghĩ để tìm ra hình thức tổ chức mới lạ nhằm gây hứng thú và lơi cuốn
trẻ.(Hình 2g)
Giải pháp 3: Thơng qua tập cho trẻ đóng kịch.
Đóng kịch trẻ khơng chỉ biến mình thành người lớn, mà cịn phải hóa thân
thành các nhân vật với nội tâm phong phú, phức tạp với những cá tính khác biệt,
với những hành động vừa thực tế.
Để tạo khơng khí sơi nổi, hứng thú, vui tươi nhẹ nhàng trong tiết học thu
hút trẻ một cách thích thú, tơi chọn các tác phẩm có lời thoại của nhân vật trong
sáng, dễ thuộc, dễ nhớ, hành động nhân vật bước đầu thể hiện phức tạp, bắt đầu

xuất hiện kịch tính để trẻ có thể tạo diễn xuất theo tính cách của nhân vật, đồng
thời trẻ biết thể hiện tình cảm đối với các nhân vật trong truyện. Khi đóng kịch
trẻ dễ dàng nắm được nội dung, ý nghĩa tác phẩm, nắm được tính liên tục của
câu chuyện, điều này góp phần thúc đẩy mạnh sự phát triển tư duy, cảm thụ tác
phẩm một cách sâu sắc ở trẻ.
Tôi tiến hành lựa chọn trang phục, tác phẩm kịch bản ngắn gọn, xúc tích,
có thể lược bỏ bớt những gì không cần thiết. Cho trẻ tiếp xúc kịch bản văn hóa
bằng cách kể cho trẻ nhiều lần ở mọi lúc, mọi nơi, nghe toàn bộ tác phẩm bằng
nghệ thuật kể diễn cảm.
Đàm thoại với trẻ về tác phẩm, tôi chú ý đến việc khắc họa tính cách nhân
vật, hành động cử chỉ của nhân vật trong lời kể của trẻ một cách diễn cảm, đúng
ngữ điệu.
Phân vai, tập đóng vai: Lần lượt cho từng nhóm trẻ kết hợp với cử chỉ,
điệu bộ, lời nói, hành động của nhân vật.


8
Ví dụ: Truyện Cơ bé qng khăn đỏ ( trang phục khăn quàng màu đỏ, giỏ
đựng bánh, khăn trùm đầu cho bà, mũ rối chó sói, bác thợ săn, chiếc rìu). Cho
trẻ chọn các vai cơ bé, bà, chó sói, bác thợ săn, đọc lời thoại trích dẫn các nhân
vật trong truyện.
Khi diễn xong cho từng nhóm trẻ tự nhận xét về vai diễn của nhóm mình,
của nhóm bạn, từ đó trẻ sẽ cảm nhận và ghi nhớ tác phẩm văn học và phát triển
ngơn ngữ một cách sâu sắc.
Ví dụ: Truyện Ba cô gái: Tôi hỏi trẻ giọng của bà mẹ khi ốm nói với sóc
như thế nào?(Chậm rãi, ấm), giọng của sóc thì sao?(nhanh nhẹn), giọng của cơ
chị cả, chị hai khi biết mẹ ốm như thế nào?( thong thả, hời hợt, thiếu quan tâm),
Còn cách thể hiện của cô ba khi biết tin mẹ ốm?( giọng lo lắng, hốt hoảng thể
hiện sự quan tâm). Trẻ đọc lời thoại trích dẫn các nhân vật trong truyện.
Giúp trẻ tự tin, mạnh dạn thể hiện các vai mình được phân công, tham gia

lời thoại của từng nhân vật khác nhau giúp trẻ phát triển vốn từ, xử lý các tình
huống, biết yêu, ghét qua các nhân vật, hứng thú với hoạt động hiệu quả.
Hay đóng một vở kịch theo nội dung một câu chuyện mà trẻ đã được
nghe, đã học.
Ví dụ: Câu chuyện “ Cây khế”, trẻ chọn vai các nhân vật ( vai con chim
thần, vai vợ chồng người anh, vợ chồng người em, tôi chuẩn bị đầy đủ dụng cụ,
tiểu cảnh, trang phục, sân khấu để cháu tự tin thể hiện được vai diễn của mình
trong câu chuyện. ( Hình 3a)
Hình thức này thu hút được nhiều trẻ tham gia biểu diễn, có tác dụng động
viên, đồng thời khuyến khích trẻ tham gia vào các hoạt động nghệ thuật.
Qua hoạt động đóng kịch, đối thoại trực tiếp với bạn diễn từ đó ngơn ngữ
của trẻ phát triển một cách linh hoạt và khéo léo, trẻ truyền đạt lại nội dung câu
chuyện làm sống động lại tâm trạng, hành động, ngôn ngữ hội thoại của các
nhân vật trong truyện, giúp trẻ phát triển trí nhớ và giáo dục trẻ tinh thần tập thể
Đồng thời trẻ cảm thụ truyện một cách tích cực, sâu sắc hơn, trẻ nhớ nội dung
câu chuyện lâu hơn và khi đóng kịch trẻ sẽ tái tạo tính cách nhân vật một cách tự
nhiên chân thật và chính xác nhằm cung cấp kiến thức và phát triển ngơn ngữ
cho trẻ. (Hình 3b)
Biện pháp 4: Thơng qua dạy đồng dao, ca dao
Đặc điểm nổi bật của đồng dao, ca dao là thường bao gồm những câu gieo
vần dễ nhớ. Nội dung tươi vui, hấp dẫn, khơi gợi trí tị mị của trẻ. Khi đọc lên
có giai điệu ngân nga trẻ rất thích. Ngơn ngữ trong đồng dao, ca dao là ngơn ngữ
hát, kể, giàu tính nhạc, giàu hình ảnh, có sức tạo hình. Nó rất phù hợp với việc
rèn cho trẻ phát âm, tích lũy vốn từ, hiểu nghĩa từ, lối nói trơi chảy, uyển
chuyển.
Khi dạy tơi chọn những đồng dao ngắn, vừa phải, dễ thuộc, tìm những
động tác minh họa đơn giản để dạy trẻ dễ nhớ, những đồng dao, ca dao cùng các
nguồn tài liệu được chọn lựa phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ và các nội



