Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước qua kho bạc nhà nước tỉnh bến tre

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.22 KB, 92 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với công cuộc đổi mới nền kinh tế, chuyển sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lí của nhà nước, lĩnh vực tài chính - ngân sách nói chung
và quản lý quỹ ngân sách của Kho bạc nhà nước (KBNN) nói riêng đã có sự
đổi mới căn bản, nhờ đó đã mang lại những kết quả đáng khích lệ. Chi ngân
sách nhà nước (NSNN) đã trở thành công cụ đắc lực trong điều hành vĩ mô
nền kinh tế của Nhà nước. Chi tiêu NSNN những năm qua, ngoài việc đảm
bảo hoạt động có hiệu quả của bộ máy nhà nước, ổn định đời sống kinh tế - xã
hội, còn tạo tiền đề, những cơ sở vật chất quan trọng góp phần thúc đẩy nền
kinh tế phát triển, tác động tích cực vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong từng khâu hoặc từng bộ phận
của quy trình quản lý chi NSNN nói chung và kiểm soát chi qua KBNN nói
riêng còn bộc lộ những khiếm khuyết, kém hiệu quả. Năm 2006, kiểm toán
nhà nước đối với ngân sách 2005 cho thấy có 7.622,5 tỉ đồng thu, chi sai
nguyên tắc phải xử lý, trong đó có 1.339,5 tỉ đồng là tiền từ NSNN. Trong
lĩnh vực chi thường xuyên, Kiểm toán nhà nước đã phát hiện nhiều hình thức
làm thất thoát, gây sai phạm như: lấy ngân sách cho vay, tạm ứng; tự chi các
khoản vượt thu, tăng thu; sử dụng ngân sách dự phòng sai qui định; hỗ trợ không
đúng chế độ, chi vượt tiêu chuẩn, định mức về mua sắm, Riêng trong lĩnh vực
chi tiêu hành chính, thất thoát lên đến 661,8 tỉ đồng. Hầu hết các tỉnh được kiểm
toán đều chi ngân sách thường xuyên vượt dự toán. Cá biệt, có những tỉnh chi
vượt dự toán rất cao, trên 100%.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tháng 12 năm 2005, Luật
Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được ban hành. Tất cả các bộ, ngành, địa
phương và tổ chức đã tích cực triển khai thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Tuy nhiên, tình trạng buông lỏng quản lý, vi phạm các nguyên tắc quản lý tài
1
chính, ngân sách, làm thất thoát tài sản của Nhà nước còn rất lớn. KBNN với
chức năng kiểm soát chi NSNN như “người gác cổng” giữ cho các chế độ về


chi tiêu ngân sách không bị phá vỡ, góp phần quan trọng trong việc thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí.
Bến Tre là một trong những tỉnh nghèo nhất nước, thu không đủ bù chi.
Với nguồn ngân sách hạn hẹp, lại phải dành một phần không nhỏ để chi cho
đầu tư phát triển. Vì vậy, để đảm bảo kinh phí đáp ứng cho các nhu cầu
thường xuyên của bộ máy quản lý nhà nước (QLNN) trên địa bàn tỉnh Bến
Tre thì việc hoàn thiện kiểm soát chi nhằm tiết kiệm, chống lãng phí trong chi
thường xuyên là vấn đề cấp thiết đang được đặt ra. Đây cũng là lý do của việc
chọn đề tài: “Hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước
qua kho bạc nhà nước tỉnh Bến Tre”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Do chi ngân sách là vấn đề hệ trọng, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh
vực nên đến nay đã có không ít công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực
này, chẳn hạn như:
- Đổi mới quản lý chi NSNN qua KBNN Đà Nẵng, của tác giả Phan
Quản Thống, Luận văn thạc sĩ, 1999.
- Quản lý chi NSNN qua Kho bạc trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, của tác
giả Lương Quang Tịnh, Luận văn thạc sĩ, 2000.
- Đổi mới quản lý chi NSNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, của tác giả
Đinh Cẩm Vân, Luận văn thạc sĩ, 2000.
- Hoàn thiện quy trình và phân cấp quản lý NSNN trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi, của tác giả Dương Ngọc Ánh, Luận văn thạc sĩ, 2002.
- Kiểm soát chi thường xuyên từ NSNN qua KBNN Hà Nội - thực trạng
và giải pháp, của tác giả Phùng Quang Anh, Luận văn thạc sĩ, 2006.
-Quản lý ngân sách nhà nước, của tác giả Nguyễn Ngọc Hùng, Nxb
Thống kê, Hà Nội, 2006.
2
- Kiểm soát chi có chuyển về chất nhưng chưa mạnh, của tác giả Nguyễn
Công Điều, Tạp chí Quản lý ngân quỹ quốc gia, số 41/2005, tr.24-26.
- Kiểm soát chi ngân sách - giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả sử

dụng NSNN, của tác giả Nguyễn Thị Chắt, Tạp chí Quản lý ngân quỹ quốc
gia, số 38/ 2005.
- Một số ý kiến về công tác kiểm soát chi ngân sách qua KBNN, của tác
giả Nguyễn Văn Biểu, Tạp chí Quản lý ngân quỹ quốc gia, số 42/2005.
- Hiệu quả công tác kiểm soát chi thường xuyên qua một năm thực hiện
Luật NSNN sửa đổi, của tác giả Trần Thị Thảo, Tạp chí Quản lý ngân quỹ
quốc gia, số 37/2005.
- Kiểm soát một cửa hay giao dịch một cửa, của tác giả Vĩnh Sang, Tạp
chí Quản lý ngân quỹ quốc gia, số 62/2007.
Nhìn chung, các công trình trên đã đề cập đến một số vấn đề lí luận và
thực tiễn về chi thường xuyên NSNN và kiểm soát chi thường xuyên NSNN
dưới những giác độ nhất định. Hiện chưa có công trình nào nghiên cứu về
kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua Kho bạc nhà nước một cách toàn
diện, tổng thể trong cả nước và đặc biệt là ở tỉnh Bến Tre.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu đề tài là trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận
và thực tiễn có liên quan tới đề tài để đề xuất những giải pháp hoàn thiện
kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN trên địa bàn tỉnh Bến Tre, bảo
đảm cho việc quản lí, sử dụng NSNN đúng quy định, đúng chế độ và có hiệu
quả, góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí tài sản công.
Để hiện thực hoá mục đích nghiên cứu đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu của
luận văn đặt ra là:
- Làm rõ cơ sở lý luận về quản lý và kiểm soát chi thường xuyên
NSNN qua KBNN trong điều kiện hiện nay.
- Phân tích thực trạng kiểm soát chi thường xuyên tại KBNN tỉnh Bến
Tre trong thời gian qua, chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế và
nguyên nhân chủ yếu.
3
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên NSNN
qua KBNN tỉnh Bến Tre phù hợp với bối cảnh mới hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động kiểm soát chi thường xuyên NSNN
qua KBNN.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là chi thường xuyên của NSNN tại
KBNN trên địa bàn tỉnh Bến Tre. Việc đánh giá thực trạng chi NSNN và kiểm
soát chi thường xuyên NSNN chủ yếu từ khi Luật NSNN năm 2002 có hiệu
lực thi hành (2004) đến nay. Các giải pháp và kiến nghị hoàn thiện kiểm soát
chi thường xuyên NSNN định hướng cho đến năm 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin; các
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta; kế thừa có chọn
lọc kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố.
Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận văn bao
gồm các phương pháp toán học, các phương pháp thống kê, các phương pháp
xã hội học và phương pháp tiếp cận hệ thống. Trong đó, một số phương pháp
cụ thể được chú trọng sử dụng gồm: phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, đối chứng, mô hình hoá
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Hệ thống hoá và làm rõ cơ sở lý luận về kiểm soát chi thường xuyên
NSNN qua KBNN; phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động kiểm soát chi
thường xuyên NSNN của KBNN tỉnh Bến Tre. Từ đó, đưa ra các giải pháp
nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát các khoản chi thường xuyên của các đơn
vị sử dụng NSNN qua KBNN Bến Tre, góp phần thực hành tiết kiệm và
chống lãng phí trong chi tiêu NSNN.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn được trình bày thành 3 chương, 7 tiết.
4
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KIỂM SOÁT CHI THƯỜNG XUYÊN

NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC QUA KHO BẠC NHÀ NƯỚC
1.1. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ CHI THƯỜNG XUYÊN
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1.1. Khái quát về ngân sách nhà nước
NSNN là một phạm trù lịch sử, phản ánh các quan hệ kinh tế trong điều
kiện kinh tế hàng hoá - tiền tệ và được sử dụng như một công cụ để thực hiện
chức năng của nhà nước. Sự ra đời và tồn tại của NSNN gắn liền với sự tồn
tại và phát triển của nhà nước.
Tuy đã tồn tại khá lâu, nhưng đến nay, NSNN vẫn được nhìn nhận dưới
nhiều giác độ khác nhau và khái niệm NSNN cũng chưa thống nhất. Nếu xem
xét bề ngoài hay chỉ quan tâm về mặt lượng thì ngân sách là bảng liệt kê các
khoản thu và chi bằng tiền của nhà nước trong một giai đoạn nhất định. Có ý
kiến cho rằng, ngân sách là văn kiện được nghị viện thảo luận và phê chuẩn
mà trong đó, các nghiệp vụ tài chính của nhà nước được dự kiến và cho phép.
Một số ý kiến lại cho rằng, NSNN là kế hoạch thu chi tài chính hàng năm của
nhà nước được xét duyệt theo trình tự pháp định.
Theo Luật NSNN được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ hai thông qua
ngày 16/12/2002: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của
Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được
thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước” [29].
Tuy nhiên, nếu nhìn nhận khái quát hơn và sâu xa hơn thì NSNN phản
ánh các quan hệ phân phối cơ bản của nền tài chính quốc gia. Về mặt kinh tế,
NSNN thể hiện trong mối quan hệ kinh tế - tài chính giữa nhà nước với các
5
chủ thể của nền kinh tế trong quá trình hình thành, phân bổ và sử dụng
NSNN, quá trình phân phân phối và phân phối lại thu nhập nhằm thực hiện
các mục tiêu kinh tế - xã hội của nhà nước.
NSNN có tính niên hạn với niên độ hay năm tài khoá thường là một
năm. Ở nước ta hiện nay, năm ngân sách bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 và kết thúc

vào ngày 31 tháng 12 năm dương lịch. NSNN được quản lý thống nhất theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp
quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm. Trong đó, Quốc hội là cơ quan cao
nhất có quyền quyết định dự toán và phê chuẩn quyết toán NSNN.
NSNN có hai chức năng cơ bản là chức năng phân phối và chức năng
giám đốc. Chức năng phân phối của NSNN bao gồm phân phối thu nhập và
các yếu tố đầu vào của sản xuất, đặc biệt là các nguồn lực tài chính. Chức
năng giám đốc thể hiện ở việc giám sát, đôn đốc, thanh tra, kiểm tra bằng
đồng tiền gắn với quá trình thu, chi NSNN.
NSNN có vai trò rất to lớn trong đời sống kinh tế - xã hội hiện đại. Vai
trò đó thể hiện trên các mặt như: vừa là công cụ huy động nguồn tài chính để
đảm bảo thực hiện chức năng của nhà nước, vừa là công cụ điều tiết vĩ mô
kinh tế nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục những khiếm
khuyết của kinh tế thị trường, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, góp phần
bảo vệ môi trường.
NSNN có hai nội dung cơ bản là thu NSNN và chi NSNN. Thu NSNN
bao gồm những khoản tiền nhà nước huy động vào NSNN để đáp ứng các nhu
cầu chi tiêu và nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Phần
lớn các khoản thu NSNN đều mang tính bắt buộc. Theo pháp luật hiện hành
của nước ta, hiện có 14 nhóm nguồn thu khác nhau như: thuế; phí, lệ phí; thu
từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; thu từ hoạt động sự nghiệp; tiền thuê đất,
sử dụng đất của Nhà nước; thu từ huy động vốn đầu tư các công trình; đóng
6
góp tự nguyện v.v. [13]. Trong đó, nguồn thu từ thuế, phí và lệ phí (thu
thường xuyên) chiếm tỷ trọng chủ yếu.
Chi NSNN là quá trình phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm trang
trải cho các chi phí của bộ máy nhà nước và thực hiện các mục tiêu kinh tế,
chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng. Theo các nhà chuyên môn tài chính:
"Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm đảm bảo thực hiện
các chức năng của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định" [17, tr.93].

Chi NSNN bao gồm nhiều khoản chi khác nhau tuỳ theo cách phân
loại. Theo lĩnh vực hoạt động, chi NSNN bao gồm: chi quản lý hành chính,
chi đầu tư kinh tế, chi cho y tế, chi cho giáo dục, chi cho phúc lợi xã hội, chi
cho an ninh quốc phòng; theo mục đích chi tiêu, chi NSNN bao gồm chi tích
luỹ, chi tiêu dùng; theo thời hạn tác động của các khoản chi, chi NSNN bao
gồm: chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển và chi khác (như chi cho vay, trả
nợ, viện trợ ).
Chi thường xuyên là nhóm chi NSNN đặc biệt quan trọng, gồm rất
nhiều khoản chi và bao quát nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
1.1.2. Nội dung, vai trò của chi thường xuyên ngân sách nhà nước
1.1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của chi thường xuyên ngân
sách nhà nước
Chi thường xuyên NSNN là các khoản chi nhằm duy trì hoạt động
thường xuyên của nhà nước với các nội dung chủ yếu: chi tiền công, tiền lương;
chi mua sắm hàng hoá, dịch vụ; chi chuyển giao thường xuyên [17, tr.97].
Về thực chất, chi thường xuyên NSNN là quá trình phân phối lại nguồn
vốn từ quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm duy trì hoạt động bình
thường của bộ máy nhà nước gắn với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ mà
Nhà nước đảm nhiệm.
Chi thường xuyên NSNN có một số đặc điểm cơ bản như sau:
7
Một là, đại bộ phận các khoản chi thường xuyên từ NSNN đều
mang tính ổn định và có tính chu kỳ trong một khoảng thời gian hàng
tháng, hàng quý, hàng năm.
Hai là, các khoản chi thường xuyên phần lớn nhằm mục đích tiêu dùng.
Hầu hết các khoản chi thường xuyên nhằm trang trải cho các nhu cầu về quản
lý hành chính, hoạt động sự nghiệp, về an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã
hội và các hoạt động xã hội khác do Nhà nước tổ chức. Các hoạt động này
hầu như không trực tiếp tạo ra của cải vật chất. Tuy nhiên, những khoản chi
thường xuyên có tác dụng quan trọng đối với phát triển kinh tế vì nó tạo ra

