Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

tu tuong ho chi minh on thi tôt nghiep

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.69 KB, 62 trang )

Contents

 !"#
$%&!"#'()*+,-&% .&/01
2+131*14567%& 8
9 :);1<)!"#'0=1>?% @,(3<
A4B01()*CD1)E=1;1<)3F()*CD1)14$
G;1<)!"#')/HF %.010=1>?%CD1) 
.&/012+13I%I,-1*-1A14J
K;1<)!"#';431@ L+A1A,I012+
%+CD1)E=1017;1<)3F()*CD1)14$M
8;1<)!"#'(4FNO:*012+%+C
D1) F .(4FN*+01L+9
M;1<)01!"#'AL+A1A,I01 
 .&/012+1 >4&. ,(,;4'P!DCD1)1498
J;1<)!"#'4FN,Q,(,* RB&% .
&/012+1 >4&.R* RB&%14G$
S(T).*:()*3!"# F 
3U4&V*:01L+GS
W!"#'(=."01X-1 .&/012+1
 >4&.'X-1CD1)14KK

Câu 1: Phân tích nguồn gốc tư tưởng, lý luận đối với việc hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh
Định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ
nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển của chủ nghĩa Mác-
Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân
tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người”.


Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình sĩ phu yêu nước, ở
quê hương giàu truyền thống cách mạng, sống trong một đất nước sớm định
hình một quốc gia dân tộc có chủ quyền lâu đời, trong đó tinh thần yêu nước là
dòng chảy chủ yếu xuyên suốt chiều dài lịch sử. Nguồn gốc hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh của nhiều yếu tố, tư tưởng Hồ Chí Minh là
sản phẩm của sự kết hợp giữa yếu tố khách quan (thực tiễn, tư tưởng và văn
hoá) và yếu tố chủ quan (những phẩm chất của Hồ Chí Minh). Trên cơ sở đó ta
có thể khái quát nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh được được thể
hiện qua các nội dung sau:
- Truyền thống tư tưởng và văn hoá Việt Nam
UNESCO đã khẳng định: tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh truyền
thống văn hoá hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người con ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam, vì
vậy tư tưởng của Người trước hết bắt nguồn từ các giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc. Đảng ta khẳng định: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta
đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm
rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”.
Dân tộc Việt Nam đã hun đức nên những truyền thống tốt đẹp qua lịch sử
ngàn năm dựng nước và giữ nước. Những truyền thống tốt đẹp ấy luôn có trong
hành trang của Hồ Chí Minh.
Trước tiên, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng
nước và giữ nước. Đây là truyền thống tư tưởng quý báu nhất, nguồn gốc sức
mạnh lớn nhất trong đấu tranh dựng nước, giữ nước của dân tộc ta. Điều đó
được phản ánh từ văn hoá dân gian đến văn hoá khoa học, từ những nhân vật

truyền thuyết như Thánh Gióng, đến các anh hùng thời xa xưa như Thục Phán,
Hai Bà Trưng, Bà Triệu đến những anh hùng nổi tiếng thời phong kiến như
Ngô Quyền, Phùng Hưng, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn
Huệ Chủ nghĩa yêu nước là giá trị văn hoá cao nhất, đứng đầu bảng giá trị văn
hoá tinh thần Việt Nam, nó làm thành dòng chảy xuyên suốt lịch sử dân tộc, tạo

thành cơ sở vững chắc để nhân dân ta tiếp thu những giá trị văn hoá từ bên ngoài
làm phong phú văn hoá dân tộc và không ngừng phát triển.
Thứ hai, là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương
ái, “lá lành đùm là rách” trong hoạn nạn, khó khăn. Điều kiện địa lý và chính trị
đã đưa nhân dân ta tạo dựng truyền thống này ngay từ buổi bình minh của dân
tộc. Các thế hệ Việt Nam đều trao truyền cho nhau:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Ba mươi năm bôn ba hải ngoại, năm 1941 vừa về nước, Hồ Chí Minh đã
nhắc nhở nhân dân ta: “Dân ta phải biết sử ta”. “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc
nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do”. Người căn
dặn: “Dân ta xin nhớ chữ đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh!”.
Thứ ba là truyền thống lạc quan yêu đời của dân tộc ta được kết tinh qua
hàng ngàn năm nhân dân ta vượt qua muôn nguy, ngàn khó, lạc quan tin tưởng
vào tiền đồ dân tộc, tin tưởng vào chính mình. Hồ Chí Minh là điểm kết tinh rực
rỡ của truyền thống lạc quan yêu đời của dân tộc đã tạo cho mình một sức mạnh
phi thường vượt qua mọi khó khăn, thử thách đi đến chiến thắng.
Thứ tư là nhân dân ta có truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh sáng
tạo trong sản xuất và chiến đấu, đồng thời ham học hỏi và không ngừng mở rộng
đón nhận tinh hoa văn hoá nhân loại, trên cơ sở giữ vững bản sắc dân tộc, nhân
dân ta đã biết chọn lọc, tiếp biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp từ bên ngoài và
biến nó thành cái thuần tuý Việt Nam.
- Tinh hoa văn hoá nhân loại
Cùng với tinh hoa văn hóa dân tộc, Hồ Chí Minh còn tiếp thu có chọn lọc,
kế thừa và phê phán tinh hoa văn hóa của nhân loại đó là văn hóa của phương
Đông, phương Tây để làm giàu trí tuệ, hình thành nhân cách, tư tưởng của mình
* Tư tưởng và văn hóa phương Đông:
$
Thứ nhất, Hồ Chí Minh đã tiếp thu những mặt tích cực của Nho giáo. Hồ
Chí Minh được tiếp thu Nho giáo từ nhỏ, Người hiểu sâu sắc về Nho giáo.