9
dung sách có liên quan đặc thù văn hố địa phương phù hợp, có nội dung để
giúp trẻ sáng tạo, tưởng tượng. Ngoài ra việc cho trẻ làm quen với một số bài hát
đồng dao được chuyển thể từ thơ, truyện trong chương trình cũng tạo được hứng
thú cho trẻ, trẻ hát mau thuộc.( Hình 4a)
Ví dụ: “Xúc xắc xúc xẻ”, “Chi chi chành chành”, “Rềnh rềnh ràng ràng”
Để phát huy tính tích cực của ngơn ngữ qua các bài đồng dao, ca dao đối
với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ thì việc tổ chức các hoạt động cho trẻ đọc
thuộc đồng dao, ca dao là rất quan trọng. Tôi đã đưa ca dao, đồng dao vào các
hoạt động có chủ đích và được tiến hành như các bài thơ, truyện phù hợp với độ
tuổi.
Ví dụ: Chủ đề gia đình: Dạy trẻ đọc bài đồng dao“ Gánh gánh gồng
gồng”. Cơ giới thiệu chương trình “ Ngày hội đồng dao”. Cho trẻ quan sát 1 số
các trò chơi dân gian. Cho trẻ chơi trò chơi “ Kéo cưa lừa sẽ”
Đàm thoại với trẻ về nội dung bài đồng dao. Sau mỗi câu hỏi tơi đọc
những câu đồng dao trích dẫn cho trẻ để trẻ nhớ được nội dung bài đồng dao.
Khi trẻ đọc đồng dao, tôi hướng dẫn trẻ đọc sao cho đúng từ, thể hiện được nhịp
điệu của bài đồng dao qua các nhạc cụ của lớp.
Hay chủ điểm thế giới thực vật dạy trẻ đọc bài “ Lúa ngô là cô đậu nành”.
Thế giới động vật dạy trẻ đọc bài đồng dao “Con vỏi con voi”...
Mặt khác tôi còn lồng ghép hoạt động đọc đồng dao, ca dao cho trẻ ở
phần vào bài các tiết hoạt động có chủ đích khác, các hoạt động chơi trị chơi
dân gian được tổ chức ở hoạt động ngoài trời, hoạt động đón và trả trẻ, hoạt
động sau khi ngủ dậy. Bên cạnh việc dạy trẻ đọc thuộc những bài đồng dao, ca
dao thì tơi ln tìm tịi những bài đồng dao, ca dao có nội dung của các chủ điểm
mà trẻ đang học giúp trẻ dễ thuộc lời, thích thú đọc diễn cảm, thích chơi các trị
chơi ứng với lời ca dao đồng dao.
Nhằm đáp ứng nhu cầu chơi của trẻ, tôi đã tận dụng không gian cũng như
thời gian trong ngày hợp lý để phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua việc cho trẻ
đọc đồng dao, ca dao. Bên cạnh việc dạy trẻ đọc đồng dao ca dao tôi lồng ghép

các bài đồng dao vào các trò chơi dân gian để tạo hứng thú cho trẻ khi đọc nhằm
phát triển ngơn ngữ cho trẻ một cách tốt nhất.
Ví dụ: Bài “Dung dăng dung dẻ”
Dung dăng / dung dẻ

Cho cháu / về quê

Cho gà/ bới bếp

Dắt trẻ / đi chơi

Cho dê/đi học

Xì xà/xì xụp.

Đến ngõ / nhà trời

Cho cóc/ ở nhà

Ngồi thụp/ xuống đây.

Lạy cậu / lạy mợ
Tôi dạy trẻ đọc theo nhịp 2-2. Trẻ nắm tay nhau, vừa đi vừa đọc và tay
vung theo nhịp của bài đồng dao. Đến câu “Ngồi thụp xuống đây” trẻ nắm tay
nhau ngồi thụp xuống sau đó đứng dậy lại đi tiếp.