một môi trường kinh tế ổn định, nâng cao chất lượng lao động thông qua các
khoản chi cho giáo dục - đào tạo.
Ba là, phạm vi và mức độ chi thường xuyên NSNN gắn liền với cơ cấu
tổ chức bộ máy nhà nước và việc thực hiện các chính sách kinh tế, chính trị,
xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ. Bởi lẽ, phần lớn các khoản chi
thường xuyên nhằm duy trì bảo đảm hoạt động bình thường, hiệu quả của bộ
máy quản lý nhà nước. Hơn nữa, những quan điểm, chủ trương, chính sách
phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước cũng ảnh hưởng trục tiếp đến việc
định hướng, phạm vi và mức độ chi thường xuyên NSNN.
Chi thường xuyên NSNN có vai trò rất quan trọng. Vai trò đó thể hiện
trên các mặt cụ thể như sau:
Thứ nhất, chi thường xuyên có tác động trực tiếp đến việc thực hiện các
chức năng của Nhà nước về quản lý kinh tế, xã hội, là một trong những nhân tố
có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả của bộ máy QLNN.
Thứ hai, chi thường xuyên là công cụ để Nhà nước thực hiện mục tiêu
ổn định và điều chỉnh thu nhập, hỗ trợ người nghèo, gia đình chính sách, thực
hiện các chính sách xã hội góp phần thực hiện mục tiêu công bằng xã hội.
Thứ ba, thông qua chi thường xuyên, Nhà nước thực hiện điều tiết, điều
8
chỉnh thị trường để thực hiện các mục tiêu của Nhà nước. Nói cách khác, chi
thường xuyên được xem là một trong những công cụ kích thích phát triển và
điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thứ tư, chi thường xuyên là công cụ ổn định chính trị, xã hội, quốc
phòng, an ninh. Thông qua chi thường xuyên, Nhà nước thực hiện các chính
sách xã hội, đảm bảo ổn định, an toàn xã hội và an ninh, quốc phòng.
1.1.2.2. Nội dung chi thường xuyên ngân sách nhà nước
Nội dung chi thường xuyên NSNN được phân biệt theo lĩnh vực chi,
đối tượng chi và tính chất chi tiêu. Cụ thể như sau:
Theo lĩnh vực chi trả, chi thường xuyên NSNN bao gồm 12 nội dung
chi theo luật định [13], cụ thể như sau:

- Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá thông
tin văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, các sự
nghiệp xã hội khác;
- Các hoạt động sự nghiệp kinh tế;
- Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội;
- Hoạt động của các cơ quan nhà nước;
- Hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam;
- Hoạt động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn Lao
động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến
binh Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam;
- Trợ giá theo chính sách của Nhà nước;
- Phần chi thường xuyên thuộc các Chương trình mục tiêu quốc gia, dự
án nhà nước;
- Hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội;
- Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội;
- Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội,
9
tổ chức xã hội - nghề nghiệp;
- Các khoản chi thường xuyên khác theo quy định của pháp luật.
Theo đối tượng chi trả, chi thường xuyên NSNN bao gồm các nội dung
chủ yếu sau:
- Các khoản chi cho con người thuộc khu vực hành chính - sự nghiệp
như: tiền lương, tiền công, phụ cấp, phúc lợi tập thể, y tế, vệ sinh, học bổng
cho học sinh và sinh viên v.v
- Các khoản chi về hàng hoá, dịch vụ tại các cơ quan nhà nước như: văn
phòng phẩm, sách, báo, dịch vụ viễn thông và thông tin, điện, nước, công tác
phí, chi phí hội nghị v.v
- Các khoản chi hỗ trợ và bổ sung nhằm thực hiện các chính sách xã hội
hay thực hiện điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước.
- Các khoản chi trả lãi tiền vay trong và ngoài nước.

- Các khoản chi khác.
Theo tính chất của từng khoản chi, nội dung chi thường xuyên NSNN
bao gồm các khoản như sau:
- Chi thanh toán cá nhân: là các khoản chi liên quan trực tiếp đến con
người như: chi tiền lương, phụ cấp lương, tiền công, chi học bổng, sinh hoạt
phí của học sinh, sinh viên, chi đóng bảo hiểm xã hội cho người hưởng lương
từ NSNN, chi tiền thưởng, phúc lợi tập thể.
- Chi nghiệp vụ chuyên môn: là các khoản chi đảm bảo hoạt động
thường xuyên của đơn vị thụ hưởng NSNN như: chi mua văn phòng phẩm,
chi trả dịch vụ công cộng, chi mua hàng hoá vật tư, công cụ dụng cụ dùng
trong công tác chuyên môn của từng ngành, chi bảo hộ lao động, trang phục,
đồng phục và các khoản khác.
- Chi mua sắm, sửa chữa: chi mua sắm đồ dùng, trang thiết bị, phương
tiện làm việc, sửa chữa lớn tài sản cố định và các khoản khác.
- Chi khác: là các khoản chi ngoài các khoản chi nêu trên chẳng hạn
như: chi hoàn thuế giá trị gia tăng, chi xử lý tài sản được xác lập sở hữu nhà
nước và các khoản khác.
10
1.1.2.3. Điều kiện cấp phát, thanh toán các khoản chi thường xuyên
ngân sách nhà nước
Khác với nhiều loại chi tiêu khác, chi thường xuyên từ NSNN phải tuân
thủ những quy định pháp luật rất chặt chẽ. Cụ thể như sau:
Một là, các khoản chi đã có trong dự toán NSNN được giao, trừ các
trường hợp sau:
- Trong trường hợp vào đầu năm ngân sách, dự toán ngân sách và
phương án phân bổ ngân sách chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định, cơ quan Tài chính và KBNN tạm cấp kinh phí cho các nhiệm vụ
chi sau: chi lương và các khoản có tính chất tiền lương; chi nghiệp vụ phí và
công vụ phí; một số khoản chi cần thiết khác để bảo đảm hoạt động của bộ
máy, trừ các khoản mua sắm trang thiết bị, sửa chữa; chi cho dự án chuyển