Người nhận xét về cụ Khổng Tử, người sáng lập ra Nho giáo tuy là phong kiến
nhưng Cụ có những cái hay thì phải học lấy, Người nói: "Tuy Khổng Tử là
phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng
song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học". Cái phong kiến lạc hậu của
Nho giáo là duy tâm, đẳng cấp nặng nề, khinh thường lao động chân tay, coi
khinh phụ nữ thì Hồ Chí Minh phê phán triệt để. Nhưng những yếu tố tích cực
của Nho giáo như triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời; lý
tưởng về một xã hội bình trị, một “thế giới đại đồng”; triết lý nhân sinh: tu thân
dưỡng tính; tư tưởng đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học đã
được Hồ Chí Minh khai thác để phục vụ nhiệm vụ cách mạng.
Thứ hai, về Phật giáo: Phật giáo vào Việt Nam từ rất sớm. Trải qua hàng
trăm năm ảnh hưởng, Phật giáo đã đi vào văn hoá Việt Nam, từ tư tưởng, tình
cảm, tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống Phật giáo là tôn giáo. Hồ Chí
Minh nhận xét: tôn giáo là duy tâm Nhưng Người cũng chỉ ra nhiều điều hay
của Phật giáo mà nó đã đi vào tư duy, hành động, cách ứng xử của người Việt
Nam. Đó là những điều cần được khai thác để góp vào việc thực hiện nhiệm vụ
cách mạng như tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người
như thể thương thân, một tình yêu bao la đến cả chim muông, cỏ cây. Phật giáo
dạy con người nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện.
Phật giáo có tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác, chống lại mọi
phân biệt đẳng cấp. Hoặc như Phật giáo Thiền tông đề ra luật “Chấp tác”: “nhất
nhật bất tác, nhất nhật bất thực”, đề cao lao động, chống lười biếng. Đặc biệt là
từ truyền thống yêu nước của dân tộc đã làm nảy sinh nên Thiền phái Trúc Lâm
Việt Nam, chủ trương không xa đời mà sống gắn bó với nhân dân, với đất nước,
tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân, chống kẻ thù dân tộc.
Thứ ba, về chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, Hồ Chí Minh tìm thấy
những điều thích hợp với điều kiện nước ta, đó là dân tộc độc lập, dân quyền tự
do và dân sinh hạnh phúc.
Ngoài ra, còn thấy Hồ Chí Minh bàn đến các giá trị văn hoá phương Đông
khác như Lão tử, Mặc tử, Quản tử

* Tư tưởng và văn hoá phương Tây:
9
Văn hóa phương Tây là một bộ phận quan trọng của văn hóa nhân loại và
là một trong những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
- Hồ Chí Minh tiếp thu văn hóa phương Tây khi đã có một vốn văn hóa
phương Đông nhất định. Những kiến thức đầu tiên về văn hóa phương Tây của
Hồ Chí Minh đã có từ trước đó. Ngay từ lúc còn đang học ở trường tiểu học
Pháp-Việt và trường Quốc học Huế, Người đã từng biết đến khẩu hiệu “Tự do-
bình đẳng-bác ái” của Đại cách mạng tư sản Pháp 1789. Ba mươi năm liên tục ở
nước ngoài, sống chủ yếu ở Châu Âu, nên Nguyễn ái Quốc cũng chịu ảnh hưởng
rất sâu rộng của nền văn hoá dân chủ và cách mạng của phương Tây.
Hồ Chí Minh thường nói tới ý chí đấu tranh cho tự do, độc lập, cho quyền
sống của con người trong Tuyên ngôn độc lập, 1776 của Mỹ. Khi ở Anh, Người
gia nhập công đoàn thuỷ thủ và cùng giai cấp công nhân Anh tham gia các cuộc
biểu tình, đình công bên bờ sông Thêmđơ Năm 1917, Người trở lại nước Pháp,
sống tại Pari-trung tâm chính trị văn hoá-nghệ thuật của châu Âu. Người gắn
mình với phong trào công nhân Pháp và tiếp xúc trực tiếp với các tác phẩm của
các nhà tư tưởng khai sáng như Vonte, Rutxô, Môngtetxkiơ Tư tưởng dân chủ
của các nhà khai sáng đã có ảnh hưởng tới tư tưởng của Nguyễn ái Quốc. Từ đó
mà hình thành phong cách dân chủ, cách làm việc dân chủ ở Người.
Có thể thấy, trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn ái Quốc đã biết
làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, Đông và Tây, vừa thấu
thái vừa gạn lọc để có thể từ tầm cao tri thức nhân loại mà suy nghĩ và lựa chọn,
kế thừa và đổi mới, vận dụng và phát triển.
- Chủ nghĩa Mác-Lênin: Cơ sở thế giới giới quan và phương pháp luận
của tư tưởng Hồ Chí Minh
- Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở chủ yếu nhất hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới quan và
phương pháp luận duy vật biện chứng, để tổng kết lịch sử và kinh nghiệm thực
tiễn tích lũy kiến thức, tìm ra con đường cứu nước mới.

“Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân
Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ
nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng,
đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”.
G
Từ một người yêu nước trở thành người cộng sản là kết quả của sự tác
động biện chứng giữa mối quan hệ cá nhân với dân tộc và thời đại. Nhờ có thế
giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã
hấp thụ và chuyển hóa được những nhân tố tích cực và tiến bộ của truyền thống
dân tộc cũng như của tư tưởng và văn hóa nhân loại để tạo nên hệ thống tư
tưởng của mình.
Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác-Lênin, những phạm
trù cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng nằm trong những phạm trù cơ bản
của lý luận Mác-Lênin; đồng thời tư tưởng Hồ Chí Minh còn là sự vận dụng
sáng tạo, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác-Lênin ở thời đại các dân
tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập, tự do và xây dựng xã hội mới.
Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin là do yêu cầu thực tiễn
của cách mạng Việt Nam, đó là con đường cứu nước, giành độc lập dân tộc, dần
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người đến với chủ nghĩa Lênin qua cửa ngõ của chủ
nghĩa yêu nước.
Đối với chủ nghĩa Mác-Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã nắm vững lấy cái tinh
thần, cái bản chất chứ không tự trói buộc trong cái vỏ ngôn từ. Người vận dụng
lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để tự tìm ra
những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, từng thời
kỳ cụ thể của cách mạng Việt Nam chứ không đi tìm những kết luận có sẵn
trong sách vở.
- Những nhân tố thuộc về phẩm chất của Hồ Chí Minh
Trong cùng những điều kiện như trên mà chỉ có Hồ Chí Minh được
UNESCO công nhận là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuất. Rõ
ràng yếu tố chủ quan ở Hồ Chí Minh có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình

thành tư tưởng của Người.
Trước hết, ở Hồ Chí Minh có một tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cộng
với đầu óc phê phán tinh tường sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu những
tinh hoa tư tưởng, văn hoá và cách mạng cả trên thế giới và trong nước.
Hai là, sự khổ công học tập của Nguyễn ái Quốc đã chiếm lĩnh được vốn
tri thức phong phú của thời đại, với kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải
phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế để có thể tiếp cận với chủ nghĩa
Mác-Lênin khoa học và cách mạng.
K
Ba là, Hồ Chí Minh có tâm hồn của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng
sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước, thương dân, thương yêu
những người cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng những hy sinh cao nhất vì độc lập
của Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng bào.
Những phẩm chất cá nhân hiếm có đó đã giúp Hồ Chí Minh tiếp nhận,
chọn lọc, chuyển hoá phát triển tinh hoa dân tộc và thời đại thành tư tưởng đặc
sắc của mình.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn và được hình thành từ các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại mà đỉnh
cao là chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng lý luận, phương pháp luận thông qua
hoạt động trí tuệ và thực tiễn của người.
Câu 2: Phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng
dân tộc và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay cần chú ý
những nội dung nào
Trên con đường đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc của mình, Hồ
Chí Minh đã qua nhiều năm nghiên cứu, khảo sát các cuộc cách mạng trên thế
giới và thâm nhập vào cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức ở các nước
thuộc địa để từ đó vạch ra con đường giải phóng phù hợp cho dân tộc Việt Nam.
Cột mốc quan trong cho sự nhận thức của Người về cách mạng giải phóng
dân tộc là vào năm 1920, Người đọc “Sơ thảo…” Lênin làm cho Người sáng tỏ
… Người biểu quyết tán thành gia nhập quốc tế Cộng sản, đánh dấu… Sau đó

Người đã tham gia hoạt động lý luận và thuyết diễn cực kỳ sôi nổi trong Đảng
Cộng sản Pháp và quốc tế Cộng sản.
Đến cuối 1924, đến Quảng Châu – Trung Quốc, sáng lập hội Việt Nam
cách mạng thanh niên, xuất bản báo Thanh niên, mở lớp huấn luyện cán bộ…
Trong thời gian này, Người cho xuất bản các tác phẩm “Bản…”, và tác phẩm
“Đường Cách mạng”. Tháng 2/30, tại Hội nghị hợp nhất, Người trực tiếp thảo ra
các văn kiện: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt… những văn kiện này đã
đánh dấu sự hình thành cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách
mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc có thể khái quát
thành một hệ thống quan điểm như sau:
8
Thứ nhất, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con
đường của cách mạng vô sản:
- Thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở
nước ta là do chưa có đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn khi chủ
nghĩa đế quốc đã thành một hệ thống thế giới. Chủ nghĩa đế quốc vừa tranh
giành nhau xâu xé thuộc địa vừa liên kết với nhau trong việc đàn áp phong trào
đấu tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa.
- Các nước thuộc địa chẳng những cung cấp nguyên liệu mà còn cung cấp
binh lính cho quân đội đế quốc nhằm đàn áp các phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân ở chính quốc.
- Trong cuộc đấu tranh tự giải phóng, giai cấp vô sản ở chính quốc và
nhân dân các thuộc địa có chung một kẻ thù, vì vậy phải phối hợp hành động và
cổ vũ lẫn nhau.
Từ đầu những năm 20 thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: chủ nghĩa
đế quốc là một con đỉa có… Từ đó phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc
với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa
như là “một trong những cái cách của cách mạng vô sản”, phát triển nhịp với
cách mạng vô sản; mặt khác cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải

theo con đường cách mạng vô sản, tức là phải đi theo đường lối Mác Lênin.
Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng
của giai cấp công nhân lãnh đạo:
Nguyễn Ái Quốc đã sớm khẳng định: muốn giải phóng dân tộc thành
công “Trước hết phải có đảng cách mệnh. Đảng có vững chắc mệnh mới thành
công… Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt… Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Như vậy, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: cách
mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng của
giai cấp công nhân, Đảng đó phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu
mới của Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác Lênin.
Các lãnh tụ yêu nước tiền bối cũng đã bước đầu nhận thức được tầm quan
trọng và vai trò của chính đảng cách mạng. Phan Chu Trinh đã nói: ngày nay,
muốn có độc lập, tự do, phải có đoàn thể, nhưng ông chỉ kịp nói mà không kịp
làm. Phan Bội Châu đã tổ chức ra Đảng Việt Nam Quang phục hội, sau dự định
M
cải tổ nó thành Việt Nam Quốc dân đảng theo kiểu Tôn Trung Sơn, nhưng ông
chưa kịp thực hiện thì đã bị bắt, bị đưa về giam lỏng tại Huế.
Dù đã thành lập hay chưa thì các đảng kiểu đó cũng không thể lãnh đạo
cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thành công, vì nó thiếu một đường lối
chính trị đúng đắn và một đường lối tổ chức chặt chẽ; lại không có cơ sở rộng
rãi trong quần chúng, nên sớm muộn cũng rơi vào tan rã và thất bại.
Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn
dân, trên cơ sở liên minh công nông:
- Cách mạng giải phóng dân tộc như Nguyễn Ái Quốc viết “là việc chung
cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”, vì vậy phải đoàn kết toàn dân,
“sĩ, công, nông, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Nhưng trong sự tập
hợp rộng rãi đó, Người nhắc nhở không được quên cái cốt của nó là công - nông.
Phải nhớ: “Công nông là người chủ cách mệnh… Công nông là gốc cách mệnh”.
- Trong phạm vi của cách mạng giải phóng dân tộc mà đối tượng cần đánh

đổ trước hết là bọn đế quốc và địa chủ phong kiến tay sai nhằm giành lại độc lập
dân tộc và dân chủ cho nhân dân, trước hết là nông dân, nên Nguyễn Ái Quốc chủ
trương cần vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất
nước, đang bị làm nô lệ trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy
động sức mạnh của toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập tự do.
- Người đã viết trong Sách lược vắn tắt tại Hội nghị thành lập Đảng đầu
năm 1930: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh
niên, tân Việt…, để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú
nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì
phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã rõ mặt phản
cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v…) thì phải đánh đổ.
- Do chưa phân biệt được sự khác nhau giữa yêu cầu mục tiêu của cách
mạng vô sản ở các nước tư bản phát triển với cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa, lại chịu sự chi phối của quan điểm “tả” khuynh của đường lối “giai
cấp chống giai cấp” đang tồn tại trong Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ, nên đã có
ý kiến cho rằng Nguyễn Ái Quốc quá chú trọng vấn đề dân tộc, “chỉ nghĩ đến
việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp đấu tranh”,v.v…
- Thực ra, trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực lượng
dân tộc chống đế quốc, Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở phải quán triệt quan điểm
J
giai cấp: “Công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ
cũng bị tư sản áp bức, song không cực khổ bằng công nông, ba hạng ấy chỉ là
bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”. Và trong khi liên lạc với các giai cấp,
phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi
vào đường lối thỏa hiệp”.
Thứ tư, cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động,
sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc:
- Đây là một điểm mới mẻ và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Trong phong
trào cộng sản quốc tế, như đã nói ở trên, đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi
của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản

ở chính quốc. Tuyên ngôn thành lập Quốc tế Cộng sản năm 1919 có đoạn viết:
“Công nhân và nông dân không những ở An Nam, Angiêri, Bengan mà cả Ba
Tư hay Ácmênia chỉ có thể giành được độc lập khi mà công nhân các nước Anh
và nước Pháp lật đổ được Lôiit Gioócgiơ và Clêmăngxô, giành chính quyền nhà
nước vào tay mình”.
- Những luận cương về phong trào cách mạng trong các nước thuộc địa
và nửa thuộc địa được thông qua Đại hội VI Quốc tế Cộng sản, ngày 1-9-1928
viết: “Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi
giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”. Quan điểm
này, vô hình trung đã giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách
mạng ở thuộc địa.
- Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (1924) Nguyễn Ái Quốc đã
phân tích: “Vận mệnh giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh giai cấp vô
sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp
bức ở các thuộc địa… nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang
tập trung ở các thuộc địa”, nếu khinh thường cách mạng ở thuộc địa tức là “muốn
đánh rắn đằng đuôi”.
- Vận dụng công thức của Các Mác: “Sự giải phóng giai cấp công nhân
phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Nguyễn Ái Quốc đã đi tới
điểm: “Công cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực
hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”.
- Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ
nghĩa đế quốc, do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh
S
thần dân tộc, ngay từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã sớm cho rằng: “Cách mạng
thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà
có thể giành thắng lợi trước”, và “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện
tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những
người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”.
- Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn rất to lớn,

một cống hiến rất quan trọng vào kho tàng lý luận Mác- Lênin, đã được thắng lợi
của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
Thứ năm, cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con
đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang
trong nhân dân:
+ Theo Mác: bạo lực là bà đỡ của mọi chính quyền cách mạng vì giai cấp
thống trị bóc lột không bao giờ tự giao chính quyền cho lực lượng cách mạng.
+ Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện
bằng con đường bạo lực được quy định bởi các yếu tố:
Sự thống trị của thực dân đế quốc ở thuộc địa vô cùng hà khắc, không hề
có một chút quyền tự do dân chủ nào, không có cơ sở nào thực hành đấu tranh
không bạo lực.
Cách mạng giải phóng dân tộc là lật đổ chế độ thực dân phong kiến giành
chính quyền về tay cách mạng, nó phải được thực hiện bằng một cuộc khởi
nghĩa vũ trang. Như ở Việt Nam, Hồ Chí Minh xác định đó là từ khởi nghĩa từng
phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
+ Những sáng tạo và phát triển nguyên lý chủ nghĩa Mác-Lênin về con
đường bạo lực ở Hồ Chí Minh là ở chỗ:
Khởi nghĩa vũ trang đương nhiên phải dùng vũ khí, phải chiến đấu bằng
lực lượng vũ trang, nhưng không phải chỉ là một cuộc đấu tranh quân sự, mà là
nhân dân vùng dậy, dùng vũ khí đuổi quân cướp nước. Đó là một cuộc đấu tranh
to lớn về chính trị và quân sự, là việc quan trọng, làm đúng thì thành công, làm
sai thì thất bại.
Bởi vậy con đường bạo lực của Hồ Chí Minh là phải xây dựng hai lực
lượng chính trị và vũ trang, trước hết là lực lượng chính trị.
W
Thực hành con đường bạo lực của Hồ Chí Minh là tiến hành đấu tranh
chính trị, đấu tranh vũ trang, khi điều kiện cho phép thì thực hành đấu tranh
ngoại giao; đồng thời phải biết kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang
và đấu tranh ngoại giao để giành và giữ chính quyền.

Mặt khác kinh nghiệm của các nước trên thế giới như Trung Quốc, ấn
Độ và của Việt Nam trước năm 1930 cho thấy đấu tranh chống đế quốc thực
dân giành độc lập dân tộc chỉ thuần túy đấu tranh vũ trang, hoặc đấu tranh hòa
bình đều thất bại.
Thành công của Cách mạng Tháng Tám và thắng lợi của hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ đã khẳng định tính đúng đắn
cách mạng và sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc ở nước ta.
* Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
trong giai đoạn hiện nay Đảng ta cần chú ý đến những nội dung như sau:
Sự vận dụng của ĐCSVN trong giai đoạn hiện nay, luôn kết hợp giữa
CNYN và CNQT, gắn liền ĐLDT – CNXH. Thực hiện công bằng xã hội, chống
áp bưc, bất công, đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành
động tiêu cực, sai trái, bảo vệ độc lập dân tộc, phấn đấu đến 2020 nước ta trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Thứ nhất, nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc trên lập trường
giai cấp. Trên quan điểm về giai cấp của Hồ Chí Minh, xuất phát từ hoàn cảnh
lịch sử và điều kiện cụ thể của dân tộc để từ đó Đảng ta đề ra đường lối đúng
đắn, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn cách mạng của nước ta, phù hợp với xu thế
phát triển của cách mạng thế giới. Hơn bao giờ hết, phải làm cho quan điểm của
Hồ Chí Minh về sự kết hợp dân tộc với giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với chủ
nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc với CNXH được quán triệt sâu sắc trong toàn
Đảng và toàn dân.
Thứ hai, kiên định mục tiêu, con đường xây dựng đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã xác
định: Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản. Đi theo con đường đó, Đại hội XI của Đảng đã khẳng
định: “Trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường
lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vân dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa


Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH. Độc lập dân tộc là điều kiện kiên quyết để thực hiện CNXH thực sự
đem lại cuộc sống ấn no, tự do, hạnh phúc cho toàn dân ta là nhân tố cơ bản đảm
bảo vững chắn cho nền độc lập dân tộc.
Thứ ba, phát huy sức mạnh khôi đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc
đổi mới. Tư tưởng về tập hợp lực lượng, đoàn kết toàn dân trong công cuộc đấu
tranh giành độc lập tự do của Hồ Chí Minh thực sự đã trở thành chiến lược của
cách mạng Việt Nam. Huy động và tập hợp sức mạnh là yếu tố nội sinh có ý
nghĩa quyết định trong thời kỳ mới. Báo cáo Chính trị tại Đại hội XI của Đảng
xác định “ Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt
Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định
đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Thứ tư, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng. Trong giai đoạn hiện nay, để hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang, đòi hỏi phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ,
tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng.
Câu 3: Phân tích và chứng minh quan điểm Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã
hội là con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam. Ý nghĩa
quan điểm trên đối với cách mạng Việt Nam hiện nay
Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo lý luận hình thái kinh tế - xã
hội của Mác-Lênin về sự phát triển tất yếu của xã hội loài người. Người khẳng
định: tiến lên CNXH là bước phát triển tất yếu của Việt Nam sau khi nước nhà
được độc lập theo con đường cách mạng vô sản.
Quan điểm Hồ Chí Minh về những đặc trưng bản chất của CNXH
- Quan niệm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin
+ Xóa bỏ từng bước chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ sở
hữu công cộng để giải phóng cho sức sản xuất xã hội phát triển.
+ Có nền đại công nghiệp cơ khí với trình độ khoa học và công nghệ hiện
đại có khả năng cải tạo nông nghiệp, tạo ra năng suất lao động cao hơn chủ
nghĩa tư bản.

