Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

một số kiến nghị về giải pháp nhằm phát triển hoạt động đầu tư chứng khoán ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.17 KB, 52 trang )

A.LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán (TTCK) được xem là đặc chưng cơ bản,là biểu
tượng của nền kinh tế hiện dại.Trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế,phù
hợp với các diều kiện kinh tế chính trị và xã hội trong nước và xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế nhà nước ta xác định TTCK là một công cụ rất quan trọng trong
việc huy động vôn cho công cuôc công nghiệp hóa ,hiện đại hóa đất nước.Sau 6
năm hoạt động và phát triển TTCK Việt Nam với những thành tưu đạt đựợc đầy
ấn tượng đã là một minh chứng cho sự chuyển đổi thành công sang nền kinh tế
thị trường của Việt Nam.Một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy vảo sự
phát triển của TTCK đó là sự sôi động của hoạt động đầu tư trên TTCK .Đây là
hình thức đầu tư còn khá mới mẻ dối với nhà đầu tư Việt Nam.Với mong muốn
có cái nhìn tổng quan và rõ ràng về hinh thức đầu tư này tôi đã chọn đề tài : “
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHỦ YẾU VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHÚNG KHOÁN
Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000-2006 “.
Ngoài lời mở đầu và kết luận,nội dung đề án gồm 3 phần:
Phần I : Hoạt động đầu tư chứng khoán ở việt nam giai đoạn 2000-2006
Phần II : Một số kiến nghị về giải pháp nhằm phát triển hoạt động đầu tư
chứng khoán ở Việt Nam.
PHẦN I: HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2000-2006.
I. Tổng quan về TTCK ỏ Việt Nam
1. Một số khái niệm
1.1Chứng khoán
1.1.1/Khái niệm
1
Chứng khoán là những giấy tờ có giá và có khả năng chuyển nhượng,
xác định số vốn đầu tư ( tư bản ban đầu); chứng khoán xác nhận quyền sở hữu
hoặc quyền đòi nợ hợp pháp, bao gồm các điều kiện về thu nhập và tài sản trong
một thời gian nào đó.
1.1.2/Đặc điểm của chứng khoán
Chứng khoán là một tài sản tài chính có các đặc điểm cơ bản sau:


Tính thanh khoản( Tính lỏng) : Tính lỏng của tài sản là khả năng
chuyển tài sản đó thành tiền mặt. Khả năng này cao hay thấp phụ thuộc vào
khoảng thời gian và phí cần thiết cho việc chuyển đổi và rủi ro của việc giảm sút
giá trị của tài sản đó do chuyển đổi. Chứng khoán có tính lỏng cao hơn so với
các tài sản khác, thể hiện qua khả năng chuyển nhượng cao trên thị trường và
nói chung, các chứng khoán khác nhau có khả năng chuyển nhượng là khác
nhau.
Tính rủi ro : Chứng khoán là các tài sản tài chính mà giá trị của nó chịu tác
động lớn của rủi ro, bao gồm rủi ro có hệ thống và rủi ro không có hệ thống. Rủi
ro có hệ thống hay rủi ro thị trường là loại rủi ro tác động tới toàn bộ hoặc hầu
hết các tài sản. Loại rủi ro này chịu tác động của các điều kiện kinh tế chung
như: lạm phát, sự thay đổi tỷ giá hối đoái, lãi suất…. Rủi ro không hệ thống là
loại rủi ro chỉ tác động đến một tài sản hoặc một nhóm nhỏ các tài sản.
Loại rủi ro này thường liên quan tới điều kiện của nhà phát hành. Các
nhà đầu tư thường quan tâm tới việc xem xét, đánh giá các rủi ro liên quan, trên
cơ sở đó đề ra các quyết định trong việc lựa chọn, nắm giữ hay bán các chứng
khoán. Điều này phản ánh mối quan hệ giữa lợi tức và rủi ro hay sự cân bằng về
lợi tức - người ta sẽ không chịu rủi ro tăng thêm trừ khi người ta kỳ vọng được
bù đắp lợi tức tăng thêm.
Tính sinh lợi : Chứng khoán là một tài sản tài chính mà khi sở hữu nó,
nhà đầu tư mong muốn nhận được một thu nhập lớn hơn trong tương lai. Thu
2
nhập này được bảo đảm bằng lợi tức được phân chia hàng năm và việc tăng giá
chứng khoán trên thị trường. Khả năng sinh lợi bao giờ cũng quan hệ chặt chẽ
với rủi ro của tài sản , thể hiện trong nguyên lý - mức độ chấp nhận rủi ro càng
cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng lớn.
1.1.3/Phân loại
Tuỳ theo cách chọn tiêu thức, người ta có thể phân loại chứng khoán
thành nhiều loại khác nhau. Tuy nhiên, chứng khoán có thể được chia theo ba
tiêu thức chủ yếu, đó là theo tính chất của chứng khoán, theo khả năng chuyển

nhượng và theo khả năng thu nhập
-Phân loại chứng khoán theo tính chất : các loại chứng khoán được phân
thành :
Chứng khoán vốn
Chứng khoán nợ
Các chứng khoán phái sinh
-Phân loại chứng khoán theo khả năng chuyển nhượng
Chứng khoán vô danh
Chứng khoán ký danh
-Phân loại chứng khoán theo khả năng thu nhập
Chứng khoán có lợi tức ổn định
Chứng khoán có lợi tức không ổn định
1.2Thị trường chứng khoán
1.2.1/Khái niệm
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi,
chuyển nhượng các loại chứng khoán nhằm mục đích kiểm lời.
Các giao dịch có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp ( Primary Market) hay
thị trường thứ cấp (Secondary Market), tại Sở giao dịch (Stock Exchange) hay
thị trường chứng khoán phi tập trung (Over The Counter Market), ở thị trường
3
trao ngay (Spot Market) hay thị trường có kỳ hạn (Future Market). Các quan hệ
mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và như vậy,
thực chất đây chính là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu
sang tư bản kinh doanh.
Thị trường chứng khoán không giống với thị trường các hàng hoá thông
thường khác vì hàng hoá của thị trường chứng khoán là một loại hàng hoá đặc
biệt, là sở hữu về tư bản. Loại hàng hóa này cũng có giá trị và giá trị sử dụng.
Như vậy, có thể nói, bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện
mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó, giá cả của chứng
khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Thị trường

chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng
hoá.
1.2.2/Chức năng và vai trò của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán (TTCK)- một định chế tài chính hữu hiệu trong
việc thu hút vốn đầu tư, thúc đẩy và phát triển kinh tế và là công cụ quan trọng
cho quá trình cổ phần hoá. Sự tạo lập và phát triển thị trường chứng khoán có ý
nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế
thị trường.
Chức năng cơ bản của TTCK:
Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Qua TTCK, các công ty cổ phần có thể phát hành cổ phiếu để huy động
vốn trong và ngoài nước cho sản xuất và kinh doanh. Nếu doanh nghiệp hoạt
động tốt, có uy tín thì có thể tiếp túc gọi vốn bằng việc phát hành các cổ phiếu
mới, đồng thời còn có thể phát hành các loại trái phiếu để vay tiền của công
chúng mà không cần đến sự giúp đỡ của tín dụng ngân hàng. Các nguồn vốn
nhàn rỗi sẽ được TTCK thu hút và chuyển tải trực tiếp vào các doanh nghiệp để
4
đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh, qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã
hội; Chính phủ và chính quyền địa phương sẽ dễ dàng hơn trong việc huy động
các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục
vụ các nhu cầu của xã hội bằng việc phát hành trái phiếu của mình.
Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng.
Với số tiền tiết kiệm đã có, nhiều người phân vân không biết đặt chúng
vào đâu. Sự ra đời của TTCK đã cung cấp môi trường đầu tư lành mạnh với các
cơ hội đầu tư phong phú cho công chúng. Phần lớn các công cụ của TTCK đều
có khả năng mang lại lợi ích do được hưởng lãi suất. Các nhà đầu tư có thể lựa
chọn loại chứng khoán phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình bởi
các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ
rủi ro.
Vai trò của thị trường chứng khoán:

Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán.
Nhờ TTCK, khả năng thanh khoản của các chứng khoán được nâng cao,
điều này làm tăng tính hấp dẫn của chứng khoán đối với nhà đầu tư, tạo tính linh
hoạt và an toàn của vốn đầu tư. Nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán
sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn.
Là công cụ để Nhà nước thực hiện chương trình phát triển KT-XH
Nhà nước nào cũng có nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế. Ngân
sách Nhà nước càng lớn thì chương trình phát triển kinh tế-xã hội càng dễ thành
công. Nguồn thu chủ yếu của Ngân sách là thuế. Muốn có nguồn thu thuế dồi
dào cần phải khuyến khích thành lập nhiều doanh nghiệp và mở rộng quy mô
doanh nghiệp. Vốn của TTCK là tiền đề cơ bản cho sự nghiệp trên. Đây là chính
sách bồi dưỡng nguồn thu cho Ngân sách. Trong thời gian ngân sách không đủ
để chi tiêu thì nguồn thu khác là phát hành chứng khoán: trái phiếu kho bạc, trái
5
phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương…Tính thanh khoản của
TTCK sẽ giúp cho việc phát hành các công cụ tài chính này được dễ dàng hơn.
Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn.
Để huy động vốn thông qua TTCK bằng việc phát hành chứng khoán,
doanh nghiệp phải đáp ứng được các điều kiện như: kinh doanh hợp pháp, tài
chính lành mạnh, có doanh lợi… và với sự tự do lựa chọn của người đầu tư, để
bán được chứng khoán không có cách nào khác là những nhà quản lý doanh
nghiệp phải tính toán, làm an đàng hoàng và có hiệu quả.
Góp phần đánh giá đúng đắn doanh nghiệp, dự đoán tương lai.
Các doanh nghiệp có chứng khoán niêm yết bắt buộc phải cung cấp định
kỳ các thông tin về tình hình hoạt động, điều này cho phép các nhà đầu tư có
một cách nhìn chính xác về doanh nghiệp đó, giúp họ đánh giá và so sánh hoạt
động của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện. Đồng thời, sự hình
thành thị giá chứng khoán của doanh nghiệp niêm yết trên TTCK cũng đã bao
hàm sự đánh giá thực trạng của doanh nghiệp đó ở hiện tại và dự đoán trong
tương lai. Từ đó tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu

quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
Thước đo nền kinh tế trong từng thời kỳ.
Khi chỉ số chứng khoán tăng nghĩa là giá trung bình các cổ phiếu tăng,
đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp có cổ phiếu được tính trong chỉ số chứng
khoán đang làm ăn phát đạt. Theo logic, nó là một hàn thử biểu phản ánh tình
trạng của toàn bộ nền kinh tế.
1.3 Hoạt động đầu tư chứng khoán
1.3.1Khái niệm
Đầu tư chứng khoán là một sự ký thác tiền hoặc các nguồn lực kinh tế
khác với hị vọng sẽ thu được lợi nhuận trong tương lai.
6
1.3.2.Hoạt động đầu tư chứng khoán
Thị trường chứng khoán (TTCK) là nơi luân chuyển và phân bổ các
nguồn vốn từ khu vực có lợi nhuận thấp sang khu vực có lợi nhuận cao hơn, tạo
điều kiện cho các nguồn vốn được sử dụng một cách có hiệu quả nhất. Vì vậy,
hoạt động đầu tư chứng khoán được xem là hoạt động cơ bản nhất của thị
trường. Tuy vậy, cũng như bất kỳ hoạt động kinh tế nào, bên cạnh hoạt động đầu
tư chứng khoán thị hoạt động đầu cơ, hay các nhà kinh tế còn gọi là hoạt động
đầu tư mang tính đầu cơ, cũng song song tồn tại và là nhân tố hết sức quan trọng
và phức tạp trên TTCK.
Đầu tư và đầu cơ chứng khoán là hai hoạt động kinh doanh đều nhằm
mục tiêu thu lợi nhuận. Hai hoạt động này tuy có tính chất độc lập với nhau
nhưng giữa chúng có một ranh giới hết sức mong manh. Để phân biệt được hai
hoạt động này, trước hết chúng ta phải hiểu một cách thống nhất bản chất của
hoạt động đầu tư và đầu cơ chứng khoán là gì.
Ở nước ngoài, công chúng- những người mua chứng khoán- được gọi là
các nhà đầu tư chứng khoán với ý nghĩa kinh tế của từ này. Các nhà đầu tư này
là những người quyết định đầu tư vốn của mình vào một loại chứng khoán của
một công ty nào đó trên cơ sở phân tích, thẩm định một cách cẩn thận tình hình
hoạt động, tình hình tài chính của doanh nghiệp đó, và quyết định giữ các chứng