10
Được vui chơi và đọc, hát các bài đồng dao, ca dao tơi nhận thấy trẻ rất
thích thú. Trị chơi không giới hạn số người chơi nên tất cả các trẻ đều được chơi

từ đó trẻ được nói nhiều hơn.
VD: Bài “Lúa ngô là cô đậu nành”, “Chim ri là dì sáo sậu”, “Con kiến mà
leo cành đa”... là những câu hát đồng dao mà trẻ rất thích đọc vì nó đem lại tiếng
cười vui vẻ, tạo khơng khí thi đua, tự nhiên, cởi mở.
Ngoài những bài lựa chọn để giúp trẻ học đọc theo chủ đề, chủ điểm, tôi
luôn khuyến khích trẻ tham gia đọc thuộc đồng dao, ca dao trẻ đã thuộc từ cha
mẹ, anh chị, bạn bè. Tôi thường cho trẻ đọc đi đọc lại nhiều lần để trẻ nhớ, thuộc
sau đó tơi u cầu trẻ đọc nhanh dần lên, tổ chức thi đua đọc nhanh giữa các tổ
với nhau. Đó là cách làm cho trẻ rèn luyện bộ máy phát âm, trau dồi ngôn ngữ,
sự nhạy bén, linh hoạt của tư duy.
Biện pháp 4: Thông qua dạy trẻ đọc diễn cảm.
Nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ là một nhiệm vụ có tầm quan trọng hàng
đầu ở các lứa tuổi, nó đặc biệt quan trọng trong quá trình tổ chức hoạt động dạy
trẻ đọc thơ diễn cảm cho trẻ em ở lứa tuổi mầm non. Đó là một trong những
phương pháp rèn luyện phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ. Khi đọc thuộc lịng thơ
trẻ sẽ làm cho ngơn ngữ của mình thêm sinh động, uyển chuyển, biểu cảm giúp
trẻ thể hiện tình cảm, suy nghĩ của tác giả.
Với lứa tuổi này tôi chọn các bài thơ có sắc thái khác nhau: êm dịu, nhẹ
nhàng, vui vẻ, hóm hỉnh... nhằm giúp trẻ cảm nhận cái hay, cái đẹp trong ngôn
ngữ tiếng việt và trong cuộc sống, giúp trẻ phát triển đời sống tình cảm. Để
trẻ cảm thụ tốt ngôn ngữ của câu thơ, điều quan trọng nhất là phải đọc diễn cảm,
thể hiện nhịp điệu, âm điệu và sắc thái của bài thơ.
Để trẻ cảm thụ tốt bài thơ, nên trò chuyện với trẻ về nội dung bài thơ, giải
thích nghĩa của một số từ, ý của các câu thơ, vẻ đẹp của các câu thơ mô tả, kết
hợp với tranh minh họa hoặc làm các động tác minh họa. Tôi đọc cho trẻ nghe
nhiều lần, đọc thơ theo cá nhân, theo nhóm, luyện tập cách đọc diễn cảm.
Để thu hút trẻ đọc thơ hơn thì việc chuẩn bị đồ dùng trực quan trong dạy
học để gây hứng thú cho trẻ cũng rất quan trọng, trong quá trình dạy trẻ đọc thơ
diễn cảm tơi sử dụng các bức tranh thơ, sa bàn, con rối, vật thật.
Tôi lựa chọn các hình thức tổ chức phù hợp, hấp dẫn như qua tổ chức hội

thi “Bé yêu thơ”, câu đố, tham quan. Tôi thường lựa chọn những đề tài và lồng
ghép ứng dụng công nghệ thông tin một cách phù hợp để đổi mới phương pháp
giảng dạy, kích thích sự chú ý, hứng thú của trẻ vào hoạt động.
Ví dụ: Thiết kế tạo hiệu ứng, màu sắc phù hợp, tạo hiêu ứng lồng ghép
âm thanh. Chép các bài nhạc bằng phần mềm Encore, tạo các hình ảnh, scan nội
dung bài hát hoặc âm thanh các nhạc cụ, chuyển các bức tranh có sẵn của bài thơ
thành đoạn phim hoạt hình, hay ta có thể đưa đoạn phim quay sẵn phù hợp với
nội dung như thế rất thu hút và gây hưng thú hơn cho trẻ.


11
Thiết kế hình ảnh để trẻ đọc thơ theo hình ảnh sau đó cho trẻ nghe và xem
đáp án.
Ví dụ: Dạy trẻ đọc thơ bài “Tình bạn” Cơ cùng trẻ hát bài bát “Lớp chúng
mình” trị chuyện với trẻ về bài hát, giới thiệu cho trẻ bài thơ “Tình bạn”. Đàm
thoại với trẻ về nội dung bài thơ. Sau mỗi câu hỏi tơi đọc những câu thơ trích
dẫn cho trẻ để trẻ nhớ được nội dung bài thơ. Trẻ đọc thơ, cô hướng dẫn trẻ đọc
sao cho đúng từ thể hiện được nhịp điệu của bài thơ.
Tơi thường xun trị chuyện cho trẻ đọc lại bài thơ diễn cảm, chú ý sửa
sai, rèn những từ nói ngọng, nói đớt ở một số trẻcũng như cách phát âm, giúp trẻ
phát âm đúng, chuẩn, rõ lời, cho trẻ nhắc lại nhiều lần để trẻ nhớ.
Ví dụ: Những từ trẻ thường phát âm khơng chính xác: Lá - ná, cá rơ - cá
nhơ, không -hông, lên- nhên, lơ lửng – hơ hửng, …
Tôi luôn hướng dẫn giúp trẻ phát âm, dạy trẻ thuộc nhiều thơ làm cho vốn
từ của trẻ ngày càng phong phú, trẻ có thể phân biệt từ láy như “lung linh, lấp
lánh” hiểu từ chính xác hơn như “run cầm cập, kêu ầm ĩ”,… bước đầu cảm nhận
từ văn học “đẹp như trăng rằm, đẹp như tơ nhuộm”… Hiểu và có vốn từ nhiều
sẽ giúp trẻ diễn đạt trơi chảy, lưu lốt hơn và trẻ có thể đọc diễn cảm thể hiện
điệu bộ phù hợp khi đọc thơ.
Tôi luôn động viên khuyến khích trẻ để nhận được câu trả lời cũng như