+ Thực hiện sản xuất có kế hoạch, tiến tới xóa bỏ sản xuất hàng hóa trao
đổi tiền tệ.
$
+ Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, thể hiện sự công bằng
và bình đẳng về lao động và hưởng thụ.
+ Khắc phục dần sự khác biệt giữa các giai cấp, giữa nông thôn và thành
thị, giữa lao động tri óc và lao động chân tay, tiến tới một xã hội tương đối thuần
nhất về giai cấp.
+ Giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, nâng cao trình độ tư
tưởng và văn hóa cho nhân dân, tạo điều kiện cho con người tận lực phát triển
mọi khả năng sẵn có của mình.
+ Sau khi đạt được những điều nói trên, khi giai cấp không còn nữa thì
chức năng chính trị của Nhà nước sẽ dần dần diệt vong. Những đặc trưng trên
đây của chủ nghĩa xã hội là những phán đoán khoa học của Mác và Ăngghen
nêu lên trên cơ sở phân tích những điều kiện kinh tế-chính trị-xã hội ở các nước
tư bản chủ nghĩa Tây Âu phát triển nhất vào cuối thế kỷ XIX. Với sự vận động
của lịch sử, với thành tựu khoa học-công nghệ, với những kinh nghiệm của thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội đã qua và hiện nay, trong những luận điểm đó,
có điểm ngày nay đã được nhận thức lại cho phù hợp.
- Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân làm chủ, nhà nước phải
phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng
tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân
dân lao động.
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong
đó người với người là bạn bè, đồng chí, là anh em, con người được giải phóng
khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo
điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.

- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều thì
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng; các dân tộc
trong nước bình đẳng trên mọi phương diện và miền núi ngày càng có điều
kiện tiến kịp miền xuôi. - Chủ nghĩa xã hội là của nhân dân, do nhân dân tự
xây dựng lấy.
9
Tóm lại, quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là một quan
niệm khoa học, hoàn chỉnh, hệ thống dựa trên học thuyết hình thái kinh tế-xã hội
của Mác đồng thời được bổ sung thêm một số đặc trưng khác phản ánh truyền
thống, đặc điểm của Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là một xã
hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, đạo đức và văn minh, một xã hội
ưu việt nhất.
Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Về lý luận: Hồ Chí Minh căn cứ vào quan điểm cách mạng không
ngừng của Lênin
Từ cách mạng tháng 10 Nga, Lênin nhận định :
- Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân vì tự do, dân chủ và CNXH.
- Cuộc đấu tranh của nông dân đòi ruộng đất và quyền dân sinh dân chủ
tối thiểu.
- Cuộc đấu tranh của các dân tộc đòi bình đẳng và tự quyết dân tộc.
- Cuộc đấu tranh của nhân dân động đảo đòi chấm dứt chiến tranh và tạo
lập một nền hòa bình vững chắc…
Như vậy, vấn đề hòa bình, dân sinh, dân chủ trở thành mẫu số chung của
tất cả các trào lưu đó. Theo Lênin, tất cả những điều đó biểu lộ những “dấu hiệu
vô sản” – Đó là cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới do giai cấp công nhân
lãnh đạo. Sự hoàn thành triệt để cuộc cách mạng đó có nghĩa là tạo lập chiếc cầu
trực tiếp để chuyển sang cách mạng XHCN.
Về thực tiễn: - Lịch sử cho phép Chủ nghĩa Cộng sản thâm nhập dễ dàng
vào Châu Á hơn là Châu Âu…Dựa trên những đặc điểm truyền thống văn hóa
tư tưởng, điều kiện kinh tế, xã hội và sự thống trị tàn bạo của CNTB tại thuộc

địa châu Á.
- Nội dung cách mạng XHCN mang tính chất triệt để và nhân đạo. Nhờ
cuộc cách mạng đó nhân dân lao động làm chủ nước nhà, những dân tộc nhỏ bé
giành được độc lập, ruộng đất về tay dân cày. (Trong khi đó “cách mệnh Pháp
cũng như cách mệnh Mỹ nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến
nơi… cách mệnh đã 4 lần rồi mà nay công nông Pháp vẫn còn phải mưu cách
mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức.” Dưới nhận thức của Hồ Chí
G
Minh, cách mạng tháng 10 như một sự nổi trội, vượt xa và khác hẳn với cuộc
cách mạng xã hội đã từng diễn ra trong lịch sử trước đó.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh độc lập dân tộc mới chỉ là cấp độ đầu tiên.
Giải phóng về mặt chính trị tự bản thân nó chưa phải là công cuộc giải phóng
hoàn toàn, độc lập dân tộc chỉ là tiền đề đầu tiên để tiến lên CNXH, đi tới cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
* Ý nghĩa, sự vận dụng những quan điểm đó vào công cuộc đổi mới hiện nay
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đạt được những
thành tựu quan trọng, tạo ra thế và lực mới cho con đường phát triển XHCN ở
nước ta. Cùng với tổng kết thực tiễn, quan niệm của Đảng ta về CNXH, con
đường đi lên CNXH ngày càng sát thực, cụ thể hóa. Nhưng, trong quá trình xây
dựng CNXH, bên cạnh những thời cơ, vận hội, nước ta đang phải đối đầu với
hàng loạt thách thức, khó khăn cả trên bình diện quốc tế, cũng như từ các điều
kiện thực tế trong nước tạo nên. Trong bối cảnh đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về CNXH và con đường quá độ lên CNXH, chúng ta cần tập trung giải
quyết những vấn đề quan trọng nhất:

Giữ vững mục tiêu của CNXH
Trong điều kiện nước ta, độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH, sau khi
giành được độc lập dân tộc phải đi lên CNXH, vì đó là quy luật tiến hóa trong
quá trình phát triển của xã hội loài người. chỉ có CNXH mới đáp ứng được khát
vọng của toàn dân tộc: độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân, cơm no áo