khoán này trong một thời gian dài với kỳ vọng vào các dự án đầu tư của công ty
sẽ mang lại cho họ một tỷ suất sinh lời cao trong tương lai, dẫn đến sự gia tăng
giá trị của doanh nghiệp và cũng có nghĩa là làm cho số vốn nhà đầu tư bỏ vào
công ty tăng lên theo. Thật ra khi nhà đầu tư bỏ vốn của mình vào một công ty,
cũng đồng nghĩa là họ mua tương lai của công ty đó. Người đầu tư đặt niềm tin
vào đội ngũ quản lý điều hành công ty với hi vọng họ sẽ đem lại lợi nhuận cho
mình. Như vậy, một nhà đầu tư thực thụ chỉ quan tâm đến tỷ suất lợi nhuận cao,
có tính chất ổn định trong một thời gian dài.
7
Nhà đầu cơ là những người mua bán chứng khoán để tìm kiểm lợi nhuận
từ sự chờ đợi chênh lệch giá chứng khoán qua những lần mua di bán lại trên
TTCK. Các nhà đầu cơ không hề có ý định nắm giữ chứng khoán trong một thời
gian dài để mong đợi sẽ nhận được một tỷ suất sinh lời cao do chứng khoán đó
mang lại, mà họ chỉ quan tâm đến việc mua vào bao nhiêu, bán ra bao nhiêu và
lãi được bao nhiêu sau lần mua bán này. Vì vậy, những người đầu cơ chỉ quan
tâm khai thác các thông tin có tính chất nhất thời, liên quan và ảnh hưởng đến
hoạt động của công ty, họ sẽ nỗ lực phân tích, thẩm định, dự đoán những khả
năng gây tăng giá hoặc giảm giá chứng khoán trong thời gian ngắn để đưa ra
quyết định mua sau bán trước. Như vậy, nhà đầu cơ tìm kiểm cơ hội sinh lợi lớn
trong một thời gian ngắn, và dĩ nhiên họ quan tâm nhiều đến tỷ suất lợi nhuận
cao, ở tính chất bất thường.
Đôi khi trong thực tế, một người mua chứng khoán với mục đích ban
đầu là đầu tư, nhưng do giá chứng khoán họ đang nắm giữ lại lên giá hoặc sụt
giá một cách nhanh chóng khiến họ phải quyết định bán đi các chứng khoán
mình đang nắm giữ nhằm kiểm lời từ sự chênh lệch giá mua bán, hoặc bán đi để
hạn chế rủi ro khi giá xuống, và vô tình, họ đã trở thành một nhà đầu cơ chứng
khoán tạm thời. Như vậy, để phân biệt giữa đầu tư và đầu cơ, cần phải xem xét
vào từng trường hợp cụ thể. Trên thực tế, chúng ta có thể dựa vào một số tiêu
chí sau để phân biệt giữa hoạt động đầu tư và đầu cơ:
-Mục đích của nhà đầu tư: một loại chứng khoán có thể được mua với

tính chất là đầu cơ hoặc đầu tư phụ thuộc vào việc người mua nó với mục đích
như thế nào.
-Thông thường nhà đầu tư mua chứng khoán trên cơ sở đã nắm vững
được các thông tin về loại chứng khoán đó, chẳng hạn như tình hình hoạt động
sản xuất kinh doanh của công ty phát thành, tỷ suất sinh lời của loại chứng
khoán đó, trong lần trả lãi gần nhất là bao nhiêu. Còn nhà đầu cơ mua chứng
8
khoán khi chưa nắm vững được hết tất cả các thông tin về công ty đó mà chỉ
nắm được một lượng thông tin không đầy đủ về khả năng chứng khoán của công
ty đó có thể sẽ tăng giá hoặc có thể giảm giá để đưa ra quyết định mua bán
chứng khoán đó nhằm kiểm lời.
-Trên thực tế, TTCK nào cũng có những nhà đầu cơ chuyên nghiệp, và
trong nhiều trường hợp, họ sẵn sàng phao tin đồn nhảm, gây hoang mang trong
công chúng đầu tư và kích động công chúng hối hả tìm mua hoặc vội vã bán đi
một loại chứng khoán nào đó. Các nhà đầu cơ thường tìm cách cấu kết với nhau
để tao ra một cơn sốt giá giả tạo về một loại chứng khoán và lôi cuốn công
chúng đi vào vòng xoắn ốc, đẩy giá lên hoặc dìm giá xuống nhằm thu lợi bất
chính. Và kết quả là công chúng, các nhà đầu tư không có đủ điều kiện tiếp cận
hoặc phân tích thực trạng của các loại chứng khoán, phải mua các loại chứng
khoán với mức giá quá cao so với giá trị thực tế của nó hoặc bán đi các chứng
khoán mình đang nắm giữ với mức giá quá thấp so với giá trị thực tế.
- Nhà đầu tư mua chứng khoán và nắm giữ trong một khoảng thời gian
dài với mong muốn thu được một tỷ suất lợi nhuận cao và thu nhập ổn định; còn
nhà đầu cơ mua chứng khoán với mục đích bán đi kiểm lời trên cơ sở chênh lệch
giá mua và giá bán nhằm thu lợi nhuận tối đa.
- Nhà đầu tư thường tập trung vào các loại chứng khoán có mức độ rủi
ro thấp, ví dụ như cổ phiếu, trái phiếu của các công ty tốt hay trái phiếu chính
phủ có hệ số tín nhiệm cao, còn nhà đầu cơ thường hay tập trung vào các loại
chứng khoán có mức độ rủi ro cao.
-Như vậy, qua các mặt phân tích trên, chúng ta thấy ranh giới hết sức

mong manh giữa đầu tư và đầu cơ chứng khoán. Tuy nhiên, kinh nghiệm thực tế
ở các TTCK cho thấy, các nhà đầu cơ thường không hoạt động đơn độc, nhất là
các nhà đầu cơ lớn, như nhà tài phiệt G.Soros. Các nhà đầu cơ có thể gây ra
những tác động tiêu cực cho hoạt động của TTCK nói riêng và nền kinh tế nói
9
chung khi họ kết hợp với nhau tạo ra các cơn sốt giá giả tạo trên thị trường nhằm
mục đích thu lợi nhuận cao. Vì vậy chúng ta cũng cần phải có các biện pháp để
ngăn chặn hành vi này.
-Bên cạnh những mặt mang tính trục lợi phần nào tiềm ẩn các hành vi
bất hợp pháp, chúng ta có thể nói nhà đầu cơ cũng có vai trò tích cực làm cho
hoạt động của TTCK có tính thanh khoản cao, hoạt động giao dịch trên trên thị
trường thêm phần sôi động. Chẳng hạn ngay khi nền kinh tế Malaysia khủng
hoảng hai năm về trước, Thủ tướng nước này ông Mahathir Mohamed cũng đã
nói “ Chúng tôi mời đón những nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí chúng tôi đón
cả các nhà đầu cơ…”. Còn cựu Bộ trưởng Bộ tài chính Hoa Kỳ, ông Robert
Rubin đã nói về vai trò của nhà đầu cơ trong TTCK: “ Sự đầu cơ là một phần
quan trọng trong toàn thể hoạt động của thị trường thứ cấp, nhà đầu cơ làm cho
thị trường tiền tệ mạnh hơn, hoạt động hơn và giảm được phí mua bán”.
-Như vậy có thể khẳng định vai trò của nhà đầu cơ trong TTCK là rất
quan trọng. Họ là những người dám bỏ tiền ra mua chứng khoán khi có nhiều
người bán mà không có người mua. Và ngược lại, họ cũng sẵn sàng bán khi có
người cần mua nhưng không có người bán. Chính họ, bằng kinh nghiệm, óc kinh
doanh và tiền bạc của mình, họ đã giúp cho hoạt động của thị trường không bị
gián đoạn. Những người đầu cơ luôn chấp nhận rủi ro khi tham gia vào cuộc
chơi.
-Đầu tư và đầu cơ- là hoạt động thường xuyên và liên tục diễn ra trên
TTCK. Có thể nói, trong hoạt động đầu tư đã nhen nhóm những yếu tố mang
tính chất đầu cơ và ngay trong đầu cơ cũng có nhân tố của đầu tư. Thực tiễn hoạt
động của TTCK có rất nhiều ví dụ sinh động về mối liên hệ hết sức chặt chẽ
cũng như ranh giới mỏng manh giữa đầu tư và đầu cơ. Điều quan trong là TTCK