đặt câu hỏi tốt hơn từ trẻ, để trẻ học tập có hiệu quả. Những lời động viên, khen
ngợi trẻ kịp thời sẽ làm cho trẻ cảm thấy tự tin hứng thú khi tham gia các hoạt
động giúp trẻ lĩnh hội được kiến thức, câu từ, cách diễn đạt, phát triển ngơn ngữ,
trẻ có thể nói rõ để người nghe hiểu được, trẻ kể lại được sự việc theo trình tự,
trẻ đọc thuộc bài thơ có mở đầu và kết thúc, thể hiện điệu bộ khi đọc.
Dạy trẻ nói đủ câu, tơi nói trước trẻ nhắc lại nhiều lần hoặc cho trẻ khác
giúp đỡ các bạn.
Trong giờ học tôi ln chú ý bao qt chung để tìm hiểu đặc điểm của
từng trẻ để gần gũi động viên trẻ giúp đỡ trẻ, đưa trẻ vào hoạt động có nề nếp,
hứng thú hơn.
Giải pháp 6: Thông qua dạy các hoạt động khác.
Tôi đã vận dụng phù hợp từng đề tài để dạy trẻ dạy vào các thời điểm
thích hợp. Trong một giờ hoạt động chung trẻ không thể thuộc được câu chuyện
hoặc thuộc bài thơ, vì ở lứa tuổi này trẻ rất dể nhớ mà mau quên. Ta cần cho trẻ
phát triển ngôn ngữ thông qua các hoạt động khác như: KPKH, tạo hình, âm
nhạc, hoạt động ngồi trời, hoạt động góc là một biện pháp giúp trẻ ghi nhớ và
tạo thói quen thích đọc sách, u văn học vừa là để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Để giúp trẻ khám phá khoa học thơng qua việc trị chuyện, đàm thoại,
quan sát, trị chơi...thì việc kết hợp sử dụng tác phẩm văn học trong giờ học góp
phần tạo cho trẻ có hứng thú, chuyển tiếp giữa các bước nhẹ nhàng, logic.


12
Ví dụ: Khi dạy trẻ đề tài: “Hoa cúc em yêu”. Yêu cầu trẻ nhận biết màu
sắc, mùi hương, cấu tạo của hoa cúc. Cơ có thể lồng ghép kể cho trẻ nghe câu
chuyện: “Hoa cúc trắng” hoặc đọc bài thơ: “Hoa cúc vàng”.
Khi dạy đề tài “Chú bộ đội” nghe bài “Chú bộ đội hành quân trong mưa”,
“Chú giải phóng qn”,... giúp trẻ hiểu được cơng việc của các chú bộ đội phải
đứng gác giữ độc lập cho tổ quốc.
Trong hoạt tạo hình ngồi việc trẻ thực hành, tơi cho trẻ đọc nhiều bài thơ,

ca dao, đồng dao có nội dung tương đối phù hợp với đề tài đó. Sau đó từ nội
dung bài thơ tơi kết hợp đàm thoại.
Ví dụ: Vẽ đề tài: “Vẽ cây cải”. Cho trẻ đọc thơ: “Bắp cải xanh”. Các con
vừa đọc bài thơ nói về cây rau nào? Trong bài thơ cây bắp cải có màu gì?
Những câu hỏi đàm thoại đó giúp trẻ có thêm một số ý tưởng trong q
trình trẻ vẽ để tạo ra sản phẩm.
Từ những bài vẽ, xé dán thành những nhân vật nghộ nghĩnh, đáng yêu của
trẻ, trẻ có thể kể thành những câu chuyện sáng tạo của mình dưới sự gợi ý,
hướng dẫn của cơ. (Hình 6a)
Trong giờ âm nhạc dạy trẻ cảm thụ bài hát trong các bước chuyển tiếp cơ
có thể lồng ghép thơ, câu đố, hò vè phù hợp với chủ điểm để tiết học đạt hiệu
quả cao hơn.
Ví dụ: Dạy hát: “Hạt gạo làng ta” tôi kết hợp trẻ đọc thơ “Hạt gạo làng ta”
giúp cho trẻ cảm nhận nội dung bài thơ sâu sắc, hiểu được các từ khó, từ láy qua
bài thơ từ đó trẻ sẽ biết vận dụng các từ đó vào cuộc sống hàng ngày và góp
phần cho tiết học thêm sinh động, phong phú.
Có nhiều bài hát có cùng chủ đề với bài thơ, tuy là lời bài hát khơng hồn
tồn trùng với lời bài thơ nhưng mang ý nghĩa mở rộng nhận thức cho trẻ trong
tiết học đó qua các chủ đề như: Thực vật, động vật, ngành nghề, mùa xuân, quê
hương. Trẻ sẽ được nghe, được biết nhiều từ, nhiều cụm từ, nhiều câu với cảm
nhận khác nhau, với nhiều thể loại sẽ làm giàu vốn hiểu biết.
Tôi tổ chức cho trẻ thường xuyên được tham gia các hoạt động chơi ngồi
trời.
Ví dụ: Đầu năm tôi đã chuẩn bị đồ dùng di động dễ di chuyển, thiết kế có
bánh xe như sân khấu rối, la bàn, tranh lật, rối các loại, trẻ có thể xem kịch rối
ngồi trời, chơi đóng vai, kể chuyện sáng tạo… trẻ được hít thở khơng khí trong
lành, thỏa mái hoạt động theo ý thích của trẻ.
Qua hoạt động góc mà chủ đạo là hoạt động đóng vai theo chủ đề được ví
là “xã hội thu nhỏ” của trẻ, vì thế trẻ sẽ được chính mình hoạt động trải nghiệm
khám phá.

