Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

hoàn thiện chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp ở tỉnh thanh hóa trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (545.06 KB, 114 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều nghị quyết nhằm
không ngừng xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển nông nghiệp.
Trong thực tế những chính sách này đang khơi dậy và phát huy cao độ các
nguồn lực để phát triển kinh tế nông nghiệp của đất nước. Quán triệt chủ
trương của Đảng và Nhà nước, những năm qua chính sách kinh tế trong phát
triển nông nghiệp của tỉnh Thanh Hóa đã đưa đến nhiều thành quả quan trọng.
Về cơ bản đã giải quyết được nhu cầu lương thực, thực phẩm của người dân
trong tỉnh, đáp ứng một phần quan trọng nguyên liệu cho ngành công nghiệp
chế biến và đang phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa tập trung
So với trước đây, Thanh Hóa đã có nhiều tiến bộ trong phát triển kinh
tế, tuy nhiên, nông nghiệp Thanh Hóa đang gặp phải những khó khăn trở ngại.
Tỷ trọng cơ cấu nông nghiệp trong nền kinh tế còn cao, năng suất lao động
thấp, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp còn yếu. Sự phát
triển kinh tế nông nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng, chưa đáp ứng những
yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông
nghiệp, nông thôn. Theo chúng tôi có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng
này, song trước hết phải kể đến hệ thống chính sách phát triển kinh tế nông
nghiệp của Thanh Hóa chưa đồng bộ, thiếu phù hợp, chưa thực sự trở thành
động lực cho sự phát triển kinh tế của địa phương.
Để tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ 5 (khóa IX) về đẩy nhanh CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010, nhằm đưa kinh tế nông nghiệp Thanh
Hóa bước sang một giai đoạn phát triển mới, cần phải thực hiện đồng bộ một
hệ thống các giải pháp, trong đó việc hoàn thiện các chính sách phát triển
kinh tế nông nghiệp.
1
Từ những vấn đề như đã phân tích trên, chúng tôi cho rằng để tài:
"Hoàn thiện chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa
trong giai đoạn hiện nay" là có tính cấp thiết cả về phương diện lý luận cũng


như thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều tác giả trong nước có công trình nghiên cứu hoặc viết bài
về các chính sách kinh tế thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Việt
Nam. Chỉ tính riêng trong những năm đầu của thế kỷ XXI có khá nhiều công
trình nghiên cứu tiêu biểu được công bố như: "Ảnh hưởng của chính sách
nông nghiệp nông thôn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa" của PGS.TS Ngô Đức Cát, Trường Đại học Kinh tế quốc dân; "Về một
số chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta trong thời kỳ mới"
của PGS.TS Đặng Văn Thanh, Bộ Tài chính; "Hoàn thiện các chính sách đầu
tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa" của ThS. Vũ Thị Thảo, Trường Đại học Kinh tế quốc dân; Luận án
Tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Tiến Dĩnh, năm 2003: "Hoàn thiện các
chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp, nông thôn ngoại thành Hà Nội
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa"
Các công trình nghiên cứu trên đã tập trung vào phân tích vai trò của
hệ thống chính sách trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng
CNH, HĐH ở hai khía cạnh lý luận và thực tiễn, trên phạm vi quốc gia và địa
phương. Đồng thời, đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm không ngừng hoàn
thiện hệ thống chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp ở nước ta và ở một
số địa phương cụ thể. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này chưa có điều
kiện đi sâu tính đặc thù, điều kiện xuất phát thấp, tính đa dạng và phức tạp
trong phát triển kinh tế nông nghiệp của một địa phương như ở Thanh Hóa.
Vì vậy, việc tiếp tục hướng nghiên cứu về vấn đề hoàn thiện chính sách
phát triển kinh tế nông nghiệp là cần thiết, có cơ sở khoa học và thực tiễn.
2
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện các chính sách kinh tế nông
nghiệp, đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện một số chính sách kinh tế chủ yếu

thúc đẩy phát triển nông nghiệp Thanh Hóa trong những năm tới theo hướng
nông nghiệp hàng hóa và CNH, HĐH.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về chính sách kinh tế
nông nghiệp, ở ba cấp độ: thế giới, quốc gia và địa phương.
- Phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện một số chính sách kinh tế
trong nông nghiệp của tỉnh Thanh Hóa trong thời gian qua, những vấn đề đặt
ra nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện một số chính sách kinh tế
thúc đẩy phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Thực tiễn cho thấy luôn có một hệ thống các chính sách đồng thời tác
động đến kinh tế nông nghiệp, với phạm vi rất rộng gồm nhiều loại, tuy nhiên
trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu sáu chính
sách kinh tế chủ yếu trong phát triển nông nghiệp đó là: Chính sách sử dụng
đất đai; chính sách đầu tư vốn; chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế; chính
sách ứng dụng khoa học - công nghệ trong trồng trọt và chăn nuôi; chính sách
thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; chính sách phát triển các thành
phần kinh tế.
Luận văn được nghiên cứu trong phạm vi địa bàn nông nghiệp, nông
thôn ở các huyện, thị và thành phố của tỉnh Thanh Hóa.
3
5. Phương pháp nghiên cứu
Các quan điểm và sự phân tích của luận văn được dựa trên cơ sở lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm đổi mới
của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế, nhất là kinh tế nông
nghiệp nông thôn. Đồng thời, luận văn vận dụng các học thuyết kinh tế hiện
đại, gắn với đặc thù của địa phương theo quan điểm toàn diện, lịch sử và cụ thể.
Luận văn sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật

lịch sử, kết hợp giữa lôgic và lịch sử, toàn diện và cụ thể để hệ thống hóa quá
trình và các quan điểm, lý thuyết trong phát triển kinh tế, nhất là kinh tế nông
nghiệp. Cũng như kết hợp với thực tiễn, kinh nghiệm phát triển kinh tế nông
nghiệp ở trong nước và các nước nước trên thế giới. Từ đó tiến hành phân tích,
đánh giá, chọn lọc rút ra những nhận xét, kết luận và những đề xuất cụ thể cho
việc hoàn thiện chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp của Thanh Hóa.
Luận văn đặc biệt quan tâm đến việc sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học về kinh tế: Phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh,
đối chiếu, chuyên gia và hệ thống hóa để từ thực tiễn rút ra những vấn đề lý
luận và các chính sách cụ thể chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
6. Đóng góp của luận văn
Kết quả của luận văn sẽ đóng góp những vấn đề sau:
- Tiếp tục hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về chính sách
kinh tế phát triển nông nghiệp.
- Đánh giá thực trạng xây dựng và thực hiện các chính sách kinh tế
trong nông nghiệp Thanh Hóa, đồng thời đưa ra những vấn đề cần phải tiếp
tục hoàn thiện.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện các chính sách kinh tế chủ yếu phát
triển nông nghiệp Thanh Hóa trong những năm tới.
4
- Luận văn sẽ góp phần bổ sung vào nguồn tài liệu tham khảo có giá
trị cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập và chỉ đạo thực tiễn về lĩnh
vực chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp, nông thôn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP
1.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP

TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1.1. Một số lý thuyết kinh tế bàn về vai trò của nông nghiệp
Trong lịch sử phát triển tri thức khoa học kinh tế của nhân loại đã xuất
hiện nhiều lý thuyết kinh tế đề cập tới vai trò của kinh tế nông nghiệp trong
toàn bộ quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Các lý thuyết đó có ảnh hưởng
quan trọng tới việc xây dựng phát triển các mô hình kinh tế nông nghiệp của
các quốc gia và khu vực trong những thời kỳ lịch sử nhất định. Trong quá
trình khảo cứu chúng tôi nhận thấy nội dung của các lý thuyết bàn về phát
triển nông nghiệp là rất phong phú, tuy nhiên có một vấn đề hết sức quan
trọng và liên quan đến chuyên đề nghiên cứu của tác giả chính là, sự khẳng
định và nhấn mạnh vai trò của phát triển kinh tế nông nghiệp ở các nước đang
phát triển. Đẩy mạng phát triển kinh tế nông nghiệp chính là yếu tố then chốt
để tăng trưởng kinh tế cho các nước đang phát triển, đồng thời góp phần tạo
ra những tiền đề ban đầu để tiến hành CNH, HĐH. Sau đây chúng tôi xin giới
thiệu một số lý thuyết kinh tế cơ bản bàn đến vai trò của kinh tế nông nghiệp.
1.1.1.1. Kinh tế học cổ điển
Trường phái trọng thương: Trường phái này ra đời ở Tây Âu trong
điều kiện chủ nghĩa tư bản tích lũy nguyên thủy, cho rằng nông nghiệp chỉ là
một nghề "trung gian" giữa hoạt động tích cực và tiêu cực, vì nông nghiệp
không tăng thêm nhưng cũng không tiêu hao của cải. Còn nguồn gốc của cải
nằm trong ngoại thương và trong lợi nhuận do chuyển nhượng. Do đó, quan
điểm bao trùm của phái trọng thương là coi ngoại thương là nguồn gốc duy
nhất và không thể thay thế để tạo ra của cải quốc dân. Như vậy, lý thuyết này
6
có đề cập đến kinh tế nông nghiệp, tuy nhiên lại chưa thực sự đánh giá hết vai
trò của nó trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Trường phái trọng nông: Cùng tồn tại với trường phái trọng thương ở
Tây Âu thế kỷ XVIII còn xuất hiện trường phái trọng nông. Trường phái này
phát triển và có ảnh hưởng mạnh mẽ ở nước Pháp thời bấy giờ. Lúc đó nền
kinh tế nông nghiệp của nước Pháp ở giữa thế kỷ XVIII đang lâm vào tình

trạng trì trệ, giảm sút nghiêm trọng, để thoát khỏi tình trạng đó giải pháp được
thực hiện là phát triển kinh tế nông nghiệp. Gần như đối lập và chống lại phái
trọng thương, phái trọng nông lại coi nông nghiệp là ngành duy nhất tạo ra
sản phẩm cho xã hội và chỉ có lao động nông nghiệp mới là lao động sản xuất.
Đại biểu lớn nhất của trường trọng phái nông là Ph.Quyêc-nê. Ông cho rằng
chỉ có nông nghiệp mới làm tăng sự giàu có cho xã hội. Còn các ngành kinh
tế khác như công nghiệp, thương mại chỉ làm thay đổi hình thái của của cải
và chúng không tạo thêm giá trị cho của cải. Nhưng không phải bất kỳ nền
nông nghiệp nào cũng tạo ra sản phẩm ròng, mà chỉ có nền nông nghiệp tổ
chức theo kiểu đồn điền tư bản chủ nghĩa mới tạo ra sản phẩm ròng, vì như
vậy mới đảm bảo được chi phí lao động ở mức thấp nhất. Quan điểm trường
phái này đã nhấn mạnh: trong một xã hội nông nghiệp là nền tảng, tất yếu
phải chú trọng tới sản xuất nông nghiệp, vì nó là điểm xuất phát cho sự phát
triển kinh tế - xã hội. Và con đường của sự phát triển nông nghiệp là làm tan
rã nông nghiệp truyền thống, tạo ra một nền nông nghiệp sản phẩm ròng, tức
là một nền nông nghiệp thương phẩm. Nền nông nghiệp mà chủ nghĩa trọng
nông hướng tới là một nền nông nghiệp kinh doanh theo phương thức tư bản
chủ nghĩa, với mục tiêu theo đuổi các giá trị mới. Họ khẳng định, nông
nghiệp là nơi tạo ra tích lũy vốn ban đầu cho sự phát triển. Hạn chế của
trường phái này là tuyệt đối hóa vai trò của xã hội công nghiệp phát triển, còn
phát triển nông nghiệp chỉ là giai đoạn tất yếu, cơ bản và phải bị vượt qua
trong quá trình phát triển.
7
Trường phái của David Ricado: Khi bàn đến phát triển kinh tế nông
nghiệp, nhà kinh tế học cổ điển người Anh là David Ricado cho rằng: Phát
triển nông nghiệp không có lợi vì đất đai có giới hạn, do đó khi dân cư tăng
lên phải canh tác cả trên những đất đai xấu, dẫn đến tình trạng lợi nhuận nông
nghiệp giảm, ảnh hưởng đến tích lũy của cải, tăng tư bản, do đó nông nghiệp
là giới hạn của sự tăng trưởng. "Trong "Nguyên lý kinh tế chính trị học và
thuế", Ricardo đã cho rằng hạn chế tăng trưởng nông nghiệp sẽ tạo ra giới hạn