ấm cho mọi người dân Việt Nam. Thực tiễn phát triển đất nước cho thấy, độc
lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở bảo
đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” là tiếp tục con
đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH mà Hồ Chí Minh đã lựa
chọn. Đổi mới, vì thế, là quá trình vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, chứ không phải là thay đổi mục
tiêu.
Tuy nhiên, khi chấp nhận kinh tế thị trường, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, chúng ta phải tận dụng các mặt tích cực của nó, đồng thời phải biêt cách
ngăn chặn, phòng tránh các mặt tiêu cực, bảo đảm nhịp độ phát triển nhanh, bền
K
vững trên tất cả mọi mặt đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa; không
vì phát triển, tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá mà làm phương hại các mặt khác
của cuộc sống con người.
Vấn đề đặt ra là trong quá trình phát triển vẫn giữ vững định hướng
XHCN, biết cách sử dụng các thành tựu mà nhân loại đã đạt được để phục vụ
cho công cuộc xây dựng CNXH, nhất là thành tựu khoa học- công nghệ hiện đại,
làm cho tăng trưởng kinh tế luôn đi liền với sự tiến bộ, công bằng xã hội, sự
trong sạch, lành mạnh về đạo đức, tinh thần.

Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ các nguồn
lực nhất là nguồn lực nội sinh để công nghiệp hoá- hiện đại hoá
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu mà đất nước ta phải
trải qua. Chúng ta phải tranh thủ thành tựu của cách mạng khoa học và công
nghệ, của điều kiện giao lưu, hội nhập quốc tế để nhanh chóng biến nước ta
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, sánh vai với các cường quốc
năm châu như mong muốn của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: Xây dựng CNXH là sự nghiệp của toàn dân, do

Đảng lãnh đạo, phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân, nghĩa là phải
biết phát huy mọi nguồn lực vốn có trong dân để xây dựng cuộc sống ấm no,
hạnh phúc cho nhân dân. Theo tinh thần đó, ngày nay, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước phải dựa vào nguồn lực trong nước là chính, có phát huy mạnh mẽ
nội lực mới có thể tranh thủ sử dụng hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Trong
nội lực, nguồn lực con người là vốn quý nhất.
Nguồn lực của nhân dân, của con người Việt Nam bao gồm trí tuệ, tài
năng, sức lao động, của cải thật to lớn. Để phát huy tốt sức mạnh của toàn dân
tộc để xây dựng và phát triển đất nước, cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
- Tin dân, dựa vào dân, xác lập quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế,
làm cho chế độ dân chủ được thực hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của con
người, nhất là ở địa phương, cơ sở, làm cho dân chủ thật sự trở thành động lực
của sự phát triển xã hội.
- Chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân để nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực.
- Thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh,
trên cơ sở lấy liên minh công- nông- trí thức làm nòng cốt, tạo nên sự đồng
8
thuận xã hội vững chắc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Xây dựng CNXH phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, tận
dụng tối đa sức mạnh của thời đại. Ngày nay, sức mạnh của thời đại tập trung ở
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu hóa. Chúng ta phải
tranh thủ tối đa các cơ hội do xu thế đó tạo ra để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc
tế; phải có cơ chế, chính sách đúng để thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý
và công nghệ hiện đại, thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Muốn vậy, chúng ta phải có đường lối chính trị độc lập, tự chủ. Tranh thủ

hợp tác phải đi đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần
dân tộc chân chính của mọi người Việt Nam nhằm góp phần làm gia tăng tiềm
lực quốc gia.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với nhiệm vụ trau dồi bản
lĩnh và bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là cho thanh, thiếu niên- lực lượng rường
cột của nước nhà, để không tự đánh mất mình bởi xa rời cội rễ dân tộc. Chỉ có
bản lĩnh và bản sắc dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ đó mới có thể loại trừ các yếu tố
độc hại, tiếp thu tinh hoa văn hóa loài người, làm phong phú, làm giàu thêm nền
văn hóa dân tộc.

Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy Nhà
nước, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, thực hiện cần kiệm xây dựng
CNXH
Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân cần đến vai trò lãnh đạo của một Đảng cách mạng chân chính, một
Nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân. Muốn vậy, phải:
- Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, một Đảng “đạo đức,
văn minh”. Cán bộ, đảng viên gắn bó máu thịt với nhân dân, vừa là người
hướng dẫn, lãnh đạo nhân, vừa hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, gương mẫu
trong mọi việc.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN mạnh mẽ, của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân; thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia một cách
đồng bộ để phục vụ đời sống nhân dân.
M
- Bằng các giải pháp thiết thực, cụ thể, hình thành một đội ngũ cán bộ liên
khiết, tận trung với nước, tận hiếu với dân; kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy chính
quyền những “ông quan cách mạng”, lạm dụng quyềnl ực của dan để mưu cầu
lợi ích riêng; phát huy vai trò của nhân dân trong cuộc đấu tranh chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí, giữ vững sự ổn định chính trị- xã hội của đất nước.
- Giáo dục mọi tầng lớp nhân dân ý thức biết cách làm giàu cho đất nước,

hăng hái đẩy mạnh tăng gia sản xuất kinh doanh gắn liền với tiết kiệm để xây
dựng nước nhà. Trong điều kiện đất nước còn nghèo, tiết kiệm phải trở thành
qốc sách, thành một chính sách kinh tế lớn và cũng là một chuẩn mực đạo đức,
một hành vi văn hóa như Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Một dân tộc biết cần, biết
kiệm” là một dân tộc văn minh, tiến bộ; dân tộc đó chắc chắn sẽ thắng được
nghèo nàn, lạc hậu, ngày càng giàu có về vật chất, cao đẹp về tinh thần tổng hợp
Câu 4: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam và sự vận dụng của Đảng ta trong công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay
a. Mục tiêu CNXH
Trên con đường cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ mục tiêu
CNXH, Người đã khẳng định tính ưu việt của CNXH so với các chế độ xã hội
đã tồn tại trong lịch sử, chỉ ra nhiện vụ giải phóng con người một cách toàn diện
theo cấp độ: từ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, xã hội đến giải phóng
từng cá nhân con người, hình thành nhân cách phát triển tự do.
Hồ Chí Minh ý thức được rõ ràng giá trị của chủ nghĩa xã hội về mặt lý
luận là quan trọng, nhưng vấn đề quan trọng hơn là tìm ra con đường để thực
hiện những giá trị này. Điểm then chốt, có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng
trong quan niệm của Hồ Chí Minh là Người đã đề ra các mục tiêu chung và mục
tiêu cụ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong mỗi giai đoạn cách mạng
khác nhau. Chính thông qua quá trình đề ra các mục tiêu đó, chủ nghĩa xã hội
được biểu hiện với việc thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích thiết yếu của người lao
động, theo các nấc thang từ thấp đến cao, tạo ra tính hấp dẫn, năng động của chế
độ xã hội mới.
Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn
đấu của Người là một, đó là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.
Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho
J
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Đó cũng chính là mục tiêu tổng quát