Tơi tổ chức cho trẻ chơi ở các góc chơi, trẻ được tham gia chơi rất hồn
nhiên mạnh dạn, có thể chơi trị chơi:" cơ giáo " ở góc phân vai, một cháu làm


13
cô giáo dạy cháu đọc thơ hoặc kể chuyện giúp trẻ nhớ lại trình tự chuyện hoặc
cũng cố những bài thơ đã được học . ( Hình 6b)
Buổi sáng giờ đón trẻ tơi cho trẻ được chơi theo ý thích trong đó góc sách
truyện tơi ln khuyến khích trẻ tham gia. Trẻ sẽ được “đọc”, xem các câu
truyện mà trẻ thích, được chơi với các con rối trẻ yêu, được nghe các câu chuyện
bài thơ mà trẻ cảm thấy hứng thú, hướng dẫn trẻ tự xếp tranh, xem tranh và kể
chuyện theo tranh mà mình vừa xếp được… Khi trẻ được tiếp xúc nhiều lần trẻ
sẽ dần dần ngôn ngữ phát triển hơn. ( Hình 6c, 6d)
Giải pháp 7 : Phối hợp với phụ huynh phát triển ngôn ngữ thông qua
hoạt động LQVH.
Như chúng ta đã biết trẻ thơ rất dễ nhớ và mau quên, nên phải cần được
tiếp cận thường xuyên ở mọi nơi mọi lúc, thời gian trong một ngày ở trường
không đủ để cô luyện tập cho tất cả các cháu. Trong cuộc họp đầu năm tôi nêu
tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động làm quen văn
học, việc tạo môi trường giáo dục cho trẻ để phát huy tính chủ động, tích cực
qua hoạt động của trẻ tới các bậc phụ huynh, nêu những thực trạng yếu kém của
trẻ, đề nghị các bậc phụ huynh phối hợp cùng cô giáo để giúp trẻ phát huy tối đa
khả năng của bản thân trẻ.
Tơi sử dụng 1 mảng tường ở ngồi cửa lớp để làm bảng tuyên truyền với
phụ huynh về chương trình dạy, thay tin hàng tuần để phụ huynh biết và phối
hợp với giáo viên để rèn luyện thêm ở nhà, trao đổi những nội dung hoạt động
của trẻ ở lớp, những câu chuyện, bài thơ, đồng dao, cao dao trẻ được học ở
trường, yêu cầu phụ huynh về nhà cùng trao đổi với trẻ và gợi ý để trẻ tìm hiểu,
rèn thêm kiến thức, vốn từ, giúp trẻ hiểu được những câu chuyện, bài thơ, đồng
dao, cao dao mà cô cung cấp cho trẻ một cách dễ dàng hơn. Như vậy ngôn ngữ

của trẻ phát triển một cách phong phú và đa dạng.
Tôi tổ chức 1 hoạt động phát triển ngơn ngữ như hoạt động làm quen văn
học dưới hình thức kể chuyện sáng tạo để phụ huynh được trực tiếp quan sát trẻ
học. Qua đó, tơi trao đổi với phụ huynh những trẻ chưa tập trung chú ý tiếp thu
kiến thức, những trẻ nói ngọng, nói lắp để phối hợp cùng với gia đình giúp trẻ
phát âm chuẩn hơn, tích hơn trong các hoạt động.
Tơi cịn đề xuất việc làm đồ dùng đồ chơi để phục vụ cho các hoạt đơng của
trẻ, nhiều phụ huynh đã tích cực trong việc hỗ trợ các nguyên vật liệu phế thải,
tham gia làm các đồ dùng đồ chơi từ các vật liệu phế thải đã giúp cho môi trường
giáo dục phát triển ngơn ngữ của lớp đa dạng, phong phú, nhóm lớp đủ đồ dùng
đồ chơi cho trẻ tham gia tốt các hoạt động.
Hàng tháng tuyên truyền với phụ huynh về chủ đề, đề tài trẻ học, để phụ
huynh nắm bắt tất cả các hoạt động của trẻ được phát triển như thế nào và có
biện pháp kích thích tạo cho8 trẻ ham thích học hỏi, từ đó tơi phát hiện những
tiến bộ, thay đổi, những biểu hiện của trẻ diễn ra hàng ngày, để điều chỉnh nội
dung và phương pháp giáo dục trẻ. Qua giờ trả trẻ tơi cịn trao đổi thêm để phụ