luôn tạo ra các cơ hội trong khuôn khổ pháp lý nhất định cho các nhà đầu tư và
các nhà đầu cơ thực hiện hoạt động kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Khi vượt ra
10
khỏi khung pháp lý cho phép thì cả đầu tư và đầu cơ có thể mang lại lợi nhuận
siêu ngạch hoặc mang lại các hậu quả xấu cho công chúng đầu tư cũng như sự
ổn định và phát triển lành mạnh của TTCK.
1.3.3.Các yếu tố tác động đến hoạt động đầu tư chứng khoán.
Sự hiểu biết về chứng khoán và thị trường chứng khoán của công chúng
và các nhà đầu tư tuy còn hạn chế, nhưng đây không phải là nguyên nhân chủ
yếu để ngăn cản sự tham gia của người đầu tư và các tổ chức đầu tư. Điều cần
thiết là phải thiết lập một TTCK hoạt động công bằng, hay nói cách khác, người
đầu tư thấy rằng mình tham gia vào đầu tư trong đó tất cả đều bình đẳng và có
cơ hội ngang nhau để giành được lợi nhuận. Họ có thể chấp nhận những thất bại
nếu thất bại này là khách quan tạo ra chứ không phải là do hoạt động của TTCK
không có công bằng. Có thể thấy, một trong những yếu tố cơ bản làm ảnh hưởng
đến hoạt động đầu tư cần chú trọng các vấn đề sau:
1.3.3.1/ Rủi ro
Khi nhà đầu tư quyết định tham gia TTCK thì họ sẽ nghĩ đến thu nhập
từ sở hữu chứng khoán, có thu nhập từ việc mua và bán chứng khoán với giá
cao. Tuy nhiên việc có thu nhập từ đầu tư chứng khoán không phải lúc nào cũng
thuận lợi. Nó phụ thuộc vào uy tín và hiệu quả kinh doanh của công ty phát hành
chứng khoán, vào tình hình phát triển của ngành, của toàn bộ nền kinh tế,…
Tính chất không chắc chắn của việc đầu tư chứng khoán có thể xuất hiện nhiều
kết quả khác nhau ngoài thu nhập dự kiến mà còn phải nói đến rủi ro trong đầu
tư chứng khoán.
Ở đây, không chỉ nhắc tới lợi ích và hiệu quả đầu tư chứng khoán của
nhà đầu tư, mà cần phải nhấn mạnh những khía cạnh rủi ro trên TTCK. Họ quá
dè dặt trong đầu tư do chưa hiểu bản chất của TTCK. Do đó, đối với người đầu
tư dù là đầu tư trực tiếp hay gián tiếp, bất kỳ nhà đầu tư nào cũng rất quan tâm
11

đến hai vấn đề lợi tức và rủi ro.Phân tích và đánh giá rủi ro là một cấu thành
không thể thiếu được trong việc ra quyết định đầu tư chứng khoán.
1.3.3.2/ Công bố thông tin tuyên truyền
Vấn đề công bố thông tin công khai là một trong những nguyên tắc cơ
bản mà các công ty niêm yết trên TTCK phải tuân thủ. Đây là điều hết sức cần
thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư, giúp cho các nhà
đầu tư có đầy đủ thông tin cần thiết để “chọn mặt gửi vàng”. Nguyên tắc này,
mọi thông tin có liên quan đến tổ chức có chứng khoán niêm yết trên thị trường
cũng như liên quan đến thị trường đều phải được công bố công khai, kịp thời và
chính xác. Hiện nay việc công bố thông tin bao gồm :
Công bố thông tin định kỳ: Định kỳ hàng năm, bán niên hoặc hàng quý
tổ chức niêm yết phải gửi các báo cáo tài chính lên TTGDCK ( trong đó báo cáo
tài chính hàng năm phải được kiểm toán).
Công bố thông tin tức thời : Khi có các sự kiện xảy ra ảnh hưởng tới
hoạt động của tổ chức niêm yết ( theo quy định của UBCKNN) thì tổ chức niêm
yết phải công bố ra công chúng.
Công bố thông tin theo yêu cầu : Trong trường hợp cần thiết để bảo vệ
quyền lợi cho người đầu tư UBCKNN, TTGDCK có quyền yêu cầu các tổ chức
niêm yết phải công bố các thông tin liên quan.
1.3.3.3/ Tính thanh khoản của chứng khoán
Chất lượng của một chứng khoán phụ thuộc vào mục tiêu hàng đầu của
tính thanh khoản. Một cổ phiếu có tính thanh khoản cao nếu nhà đầu tư có thể
bán một số lượng cổ phiếu mà chuyển đổi thành tiền mặt nhanh chóng trên
TTCK dễ dàng. Đây cũng là sự quan tâm của các nhà nghiên cứu cũng như các
nhà đầu tư. Khả năng tạo tính thanh khoản nhanh của TTCK cho mọi người
nhận thấy không cần phải tồn quỹ. Tính thanh khoản của chứng khoán đóng một
vai trò hết sức quan trọng đối với sự thất bại hay thành công của thị trường đó,
12
một thị trường có tính thanh khoản tốt sẽ tạo ra cho thị trường tính năng động
hơn. Về cơ bản tính thanh khoản có thể áp dụng cho mọi loại công cụ giao dịch

trên TTCK. Gồm 4 khía cạnh :
Độ rộng : liên quan tới chi phí giao dịch như phí môi giới phát sinh từ
việc mua và bán một số lượng cổ phiếu nhất định.
Độ sâu: liên quan tới số lượng cổ phiếu có thể mua, bán ở mức giá nhất
định. Một thị trường có độ sâu cho phép thực hiện các giao dịch lớn mà không
gây ra các biến động lớn về giá.
Độ tức thì : tốc độ thực hiện việc mua hoặc bán một số lượng cổ phiếu
nhất định với một mức chi phí nhất định. Nếu trên một thị trường có tính thanh
khoản cao thì lệnh mua, bán một số lượng lớn cổ phiếu có thể được thực hiện
một cách nhanh chóng.
Độ co giãn : phản ánh tốc độ của giá cổ phiếu sau các biến động về giá
gây ra do sự xuất hiện của các lệnh mua bán mới trên thị trường nhằm giảm bớt
sự mất cân bằng giữa số lượng cổ phiếu cần mua và cần bán trên thị trường.
1.3.3.4/ Tính sinh lợi
Khi mua chứng khoán, nhà đầu tư luôn kỳ vọng vào tính sinh lợi của
chứng khoán. Khi đầu tư,nhà đầu tư phải lựa chọn chứng khoán đưa vào danh
mục đầu tư của mình.
Có nhiều khái niệm về tỷ suất sinh lợi, tuỳ theo nhà đầu tư mua chứng
khoán vốn hay chứng khoán nợ :
Mua chứng khoán vốn ( mua cổ phần) : cổ phần mang lại cho người đầu
tư hai khả năng sinh lợi. Cổ tức hàng năm, lời trên vốn cổ phần.
Mua chứngkhoán nợ ( mua trái phiếu dài hạn) nhà đầu tư cần phân biệt
về lợi suất. Lợi suất danh nghĩa, đây là lãi suất mà đơn vị phát hành trái phiếu
ghi trên bề mặt của nó; Lợi suất hiện hành, được tính bằng cách lấy lãi của trái
phiếu chia cho số tiền bỏ ra mua trái phiếu của nhà đầu tư. Lợi suất đáo hạn, lợi
13
suất mà nhà đầu tư được hưởng hàng năm khi mua trái phiếu dài hạn với giá
hiện tại.
2.Lợi ích và rủi ro của hoạt dộng đầu tư chứng khoán.
Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Tp.HCM ra đời và đi vào