cận trên cho khu vực phi nông nghiệp và sự hình thành vốn để mở rộng kinh
tế"" [37, tr. 5]. Ricacdo còn cho rằng, khi dân số tăng lên, nhu cầu về nông
sản ngày càng nhiều, buộc người ta phải tính đến những mảnh đất ít màu mỡ
hơn để canh tác và như vậy làm cho hiệu quả đầu tư vốn trong nông nghiệp bị
giảm dần. Theo ông sự phát triển của nông nghiệp cũng là động lực để phát
triển các ngành kinh tế khác.
1.1.1.2. Kinh tế học Mác - Lênin
Có thể chia kinh tế học Mác - Lênin thành hai giai đoạn phát triển,
giai đoạn Mác - Ăngghen và giai đoạn Lênin.
Kinh tế học Mác - Lênin giai đoạn C.Mác - Ph. Ăngghen ra đời trong
điều kiện chủ nghĩa tư bản đang ở thời kỳ đầu của sự phát triển. Các ông cho
rằng sự phát triển của nông nghiệp là cơ sở cho sự phát triển của xã hội; năng
suất lao động nông nghiệp vượt quá mức nhu cầu cá nhân của người lao động
là cơ sở của mọi xã hội và trước hết là cơ sở của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Như vậy, trong quan điểm bàn về phát triển kinh tế Mác và Ăng-ghen
đã rất coi trọng phát triển nông nghiệp, coi nó là điểm xuất phát trong tiến
trình phát triển. Nhưng nông nghiệp phát triển theo con đường nào? Đó là vấn
đề mà các ông còn quan tâm hơn. Mác và Ăngghen đã đưa ra khái quát, rằng
cần thiết phải giao đất cho những người lao động nông nghiệp đã được liên
hợp lại. Các ông cũng đã chỉ ra tính chất nhiều vẻ của nông nghiệp trong
những điều kiện khác nhau, sự khác nhau đó xuất phát không chỉ về vị trí và
8
chất lượng của đất đai mà còn là do sự khác nhau về qui mô đầu tư vào tư bản
ruộng đất, bao gồm thay đổi về kỹ thuật, tiến hành thâm canh và chế độ canh
tác hợp lý
Kinh tế học Mác - Lênin giai đoạn Lênin được xây dựng trong điều
kiện chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa xã hội (CNXH)
đang được xác lập ở nước Nga. Lênin là người đã kế tục xuất sắc các quan điểm
của Mác - Ăngghen về kinh tế nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng.
Ông cho rằng việc xuất hiện chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp, tức là hình

thành một nông nghiệp thương phẩm, xét về mặt lịch sử là một bước tiến bộ.
Chủ nghĩa tư bản đã xã hội hóa sản xuất nông nghiệp, đã biến nông nghiệp trở
thành một lĩnh vực kinh doanh như những lĩnh vực khác. Lênin đã khẳng định
công lao của chủ nghĩa tư bản trong phát triển kinh tế nông nghiệp, chính chủ
nghĩa tư bản đã thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Ngay từ lúc đó Lênin đã khái
quát và chỉ ra hai con đường phát triển chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp là
con đương kiểu Phổ (những đại điền trang được duy trì) và con đường kiểu
Mỹ (cách mạng xóa bỏ chế độ chiếm hữu đất đai của địa chủ).
Sau Cách mạng tháng Mười Nga, khi chính quyền đã về tay những
người cộng sản và nhân dân lao động, Lênin có điều kiện để áp dụng tư tưởng
kinh tế của mình vào quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Trong điều
kiện chiến tranh ông đã tiến hành thực hiện chính sách kinh tế "Cộng sản thời
chiến". Sau khi hòa bình lập lại trên đất nước Lênin sớm nhận ra sự lạc hậu,
không phù hợp của mô hình chính sách kinh tế này trong điều kiện mới. Do
vây, ông đã nhanh chóng thực hiện mô hình "Chính sách kinh tế mới" (NEP).
Trong nội dung của (NEP) Lênin đặc biệt quan tâm đến vấn đề phát triển kinh
tế nông nghiệp ở nước Nga lúc bấy giờ. Chẳng hạn, dưới sự lãnh đạo của ông
hàng loạt các chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp đã được thực hiện,
như: chính sách thuế lương thực; chính sách xóa bỏ chế độ trưng thu lương
thực thừa; chính sách khôi phục và phát triển sản xuất hàng hóa trong nông
9
nghiệp thông qua trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp với công nghiệp
Thực tế đã chứng minh tính đúng đắn của Lênin trong thực hiện các chính
sách kinh tế nông nghiệp thời kỳ hòa bình và xây dựng của nước Nga.
Từ quan điểm về chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp của Lênin
đã thể hiện sự khẳng định vai trò to lớn của phát triển kinh nông nghiệp trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Ông cho rằng, trong quá trình phát triển
kinh tế hàng hóa, phát triển kinh tế nông nghiệp là giải pháp đầu tiên trước
khi tiến hành công nghiệp hóa đất nước.
1.1.1.3. Kinh tế học hiện đại