theo cách diễn đạt của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Từ cách đặt vấn đề này, theo Hồ Chí Minh, hiểu mục đích của chủ nghĩa
xã hội, nghĩa là nắm bắt nội dung cốt lõi con đường lựa chọn và bản chất thực tế
chế độ xã hội mà chúng ta phấn đấu xây dựng. Tiếp cận chủ nghĩa xã hội về
phương diện mục đích là một nét đặc sắc, thể hiện phong cách và năng lực tư
duy lý luận khái quát của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh có nhiều cách đề cập mục
đích của chủ nghĩa xã hội. Có khi Người trả lời một cách trực tiếp: “Mục đích
của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao
động”. Hoặc “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức
sống của nhân dân”. Có khi Người diễn giải mục đích tổng quát này thành các
tiêu chí cụ thể: “chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày
càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được
thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ… Tóm lại,
xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ
nghĩa xã hội”. Có khi Người nói một cách gián tiếp, không nhắc đến chủ nghĩa
xã hội, nhưng xét về bản chất, đó cũng chính là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
theo quan niệm của Người. Kết thúc Di chúc, Hồ Chí Minh viết: “Điều mong
muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng
một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Hồ Chí Minh quan niệm mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là nâng
cao đời sống nhân dân. Đó là sự tin tưởng cao độ vào lý tưởng vì dân, vừa là
một sự mạnh dạn trong lý luận. Theo Người, muốn nâng cao đời sống nhân dân
thì phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống nhân
dân có ý nghĩa sâu sắc đối với chúng ta. Cách tư duy lấy chủ nghĩa xã hội làm
điểm xuất phát tuyệt đối, làm cơ sở cho mọi hoạt động thực tiễn cần phải được
bổ sung bằng sự tác động trở lại và chủ nghĩa xã hội cũng phải được làm rõ bởi
hàng loạt quan hệ khác. Mục đích nâng cao đời sống toàn dân đó là tiêu chí tổng
quát để khẳng định và kiểm nghiệm tính chất xã hội chủ nghĩa của các lý luận

chủ nghĩa xã hội và chính sách thực tiễn. Trượt ra khỏi quỹ đạo đó thì hoặc là
chủ nghĩa xã hội giả hiệu hoặc không có gì tương hợp với chủ nghĩa xã hội.
S
Chỉ rõ và nêu bật mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã khẳng
định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với các chế độ xã hội đã tồn tại trong
lịch sử, chỉ ra nhiệm vụ giải phóng con người một cách toàn diện, theo các cấp
độ: từ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, xã hội đến giải phóng từng cá
nhân con người, hình thành các nhân cách phát triển tự do.
Quá trình đi tới mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội là một quá trình
lâu dài, trải qua một thời kỳ quá độ, nhiều bước trung gian, quá độ nhỏ. Đối với
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh cho rằng: “Chúng ta phải xây
dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta.
Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến
có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ,
xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không có bóc lột áp bức.
Muốn thế, chúng ta phải dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu
thành một nước công nghiệp. Chúng ta phải dần dần tập thể hóa nông nghiệp.
Chúng ta phải tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư
nhân, đối với thủ công nghiệp. Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ
thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”. Như vậy, Hồ Chí
Minh đã xác định các mục tiêu cụ thể của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Mục đích, mục tiêu ấy phải được thực hiện trên các phương tiện của chế độ
xã hội chủ nghĩa do nhân dân lao động xây dựng và làm chủ. Đó là:
- Mục tiêu chính trị: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, chế độ chính trị phải là do nhân dân lao động làm chủ, nhà
nước là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước có hai chức năng: dân chủ với nhân
dân, chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Hai chức năng đó không tách rời
nhau, mà luôn luôn đi đôi với nhau. Một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải phát
triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của nhân dân; mặt khác, lại yêu cầu

phải chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích của nhân dân, chống
lại chế độ xã hội chủ nghĩa.
Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ con đường
và biện pháp thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp, nâng cao năng lực hoạt
động của các tổ chức chính trị – xã hội của quần chúng; củng cố các hình thức
$W
dân chủ gián tiếp, tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý của các cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp, xử lý và phân định rõ chức năng của chúng.
- Mục tiêu kinh tế: Theo Hồ Chí Minh, chế độ chính trị của chủ nghĩa xã
hội chỉ được bảo đảm và đứng vững trên cơ sở một nền kinh tế vững mạnh. Nền
kinh tế mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công – nông
nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư
bản được xóa bỏ dần, đời sống vật chất của nhân dân ngày càng được cải thiện.
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phát triển toàn diện các ngành
mà những ngành chủ yếu là công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, trong đó
“công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế nước nhà”.
Kết hợp các loại lợi ích kinh tế là vấn đề rất được Hồ Chí Minh quan tâm.
Người đặc biệt nhấn mạnh chế độ khoán là một trong những hình thức của sự
kết hợp lợi ích kinh tế.
- Về văn hóa: Chủ nghĩa xã hội gắn liền với văn hóa và là giai đoạn phát
triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về mặt giải phóng con người. Nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa phải là nền văn hóa vì con người, phục vụ con người. Hồ Chí Minh rất
coi trọng văn hóa đạo đức lối sống.
Nền văn hóa mà Đảng và Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng là một nền
văn hóa “lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”, “văn hóa phải sửa
đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ”, “phải làm cho ai cũng có lý
tưởng tự chủ, độc lập, tự do”. Tóm lại, để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa thì nền văn hóa phải có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc sâu
sắc; biết tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại kết hợp với kế thừa và
phát triển những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.