hoạt động sẽ thu hút sự quan tâm của đông đảo công chúng và các doanh nghiệp.
Trên thực tế, thị trường chứng khoán (TTCK) là một môi trường kinh tế có tính
xã hội hoá cao độ, sự tham gia của đông đảo các doanh nghiệp, các nhà đầu tư
cá nhân và tổ chức có ý nghĩa quyết định sự thành công của thị trường. Tuy
nhiên, tham gia vào hoạt động TTCK, các nhà đầu tư cần phải biết rõ những lợi
ích và rủi ro của loại hình hoạt động thị trường này.
2.1.Lợi ích trong đầu tư chứng khoán
Đầu tư là quá trình nhà đầu tư mang vốn của mình sử dụng vào mục
đích nhất định nhằm thu được một khoản tiền lớn hơn, và đầu tư chứng khoán
cũng không nằm ngoài mục đích đó. So với các loại hình đầu tư khác, đầu tư
chứng khoán có những ưu việt hơn, được thể hiện qua một số mặt chủ yếu :
Thứ nhất, tạo thêm kênh huy động vốn đầu tư trung và dài hạn cho nền
kinh tế. Khi các nhà đầu tu mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền
nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp
phần mở rộng sản xuất xã hội. Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của công
ty, TTCK đã có những tác động quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng
huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng
kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
Thứ hai, chuyển vốn từ lĩnh vực, ngành, công ty này sang lĩnh vực,
ngành, công ty khác một cách dễ dàng. Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể bán
chứng khoán khi họ thấy chứng khoán của công ty đó, ngành đó hay lĩnh vực đó
đem lại cho họ khoản lợi nhuận lớn hơn. Đây là yếu tố hấp dẫn nhà đầu tư và
14
cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư khi đầu tư vào chứng khoán, và
đó cũng là tính ưu việt nổi bật nhất của TTCK. TTCK hoạt động càng sôi động
và càng có hiệu quả bao nhiêu thì càng nâng cao khả năng chuyển đổi của các
chứng khoán giao dịch trên thị trường bấy nhiêu.
Thứ ba, TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành
mạnh với các cơ hội lựa chọn đầu tư phong phú nhờ sự đa dạng về chứng khoán.

Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ
rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại chứng khoán phù hợp với
khả năng, mục tiêu và sở thích của mình.
Thứ tư, đa dạng hoá công chúng đầu tư. Để được tham gia vào hoạt
động đầu tư chứng khoán, chúng ta chỉ cần ít tiền cũng có thể đầu tư vào chứng
khoán được bởi vì : theo quy định của tại Điều 4 Nghị định 48/1998/NĐ-CP chỉ
cần có 10.000đ thì chúng ta có thể mua được một cổ phiếu hoặc một chứng chỉ
quỹ đầu tư, và với 100.000đ mua được một trái phiếu. Với số tiền nhỏ, rải rác đó
nếu tổng hợp lại sau khi đã mua chứng khoán – góp gió thành bão – thì chúng ta
đã có được một khoản vốn lớn và dài hạn, và đem số tiền này đầu tư vào các dự
án trung và dài hạn. Nếu so sánh với việc gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng,
chúng ta phải có một khoản tiền đủ lớn mới nên gửi để bảo đảm nhận được một
khoản tiền lãi trong khoảng thời gian nhất định trong tương lai, thì đầu tư vào
chứng khoán là thuận lợi hơn.
Thứ năm, giảm thiểu chi phí tìm kiểm và chi phí thông tin. Để cho các
giao dịch có thể diễn ra, những người mua và những người bán cần phải tìm
được nhau; muốn thế, họ cần phải tiêu tốn tiền và thời gian cho việc quảng cáo ý
đồ của mình và tìm kiểm đối tác. Đó là những chi phí tìm kiểm. Bên cạnh đó là
các chi phí thông tin gắn liền với việc nhận định các giá trị đầu tư tức là khối
lượng và tính chắc chắn của các khoản tiền dự kiến thu được từ đầu tư. Nhờ tính
tập trung, khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch lớn , thông tin được cung cấp
15
đầy đủ và nhanh chóng, thị trường tài chính cho phép giảm thiểu những chi phí
này.
Thứ sáu, đánh giá hoạt động của doanh nghiệp, nền kinh tế, từ đó giúp
Chính phủ điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua giá chứng khoán,
hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác,
giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp được nhanh
chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải

tiến sản phẩm. Đồng thời, cũng dựa theo sự tăng lên hay giảm xuống của giá
chứng khoán, cho chúng ta biết đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng
hay cho biết các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là
phong vũ biểu của nền kinh tế và nhờ có tính chất này, nó trở thành một trong
những công cụ quan trong giúp Chính phủ nhìn nhận nền kinh tế một cách đúng
đắn; từ đó đưa ra các giải pháp điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô sao cho
phù hợp, cân đối giữa các ngành, lĩnh vực…
Mặt khác, trong thời gian đầu, khi TTCK mới đi vào hoạt động Chính
phủ đã có những chính sách ưu đãi trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán ( Quyết
định số 39/TTg của Thủ tướng chính phủ vào cuối tháng 3/2000 đã quy định
những ưu đãi đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán). Theo đó, các công ty
chứng khoán ( CtyCK), Công ty quản lý quỹ, Tổ chức phát hành có chứng
khoán được niêm yết và các cá nhân đầu tư chứng khoán được tạm thời hưởng
ưu đãi về thuế. Nhà nước tạm thời không thu thuế giá trị gia tăng của CtyCK
trong thời gian 3 năm. CtyCK và Công ty quản lý quỹ còn được miễn thuế thu
nhập doanh nghiệp thêm một năm, giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp
phải nộp trong 2 năm tiếp theo. Tổ chức phát hành có chứng khoán được niêm
yết đuợc giảm 50% số thuế thu nhập phải nộp trong 2 năm tiếp theo, kể từ khi
niêm yết chứng khoán lần đầu tại TTGDCK. Các cá nhân đầu tư chứng khoán
16
được miễn thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao cho phần thu nhập từ cổ
tức, lãi trái phiếu, chênh lệch mua bán chứng khoán.
Như vậy đối với các nhà đầu tư, bước đầu cho thấy việc đầu tư vào
chứng khoán sẽ hấp dẫn hơn so với việc gửi tiền vào ngân hàng. Và cũng là tiền
để thêm phần thúc đẩy việc tham gia hoạt động trên TTCK đối với các doanh
nghiệp. Tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước điều hành, quản lý TTCK như
một công cụ điều tiết sự phát triển của nền kinh tế một cách lành mạnh.
2.2.Rủi ro trong đầu tư chứng khoán
Bên cạnh những lợi ích, TTCK vẫn luôn tiềm ẩn những khả năng rủi ro.
Rủi ro ở đây là những nguyên nhân chính khiến cho các dự định kế hoạch của