Lịch sử phát triển tri thức khoa học về kinh tế của thế giới trong thế
kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI đã ghi nhận sự cạnh tranh, thay thế
nhau của các học thuyết kinh tế. Do thực tiễn không ngừng vận động biến đổi
và phát triển, cho nên các lý thuyết kinh tế trên thế giới cũng không ngừng
vận động, nhằm giải quyết các vấn đề của nền kinh tế thị trường hiện đại.
Kinh tế học hiện đại rất phong phú, nghiên cứu nhiều lĩnh vực của đời sống
kinh tế và xuất hiện nhiều quan điểm, trường phái khác nhau. Tuy nhiên, về
phát triển nông nghiệp, quan điểm của các lý thuyết kinh tế thường tập trung
nhấn mạnh vào một số luận điểm như sau:
Một là, con đường phát triển tất yếu đối với mọi quốc gia để chuyển từ
nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế phát triển là nền kinh tế thị trường. Trong
tiến trình đó, nông nghiệp phải được coi là xuất phát điểm cho sự phát triển.
Hai là, nông nghiệp phải được giải phóng khỏi những quan hệ phong
kiến, lệ thuộc - trở lực cho sự phát triển sức sản xuất và phải trở thành nền
nông nghiệp thương phẩm, một lĩnh vực kinh doanh, một bộ phận trong cơ
cấu chung của nền kinh tế thì mới phát triển.
10
Ba là, dù bước đi và nội dung có những đặc điểm riêng, nhưng cũng
giống như những ngành khác, nông nghiệp cũng phải được từng bước CNH,
HĐH.
Bốn là, kinh tế hộ gia đình và hình thức phát triển của nó theo yêu cầu
của nông nghiệp hàng hóa - trang trại gia đình - là hình thức kinh tế có sức
sống mãnh liệt và có tính thích ứng cao đối với mọi chế độ xã hội.
Năm là, muốn phát triển lĩnh vực kinh tế nông nghiệp các quốc gia,
vùng kinh tế phải lựa chọn lợi thế so sánh của sản phẩm, nhằm khai thác tối
đa tiềm năng và lợi thế cạnh tranh.
Sáu là, kinh tế nông nghiệp phụ thuộc lớn vào thể chế, chính sách
trong tiến trình phát triển của các quốc gia.
Bảy là, từng ngành sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử có khác nhau,
nhưng nhìn chung nông nghiệp luôn chiếm vị trí trọng yếu ban đầu, sau đó

giảm dần trong quá trình phát triển, nhưng vai trò lại không giảm, nhất là có
tác động của kinh tế thị trường và công nghiệp hóa.
1.1.2. Quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế nông nghiệp
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
Trải qua hai thập niên thực hiện công cuộc đổi mới, cơ cấu kinh tế của
nước ta đã có những chuyển biến tích cực.
Tính đến thời điểm hiện tại, nông nghiệp chiếm khoảng
25% GDP, 30% tổng kim ngạch xuất khẩu, tạo việc làm cho 70% lao
động xã hội, và liên quan đến thu nhập, đời sống của khoảng 80%
dân số nước ta. Vì thế, nông nghiệp Việt Nam chiếm vai trò cực kỳ
quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, là cơ sở của sự tăng
trưởng và phát triển kinh tế, đảm bảo ổn định chính trị - xã hội [14,
tr. 9].
11
Ngành kinh tế nông nghiệp của nước ta hiện nay không chỉ đáp ứng
nhu cầu lương thực, thực phẩm cho nhân dân, đảm bảo an ninh lương thực
cho đất nước mà còn cung cấp một lượng lớn những nguyên liệu phục vụ cho
các ngành công nghiệp, dịch vụ, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông, lâm,
hải sản, Đồng thời, nông nghiệp là nơi cung cấp nguồn lao động dồi dào cho
các ngành kinh tế khác trong xã hội.
Phát triển kinh tế nông nghiệp tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu
lao động theo hướng tích cực. Phát triển nông nghiệp sẽ góp phần giải quyết việc
làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống của lao động nông nghiệp, nông thôn. Đồng
thời làm tăng sức mua và thúc đẩy các ngành công nghiệp, dịch vụ phát triển.
Phát triển kinh tế nông nghiệp không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội
địa, mà sản phẩm nông nghiệp còn tham gia xuất khẩu đến nhiều nước trên thế
giới. Các sản phẩm từ nông nghiệp xuất khẩu hàng năm đạt khoảng 5 tỷ UDS,
chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu. Chính nguồn thu nhập này đã
góp phần quan trọng vào nguồn thu ngân sách và cung cấp một lượng vốn khá
lớn cho phát triển nền kinh tế của đất nước.

Phát triển kinh tế nông nghiệp còn là mục tiêu để bảo vệ và làm giàu
môi trường sinh thái, phục vụ đời sống xã hội thông qua việc bảo vệ và phát
triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng kinh tế, phát triển các cụm cây xanh
và mặt nước, kết hợp giữa kinh tế và môi trường. Phát triển kinh tế nông nghiệp
phải ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sạch, đảm bảo phát triển bền vững,
giữ cho tài nguyên đất, tài nguyên nước không bị ô nhiễm. Đồng thời, phát triển
nông nghiệp là cơ sở cho sự phát triển bền vững của môi trường sinh thái.
Phát triển nông nghiệp còn là điều kiện lưu giữ, giữ gìn các loại hình
văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam, phát huy truyền thống của dân
tộc, phát triển du lịch, đó là những giá trị văn hóa làng xã, những phi vật thể,
những làng cổ, làng nghề tạo nên diện mạo đặc trưng của văn hóa Việt Nam.
12
Như vậy, phát triển kinh tế nông nghiệp ở nước ta có vai trò to lớn
trên nhiều phương diện khác nhau. Và, không chỉ bây giờ vai trò của lĩnh vực
kinh tế nông nghiệp mới được chúng ta khẳng định, mà ngay từ khi mới thành
lập Đảng cho đến công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta luôn khẳng định vai
trò quan trọng của nông dân, nông nghiệp và nông thôn trong tiến trình đấu
tranh cách mạng và xây dựng đất nước Việt Nam. Khi hòa bình lập lại 1954,
miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng CNXH, Hồ Chủ tịch đã chỉ rõ đặc
điểm lớn nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp
lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa
để làm cơ sở xây dựng đường lối chiến lược và các mục tiêu kinh tế - xã hội
của Đảng. Đây là một nhận định hết sức đúng đắn và có tầm chiến lược của
Bác trong chỉ đạo về phát triển kinh tế - xã hội. Kế thừa tư tưởng của Hồ Chủ
tịch, sau này các kỳ Đại hội của Đảng đã không ngừng khẳng định và từng
bước làm rõ thêm đặc điểm này, lấy đó làm cơ sở để xây dựng đường lối
chiến lược và mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước.
Tại Đại hội Đảng III (1960), vận dụng học thuyết Mác - Lênin về thời
kỳ quá độ và xuất phát từ đặc điểm của đất nước, Đại hội đã chỉ rõ:
Công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc phải là