tiếp thuộc các chương trình quốc gia.
- Chi từ nguồn tăng thu so dự toán được giao và từ nguồn dự phòng
ngân sách theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
Hai là, bảo đảm đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm
quyền quy định.
Ba là, đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng NSNN hoặc người được ủy
quyền quyết định chi.
Bốn là, trường hợp sử dụng vốn, kinh phí NSNN để mua sắm trang thiết bị,
phương tiện làm việc và các công việc khác phải qua đấu thầu hoặc thẩm định giá
thì còn phải tổ chức đấu thầu hoặc thẩm định giá theo quy định của pháp luật;
Năm là, các khoản chi có tính chất thường xuyên được chia đều trong
năm để chi; các khoản chi có tính chất thời vụ hoặc chỉ phát sinh vào một số
thời điểm như mua sắm, sửa chữa lớn và các khoản chi có tính chất không
thường xuyên khác phải thực hiện theo dự toán quý được đơn vị dự toán cấp I
giao cùng với giao dự toán năm.
1.2. KIỂM SOÁT CHI THƯỜNG XUYÊN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC QUA
11
KHO BẠC NHÀ NƯỚC
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của kiểm soát chi thường xuyên ngân
sách nhà nước qua kho bạc nhà nước
Kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN là việc KBNN sử dụng
các công cụ nghiệp vụ của mình thực hiện thẩm định, kiểm tra, kiểm soát các
khoản chi thường xuyên NSNN qua KBNN nhằm đảm bảo các khoản chi đó
được thực hiện đúng đối tượng, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do Nhà
nước quy định và theo những nguyên tắc, hình thức, phương pháp quản lý tài
chính của Nhà nước.
Kiểm soát chi thường xuyên NSNN có một số đặc điểm như sau:
Một là, kiểm soát chi thường xuyên gắn liền với những khoản chi
thường xuyên nên phần lớn công tác kiểm soát chi diễn ra đều đặn trong năm,
ít có tính thời vụ, ngoại trừ những khoản chi mua sắm tài sản, sửa chữa lớn tài

sản cố định
Hai là, kiểm soát chi thường xuyên diễn ra trên nhiều lĩnh vực và rất
nhiều nội dung nên rất đa dạng và phức tạp. Chính vì thế, những quy định
trong kiểm soát chi thường xuyên cũng hết sức phong phú, với từng lĩnh vực
chi có những quy định riêng, từng nội dung, từng tính chất nguồn kinh phí
cũng có những tiêu chuẩn, định mức riêng
Ba là, kiểm soát chi thường xuyên bị áp lực lớn về mặt thời gian vì
phần lớn những khoản chi thường xuyên đều mang tính cấp thiết như: chi về
tiền lương, tiền công, học bổng gắn với cuộc sống hàng ngày của cán bộ,
công chức, học sinh, sinh viên; các khoản chi về chuyên môn nghiệp vụ nhằm
đảm bảo duy trì hoạt động thường xuyên của bộ máy nhà nước nên những
khoản chi này cũng đòi hỏi phải được giải quyết nhanh chóng. Bên cạnh đó,
tất cả các đơn vị thụ hưởng NSNN đều có tâm lý muốn giải quyết kinh phí
trong những ngày đầu tháng làm cho cơ quan kiểm soát chi là KBNN luôn
gặp áp lực về thời gian trong những ngày đầu tháng.
Bốn là, Kiểm soát chi thường xuyên thường phải kiểm soát những
12
khoản chi nhỏ, vì vậy cơ sở để kiểm soát chi như hoá đơn, chứng từ để
chứng minh cho những nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh, thường không đầy đủ,
không rõ ràng, thiếu tính pháp lý gây rất nhiều khó khăn cho cán bộ kiểm
soát chi, đồng thời cũng rất khó để có thể đưa ra những quy định bao quát hết
những khoản chi này trong công tác kiểm soát chi.
1.2.2. Nguyên tắc, nội dung và quy trình kiểm soát chi thường
xuyên ngân sách nhà nước qua Kho bạc nhà nước
1.2.2.1. Nguyên tắc và thủ tục kiểm soát chi thường xuyên ngân sách
nhà nước qua Kho bạc nhà nước
Việc quản lý chi và kiểm soát chi thường xuyên NSNN được thực hiện
theo những nguyên tắc sau:
Một là, tất cả các khoản chi NSNN phải được kiểm tra, kiểm soát trước,
trong và sau quá trình cấp phát, thanh toán. Các khoản chi phải có trong dự

toán NSNN được duyệt, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quy định và đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng kinh phí
NSNN chuẩn chi.
Hai là, tất cả các cơ quan, đơn vị sử dụng kinh phí NSNN phải mở tài
khoản tại KBNN; chịu sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan tài chính, KBNN
trong quá trình lập, phân bổ, và thực hiện dự toán được giao.
Ba là, mọi khoản chi NSNN phải được hạch toán bằng đồng Việt Nam
theo từng niên độ ngân sách, cấp ngân sách và theo Mục lục NSNN. Các
khoản chi NSNN bằng ngoại tệ, hiện vật, ngày công lao động được quy đổi và
hạch toán chi bằng đồng Việt Nam theo tỷ giá ngoại tệ, giá hiện vật, ngày
công lao động do cơ quan có thẩm quyền quy định.
Bốn là, trong quá trình quản lý, cấp phát, quyết toán chi NSNN, các
khoản chi sai phải thu hồi giảm chi. Căn cứ vào quyết định của cơ quan tài
chính hoặt cơ quan nhà nước có thẩm quyền, KBNN thực hiện thu hồi giảm
chi NSNN.
13
Năm là, KBNN có trách nhiệm kiểm soát các hồ sơ, chứng từ, điều
kiện chi và thực hiện cấp phát, thanh toán kịp thời các khoản chi NSNN
theo đúng quy định; tham gia với các cơ quan tài chính, cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền trong việc kiểm tra tình hình sử dụng NSNN và
xác nhận số thực chi NSNN qua KBNN của các đơn vị sử dụng NSNN.
KBNN có quyền tạm đình chỉ, từ chối thanh toán, chi trả và thông báo cho
đơn vị sử dụng NSNN biết, đồng thời gửi cơ quan tài chính đồng cấp giải
quyết trong các trường hợp: chi không đúng mục đích, đối tượng theo dự
toán được duyệt; chi không đúng chế độ, định mức chi tiêu, không đủ các
điều kiện theo quy định.
Thủ tục kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước được thực
hiện theo luật định. Căn vào yêu cầu quản lý, mục đích sử dụng kinh phí khi
cấp phát thanh toán các khoản chi thường xuyên, KBNN đòi hỏi các khoản
chi đó phải đáp ứng các thủ tục sau:

- Dự toán năm được giao (gửi một lần vào đầu năm), nhu cầu chi quý
đã gửi KBNN (gửi một lần vào cuối quý trước).
- Giấy rút dự toán NSNN có chữ ký của thủ trưởng, kế toán trưởng đơn
vị sử dụng NSNN hoặc người được uỷ quyền.
Ngoài ra, tuỳ theo tính chất của từng khoản chi, các hồ sơ và chứng từ
thanh toán cần thiết đối với từng loại chi như sau:
Thứ nhất, chi thanh toán cá nhân, bao gồm chi tiền lương, chi học bổng
và sinh hoạt phí của học sinh, tiền thuê người lao động - cần có đủ hồ sơ, văn
bản được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Chẳng hạn, đối với các khoản chi
tiền lương, cần có các văn bản, giấy tờ sau:
- Bảng đăng ký biên chế, quỹ lương đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt (gửi lần đầu);
- Danh sách những người hưởng lương và phụ cấp lương (gửi lần đầu);
- Bảng tăng, giảm biên chế và quỹ tiền lương được cơ quan nhà nước
14
có thẩm quyền phê duyệt (nếu có).
Thứ hai, chi nghiệp vụ chuyên môn đòi hỏi phải có các hồ sơ chứng từ
có liên quan như: hoá đơn bán hàng, phiếu xuất kho kiêm hoá đơn bán hàng,
các chứng từ gốc khác có liên quan của đơn vị cung cấp hàng hoá, dịch vụ khi
giao hàng hoặc thực hiện hợp đồng dịch vụ.
Thứ ba, chi mua sắm đồ dùng, trang thiết bị, phương tiện làm việc, sửa
chữa lớn tài sản cố định cần có các giấy tờ như: dự toán chi quý về mua sắm,
sửa chữa lớn tài sản cố định được cấp có thẩm quyền duyệt; quyết định phê
duyệt kết quả đấu thầu hoặc quyết định chỉ định thầu của cấp có thẩm quyền
(đối với trường hợp mua sắm phương tiện làm việc, sửa chữa lớn phải thực
hiện đấu thầu theo quy định); hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ; phiếu báo
giá của đơn vị cung cấp hàng hoá, dịch vụ (đối với những trường hợp mua
sắm nhỏ không có hợp đồng mua bán); hoá đơn bán hàng, vật tư, thiết bị; các
hồ sơ, chứng từ khác có liên quan.
Thứ tư, các khoản chi khác đòi hỏi phải có bảng kê chứng từ thanh toán

có chữ ký của thủ trưởng, kế toán trưởng đơn vị sử dụng NSNN hoặc người
được uỷ quyền; các hồ sơ chứng từ khác có liên quan.
1.2.2.2. Nội dung và qui trình kiểm soát chi thường xuyên ngân sách
nhà nước
Nội dung kiểm soát chi NSNN nói chung và kiểm soát chi thường
xuyên nói riêng thể hiện qua ba giai đoạn kiểm soát: kiểm soát trước khi chi,
kiểm soát trong khi chi và kiểm soát sau khi chi.
Kiểm soát trước khi chi là kiểm soát việc lập, quyết định, phân bổ dự
toán chi NSNN. Đây là khâu đầu tiên trong chu trình kiểm soát chi. Nó giúp
nâng cao chất lượng dự toán, tránh tình trạng giao dự toán quá thấp không đủ
kinh phí hoạt động cho đơn vị hoặt giao dự toán quá cao dễ dẫn đến lãng phí
trong sử dụng NSNN.
Kiểm soát trong khi chi là kiểm soát quá trình thực hiện dự toán nhằm
15
đảm bảo các khoản chi phải đủ điều kiện theo quy định trước khi xuất quỹ
NSNN chi trả cho đối tượng thụ hưởng NSNN. Kiểm soát trong khi chi là
khâu chủ yếu của chu trình kiểm soát chi và cũng là nhiệm vụ quan trọng nhất
của KBNN trong việc quản lý chi quỹ NSNN. Kiểm soát trong khi chi giúp
ngăn chặn kịp thời những khoản chi không đúng chế độ quy định, tránh lãng
phí và thất thoát tiền và tài sản nhà nước.
Kiểm soát sau khi chi là kiểm tra tình hình sử dụng kinh phí của đơn vị
sử dụng NSNN sau khi KBNN đã xuất quỹ NSNN. Kiểm soát sau khi chi do
các cơ quan có thẩm quyền quyết định dự toán, cơ quan kiểm toán và cơ quan
tài chính đảm nhiệm.
Kiểm soát chi NSNN qua KBNN được tiến hành theo ba nội dung cơ
bản như sau:
- Kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của các chứng từ chi: Chứng từ chi
phải được lập đúng mẫu qui định đối với từng khoản chi. Chẳng hạn, với chi
dự toán bằng tiền mặt, khi sử dụng kinh phí thường xuyên áp dụng mẫu C2-
04/NS, kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia sử dụng mẫu C2- 04b/NS, dự

toán ngân sách xã sử dụng mẫu C2- 02/NS; trên chứng từ phải ghi đầy đủ các
yếu tố theo đúng nguyên tắc lập chứng từ kế toán, các yếu tố ghi trên chứng
từ phải đảm bảo tính đúng đắn; phải có đầy đủ con dấu, chữ ký của chủ tài
khoản, kế toán trưởng (hoặc người được uỷ quyền) đúng với mẫu dấu, chữ ký
đã đăng ký tại Kho bạc khi mở tài khoản.
- Kiểm tra các điều kiện chi theo chế độ quy định, bao gồm các khoản
chi phải còn đủ số dư dự toán để thực hiện chi trả; bảo đảm dúng chế độ, tiêu
chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền quy định; có đầy đủ các hồ sơ, hoá
đơn, chứng từ liên quan tùy theo tính chất của từng khoản chi.
- Kiểm tra tồn quỹ NSNN của cấp ngân sách tương ứng với khoản chi.
Tồn quỹ ngân sách phải đủ để cấp phát theo yêu cầu của đơn vị sử dụng
NSNN (KBNN tỉnh, KBNN huyện không phải kiểm tra tồn quỹ NSNN cấp
16
trung ương khi chi NSTW).
Quy trình kiểm soát chi thường xuyên qua KBNN được thực hiện chủ
yếu ở khâu kiểm soát trong khi chi bao gồm các bước cụ thể sau:
Một là, căn vào dự toán được phân bổ, nhu cầu chi quý đã gửi KBNN
và theo yêu cầu nhiệm vụ chi, đơn vị sử dụng NSNN lập giấy rút dự toán
ngân sách, kèm theo hồ sơ thanh toán gửi KBNN nơi giao dịch. Trường hợp
được cơ quan có thẩm quyền thông báo điều chỉnh nhu cầu chi quý thì đơn vị
chỉ được chi trong giới hạn điều chỉnh.
Hai là, KBNN nơi giao dịch kiểm tra hồ sơ thanh toán, các điều kiện
chi theo quy định và giấy rút dự toán ngân sách của thủ trưởng đơn vị sử dụng
NSNN hoặc của người được uỷ quyền. Nếu đủ điều kiện theo quy định thì
thực hiện việc chi trả, thanh toán cho đơn vị thụ hưởng NSNN.
- Trường hợp chưa có đủ điều kiện thực hiện thanh toán trực tiếp qua
KBNN ở tất cả các khoản chi thì được phép cấp tạm ứng đối với một số
khoản chi theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Sau khi hoàn thành
công việc và có đủ chứng từ thanh toán thì chuyển từ tạm ứng sang thực chi.
- Trường hợp các khoản chi chưa đủ điều kiện chi theo quy định (không

