Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Quản lý tiền gửi tại các ngân hàng thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.55 KB, 60 trang )

Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường tài chính Việt Nam trong những năm gần đây đang chứng kiến
bước phát triển nhanh chóng của các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng không
ngừng tăng vốn, tăng dư nợ tín dụng , mở rộng mạng lưới chi nhánh hoạt động…
để chuẩn bị cho cuộc cạnh tranh mạnh mẽ khi Việt Nam hoàn toàn gia nhập Tổ
chức thương mại thế giới WTO. Là trung gian tài chính trong nền kinh tế, đối tượng
của hoạt động ngân hàng chính là vốn, và quy mô vốn của ngân hàng sẽ quyết định
lợi nhuận mà nó kiếm được. Việc huy động vốn luôn giữ vai trò hết sức quan trọng
vì nó liên quan tới việc duy trì và mở rộng thị phần, nâng cao sức cạnh tranh và
tiềm năng phát triển của ngân hàng. Sự thịnh vượng và phát triển của một NHTM
căn cứ vào là tiền gửi. Tiền gửi là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó, nó
là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của ngân hàng. Cuộc khủng
hoảng tài chính Mỹ và cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu đang diễn ra cũng là đặt ra
những thách thức, yêu cầu đối với công tác quản lý tiền gửi của các NHTM Việt
Nam.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của tiền gửi đối với mỗi ngân hàng nói riêng
cũng như dối với toàn bộ nền kinh tế nói chung, em đã chọn đề tài « Tiền gửi và
quản lý tiền gửi tại các NHTM » để có điều kiện củng cố lại những kiến thức đã
học và tiếp xúc với thực tế để biết thêm về hoạt động của các NHTM hiện nay. Đề
án đưa ra giải quyết hai vấn đề chính : Phần thứ nhất là các vấn đề mang tính lý
luận về tiền gửi và quản lý tiền gửi tại các NHTM nói chung. Phần thứ hai dựa trên
cơ sở xem xét thực tiền để đưa ra vài nét về tiền gửi và quản lý tiền gửi ở Việt Nam.
Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ của ngân hàng rất đa dạng
và phong phú. Nhưng vì thời gian và khả năng tiếp cân của bản thân có hạn
nên em chưa thể phân tích một cách sâu sắc các hoạt động của ngân hàng mà
chỉ tập trung nghiên cứu quá trình huy động và quản lý tiền gửi của ngân
hàng. Và cũng do còn thiếu kinh nghiệm nên đề án của em vẫn còn những
thiếu sót. Em rất mong sẽ nhận được sự đánh giá, góp ý và sửa chữa của thầy.
Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp
1


Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
Em xin chân thành cảm ơn.
Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp
2
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
I. Nguồn tiền gửi tại các NHTM
1.1. Khái niệm và đặc điểm của tiền gửi trong các NHTM
I.1.1. Khái niệm
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng cho thấy rằng, hình thức
ban đầu của nghiệp vụ tiền gửi là cất giữ hộ , bảo quản các đồng tiền vàng và
đồ vật quý của những người chủ sở hữu nó. Người chủ bảo quản phải đảm
bảo trả lại chính những đồng tiền mà họ được chuyển giao để cất giữ, đổi lại,
họ sẽ được nhận một khoản tiền công từ những người sở hữu. Tất nhiên, trong
những điều kiện như vậy, người bảo quản không thể tiến hành các nghiệp vụ
cho vay những đồng tiền nhận bảo quản, cất giữ , và cũng không thể thu lợi
nhuận để trả lợi tức cho những người gửi tiền. Dần dần, khi xã hội phát triển,
người gửi tiền không yêu cầu phải trả lại chính những đồng tiền mà họ gửi,
mà chỉ yêu cầu trả lại tổng số tiền mà họ gửi. Thời hạn bảo quản cũng kéo dài
thêm. Do đó đã xuất hiện khả năng sử dụng số tiền gửi đó để cấp tín dụng thu
lợi tức và trả lãi cho người gửi tiền. Nghiệp vụ huy động tiền gửi để cho vay
của ngân hàng cũng từ đó được đẩy mạnh và và trở thành một trong những
hoạt động chủ yếu của ngân hàng.
Người ta thường xem tiền gửi là số tiền do khách hàng gửi vào và để lại
trong tài khỏan của họ tại ngân hàng . Cách hiểu như vậy chưa thực sự đầy đủ
và chính xác nếu đứng trên khía cạnh của cả người gửi tiền và ngân hàng.
Đối với người gửi tiền : Ý nghĩa của việc gửi tiền phụ thuộc vào mục
đích sử dụng của người gửi. Có thể chia thành hai trường hợp sau đâu :
+ Khách hàng mở tài khỏan tại ngân hàngvà gửi tiền vào để được hưởng
các dịch vụ của ngân hàng như thanh toán…Tiền gửi ở đây là số tiền được
gửi vào để sử dụng cho các nghiệp vụ phát sinh trong tương lai hoặc do các