một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt nhằm đưa miền Bắc
từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá nhân và sở hữu tập thể, từ
chế độ sản xuất nhỏ tiến lên chế độ sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, cá thể tiến lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ chủ nghĩa tư bản, chúng ta tiến hành
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, tạo ra cơ cấu công - nông nghiệp
hiện đại, thúc đẩy nông nghiệp và công nghiệp nhẹ phát triển.
Nhưng, muốn phát triển công nghiệp và tiến hành công
nghiệp hóa CNXH phải có điều kiện tiên quyết như lương thực,
thực phẩm, lao động , do vậy phải phát triển kinh tế nông nghiệp,
13
nông thôn. Đảng ta đã chỉ rõ: công nghiệp và nông nghiệp là hai bộ
phận chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân, có quan hệ mật thiết lẫn
nhau cần được phát triển và khẳng định: "Xây dựng một nền kinh tế
chủ nghĩa xã hội cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông
nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ [19, tr. 68].
Tiếp theo Đại hội, các Hội nghị Trung ương lần thứ 5, 7, 8, 10, 11,
19, 22 khóa III đã đề ra những chủ trương và chính sách lớn nhằm đẩy mạnh
sản xuất nông nghiệp. Do đó, cơ sở vật chất kỹ thuật của nông nghiệp thời kỳ
này đã được tăng cường đáng kể, sản xuất nông nghiệp đã đạt được những
thành tựu đáng tự hào.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đại hội IV (1976) của Đảng
tiếp tục khẳng định đẩy mạnh công nghiệp hóa là nhiệm vụ trọng tâm của cả
thời kỳ quá độ và xác định lấy nhiệm vụ phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ làm cơ sở ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý. Đại hội
cũng chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm (1976-1980) là: "Tập trung cao
độ lực lượng của cả nước, của các ngành, các cấp, tạo ra một bước phát triển
vượt bậc về nông nghiệp nhằm giải quyết vững chắc nhu cầu của cả nước về

lương thực, thực phẩm và một phần hàng tiêu dùng thông thường " [19, tr. 68].
Theo đường lối trên, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương,
chính sách lớn, như đầu tư cho thủy lợi, thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp,
phát triển giao thông nông thôn. Đặc biệt từ ngày 13/11/1981, Ban Bí thư
Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100-CT/TW về cải tiến công tác khoán, mở rộng
"khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động" trong tác xã nông nghiệp đã
tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, nông thôn.
14
Sau hơn 30 năm xây dựng CNXH ở miền Bắc, Đảng ta càng nhận thức
rõ vai trò và vị trí quan trọng của nông nghiệp, nông thôn trong sự nghiệp công
nghiệp hóa đất nước. Trong điều kiện nền kinh tế nông nghiệp của đất nước
còn ở trong tình trạng lạc hậu, tự cung tự cấp với năng suất thấp, Đảng ta thấy
rõ vấn đề bức thiết phải tập trung phát triển mạnh nông nghiệp, làm cho nông
nghiệp vươn lên đáp ứng những nhu cầu đời sống nhân dân, tạo nguồn tích lũy
vốn cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Do vậy, Đại hội V của Đảng đã xác
định mục tiêu kinh tế - xã hội tổng quát và những chính sách lớn. Trong 5 năm
1981-1985 và những năm 80 cần tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp,
coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất
lớn CNXH; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hợp lý. Đó là những nội dung
chính của công nghiệp hóa trong chặng đường trước mắt. Trên quan điểm đó,
Đảng ta đã chỉ đạo bố trí lại cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, qui định vị trí, nội
dung và mức độ phát triển các ngành kinh tế, kết hợp đúng đắn ngay từ đầu
công nghiệp và nông nghiệp trong một cơ cấu hợp lý. Do đó, nền kinh tế nước
ta đã có những chuyển biến và tiến bộ quan trọng, nhất là trong nông nghiệp,
lâm nghiệp, thủy sản.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đánh dấu một bước ngoặt lớn
trong đổi mới tư duy của Đảng ta về phát triển kinh tế nông nghiệp. Đại hội
đã đề ra những quan điểm và chính sách đổi mới, trước hết là đổi mới về kinh
tế, thực hiện ba chương trình kinh tế lớn, nhấn mạnh vai trò hàng đầu của
nông nghiệp trong việc đáp ứng những yêu cầu cấp bách về lương thực, thực

phẩm, nguyên liệu sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu; phấn đấu đưa
nông nghiệp trở thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa CNXH. Đại hội đã
chỉ rõ: "Trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên, trước mắt là
trong kế hoạch 5 năm 1986-1990, phải thực sự tập trung sức người, sức của
vào việc thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu" [3, tr. 19].
15
Trong chặng đường đầu tiên phải tập trung sức phát triển nông nghiệp,
coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất
lớn CNXH. Vì vậy ngày 5/4/1998, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 10/NQ-TW
về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, trong đó xác định chế độ tự chủ sản
xuất kinh doanh, chuyển sang hạch toán kinh doanh CNXH, chấn chỉnh tổ
chức và đổi mới hợp tác xã, xác định hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ,
hoàn thiện việc khoán đến hộ và ổn định mức giao. Việc thực hiện các nghị
quyết của Ttung ương Đảng, trong đó có Nghị quyết 10/NQ-TW đã đưa đến
những thành tựu to lớn hơn trong nông nghiệp nông thôn.
Từ kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và phân tích những vấn
đề mới có bổ sung, hoàn chỉnh và phát triển, Đại hội VII (1991) của Đảng đã
thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và
chiến lược ổn định phát triển kinh tế - xã hội đến năn 2000. Đại hội đã khẳng
định: "Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát
triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội" [3, tr. 20-21]. Đồng
thời cương lĩnh xây dựng đất nước CNXH cũng đã chỉ rõ:
Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo
hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn
diện là nhiệm vụ trọng tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất
- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất
lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân [3, tr. 21].
Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội VII của Đảng và thực tiễn cuộc sống,