có trong dự toán được duyệt, không đúng đối tượng, tiêu chuẩn, định mức,
không đủ hồ sơ, chứng từ hợp pháp, hợp lệ ), KBNN từ chối chi trả và thông
báo cho đơn vị, cơ quan tài chính cùng cấp biết để xử lý. Thủ trưởng cơ quan
KBNN là người có quyền đưa ra quyết định từ chối và hoàn toàn chịu trách
nhiệm về quyết định từ chối của mình.
1.2.2.3. Công cụ kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước
qua Kho bạc nhà nước
Một là, công cụ kế toán NSNN. Kế toán NSNN là một trong những
công cụ quan trọng gắn liền với hoạt động quản lý NSNN của KBNN. Nó có
vai trò tích cực trong việc quản lý, điều hành và kiểm soát hoạt động thu, chi
17
NSNN. Kế toán NSNN phản ánh chính xác, đầy đủ, kịp thời tình hình thu, chi
NSNN, qua đó cung cấp những thông tinh cần thiết để các cơ quan chức năng
điều hành ngân sách có hiệu quả cao. Một trong những chức năng quan trọng
của kế toán NSNN là hạch toán kế toán, kiểm tra tình hình cấp phát kinh phí
NSNN. Nó là công cụ chủ yếu để kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua
KBNN. Cụ thể, kế toán NSNN cung cấp số liệu tồn quỹ NSNN, số liệu về
tình hình nhập, xuất, tồn dự toán chi của đơn vị sử dụng NSNN. Đây là một
trong những căn cứ quan trọng để KBNN xem xét các khoản chi của đơn vị
có đủ điều kiện hay không từ đó đưa ra quyết định cấp phát hay từ chối cấp
phát. Về nguyên tắc, các khoản chi thường xuyên của mõi đơn vị sử dụng
NSNN không được vượt quá số tồn dự toán của đơn vị đó và không được
vượt quá tồn quỹ NSNN.
Hai là, công cụ mục lục NSNN. Hệ thống Mục lục NSNN là bảng phân
loại các khoản thu, chi NSNN theo hệ thống tổ chức nhà nước, ngành kinh tế
và các mục đích kinh tế - xã hội do Nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ công
tác lập, chấp hành, kế toán, quyết toán NSNN và phân tích các hoạt động kinh
tế tài chính thuộc khu vực nhà nước.
Mục lục NSNN là một trong những công cụ quan trọng, không thể
thiếu trong công tác kiểm soát chi. Nội dung, kết cấu và cách sử dụng công cụ

Mục lục NSNN là một trong những cơ sở đánh giá khả năng quản lý NSNN
của một quốc gia. Hệ thống Mục lục NSNN có bao quát được các hoạt động
kinh tế và các giao dịch kinh tế của Nhà nước thì việc thu thập, phân tích và
xử lý số liệu mới đầy đủ; từ đó cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời cho công
tác lập dự toán NSNN, điều hành, quản lý, kiểm soát NSNN; đồng thời cung
cấp thông tin cần thiết phục vụ việc đề ra các quyết định phát triển kinh tế -
xã hội.
Ba là, công cụ định mức chi ngân sách. Định mức chi ngân sách là một
chuẩn mực do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định đối với từng nội
18
dung chi NSNN. Định mức chi ngân sách là cơ sở để tính toán khi lập dự toán
và cũng là căn cứ để KBNN đối chiếu với từng khoản chi của đơn vị sử dụng
NSNN trong quá trình kiểm soát chi NSNN. Mức chi thực tế của từng nội
dung chi không được vượt quá định mức chi đối với nội dung đó. Định mức
chi có định mức tuyệt đối và định mức tương đối. Định mức tuyệt đối là mức
chi đối với một nội dung cụ thể. Định mức tương đối là tỷ lệ giữa các nội
dung chi khác nhau. Chẳng hạn, Thông tư 79/2005/TT- BTC ngày 15/09/2005
có quy định: cơ quan, đơn vị có thể sử dụng nguồn kinh phí đào tạo để hỗ trợ
một phần chi phí cho cán bộ trong đơn vị đi học đại học, trên đại học nhưng
tổng số kinh phí hỗ trợ không quá 10% tổng kinh phí đào tạo được giao hàng
năm [4].
Bốn là, công cụ hợp đồng mua sắm tài sản công. Hợp đồng mua sắm tài
sản công là cở sở để KBNN kiểm soát các khoản chi về mua sắm tài sản, xây
dựng nhỏ và sửa chữa lớn tài sản cố định. Giá trị hợp đồng, thời hiệu hợp
đồng, bản thanh lý hợp đồng là căn cứ để KBNN thanh toán cho đơn vị
cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Những hợp đồng có giá trị lớn phải thông qua các
hình thức đấu thầu theo quy định. Chẳng hạn, mua sắm tài sản thuộc dự toán
mua sắm thường xuyên có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên phải tổ chức đấu
thầu rộng rãi.
Năm là, công cụ tin học. Đây là công cụ hỗ trợ cho công tác kiểm