nghiệp vụ phát sinh từ trước. Như vậy, khách hàng không phải chỉ gửi và để
lại trong tài khoản để ngân hàng cất giữ mà chủ yếu là để hưởng lợi ích của
Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp
3
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
các phương tiện, dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho họ.
+ Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để lấy lãi như số tiền gửi vào sổ
tiết kiệm hay các tài khoản định kỳ. Khi đó, khách hàng không còn quyền sử
dụng các dịch vụ của ngân hàng như không được dùng sec để thanh toán.
Đối với ngân hàng, các loại tiền gửi tạo thành nguồn vốn cung cấp cho
các nghiệp vụ sinh lời trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng.Do vậy,
ngân hàng không phải nhận tiền gửi để cất giữ hộ khách hàng và hưởng khoản
tiền công cho việc đó mà cho mục đích chủ yếu là cung cấp tín dụng và
hưởng lãi từ khoản chênh lệch giữa lãi suất trả cho người gửi tiền và lãi suất
áp dụng cho người đi vay. Đối với NHTM, có nhiều loại tiền gửi khác nhau,
những nó chủ trọng nhiều hơn đến hai nguồn chủ yếu là tiền gửi của các
doanh nhận và tiền gửi của dân cư.
Khó có thể đưa ra một định nghĩa chung về tiền gửi bởi nó phụ thuộc
vào quan niệm chủ quan và mục đích của người gửi tiền và của ngân hàng.
Đứng trên khía cạnh của ngân hàng, tiền gửi được hiểu là số tiền của khách
hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi
có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi
hoặc không hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền. (Theo khoản
9 điều 20 Luật các TCTD 1997). Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên
quan trọng nhất của NHTM, là bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong trong tổng
nguồn tiền của ngân hàng.
Như vậy, về phương diện pháp lý, người gửi tiền có quyền lựa chọn các
loại tiền gửi tùy theo nhu cầu và được hưởng các dịch vụ do khách hàng cung
cấp hoặc hưởng lãi; đồng thời, quyền sử dụng tiền của người gửi được chuyển
giao cho khách hàng. Ngân hàng có thể tùy nghi sử dụng số tiền cho hoạt