Ban Chấp hành Trung ương ra Nghị quyết 05 NQ/HNTW ngày 10/6/1993 về
tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, đã xác định một hệ
thống quan điểm nhằm tiếp tục phát triển nông nghiệp nông thôn. Trong đó,
xác định quá trình CNH, HĐH đất nước, đặt sự phát triển nông nghiệp và
16
kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa là nhiệm vụ chiến lược hàng
đầu. Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần trong nông nghiệp, nông thôn theo định hướng CNXH; huy động tối đa
kinh tế hộ xã viên, cá thể, tư nhân và kinh tế hợp tác, liên doanh với nước
ngoài; gắn sản xuất với thị trường, quá trình phát triển sản xuất đi đôi với mở
rộng thị trường tiêu thụ nông sản; đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ
thuật, nhất là công nghệ sinh học để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm,
hạ giá thành, nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng sức cạnh tranh; tăng sức
mua của thị trường nội địa; đẩy mạnh xuất khẩu; có chính sách khuyến khích
và bảo vệ hợp lý sản xuất trong nước. Gắn phát triển kinh tế với phát triển văn
hóa, xã hội, cải thiện môi trường sinh thái, xây dựng nông thôn mới Đồng
thời, đề ra giải pháp đổi mới các chính sách vĩ mô, như chính sách thị trường
tiêu thụ nông sản hàng hóa, chính sách đầu tư và chính sách tín dụng, chính
sách thuế sử dụng đất và thủy lợi phí, đẩy mạnh công tác khuyến nông, chính
sách khoa học và công nghệ và chính sách xã hội nông thôn
Năm 1996, Đại hội VIII của Đảng đã quyết định chuyển sang thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Xác định CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn
dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. Đại
hội cũng đã chỉ rõ đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; coi
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là nội dung cơ bản của những năm còn
lại của thập kỷ 90.
Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp; hình thành các
vùng tập trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật
nuôi, có sản phẩm hàng hóa nhiều về số lượng, tốt về chất lượng,
đảm bảo về an toàn về lương thực trong xã hội, đáp ứng được yêu

cầu của công nghiệp chế biến và của thị trường trong và ngoài
nước. Thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học
hóa, gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị.
17
Phát triển các làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao
gồm: tiểu, thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng,
hàng xuất khẩu. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, từng
bước hình thành nông thôn mới văn minh, hiện đại [3, tr 28-29].
Tiếp theo, Bộ Chính trị khóa VIII ra Nghị quyết 06-NQ/TW ngày
10/11/1998 về một số vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn; xác định coi
trọng thực hiện CNH, HĐH trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông
thôn, đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực
kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài; là cơ sở để ổn định tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội, củng cố liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng
CNXH. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn phát triển nông nghiệp với
công nghiệp chế biến, gắn sản xuất với thị trường. Gắn phát triển nông nghiệp
với xây dựng nông thôn mới, gắn công nghiệp hóa với thực hiện dân chủ hóa
và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực ở nông thôn. Phát huy lợi thế của từng
vùng, áp dụng nhanh các tiến bộ khoa học, công nghệ để phát triển nông nghiệp
hàng hóa đa dạng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao nhu cầu nông sản thực phẩm
và nguyên liệu công nghiệp, hướng mạnh vào xuất khẩu. Phát triển nền nông
nghiệp với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo và cùng với kinh tế hợp tác xã dần trở thành nền tảng, hợp tác và hướng
dẫn kinh tế tư nhân phát triển theo đúng luật Từ những quan điểm trên,
Nghị quyết cũng đã đề ra những chủ trương và chính sách lớn, trong đó có
chính sách về các thành phần kinh tế; chính sách đất đai; chính sách về khoa
học công nghệ; chính sách đầu tư, tín dụng và thị trường và một số chính sách
xã hội để phát triển nông nghiệp, nông thôn theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để đạt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một

nước công nghiệp theo hướng hiện đại, Đại hội lần thứ IX (năm 2001) của Đảng
đã chủ trương ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan
18
hệ sản xuất cho phù hợp theo định hướng CNXH, tăng cường sự chỉ đạo và huy
động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp và nông
thôn. Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, ngày 18/3/2002, Hội nghị lần thứ
năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã ra Nghị quyết số 15-
NQ/TW về "Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn thời kỳ 2001-2010". Nghị quyết đã xác định rõ nội dung tổng quát CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn:
Là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị
trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng
các thành tựu khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học,
đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất
nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng
nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp
và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp;
xây dựng kết cấu hạ tầng về kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển
nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và xây
dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công
bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn
hóa của nhân dân nông thôn [24, tr. 92-93].
Như vậy, có thể nói trải qua một quá trình phát triển tư duy lý luận,
Đảng ta đã không ngừng hoàn thiện quan điểm đường lối của mình về phát triển
kinh tế nông nghiệp. Điều đó nói lên tầm quan trọng của phát triển kinh tế nông
nghiệp trong toàn bộ tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta.