- Về quan hệ xã hội: Xã hội mà chúng ta xây dựng là một xã hội công
bằng, dân chủ có quan hệ tốt đẹp giữa người với người. Mọi chế độ, chính sách
xã hội phải là chế độ, chính sách về con người, vì con người, cho con người.
Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân
dân, do nhân dân xây dựng lấy. Nếu không có những con người thiết tha với lý
tưởng xã hội chủ nghĩa thì không thể có chủ nghĩa xã hội. Do đó Hồ Chí Minh
đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa là đào tạo con
người. Bởi lẽ, mục tiêu cao nhất, động lực quyết định nhất công cuộc xây dựng
chính là con người.
$
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh con người xã hội chủ nghĩa phải là con
người có tinh thần và năng lực làm chủ, có đạo đức cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư, có kiến thức khoa học-kỹ thuật, nhạy bén với cái mới, có tinh thần
sáng tạo, dám nghĩ, dám làm. Đó là nguồn lực quan trọng để xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội.
Để giải phóng mọi tiềm năng sẵn có của con người trong việc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh nhấn mạnh là cần giải phóng phụ nữ. Bởi vì vai
trò và lực lượng của phụ nữ trong đấu tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa
xã hội được Người đánh giá rất cao: “Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu
không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không
giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”.
Do đó có thể nói rằng mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội là giải phóng
con người, giải phóng mọi tiềm năng của con người, tạo điều kiện về mọi mặt
cho sự phát triển tự do và toàn diện của con người.
b. Các động lực của chủ nghĩa xã hội
Để thực hiện những mục tiêu đó, cần phát hiện những động lực và những
điều kiện bảo đảm cho động lực đó thực sự trở thành sức mạnh thúc đẩy công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là những động lực bên trong, nguồn nội
lực của chủ nghĩa xã hội.
Động lực của chủ nghĩa xã hội là một hệ thống rất phong phú nhưng suy

đến cùng các động lực này phát huy tác dụng đều phải thông qua con người.
Động lực con người được xét trên hai phương diện: cộng đồng và xã hội
+ Phát huy sức mạnh đoàn kết của cả cộng đồng dân tộc-động lực chủ yếu
để phát triển đất nước
Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội phải ra sức phát huy sức mạnh
của khối đại đoàn kết dân tộc, vì xây dựng chủ nghĩa xã hội không phải chỉ là
vấn đề giai cấp mà còn là vấn đề dân tộc, đó không là sự nghiệp riêng của riêng
ai mà là sự nghiệp chung của toàn dân tộc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng ta chỉ rõ: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết
toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng
lãnh đạo kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi
tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế của toàn xã hội”.
$$
Đây chính là sự kết thừa và quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về huy động
sức mạnh tổng lực của toàn dân tộc trong tình hình mới.
+ Phát huy sức mạnh của con người với tư cách cá nhân lao động
Sức mạnh cộng đồng được hình thành từ sức mạnh của cá nhân, thông qua
sức mạnh của từng cá nhân. Vì vậy, muốn phát huy được sức mạnh của cộng
đồng, phải khơi dậy, phát huy động lực của mỗi cá nhân.
Hồ Chí Minh đã đề cập một hệ thống nội dung, biện pháp, vật chất và tinh
thần, nhằm tác động vào đấy, tạo ra sức mạnh thúc đẩy hoạt động của con người
cho chủ nghĩa xã hội.
- Tác động vào nhu cầu và lợi ích của con người: đây là nhu cầu và lợi ích
của con người, của xã hội.
- Tác động vào các động lực chính trị-tinh thần: Đó là việc phát huy
quyền làm chủ và ý thức làm chủ của người lao động, thực hiện công bằng xã
hội; thực hiện sự điều chỉnh của các yếu tố tinh thần khác: chính trị, văn hóa,
đạo đức, pháp luật.
Ngoài các động lực bên trong, theo Hồ Chí Minh, phải kết hợp được với
sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, phải sử dụng tốt những thành

quả khoa học-kỹ thuật thế giới.
Bên cạnh việc phát huy các động lực, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra sự cần thiết
phải đấu tranh khắc phục những trở lực của chủ nghĩa xã hội do đó Người yêu cầu:
+ Phải đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, căn bệnh đẻ ra trăm thứ bệnh.
+ Phải đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu.
+ Phải chống chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết, vô kỷ luật.
+ Phải chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng, không chịu học
tập cái mới.
c. Đảng ta vận dụng những quan điểm đó vào công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa hiện nay
Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo đạt được những thành tựu quan trọng, tạo ra thế và lực mới cho con đường
phát triển XHCN ở nước ta. Cùng với tổng kết thực tiễn, quan niệm của Đảng ta
về CNXH, con đường đi lên CNXH ngày càng sát thực, cụ thể hóa. Nhưng, trong
quá trình xây dựng CNXH, bên cạnh những thời cơ, vận hội, nước ta đang phải
đối đầu với hàng loạt thách thức, khó khăn cả trên bình diện quốc tế, cũng như từ
các điều kiện thực tế trong nước tạo nên. Trong bối cảnh đó, vận dụng tư tưởng
$9
Hồ Chí Minh về CNXH và con đường quá độ lên CNXH, chúng ta cần tập trung
giải quyết những vấn đề quan trọng nhất:
Thứ nhất, giữ vững mục tiêu của CNXH
Trong điều kiện nước ta, độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH, sau khi
giành được độc lập dân tộc phải đi lên CNXH, vì đó là quy luật tiến hóa trong
quá trình phát triển của xã hội loài người. chỉ có CNXH mới đáp ứng được khát
vọng của toàn dân tộc: độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân, cơm no áo
ấm cho mọi người dân Việt Nam. Thực tiễn phát triển đất nước cho thấy, độc
lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở bảo
đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới toàn diện đất nước vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” là tiếp tục

con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH mà Hồ Chí Minh
đã lựa chọn. Đổi mới, vì thế, là quá trình vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, chứ không phải là
thay đổi mục tiêu.
Tuy nhiên, khi chấp nhận kinh tế thị trường, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, chúng ta phải tận dụng các mặt tích cực của nó, đồng thời phải biêt cách
ngăn chặn, phòng tránh các mặt tiêu cực, bảo đảm nhịp độ phát triển nhanh, bền
vững trên tất cả mọi mặt đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa; không
vì phát triển, tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá mà làm phương hại các mặt khác
của cuộc sống con người.
Vấn đề đặt ra là trong quá trình phát triển vẫn giữ vững định hướng
XHCN, biết cách sử dụng các thành tựu mà nhân loại đã đạt được để phục vụ
cho công cuộc xây dựng CNXH, nhất là thành tựu khoa học- công nghệ hiện đại,
làm cho tăng trưởng kinh tế luôn đi liền với sự tiến bộ, công bằng xã hội, sự
trong sạch, lành mạnh về đạo đức, tinh thần.
Thứ hai, Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ các
nguồn lực nhất là nguồn lực nội sinh để công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu mà đất nước ta phải
trải qua. Chúng ta phải tranh thủ thành tựu của cách mạng khoa học và công
nghệ, của điều kiện giao lưu, hội nhập quốc tế để nhanh chóng biến nước ta
$G

×