14
huynh nắm được khả năng, năng khiếu của từng trẻ, bàn bạc tìm biện pháp giúp
trẻ phát huy điểm mạnh, khắc phục điểm yếu.
1.2. Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết (nếu là giải pháp cải
tiến giải pháp đã biết trước đó tại cơ sở):
Nhà trường đầu tư đầy đủ đồ dùng cơ sở vật chất phục vụ cho việc cho
hoạt động phát triển ngôn ngữ với đầy đủ các đồ dùng tranh ảnh, sách, tranh
truyện, rối, sân khấu…phù hợp với từng độ tuổi theo các chủ đề rất đẹp và lôi
cuốn trẻ. Với những giải pháp tạo môi trường cho trẻ hoạt động phong phú gây
hứng thú, khích thích sự tị mị, khám phá và sự chú ý của trẻ. Giúp trẻ phát triển
toàn diện về các mặt: Thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, giúp trẻ mạnh dạn tự
tin, hình thành yếu tố đầu tiên của nhân cách, khơi dậy và phát triển tối đa

những khả năng tiềm ẩn, năng lực tư duy, óc sáng tạo của trẻ. Tạo cho trẻ cơ hội
trao đổi, trải nghiệm, chia sẻ ý kiến, giúp đỡ lẫn nhau. Trẻ tham gia hoạt động
tích cực, tự tin, hứng thú.
Bên cạnh đó, trong q trình tổ chức hoạt động kể chuyện sáng tạo cơ cho
trẻ kể lại chuyện có sẵn trên nền tranh cô đã chuẩn bị hoặc xếp tranh theo gợi ý cô
và cung cấp nội dung cho trẻ kể nên việc hoạt động nhóm thường khơng có hiệu
quả, chủ yếu trẻ cầm tranh để chuẩn bị lên xếp theo thứ tự đã được phân trước,
thường tổ chức hoạt động kể chuyện sáng tạo như một nội dung hỗ trợ cho hoạt
động khác, không tổ chức như một hoạt động chính thức. Đa số trẻ cịn nhút nhát
và thiếu tự tin, nhận thức của trẻ chưa đồng đều, chưa mạnh dạn tham gia vào
các hoạt động, hầu hết trẻ còn bị thụ động, phụ thuộc nhiều vào cô. Trẻ giao tiếp
với nhau chủ yếu bằng tiếng mẹ đẻ, trẻ nói ngọng, nói đớt cịn nhiều. Một số phụ
huynh chưa có nhận thức cao về tầm quan trọng của bậc học mầm non, chưa
thực sự quan tâm đến việc học của trẻ, nên khả năng cảm thụ văn học đặc biệt là
ngơn ngữ cịn hạn chế. Để thay đổi thêm việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ bản
thân tôi cũng nắm bắt và thực hiện phát triển ngôn ngữ thông hoạt động làm
quen văn học. Với từng bài dạy, tôi đưa ra hệ thống câu hỏi đã chuẩn bị có tính
lơgic theo phương pháp lấy trẻ làm trung tâm để phát huy trí tưởng tượng,
những cảm xúc của trẻ, tính sáng tạo phù hợp với từng nội dung của hoạt động
mà trẻ khơng bị áp đặt một cách gị bó.
Muốn cho trẻ cảm thụ tốt âm điệu, nhịp điệu bài thơ khi đọc mẫu cho trẻ
nghe cô nên đọc thật êm dịu, nhẹ nhàng, chú ý ngắt nhịp, đọc nhấn mạnh vào
các từ mang tính nhịp điệu hoặc khi kể chuyện trẻ nghe cơ kể phải diễn cảm, thể
hiện giọng nói điệu bộ, cử chỉ từng nhân vật trong truyện. Nâng cao kỹ năng sử
dụng ngôn ngữ, giọng điệu trong kể chuyện sáng tạo và kể chuyện theo trí nhớ,
đặt các câu hỏi giải thích, phỏng đốn, suy luận ở trẻ. Cho trẻ phát triển ngơn
ngữ dưới nhiều hình thức khác nhau. Kết hợp với với phụ huynh, tạo uy tín và
tiềm năng đối với phụ huynh và đối với trẻ.
1.3. Nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược điểm
hiện tại (nếu là giải pháp cải tiến giải pháp đã biết trước đó tại cơ sở):