các nhà đầu tư không theo như ý muốn của họ, có thể là có lợi cho họ hoặc
không có lợi cho họ nhưng mặt không lợi thường là chủ yếu. Nguyên nhân của
nó là sự giảm sút cổ tức, trái tức hay giá chứng khoán mà ta đã đầu tư. Như vậy,
trong quá trình tiến hành đầu tư, các nhà đầu tư ( kể cả các nhà đầu tư có tổ chức
và nhà đầu tư cá nhân) cần phải phân tích, đánh giá kỹ lưỡng các yếu tố rủi ro để
có thể lượng hoá và từ đó lựa chọn các công cụ và giải pháp quản lý rủi ro một
cách thích hợp nhằm giảm rủi ro tới mức tối thiểu để đạt được lợi nhuận đầu tư
vào chứng khoán như mong muốn ( lợi nhuận mong đợi).
Việc đối đầu với những rủi ro trong đầu tư chứng khoán là điều không
thể tránh khỏi, và cũng không thể ngăn chặn được tất cả mọi rủi ro; cho nên hạn
chế được rủi ro càng nhiều thì càng tốt. Trong đầu tư chứng khoán, ta có thể
phân chia làm hai loại rủi ro chính như sau :
Một là, những rủi ro do các yếu tố nằm ngoài công ty, không kiểm soát
được, có ảnh hưởng rộng rãi đến cả thị trường và tất cả mọi loại chứng khoán
được gọi là rủi ro hệ thống ( như rủi ro thị trường, rủi ro lạm phát, rủi ro lãi
suất…).
17
Hai là, những rủi ro do các yếu tố nội tại gây ra, nó có thể kiểm soát
được và chỉ tác động đến một hoặc một số chứng khoán, gọi là rủi ro không hệ
thống ( rủi ro tài chính, rủi ro kinh doanh…). Các yếu tố rủi ro không hệ thống
thường độc lập với các yếu tố rủi ro liên quan đến toàn bộ thị trường nói chung.
Do những rủi ro này thường ảnh hưởng đến một công ty cụ thể nên nó phải được
xem xét cho từng công ty một cách riêng biệt.
Dưới đây là một số loại rủi ro mà các nhà đầu tư thường gặp :
Rủi ro hệ thống :
Rủi ro về thị trường
Cổ phiếu và trái phiếu đều chứa đựng một mức độ rủi ro thị trường nhất
định. Rủi ro thị trường là rủi ro mà nhà đầu tư có thể mất một phần vốn do tính
không ổn định về giá trên thị trường ( còn gọi là rủi ro hệ thống). Cổ phiếu
thường bất ổn hơn trái phiếu, giá của cổ phiếu có thể tăng hay giảm đột biến tuỳ

thuộc nhu cầu của nhà đầu tư.
Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất nói đến sự không ổn định trong giá trị thị trường và số
tiền thu nhập trong tương lai, nguyên nhân là dao động trong mức lãi suất
chung.
Các nhà đầu tư thường coi trái phiếu Chính phủ là không có rủi ro. Lãi
suất của trái phiếu Chính phủ được xem như là lãi suất chuẩn, là mức phí vay
vốn không rủi ro. Những thay đổi trong lãi suất trái phiếu Chính phủ sẽ làm ảnh
hưởng tới toàn bộ hệ thống chứng khoán, từ trái phiếu cho đến các loại cổ phiếu
rủi ro nhất. Việc tăng lên của lãi suất chuẩn làm giá cả của các loại chứng khoán
khác giảm xuống. Tương tự, lãi suất chuẩn giảm lại làm cho giá của các loại
chứng khoán tăng lên.
18
Ngoài ảnh hưởng trực tiếp đối với giá chứng khoán, lãi suất chuẩn còn
có ảnh hưởng gián tiếp đến giá cổ phiếu thường do rất nhiều công ty kinh doanh
chủ yếu bằng vốn đi vay. Ví dụ các tổ chức tài chính tham gia vào các hoạt động
cho vay khi lãi suất tăng, các công ty vay nợ nhiều sẽ phải trích từ thu nhập của
mình nhiều hơn để trả lãi, dẫn đến sự sút giảm thu nhập, cổ tức và giá cổ phiếu,
một phần làm hoạt động của TTCK bị ngưng trệ. Tuy nhiên, việc tăng lãi suất
lại mang đến thu nhập cao hơn cho những người cho vay (tổ chức tài chính) do
nguồn thu chính của họ là lãi thu được từ các khoản cho vay. Đối với những
công ty cho vay này, thu nhập tăng lại làm cho cổ tức và giá cổ phiếu của nó
tăng.
Rủi ro về lạm phát
Khi lãi suất đầu tư vào chứng khoán thấp hơn tỷ lệ lạm phát, tiền của
nhà đầu tư sẽ bị mất dần giá trị theo thời gian. Ví dụ, trong điều kiện lạm phát,
nếu nhà đầu tư bây giờ bỏ một số tiền X để mua Y trái phiếu, khi đáo hạn số tiền
thu được sẽ không còn đủ để mua Y trái phiếu tương đương.
Mặt khác, giá cả chứng khoán được thể hiện bằng tiền nên những biến
động tiền tệ sẽ ảnh hưởng đến giá cả chứng khoán. Lạm phát làm cho sức mua