soát chi. Về mặt kỷ thuật, công tác kiểm soát chi thường xuyên có thể thực
hiện bằng phương pháp thủ công. Tuy nhiên, với sự hỗ trợ của tin học, một
số khâu của công tác kiểm soát chi được tiến hành nhanh chóng và chính
xác hơn rất nhiều so với thực hiện theo phương pháp thủ công. Chẳng hạn,
kiểm soát mức tồn quỹ ngân sách, mức tồn dự toán của từng đơn vị sử
dụng ngân sách, kiểm soát mục lục ngân sách. Công cụ tin học còn có ý
nghĩa đặc biệt đối với công tác kế toán và công tác thanh toán các khoản chi
NSNN qua KBNN.
19
1.2.3. Các yếu tố tác động đến kiểm soát chi thường xuyên ngân
sách nhà nước qua Kho bạc nhà nước
Chi NSNN và kiểm soát chi thường xuyên NSNN là mội quá trình liên
quan đến tất cả các cấp, các ngành và nhiều cơ quan đơn vị. Đồng thời nó
cũng chịu tác động bởi nhiều yếu tố, trong đó có một số yếu tố chủ yếu sau:
Một là, yếu tố thể chế, pháp lí. Trong nhóm yếu tố này, Luật Ngân
sách nhà nước được coi là yếu tố rất quan trọng, là một trong những căn cứ
chủ yếu để kiểm soát NSNN nói chung và kiếm soát chi thường xuyên
NSNN nói riêng.
Luật NSNN qui định vai trò và trách nhiệm của KBNN trong quản lý
quỹ NSNN, kiểm soát và kế toán các khoản chi NSNN. Luật NSNN sửa đổi
năm 2002 có những điều khoản liên quan đến KBNN trong công tác chi
NSNN. Chẳng hạn, Điều 7 quy định: KBNN là cơ quan quản lý quỹ NSNN;
Điều 56 quy định: căn cứ vào dự toán NSNN được giao và yêu cầu thực hiện
nhiệm vụ, thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách quyết định chi gửi KBNN.
KBNN kiểm tra tính hợp pháp của các tài liệu cần thiết theo quy định của
pháp luật và thực hiện chi ngân sách khi có đủ các điều kiện quy định; trách
nhiệm của KBNN được quy định tại điều 58 như sau: thủ trưởng cơ quan
KBNN có quyền từ chối thanh toán, chi trả các khoản chi không đủ các điều
kiện quy định và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Về kế toán
ngân sách, Điều 61 tại Khoản 2 quy định: KBNN tổ chức thực hiện hạch toán

kế toán NSNN; định kỳ báo cáo việc thực hiện dự toán thu, chi ngân sách cho
cơ quan tài chính cùng cấp và cơ quan nhà nước hữu quan; số liệu quyết toán
chi của đơn vị sử dụng NSNN phải được đối chiếu và được KBNN nơi giao
dịch xác nhận [29].
Hai là, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi NSNN. Hệ thống chế độ, tiêu
chuẩn, định mức chi NSNN là căn cứ quan trọng để xây dựng dự toán và là cơ
20
sở không thể thiếu để KBNN kiểm soát các khoản chi tiêu từ NSNN. Để công
tác kiểm soát chi có chất lượng cao thì hệ thống chế độ, tiêu chuẩn, định mức
chi phải đảm bảo tính chất sau: tính đầy đủ, nghĩa là nó phải bao quát hết tất
cả các nội dung chi phát sinh trong thực tế thuộc tất cả các cấp, các ngành,
các lĩnh vực; tính chính xác, nghĩa là phải phù hợp với tình hình thực tế; tính
thống nhất, nghĩa là phải thống nhất giữa các ngành, các địa phương và các
đơn vị sử dung NSNN.
Ba là, dự toán NSNN. Đây là một trong những căn cứ quan trọng để
KBNN thực hiện kiểm soát chi NSNN. Chất lượng dự toán chi ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng kiểm soát chi thường xuyên. Vì vậy để nâng cao chất
lượng kiểm soát chi thường xuyên qua KBNN thì dự toán chi NSNN phải
đảm bảo tính kịp thời, chính xác, đầy đủ và chi tiết để làm căn cứ cho KBNN
kiểm tra, kiểm soát quá trình chi tiêu của đơn vị.
Bốn là, tổ chức bộ máy và thủ tục kiểm soát chi. Bộ máy kiểm soát chi
phải được tổ chức gọn nhẹ, tránh trùng lắp chức năng, phù hợp quy mô và khối
lượng các khoản chi phải qua kiểm soát. Thủ tục kiểm soát chi thường xuyên
phải rõ ràng, đơn giản nhưng đảm bảo tính chặt chẽ trong trong quản lý chi tiêu
NSNN, không tạo khe hở cho kẻ xấu lợi dụng gây thất thoát, lãng phí NSNN.
Năm là, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm soát
chi. Trình độ và năng lực cán bộ kiểm soát chi là nhân tố quyết định chất
lượng công tác kiểm soát chi. Vì vậy, cán bộ kiểm soát chi phải có trình độ
chuyên sâu về quản lý tài chính, am hiểu về các lĩnh vực chuyên ngành mình
quản lý, có khả năng phân tích, xử lý thông tin được cung cấp và giám sát đối

chiếu với các quy định hiện hành của Nhà nước, có phẩm chất đạo đức tốt để
có thể vừa làm tốt công tác kiểm soát chi vừa đảm bảo tính trung thực, khách
quan, không lợi dụng quyền hạn, trách nhiệm được giao để vụ lợi hay có thái
độ hách dịch, sách nhiễu đối với đơn vị trong quá trình kiểm soát chi.
21
Sáu là, ý thức chấp hành của các đơn vị sử dụng kinh phí NSNN. Nếu
thủ trưởng các đơn vị sử dụng NSNN có tính tự giác cao trong việc chấp hành
chế độ chi tiêu NSNN thì các khoản chi đảm bảo đúng chế độ, tiêu chuẩn,
định mức, đảm bảo có đầy đủ hồ sơ, chứng từ hợp pháp, hợp lệ từ đó giúp
cho việc kiểm soát chi của KBNN được thuận lợi, nhanh chóng, tránh tình trạng
phải trả lại hồ sơ, chứng từ, thông báo từ chối cấp phát gây lãng phí thời giờ và
công sức. Do vậy, cần làm cho đơn vị sử dụng NSNN thấy được trách nhiệm của
mình trong tất cả các khâu của quy trình ngân sách.
1.2.4. Sự cần thiết phải hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên
ngân sách nhà nước qua Kho bạc nhà nước
Việc hoàn thiện kiểm soát chi NSNN xuất phát từ những yêu cầu khách
quan. Cụ thể như sau:
Một là, hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên NSNN nhằm phù hợp
với quy định pháp luật hiện hành, đặc biệt là Luật NSNN sửa đổi. Luật NSNN
và nhiều văn bản quy phạm pháp luật sau đó đã có những điều chỉnh, sửa đổi
rất căn bản đối với hoạt động NSNN nói chung và chi NSNN nói riêng. Đây
là cơ sở pháp lý quan trọng đối với kiểm soát chi NSNN nói chung và kiểm soát
chi thường xuyên NSNN nói riêng. Vì vậy, KBNN cũng phải đổi mới cơ chế
kiểm soát chi nói chung và kiểm soát chi thường xuyên nói riêng cho phù hợp
với Luật NSNN sửa đổi và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Hai là, yêu cầu đặt ra là các khoản chi NSNN phải đảm bảo đúng mục
đích, tiết kiệm và có hiệu quả. Hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên sẽ góp
phần quan trọng trong việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tập trung mọi
nguồn lực tài chính để phát triển kinh tế - xã hội, chống các hiện tượng tiêu
cực, chi tiêu lãng phí, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ và lành