15
Đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ thông
qua hoạt động làm quen văn học ”, tơi nhận thấy bước đầu có những thành công
rõ nét, để đạt được hiệu quả trong hoạt động phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt
động làm quen văn học, bản thân đã sử dụng một số biện pháp mang tính khả
thi, phù hợp với lớp.
Giải pháp mà tơi đưa ra là đổi mới nắm được nhu cầu hứng thú, khả năng
phát triển tư duy của từng trẻ để có cách giảng dạy phù hợp giúp trẻ bày tỏ, trao
đổi và giao tiếp với nhau trong học tập cũng như vui chơi. Một môi trường đẹp,
phong phú và phù hợp sẽ gây hứng thú cho trẻ, trẻ sẽ chú ý và ghi nhớ có chủ
định.
Bên cạnh một mơi trường hoạt động với đầy đủ các loại đồ dùng trực
quan đa dạng phong phú, việc tổ chức cho trẻ học hoạt động kể chuyện sáng tạo
được diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Trẻ được hoạt động nhóm là một
điều giúp trẻ học hỏi lẫn nhau, đàm phán, tương tác với bạn, trẻ có thể vận dụng
sáng tạo trong câu chuyện của mình thêm phong phú hơn, trẻ có thể thực hiện
nhiệm vụ một cách độc lập.
Lựa chọn đổi mới hình thức tổ chức khi đóng kịch trẻ dễ dàng nắm được
nội dung, ý nghĩa tác phẩm, nắm được tính liên tục của câu chuyện, điều này
góp phần thúc đẩy mạnh sự phát triển tư duy, cảm thụ tác phẩm một cách sâu sắc
ở trẻ hướng lấy trẻ làm trung tâm, phù hợp với tâm lý lứa tuổi, khả năng của trẻ
để trẻ hứng thú tham gia hoạt động và đạt kết quả tốt nhất.
Ngôn ngữ trong đồng dao, ca dao là ngơn ngữ hát, kể, giàu tính nhạc, giàu
hình ảnh, có sức tạo hình. Nó rất phù hợp với việc rèn cho trẻ phát âm, tích lũy
vốn từ phong phú, hiểu nghĩa từ, lối nói trơi chảy, uyển chuyển, giúp trẻ sáng
tạo, tưởng tượng.
Nhằm giúp trẻ hình thành khả năng cảm thụ và khả năng bộc lộ cảm xúc
trong quá trình tổ chức hoạt động việc dạy trẻ thông qua đọc thơ diễn cảm là

một trong những phương pháp rèn luyện phát triển ngơn ngữ nói cho trẻ, để hình
thành và rèn luyện khả năng làm giàu vốn từ, phát âm đúng, nói mạch lạc...làm
cho ngơn ngữ của mình thêm sinh động, uyển chuyển, biểu cảm giúp trẻ thể hiện
tình cảm, suy nghĩ của tác giả.
Trong một giờ hoạt động chung trẻ không thể thuộc được câu chuyện
hoặc thuộc bài thơ, vì ở lứa tuổi này trẻ rất dể nhớ mà mau quên. Việc phát triển
ngôn ngữ thông qua dạy các hoạt động khác nhằm đáp ứng nhu cầu tạo điều
kiện cho trẻ chơi mà học, học bằng chơi, tận dụng không gian cũng như thời
gian để tổ chức cho trẻ thường xuyên được tham gia các hoạt động chơi ngồi
trời, các góc chơi và một số hoạt động học một cách tích cực .
Sự liên kết, trao đổi, phối hợp chặt chẽ với phụ huynh là một trong những
công tác hết sức quan trọng đối với giáo viên mầm non, và sự quan tâm hỗ trợ
của phụ huynh là động lực là phương tiện giúp cô và trẻ dạy tốt, học tốt.
1.4. Khả năng áp dụng của sáng kiến:


16
Sáng kiến kinh nghiệm “ Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ thông qua
hoạt động làm quen văn học” áp dụng có hiệu quả tại nhóm lớp, đơn vị trường
mầm non Đại Minh và có khả năng áp dụng trong trường mầm non tồn Huyện,
có các giải pháp xây dựng điều kiện về môi trường, đồ chơi, tạo được mơi
trường học tập cởi mở, phát huy tính tư duy, sáng tạo phù hợp và hiệu quả ở lứa
tuổi mầm non đáp ứng việc thực hiện chuyên đề giáo dục lấy trẻ làm trung tâm
và chuyên đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động kể chuyện sáng
tạo do cấp học triển khai.
1.5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Để đáp ứng yêu cầu tổ chức các biện pháp phát triển ngơn ngữ cần:
Có đầy đủ cơ sở vật chất: Phịng học rộng có đủ ánh sáng, thoáng mát.
Trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho các hoạt động đầy đủ.
Tham gia đầy đủ các buổi tập huấn, chuyên đề, thao giảng chuyên môn do