tiền tệ giảm xuống, do đó làm cho giá cả tăng lên và thu nhập được thực tế của
cổ tức và trái tức giảm đi, giá trị hoàn vốn của trái phiếu cũng giảm xuống.
Rủi ro về sức mua
Rủi ro này bắt nguồn từ những biến động của lạm phát, bởi lạm phát làm
suy giảm độ hấp dẫn của tài sản. Trong khi đó, đối với các nhà đầu tư thì điều
quan trọng nhất là lãi suất thực và giá trị thực của vốn ( lãi suất và giá trị vốn
được điều chỉnh sau lạm phát). Như vậy, nhà đầu tư có nhận được giá trị tài sản
thực dương hay không phục thuộc rất nhiều vào lạm phát kỳ vọng. Bởi vì, trên
cơ sở của những tính toán đầu tư dựa trên các chỉ tiêu tài chính như giá trị hiện
tài thuần ( NPV ), tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR), tỷ lệ lợi ích trên chi phí ( BCR)
19
… đều được tính toán trên cơ sở tỷ lệ chiết khấu thực. Mà tỷ lệ này lại luôn bị
ảnh hưởng bởi lạm phát. Do đó việc ước lượng được rủi ro về sức mua phụ
thuộc rất lớn vào khả năng dự tính lạm phát kỳ vọng.
Rủi ro lãnh thổ
Rủi ro này xuất hiện khi người cho vay cung cấp tài chính cho nước
ngoài. Những rủi ro chính trong trường hợp này là việc cơ cấu lại nợ của Chính
phủ nước nhận vốn vay, sự phá sản của những người vay vốn tại khu vực tư
nhân. Tuy nhiên, rủi ro lãnh thổ thực sự chỉ phản ánh những biểu hiện, triệu
chứng phá sản hay sai lầm của những nhà đầu tư tại nước nhận vốn. Những triệu
chứng thể hiện qua sự quản lý kinh tế yếu kém dẫn đến thâm hụt ngân sách hay
cán cân thanh toán, khủng hoảng kinh tế giới, rủi ro chính trị tự quốc hữu hoá,
sự từ chối nợ, thảm hoạ tự nhiên như nạn đói, mất mùa, chiến tranh… Trong
những năm gần đây, những ngân hàng hàng đầu trên thế giới đã cố gắng đo
lường rủi ro vùng lãnh thổ thông qua việc xác định một tập hợp các tiêu chí như
rủi ro chính trị, rủi ro cán cân thanh toán, thảm hoạ tự nhiên, sự phụ thuộc vào
một số mặt hàng xuất khẩu, và một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác.
Rủi ro tỷ giá
Bất cứ một chủ thể nào nắm giữ một tài sản nợ hoặc tài sản có bằng
ngoại tệ đều phải đối mặt với rủi ro về tỷ giá (cả trong trường hợp tăng giá cũng

như phá giá). Để tránh loại rủi ro này có thể chuyển nó cho đối tác khác gánh
chịu thông qua nghiệp vụ hoán đổi tỷ giá (SWAP), nghiệp vụ này cũng có
những đặc điểm tương tự như nghiệp vụ hoán đổi lãi suất. Rủi ro tỷ giá cũng có
thể tránh được bằng cách chỉ cho vay tiền mà khách hàng nắm giữ. Bên cạnh đó,
người đi vay cũng có thể tránh được rủi ro tỷ giá bằng cách ký hợp đồng vay có
cùng loại tiền với hợp đồng xuất khẩu. Ngoài ra người bảo lãnh thường chấp
nhận rủi ro tỷ giá trong thanh toán. Những người bảo lãnh như vậy thường là các
Chính phủ hoặc các chủ thể đại diện Chính phủ ( thường là Bộ Tài chính hoặc
20
Ngân hàng Trung ương), trường hợp này thường xảy ra đối với đấu thầu xuất
khẩu tín dụng.
Tuy nhiên, đối với hầu hết các nhà đầu tư tài chính thì mục tiêu quan
trọng nhất là xác định được mức độ rủi ro của các hạng mục đầu tư, và như vậy
việc đưa các loại rủi ro về cùng một nhóm để tiện theo dõi là rất cần thiết. Biện
pháp thường được sử dụng mà lý thuyết thị trường vốn đã áp dụng, đó là đã sử
dụng độ nhạy cảm về giá của các cổ phiếu đơn lẻ đối với những chỉ số giá của
toàn bộ thị trường cổ phiếu ( vì vậy, rủi ro này được gọi là rủi ro thị trường hay
rủi ro hệ thống). Hệ số nhạy cảm đó được gọi là β; nếu hệ số β càng lớn thì rủi
ro của cổ phiếu đó càng lớn. Ngoài ra, giá mỗi cổ phiếu đơn lẻ cũng có thể dao
động chệch khỏi chỉ số trung bình của β theo thời gian bởi những yếu tố đặc
trưng của công ty. Vì vậy loại rủi ro này được gọi là rủi ro cá biệt hay rủi ro phi
hệ thống; hệ số đo lường rủi ro các biệt trong lý thuyết thị trường vốn thường
được gọi là α.
Rủi ro không hệ thống:
Rủi ro kinh doanh
Rủi ro kinh doanh xuất phát từ tình trạng hoạt động của công ty, khi có
những thay đổi trong tình trạng này công ty có thể sẽ bị sút giảm lợi nhuận và cổ
tức. Rủi ro kinh doanh có thể chia làm hai loại cơ bản : bên ngoài và nội tại. Rủi
ro kinh doanh nội tại phát sinh trong quá trình vận hành hoạt động của công ty.
Mỗi công ty có một loại rủi ro nội tại riêng và mức độ thành công của mỗi công

ty thể hiện qua hiệu quả hoạt động.
Trong phạm vi rộng hơn, rủi ro kinh doanh bên ngoài là những trường
hợp xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát của công ty và làm ảnh hưởng đến tình trạng
hoạt động của công ty. Mỗi công ty có một kiểu rủi ro bên ngoài riêng, phụ
thuộc vào yếu tố môi trường kinh doanh cụ thể của công ty. Các yếu tố bên
ngoài, từ chi phí tiền vay đến sự cắt giảm ngân sách, từ mức thuế nhập khẩu
21
tăng đến sự suy thoái của chu kỳ kinh doanh…, và có lẽ yếu tố quan trọng nhất
đó là chu kỳ kinh doanh đều có thể dẫn đến rủi ro kinh doanh của công ty.
Rủi ro tài chính
Là nguy cơ mất một phần hay toàn bộ vốn đầu tư do tổ chức phát hành
chứng khoán không trả được. Cũng có thể hiểu theo một cách khác, rủi ro tài
chính là rủi ro về thanh toán cổ tức, lãi trái phiếu và hoàn trả vốn gốc cho trái
phiếu đầy đủ, đúng hạn hay không. Các trái phiếu Chính phủ và địa phương
tương đối an toàn hơn nên rủi ro loại này thấp hơn. Những trái phiếu dài hạn có
rủi ro tài chính cao hơn trái ngắn hạn do thời gian đáo hạn lâu hơn. Cổ phiếu ưu
đãi an toàn hơn cổ phiếu thường. Các quỹ hỗ tương tăng tính an toàn bằng cách
đa dạng hoá danh mục đầu tư chứng khoán của mình. Khi đầu tư trái phiếu nên
căn cứ vào hệ thống xếp hạng mức độ tín nhiệm của trái phiếu, thứ hạng này của
trái phiếu càng cao thì khả năng thanh toán không đúng hạn càng thấp, do đó lãi
suất thấp; ngược lại trái phiếu có thứ hạng thấp có lãi suất cao hơn để bù đắp
cho rủi ro tài chính cao hơn.
Khi các tổ chức và nhà đầu tư cá nhân xem xét đầu tư vào chứng khoán,
họ phải nhận định được mức độ rủi ro thấp hay cao để ra quyết định đầu tư phù
hợp.
Ngoài ra các nhà đầu tư chứng khoán còn gặp phải những rủi ro về giao
dịch, về tính thanh khoản cũng như khả năng thanh toán của chứng khoán, rủi ro
mua lại, rủi ro do nhận thông tin không đầy đủ, rủi ro về lựa chọn thời điểm và
lĩnh vực đầu tư…
Rủi ro giao dịch thường rơi vào các thị trường hoạt động dựa trên hệ