mạnh hoá nền tài chính quốc gia.
Ba là, việc hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua Kho bạc
22
nhà nước nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời những tiêu cực của các đơn vị
sử dụng ngân sách; đồng thời, phát hiện những kẻ hở trong quản lý để kiến nghị,
sửa đổi, bổ sung kịp thời, làm cho cơ chế quản lý, kiểm soát chi NSNN ngày
càng được hoàn thiện và chặt chẽ hơn.
Bốn là, tình trạng lãng phí và vi phạm chế độ chi tiêu NSNN còn phổ
biến. Phần lớn các đơn vị hưởng kinh phí NSNN luôn có xu hướng xây dựng
dự toán chi cao hơn nhu cầu thực tế và trong quá trình chấp hành dự toán thì
luôn tìm cách sử dụng hết phần kinh phí đã được cấp mà không chú trọng đến
tiết kiệm và hiệu quả trong sử dụng kinh phí NSNN, từ đó dẫn đến các khoản
chi sai chế độ, không đúng đối tượng, vượt tiêu chuẩn, định mức… Thậm chí,
một số đơn vị nguỵ tạo chứng từ để hợp thức hoá các khoản chi sai chế độ. Vì
vậy, KBNN cần phải có giải pháp tăng cường kiểm soát các khoản chi NSNN
qua KBNN đảm bảo phát hiện và ngăn chặn kịp thời các khoản chi sai chế độ
của đơn vị sử dụng ngân sách. Đồng thời, cũng góp phần nâng cao ý thức
trách nhiệm của các ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị có liên quan đến
quản lý và sử dụng NSNN.
1.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ KIỂM SOÁT CHI THƯỜNG XUYÊN
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC QUA KHO BẠC NHÀ NƯỚC Ở MỘT SỐ ĐỊA
PHƯƠNG VÀ NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA
1.3.1. Kinh nghiệm kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà
nước qua Kho bạc Nhà nước ở một số địa phương
1.3.1.1. Kinh nghiệm kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà
nước qua Kho bạc Nhà nước Long An
KBNN Long An thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 01/04/1990. Từ
đó đến nay, KBNN Long An luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao,
trong đó một nhiệm vụ trọng tâm là quản lý quỹ NSNN và kiểm soát chi
thường xuyên NSNN.

23
Long An là một trong những tỉnh có nguồn thu NSNN lớn trong khu
vực Đồng bằng sông Cửu Long. Từ năm 1990 đến năm 2006, tổng thu NSNN
trên địa bàn tỉnh là 19.178 tỷ đồng, riêng năm 2006 số thu đạt 3.061 tỷ đồng,
tăng 35 lần so với năm 1990 và bằng 135% so với năm 2005.
Đi đôi với công tác thu NSNN, KBNN Long An thực hiện tốt công tác
cấp phát và kiểm soát chi NSNN, đảm bảo các khoản chi đều có trong dự toán
được duyệt, đúng đối tượng, đúng chế độ tiêu chuẩn, định mức quy định, giải
quyết kịp thời mọi khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện, vừa đảm
bảo thực hiện đúng nguyên tắc quản lý, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các
đơn vị sử dụng ngân sách. Qua công tác kiểm soát chi, KBNN Long An đã
góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN, tham gia tích cực vào công
tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và phòng chống tham nhũng. Từ năm
1990 đến năm 2006, tổng số chi NSNN qua KBNN Long An là 17.680 tỷ đồng.
Tính riêng năm 2006, tổng chi NSNN là 2.996 tỷ đồng, tăng 44 lần so với năm
1990, bằng 169% so với năm 2005. Thông qua công tác kiểm soát chi thường
xuyên NSNN, KBNN Long An đã từ chối hàng ngàn món tiền với tổng số tiền lên
đến hàng tỷ đồng. Tính riêng năm 2006, KBNN Long An đã từ chối thanh toán
493 món với tổng số tiền là 1,850 tỷ đồng [36].
Để đạt được kết quả trên, KBNN Long An đã tập trung làm tốt một số
công tác sau:
- Nâng cao hiểu biết về pháp luật liên quan đến quản lý NSNN và các quy
định trong công tác kiểm soát chi thường xuyên NSNN. Ngay từ khi Luật NSNN
có hiệu lực và các chế độ về quản lý chi được ban hành, KBNN Long An đã tổ
chức triển khai đến toàn thể cán bộ công chức thuộc KBNN Long An. Đồng thời,
Kho bạc phối hợp với cơ quan tài chính tham mưu cho UBND, HĐND tỉnh ban
hành các chế độ về chi NSĐP, tổ chức triển khai Luật NSNN và các văn bản liên
quan cho các đơn vị sử dụng kinh phí NSNN trên địa bàn.
- Nghiên cứu ứng dụng tin học vào công tác chi và kiểm soát chi chi
24

thường xuyên. Công tác tin học được KBNN Long An phát triển rất sớm và
đã hỗ trợ đắc lực cho công tác chi ngân sách và kiểm soát chi thường xuyên
NSNN. Tại Kho bạc tỉnh và tất cả các KBNN huyện trực thuộc đều có hệ
thống mạng nội bộ và nối mạng về KBNN tỉnh. Các chương trình ứng dụng
phục vụ cho công tác chi và kiểm soát chi được triển khai trong toàn hệ thống
như: Chương trình KTKB phục vụ cho công tác kế toán và kiểm soát chi
thường xuyên, Chương trình KHKB phục vụ kiểm soát chi vốn sự nghiệp
kinh tế và vốn chương trình mục tiêu quốc gia. Đặc biệt, chương trình thanh
toán điện tử đã giúp cải thiện công tác thanh toán trong hệ thống KBNN.
Những khoản thanh toán trước đây khi thực hiện bằng phương pháp thủ công
phải mất vài ngày thì hiện nay chỉ mất vài phút với sự hỗ trợ của chương trình
thanh toán điện tử.
- Chú trọng công tác tổ chức cán bộ. KBNN Long An xem cán bộ là
nhân tố quyết định trong việc mang lại những thành quả to lớn của đơn vị.
Đơn vị đã chọn lọc, sắp xếp quy hoạch đội ngũ cán bộ công chức vào
những vị trí phù hợp. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội
ngũ CBCC với nhiều hình thức. Năm 1990 KBNN Long An chỉ có 28 cán
bộ có trình độ đại học, chiếm 17,8% tổng số CBCC trong đơn vị, trong
khi số chưa qua đào tạo là 76 người, chiếm 48,7%. Đến năm 2006, cán bộ
có trình độ đại học là 78, chiếm 35,5%, số CBCC chưa qua đào tạo chỉ
còn 35%. Sự nâng lên về trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ kiểm
soát chi là nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự nâng lên về chất lượng
công tác kiểm soát chi [36].
1.3.1.2. Kinh nghiệm kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua Kho bạc
Nhà nước Bà Rịa - Vũng Tàu với quy trình kiểm soát chi “một cửa”
Nhằm thực hiện cải cách hành chính, đơn giản hóa các khâu nghiệp vụ
trong hoạt động quản lý NSNN, nhưng vẫn bảo đảm an toàn và tiết kiệm, Kho
25

×