19
1.2. CHÍNH SÁCH KINH TẾ NÔNG NGHIỆP VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỦA
CHÍNH SÁCH KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm chính sách
Cho đến nay chưa có một định nghĩa thống nhất về "chính sách". Thực
tế đang tồn tại nhiều quan niệm, ý kiến khác nhau về chính sách. Song, quan
điểm của F.Ellis được nhiều người tán thành, ông quan niệm, chính sách như
là sự kết hợp của đường lối, mục tiêu và phương pháp mà chính phủ lựa chọn
đối với lĩnh vực kinh tế, kể cả các mục tiêu mà chính phủ tìm kiếm và sự lựa
chọn các phương pháp để theo đuổi các mục tiêu đó. Như vậy, F.Ellis coi
chính sách như là sự kết hợp của đường lối, mục tiêu và các phương pháp mà
chính phủ lựa chọn để tạo ra tăng trưởng.
Tổng hợp một số quan điểm trên thế giới và Việt Nam chúng tôi cho
rằng, chính sách như là cách thức và hành động mà nhà nước lựa chọn nhằm
tác động vào sự phân bổ các lợi ích của chủ thể hoạt động trong xã hội hay
một lĩnh vực nhất định nào đó (kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng an ninh ).
Đối với Việt Nam, chính sách là hệ thống các phương pháp, cách thức,
biện pháp của Nhà nước cụ thể hóa đường lối của Đảng trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội với nhằm đạt được các mục tiêu trong mỗi giai đoạn lịch sử.
Với cách hiểu chính sách như trên có thể nêu một định nghĩa khái
quát như sau: chính sách kinh tế là hệ thống các quan điểm, biện pháp,
phương pháp can thiệp của nhà nước vào lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế
nhằm đạt các mục tiêu đã lựa chọn, trong một thời gian nhất định.
Kế thừa và tổng kết một số quan niệm về chính sách kinh tế nông
nghiệp, chúng tôi cho rằng, chính sách kinh tế trong nông nghiệp là tổng thể
các biện pháp tác động của nhà nước có liên quan đến nông nghiệp và các
ngành có liên quan, nhằm tác động vào nông nghiệp theo những mục tiêu nhất
20
định, trong một thời hạn nhất định. Như vậy, tùy theo định hướng mục tiêu
lâu dài hay trước mắt mà nhà nước có những biện pháp thích hợp để tác động

vào nông nghiệp coi đó như là công cụ để quản lý, điều tiết sự phát triển của
kinh tế nông nghiệp.
1.2.2. Phân loại chính sách kinh tế nông nghiệp
Trong thực tế đang tồn tại nhiều cách phân loại chính sách kinh tế đối
với nông nghiệp, nông thôn.
Phân loại theo địa chỉ tác động của chính sách, chúng ta có các nhóm
chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp như sau:
+ Chính sách hỗ trợ đầu vào của sản xuất nông nghiệp. Đó là các
chính sách về trợ giá giống mới cây trồng vật nuôi, trợ giá phân bón, thuốc
bảo vệ động thực vật, chính sách hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn;
chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp
+ Chính sách điều chỉnh đầu ra của sản xuất nông nghiệp. Bao gồm
chính sách về bảo hiểm nông sản, chính sách bảo hộ nông sản, chính sách miễn
giảm thuế nông sản, chính sách miễn giảm thuế buôn bán nông sản, chính
sách khuyến khích mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản
Phân loại theo mức độ quan trọng của mục tiêu cần đạt tới của chính sách:
+ Chính sách phục vụ mục tiêu cơ bản, như chính sách đất đai, chính
sách hỗ trợ xuất khẩu, chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế
+ Chính sách phục vụ mục tiêu thứ yếu.
+ Chính sách phục vụ mục tiêu tổng hợp, như chính sách khuyến
nông, chính sách cho người nghèo vay vốn tín dụng ưu đãi
Phân loại theo thời gian của mục tiêu:
21
+ Nhóm chính sách có tác động dài hạn, như: chính sách đất đai; chính
sách bảo hiểm nông sản
+ Nhóm chính sách có tác động trung hạn, như: chính sách khuyến
nông hỗ trợ sản phẩm mới, chính sách tín dụng thực hiện các chương trình
phát triển nông nghiệp theo mục tiêu và có thời hạn xác định.
+ Nhóm chính sách có tác động ngắn hạn, như: chính sách miễn giảm
thuế hay hỗ trợ nông nghiệp khi thiên tai, dịch bệnh, chính sách hỗ trợ giống

nuôi trồng mới, chính sách bảo trợ nông sản
Phân loại tổng hợp
Nhóm một: Bao gồm các chính sách có vai trò tác động trực tiếp vào
người sản xuất, làm thay đổi (điều chỉnh) qui mô cũng như phương hướng sản
xuất - kinh doanh trong những điều kiện cụ thể và thời gian nhất định. Các
chính sách cụ thể thuộc nhóm này là:
• Chính sách trợ giá trực tiếp đối với sản phẩm đầu ra tại nơi sản xuất.
• Chính sách tín dụng có mục tiêu đối với các yếu tố đầu vào của sản xuất.
• Chính sách trợ cấp đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và các điều kiện
môi trường cần thiết cho sản xuất.
• Chính sách giao nộp lương thực và một số nông sản khác với những
điều kiện xác định do Chính phủ đề ra.
• Chính sách chuyển hướng sử dụng đất, cải tạo ruộng đất.
• Chính sách khuyến nông và triển khai nông nghiệp.
Nhóm hai: Bao gồm các chính sách vĩ mô tác động trong phạm vi kinh
tế nội địa; có tác dụng điều chỉnh một hoạt động hoặc một một tập hợp các
hoạt động kinh tế nhất định. Các chính sách thuộc nhóm này là:
• Chính sách định giá nội địa độc quyền.
22
• Chính sách can thiệp mua nông sản theo giá bảo trợ - lập kho dự trữ
nhà nước.
• Chính sách trợ cấp giá lương thực và một số mặt hàng thực phẩm
cho người tiêu dùng.
• Chính sách đánh giá sản phẩm thô hoặc qua chế biến.
• Chính sách trợ cấp cho ngành công nghiệp có liên quan tới sản xuất
nông nghiệp hoặc sử dụng những ưu đãi riêng về thuế tương đương trợ cấp.
• Chính sách đầu tư vào giáo dục, nghiên cứu khoa học cho nông thôn.
Nhóm ba: Bao gồm các chính sách tác động hiệu chỉnh mối quan hệ
kinh tế nội địa với kinh tế bên ngoài (quốc tế). Đó là:
• Chính sách thuế nhập khẩu: Chính phủ thường dùng các loại thuế và