thống giao dịch các chứng từ. Việc luân chuyển, kiểm tra và lưu thông khối
lượng lớn chứng chỉ các chứng khoán hàng ngày rất phức tạp, tốn kém về thời
gian và chi phí giao dịch.Chỉ một sai sót nhỏ trong kiểm tra chứng từ cũng có
thể ảnh hưởng đến kết quả giao dịch của toàn bộ hệ thống. Trong thanh toán
22
cũng phát sinh rủi ro thanh toán khi một bên giao chứng khoán hoặc giao tiền
nhưng không nhận được tiền hoặc chứng khoán. Rủi ro khi trái phiếu bị mua lại
trước khi thời gian đáo hạn, khi đó nhà đầu tư khôg thể tái đầu tư vốn ở cùng
mức lợi nhuận hoặc cao hơn. Khi lãi suất giảm, trái phiếu có lãi suất cao hơn
thường được mua lại, vì thế nhà đầu tư bị mất khoản thu nhập chắc chắn của
mình.
Mặc dù việc đầu tư vào chứng khoán luôn tiềm ẩn những khả năng rủi
ro nhưng không thể phủ nhận được những lợi ích mà TTCK mang lại. Nên cân
nhắc, xem xét đầy đủ cả hai vấn đề lợi ích và rủi ro để ra quyết định thích hợp.
Bên cạnh đó, cùng với sự quan tâm và hiểu biết của công chúng đầu tư đến lĩnh
vực chứng khoán, sự ra đời và hoạt động của các TTGDCK sẽ tạo môi trường
tốt cho hoạt động đầu tư chứng khoán tại Việt Nam.
Rủi ro dự án
Rủi ro này xuất hiện khi việc tài trợ dự án một cách thuần tuý xảy ra.
Tức là, khi một người cho vay cung cấp vốn cho dự án dưới dạng vốn vay hoặc
mua trái phiếu công trình chỉ có thể nhận lại vốn cũng như lãi của khoản vay
này bằng thu nhập thuần tuý của dự án. Như vậy, vốn cho vay hoàn toàn phụ
thuộc vào sự thành công của dự án hơn nữa cũng không có bất cứ sự trông cậy
nào đối với bất cứ nguồn tài chính nào từ bên ngoài dự án. Tất nhiên, khi có
được một sự bảo lãnh từ bên ngoài thì trung tâm của rủi ro sẽ được chuyển đến
người bảo lãnh. Chẳng hạn, tại các nước đang phát triển mà đặc biệt là tại Việt
Nam khi một dự án được bảo lãnh bởi Chính phủ thì thay vì phải đối mặt với rủi
ro dự án khi đó các nhà đầu lại phải đối mặt với một loại rui ro khác đó là rủi ro
lãnh thổ.
Bảng:Rủi ro và lợi ích của bốn loại chứng khoán đối với người đầu tư

Rủi ro Thời hạn Thu nhập
Tính thanh
khoản
Quyền đầu
phiếu
Ưu tiên thu
hồi vốn
Trái phiếu Thay đổi từ Từ ngắn hạn Cố định Không xác Không có Trước tiên
23
rất an toàn
đến cực kỳ
rủi ro, lệ
thuộc vào
xếp hạng
chủ thể phát
hành
đến tối đa 50
năm
định
Cổ phần ưu đãi Vừa phải
Không áp
dụng
Cố định
Không xác
định
Không có Thứ hai
Cổ phần thường
Từ vừa phải
đến cao
Không áp

dụng
Thay đổi Cao Có
Sau cổ đông
ưu đãi
Quỹ hỗ tương
đầu tư
Từ vừa phải
đến cao
Không áp
dụng
Thay đổi Cao Không
Không áp
dụng
II. Thực trạng hoạt động ĐTCK ở Việt Nam giai đoạn 2000-2006.
1. Sự hình thành và phát triển TTCK ở Việt Nam
Ngày 28/11/1996 Chính Phủ ban hành Nghị định số 75/CP thành lập Ủy
ban chứng khoán nhà nước (UBCKNN) là cơ quan thuộc chính phủ quản lý các
hoạt động về chứng khoán và TTCK ở Việt Nam.
UBCKNN chính thức đi vào hoạt động vào tháng 4 năm 1997,dưới sự
chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ,đã khẩn trương phối hợp với các bộ nghành xây
dựng khuôn khổ pháp lý, hàng hóa, vật chất, nguồn nhân lực cho sự ra đời và
hoạt động của TTCK Việt Nam.Ngày 11/7/1998, Nghị định số 48/1998/ND-CP
của chính phủ về chứng khoán và TTCK và quyết định số 127/1998/QD-TT của
Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập 2 trung tâm GDCK ở Hà Nội và TP.
HCM được ban hành.Trên cơ sở đó, UBCKNN và các bộ nghành có liên quan
đã tiến hành xây dựng văn bản hướng dẫn thực hiện tạo ra khuôn khổ pháp lý
đồng bộ cho việc hình thành và hoạt động củaTTCK Việt Nam.
24
Ngày 20/7/2000, trung tâm GDCK TP. HCM chính thức khai trưong và
đi vào hoạt động với chức năng chủ yếu tổ chức giao dịch cổ phiếu, trái phiếu đủ

diều kiện niêm yết.
Ngày 19/2/2004 UBCKNN được chuyển về dứoi sự chỉ đạo trực tiếp
của bộ Tài chính theo Nghị định 66/2004/NG-CP của Chính phủ sự kiện này
được xem là một bước đi hợp lý, tạo ra động lực cho quá trình phát triển của
TTCK ở Việt Nam với vai trò là cơ quan điều hành chính sác tài chính vĩ mô, cơ
quan quản lý và phát triển thị trương tài chính, việc hoạch định và ban hành các
chính sách quản lý nhà nước về TTCK của Bộ Tài chính sẽ nhanh nhạy hơn và
hiệu quả hơn.
Ngày 8/3/2005, TTGDCK Hà Nội chính thức được khai trưong với hệ
thống đấu giá cổ phiếu và đấu thầu trái phiếu đ vào hoạt động .Sự ra đời của
TTGDCK Hà Nội có ý nghĩa quan trong trong việc mở rộng quy mô của TTCK
Việt Nam và đưa giao dịch cổ phiếu của các doạnh nghiệp vừa và nhỏ đi vào
hoạt động có tổ chức.
2. Khái quát thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
Thời điểm ban đầu khi TTGDCK TP. HCM được đưa vào vận hành
thang 7 năm 2000 chỉ có 2 cổ phiếu được đưa vào giao dịch với tổng giá trị vốn
niêm yết là 270 tỷ đồng và chỉ có 6 công ty chứng khoán đăng ký làm thành
viên.Với sự cố gắng của các ban, nghành và cơ quan chủ quản thì cho đến cuối
năm 2005 tổng giá trị thị trường của các chứng khoán niêm yết và đăng ký giao
dịch ( theo mệnh giá ) đạt 47.478 tỷ đồng, tương đưong 6,1% GDP của năm
2005, trong đó cổ phiếu 1,2% GDP và trái phiếu chiếm 4,9% GDP .Số công ty
chứng khoán thành viên được cấp phép hoạt động là 15 công ty .Tính đến thời
25

×