PGD và nhà trường tổ chức về nội dung phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt
động kể chuyện sáng tạo.
Nắm vững phương pháp các hoạt động, yêu cầu của từng đề tài từ đó
nghiên cứu soạn giáo án tốt, tổ chức tiết học nhẹ nhàng, linh hoạt, sáng tạo, để
lôi cuốn trẻ chú ý tập trung vào các hoạt động phát triển ngôn ngữ.
Trẻ cùng một độ tuổi phát triển bình thường về thể chất và tinh thần
1.6. Hiệu quả sáng kiến mang lại:
Sau khi tiến hành khảo sát và thử nghiệm tại nhóm lớp mình phụ trách, tơi
thấy mang lại nhiều lợi ích về mặt kinh tế cũng như xã hội:
- Hiệu quả về kinh tế:
Tận dụng nhiều nguyên vật liệu có sẵn ở địa phương, tiết kiệm được kinh
phí, làm và sưu tầm nhiều đồ dùng đồ chơi hình ảnh các góc văn học, thư viện
từng chủ đề.
Có 1 bộ bảng sách vải, rối các loại, một bảng gài và một bảng dính cho trẻ
ghép tranh, một sân khấu rối, sa bàn kể chuyện sáng tạo cho cô và trẻ.
- Hiệu quả về xã hội:
Đối với trẻ:
Thời gian qua tỷ lệ trẻ đạt tốt, khá và các tiêu chí tăng lên rõ rệt, trẻ biết
thể hiện tác phẩm một cách tự tin như trả lời câu hỏi lưu lốt, biết kể lại chuyện,
đóng vai các nhân vật trong câu chuyện, thể hiện đúng nhịp điệu của bài thơ,
hứng thú tham gia hoạt động.
Những trẻ nhút nhát, thiếu tự tin, không chịu thực hiện giờ đã tiến bộ rõ
rệt, ham thích kể chuyện, đọc thơ, đồng thời ngơn ngữ của trẻ phát triển mạch
lạc hơn.


17
95% số trẻ trong lớp linh hoạt trong giao tiếp, phát biểu to, rõ ràng, nói
trọn câu, trẻ hiểu được nội dung bài thơ, câu chuyện và trả lời một cách rõ ràng
và kể lại được chuyện theo hiểu biết của mình, trẻ biết thể hiện ngơn ngữ, giọng

điệu trong kể chuyện sáng tạo và kể chuyện theo trí nhớ, trả lời mạch lạc, tròn
câu, đọc thơ diễn cảm.
Đối với giáo viên
Mang lại nhiều kỹ năng và kinh nghiệm cho bản thân, lựa chọn chủ đề sát
với đặc điểm nhận thức của trẻ mình trực tiếp dạy. Qua đó hình thành các kỹ
năng, tác phong nghiệp vụ, sáng tạo trong các hình thức tổ chức các hoạt động,
thu hút trẻ hứng thú, tích cực tham gia vào tiết học.
Tạo được mơi trường cho trẻ hoạt động tốt ở các góc, đặc biệt là góc văn
học, tạo ra nhiều đồ dùng, đồ chơi phong phú, đa dạng, sử dụng có hiệu quả
trong việc phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động làm quen văn học.
Đối với phụ huynh
Qua sự tiến bộ rõ rệt của trẻ, phụ huynh nhận thức rõ được tầm quan trọng
của việc phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động làm quen văn cho trẻ các bậc
phụ huynh cũng tỏ ra đồng cảm, chia sẻ hơn với công việc của cô giáo, thường
xuyên phối hợp chặt chẽ với cơ với nhà trường trong cơng tác chăm sóc giáo dục
trẻ .
Đóng góp nhiều nguyên vật liệu cho việc làm đồ chơi sáng tạo phục vụ
cho các hoạt động của trẻ đã giúp cho môi trường giáo dục của lớp đa dạng,
phong phú, nhóm lớp đủ đồ dùng đồ chơi cho trẻ tham gia tốt các hoạt động.
Mặt khác, phụ huynh cũng hứng thú trong việc làm các đồ dùng đồ chơi như: tranh
ảnh, sách báo, truyện theo chủ đề, truyện sáng tạo, khâu rối tay giống vải, góp
phần phát triển ngôn ngữ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục trẻ tại trường
đạt kết quả cao.
Những thông tin cần được bảo mật - nếu có: Khơng có
Danh sách những thành viên đã tham gia áp dụng thử hoặc áp
dụng sáng kiến lần đầu - nếu có:
ST
T

Họ và tên


1

Ngày
tháng
năm
sinh

Nơi cơng Chứ
tác
c
danh

Trình độ
Nội dung
chun cơng việc hỗ
mơn
trợ

1991

Trường
MN Đại
Minh

Giáo
viên

Đại học
SPMN


Áp dụng
SKKN này
tại lớp Lớn 1

1995

Trường
MN Đại

Giáo
viên

Đại học
SPMN

Áp dụng
SKKN này

Nguyễn Thị Nguyên
2

Phạm Thị Xuân Diệu


18
Minh
3

1989


Trường
MN Đại
Minh

tại lớp Lớn 2
Giáo
viên

Đại học
SPMN

Áp dụng
SKKN tại
lớp Lớn 3

Giáo
viên

Đại học
SPMN

Áp dụng
SKKN tại
lớp lớn 4

Nguyễn Thị P. Thảo
Nguyễn Thị Hoa

1983



19
Hồ sơ kèm theo
Phụ lục:

(Hình 1a, 1b)

(Hình 1c, 1d)


20

(Hình 2a, 2b)

(Hình 2c, 2d)


21

(Hình 2g, 3a)

(Hình 3b, 4a)


22

(Hình 6a, 6b, 6c)



23



×