nghĩa vụ đối với hàng nhập khẩu dưới nhiều dạng khác nhau nhằm hạn chế
hoặc khuyến khích nhập khẩu một loại sản phẩm, vật tư nào đó.
• Chính sách trợ cấp hoặc đánh thuế xuất khẩu: Chính phủ thường
điều tiết khối lượng sản phẩm xuất khẩu thông qua chính sách trợ cấp qua giá
(khi muốn khuyến khích xuất khẩu) và chính sách đánh thuế cao (khi muốn
hạn chế xuất khẩu).
• Chính sách hạn ngạch (quota) nhập khẩu: Chính sách này có tác dụng
tương tự chính sách đánh thuế nhập khẩu với mục đích hạn chế nhập khẩu.
• Sử dụng hàng rào phi thuế quan bằng nhiều văn bản chính sách có
tác dụng gây trở ngại cho nhập khẩu, chẳng hạn các qui định ngặt nghèo về
tiêu chuẩn y tế, chất lượng sản phẩm, mẫu mã bao bì, đặc biệt là những đòi
hỏi về tiêu chuẩn kỹ thuật của mặt hàng nhập khẩu Những qui định này
thường thay đổi trong thời gian rất ngắn và có tác dụng điều tiết lượng hàng
nhập khẩu tương đối hiệu quả.
23
• Chính sách tỷ giá: Để điều chỉnh quan hệ xuất nhập khẩu nói chung
giữa các nhóm hàng tham gia xuất nhập khẩu.
1.2.3. Đặc điểm của chính sách kinh tế nông nghiệp
Nông nghiệp là một lĩnh vực rất quan trọng nhưng cũng rất phức tạp
đối với các quốc gia đang phát triển. Vì khu vực này thường trải rộng trên
nhiều địa bàn khác nhau với tính đa dạng, phong phú, đặc thù của mỗi địa
phương, vùng miền. Dân cư nông thôn chủ yếu gắn liền với sản xuất nông
nghiệp, với môi trường tự nhiên và thường gặp nhiều rủi ro. Người dân nông
thôn vừa là người chủ gia đình vừa là người chủ sản xuất, họ sản xuất để nuôi
sống chính bản thân và gia đình, nếu có dư thừa thì mới mang ra thị trường.
Tính đa dạng, không đồng đều của nông nghiệp, nông thôn là một đặc điểm
có ảnh hưởng đến việc xây dựng hệ thống chính sách phát triển nông nghiệp.
Do đó chính sách nông nghiệp của các quốc gia, khu vực, vùng miền đều
mang những nét đặc thù với màu sắc riêng. Chính sách nông nghiệp thường
bao hàm cả chính sách kinh tế và chính sách phi kinh tế. Ngày nay nông

nghiệp không chỉ là nơi sản xuất ra của cải vật chất mà còn là địa bàn có số
lượng dân cư rất đông. Nông nghiệp, nông thôn là nơi tàng trữ các giá trị văn
hóa tinh thần của xã hội, là nơi thực hiện các quá trình bảo vệ môi trường, bảo
vệ tài nguyên quốc gia. Nông nghiệp không chỉ sản xuất ra của cải cho xã hội
mà còn là là môi trường tự nhiên, môi trường xã hội cho phát triển bền vững.
Vì vậy, chính sách phát triển của các quốc gia đều mang những đặc trưng
riêng. Các chính sách này không chỉ nhằm phát triển kinh tế mà còn phải góp
phần giải quyết hàng loạt vấn đề liên quan đến văn hóa, xã hội, truyền thống.
Đảm bảo cho nông nghiệp phát triển bền vững chính là đảm bảo sự cân bằng
của xã hội. Trên thực tế nông dân luôn là lực lượng bị thiệt thòi nhất trong
quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Do đất đai bị thu hẹp, do năng suất
lao động thấp, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên cho
24
nên thu nhập của người nông dân thường thấp trong xã hội. Các chính sách
phát triển nông nghiệp ngoài mục đích kinh tế còn phải hướng vào xóa đói
giảm nghèo, nâng cao dân trí, lưu giữ và bảo vệ các giá trị văn hóa tinh thần
1.2.4. Những nhân tố cơ bản tác động đến chính sách kinh tế
nông nghiệp
Chính sách nói chung, chính sách kinh tế nông nghiệp nói riêng luôn
chịu sự tác động, chi phối của nhiều nhân tố về:
Một là, nhân tố quan trọng và chi phối trước tiên đến chính sách kinh
tế nông nghiệp là thể chế chính trị xã hội của mỗi quốc gia. Đó chính là chế
độ chính trị - xã hội của các quốc gia được hiến pháp qui định với bản chất và
hình thức tổ chức của nhà nước. Mỗi chế độ chính trị - xã hội khác nhau có
bản chất và hình thức tổ chức nhà nước khác nhau và cũng có những khác biệt
nhất định khi xây dựng và thực thi hệ thống chính sách kinh tế - xã hội, trong
đó có chính sách phát triển nông nghiệp.
Hai là, chính sách kinh tế nông nghiệp chịu sự tác động và chi phối
của việc định hướng, chiến lược phát triển của nhà nước. Nhà nước, thể chế
hóa đường lối, chiến lược phát triển của Đảng thành những chính sách cụ thể

nhằm thực hiện thành công chủ trương lớn đó.
Ba là, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế tác động mạnh đến
chính sách phát triển nông nghiệp. Trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa hiện
nay, nền kinh tế nói chung và khu vực kinh tế nông nghiệp nói riêng của các
quốc gia không thể không hòa nhập vào khu vực và toàn cầu, các sản phẩm từ
nông nghiệp đang được toàn cầu hóa. Nó chi phối mạnh mẽ các chính sách
nông nghiệp; chẳng hạn như chính sách nhằm nâng cao năng suất lao động,
chất lượng sản phẩm, hạ giá thành nông sản Do vậy, trong xu thế toàn cầu
25

×