động kinh doanh của mình với cam kết thực hiện nghĩa vụ hoàn trả vào thời
điểm mà người gửi yêu cầu ( đối với loại tiền gửi không kỳ hạn) hoặc vào
Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp
4
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
ngày đáo hạn ( đối với tiền gửi có kỳ hạn). Ngày nay, có rất nhiều hình thức
tiền gửi được ngân hàng tạo ra nhằm thu hút số lượng tiền nhiều nhất có thể
từ trong dân chúng hay các tổ chứ, doanh nghiệp. Tuy nhiên, dù với hình thức
nào thì các loại tiền gửi đều có những đặc điểm như sau :
I.1.2. Đặc điểm của tiền gửi
Tiền gửi phải được thanh toán khi có yêu cầu của khách hàng, ngay cả
khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn phải trả.Nhận tiền gửi là một trong
những nghiệp vụ chính của ngân hàng, với nội dung chủ yếu là nhận tiền gửi
của khách hàng thông qua việc mở cho khách hàng một tài khỏan như tài
khoản tiền gửi có kỳ hạn, tài khỏan tiền gửi không kỳ hạn và tài khoản tiền
gửi tiết kiệm.Giao dịch nhận tiền gửi của ngân hàng được hiểu là cam kết
song phương giữa NHTM với khách hàng gửi tiền, thông qua việc giao kết
hợp đồng tài khoản tiền gửi. Giai đoạn đầu, nó chỉ đơn thuần là một hợp đồng
dịch vụ gửi,giữ tài sản, theo đó,ngân hàng đóng vai trò là bên nhận gửi, giữ để
được nhận thù lao.Về sau, do nhu cầu khách quan của hoạt động kinh tế, giữa
ngân hàng và khách hàng có thêm thỏa thuận là ngân hàng có thể sử dụng
chính số tiền này để đầu tư nhằm mục đích sinh lời., với điều kiện là phải
hoàn trả cho người sở hữu toàn bộ số tiền vốn đã sử dụng kèm theo một
khoản lãi nhất định, tùy thuộc vào thời gian mà ngân hàng giữ khoản tiền đó.
Giao dịch nhận tiền được nhìn nhận là hành vi vay tiền từ công chúng với
cma kết đảm bảo an toàn cho số tiền gửi đó cùng với nghĩa vụ trả gốc và lãi.
Việc ngân hàng giữ các khoản tiền này không đơn thuần là một nghiệp vụ giữ
hộ tài sản hay quản lý tài sản cho khách hàng để nhận thù lao mà quan trọng
hơn, nó là nghiệp vụ huy động vốn – nghiệp vụ đi vay của NHTM từ nền kinh
tế. Do đó, khi người gửi tiền yêu cầu thanh toàn thì ngân hàng buộc phải thực

hiện nghĩa vụ như đã cam kết trong hợp đồng.
Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp
5
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
Tiền gửi có quy mô rất lớn so với các nguồn vốn khác trong ngân hàng, là
cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó là nguộc gốc của lợi nhuận trong
ngân hàng. Thông thường,tiền gửi chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn, và là mục
tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng thương mại. « Tiền gửi là nền
tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng, đây cũng là khỏan mục
duy nhất trên bảng cân đối kế toán giúp phân biệt ngân hàng với các loại hình
doanh nghiệp khác »
Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc nên chi phí tiền gửi cao hơn
khoản trả lãi cho nó. Để đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng khi
đến hạn và hạn chế việc lạm dụng khoản tiền gửi của khách hàng trong việc
cho vay nhằm mục đích sinh lời của ngân hàng, ngân hàng nhà nước quy định
các khoản tiền gửi đều phải trích dự trữ bắt buộc. Tùy vào hình thức gửi tiền
và quy định của mỗi ngân hàng mà tỷ lệ dự trữ này là khác nhau. Sau khi huy
động được tiền gửi, trừ đí khoản dự trữ bắt buộc này, ngân hàng có thể cho
vay phần tền gửi còn lại. Như vậy, ngoài chi phí trả lãi tiền gửi cho khách
hàng, ngân hàng còn phải trích một khỏan dự trữ nữa nên nếu tính tổng lại thì
chí phí tiền gửi sẽ lớn hơn lãi phải trả cho khách hàng, khoản chênh lệnh này
chính là số tiền dự trữ bắt buộc.
Ở nhiều nước, ngân hàng phải mua bảo hiểm tiền gửi. Ngân hàng là một
tổ chức có quan hệ chặt chẽ với các lĩnh vực, ngành kinh tế khác. Hơn nữa,
các NHTM cũng có mối quan hệ với nhau rất mật thiết. Do phải thanh toán
tiền gửi cho khách hàng khi có yêu cầu nên NHTM luôn luôn phải đảm bảo
khả năng thanh tóan của mình. Vì vậy, ở một số nước, yêu cầu NHTM phải
mua bảo hiểm tiền gửi là để tránh rủi ro cho khách hàng gửi tiền, tạo tâm lý
an tòan hơn cho khách hàng. Như vậy, sẽ đảm bảo an tòan cho NHTM nói
riêng và cho cả hệ thống ngân hàng của quốc gia đó.

Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp
6
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
I.2. Vai trò của tiền gửi trong NHTM
Tiền gửi trong NHTM có vai trò quan trọng không chỉ đối với hoạt động
của ngân hàng mà còn đối với các chủ thể khác trong nền kinh tế như khách
hàng là cá nhân hoặc khách hàng là doanh nghiệp và cả nền kinh tế.
Đối với khách hàng là doanh nghiệp: chủ doanh nghiệp thông qua việc
mở tài khoản để được hưởng các dịch vụ về ngân quỹ, thu chi tài vụ và các
dịch vụ khác của ngân hàng một cách nhanh chóng và an toàn. Dịch vụ chủ
yếu mà các doanh nghiệp sử dụng là nhờ ngân hàng thanh toán tiền hàng lẫn
nhau. Nếu không thông qua ngân hàng, doanh nghiệp sau khi mua hàng xong
sẽ phải trực tiếp mang tiền đến trả cho nhà cung cấp. Như thế sẽ mất thời
gian, tốn chi phí đi lại , bảo quản, cất giữ và nguy hiểm do nguy cơ bị cướp
hoặc gian lận của người mang tiền đi trả. Về phía ngân hàng, qua nghiệp vụ
này cũng thu hút được một số lượng tiền gửi của khách hàng trên tài khỏan và
một khỏan lệ phí nhất định. Một điều quan trong nữa cần nhắc tới ở đây là
doanh nghiệp có thể sử dụng việc gửi tiền vào ngân hàng để kiếm thêm tiền
lãi khi ngân quỹ tạm thời dư thừa.
Đối với khách hàng thuộc tầng lớp dân cư: Khách hàng mở tài khỏan và
ký gửi tiền tại ngân hàng ngoài việc được hưởng dịch vụ thanh toán bằng sec,
còn được ngân hàng cung ứng một loạt dịch vụ đa dạng về tài chính có sinh
lời. Trong nền kinh tế thị trường, một người dân muốn giữ tiền hay tích lũy
vốn trước hết có hai hình thức lựa chọn: hoặc giữ tiền trong két sắt hoặc mua
cổ phiếu ( của các công ty cổ phần) hay trái phiếu ( Chính phủ hay công ty).
Cả hai cách này đều chứa đựng rất nhiều rủi ro như trộm cướp hay tiền trong
tương lai không có giá trị thấp hơn hiện tại do quy luật giá trị theo thời gian
của tiền…. ( đối với cách thứ nhất); giá cổ phiếu giảm, trái phiếu không được
thanh toán ( đối với cách thứ hai)…Do đó, họ có thể lựa chọn cách thứ ba: gửi
tiền vào ngân hàng vừa để giữ được vốn tích lũy của mình tương đối an toàn,

Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp
7
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
vừa thu được một khoản lợi tức nhất định.
Đối với nền kinh tế: Tiền gửi của NHTM sẽ được tài trợ cho các dự án
của doanh nghiệp sẽ làm tăng đầu tư của nền kinh tế và do đó cũng làm tăng
thu nhập quốc dân GDP.
Đối với NHTM: tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của
Ngân hàng, là khoản mục duy nhất trên Bảng cân đối kế toán giúp phân biệt
Ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác. Tiền gửi là cơ sở chính cho
các khoản vay của NHTM, là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển
của Ngân hàng. Khi huy động tiền gửi, Ngân hàng phải duy trì tỷ lệ dự trữ bắt
buộc và sau khi trừ đi các khoản dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán, ngân
hàng có thể cho vay phần tiền gửi còn lại. Ngân hàng cũng có thể thu được
những khoản phí khi cung cấp các dịch vụ cho khách hàng gửi tiền. Khả năng
huy động tiền gửi với mức lãi suất hợp lý còn là những chỉ số quan trọng đáng
giá tính hiệu quả trong quản lý ngân hàng.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tiền gửi
Lãi suất: lãi suất cao là một nhân tố kích thích các doanh nghiệp, dân cư
gửi và cho vay. Trong điều jiện có lạm phát, người có tiền tiết kiệm thường
quan tâm đến lãi suất thực, điều đó có nghĩa là lãi suất thực dương mới thực
sự hấp dẫn các nguộc tiền tiết kiệm.
Thời vụ chi tiêu: ảnh hưởng đến quy mô và tính ổn định của nguồn tiền.
Vào dịp Tết, nguồn tiền tiết kiệm cũng như tiền gửi của doanh nghiệp có xu
hướng giảm sút đặc biệt trong điều kiện thanh toán bằng tiền mặt còn phổ
biến do nhu cầu mua sắm cho dịp tết của các gia đình tăng nhiều.
Thu nhập: thu nhập gia tăng là điều kiện để gia tăng quy mô và thay đổi
kỳ hạn của nguồn tiền. Tại các thành phố lớn, nơi tập trung tầng lớp dân cư có
thu nhập cao, hin thành những người gửi tiền lớn. Khi ngân hàng mở rộng cho
vay, tiền gửi của các doanh nghiepẹ và các cá nhân cũng gia tăng. Các nguồn

Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp
8
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
tiền gửi thanh toán thường biến động mạnh ( kém ổn đinh) hơn tiền gửi tiết
kiệm.
Địa điểm ngân hàng: mạng lứoi chi nhánh và quầy tiết kiệm, các loại
hình huy động đa dạng, các dịch vụ đa dạng…
II. Phân loại tiền gửi trong các NHTM
Tiền gửi là có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động của NHTM
như đã nói ở trên. Việc phân loại tiền gửi sẽ giúp chúng ta quản lý được nó dễ
dàng hơn và có những biện pháp để huy động tiền gửi nhiều hơn tùy theo mục
đích hoạt động của ngân hàng. Có nhiều cách để phân loại tiền gửi trong các
NHTM, dưới đây là cách phân loại phổ biến nhất. Theo cách phân loại này,
tiền gửi có thể chia thành 3 loại chính sau: tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có
kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm
II.1. Tiền gửi không kỳ hạn
II.1.1. Định nghĩa
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi hoàn toàn theo quy tắc bất dụng,
nghĩa là người gửi tiền có quyền rút tiền vào bất cứ lúc nào họ muốn. Ngân
hàng sắp xếp loại tiền này vào nhóm tiền gửi không kỳ hạn, nghĩa là các
khỏan tiền gửi với thời gian không xác định. Người vừa mới gửi tiền vào sáng
nay, nếu cần anh ta có thể rút ra ngay vào buổi chiều. Tính bất định về thời
gian gửi, cùng với đặc điểm có thể có thể rút ra bất cứ lúc nào cần đã làm cho
loại tiền gửi này còn có tên gọi theo tiếng anh là tiền gửi theo nhu cầu
( Demand deposits).
Ngày nay, khi chúng ta gửi tiền vào tài khoản không kỳ hạn, ngân hàng
sẽ cấp cho chúng ta một cuốn sổ Séc để chúng ta có thể viết Séc chi tiêu khi
có nhu cầu ở bất cứ nơi nào. Vì vậy, tiền gửi không kỳ hạn còn được gọi là
tiền trong tài khoản Séc ( Checking Account). Khách hàng sử dụng Séc không
Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp

9
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
phải vì mục đích để dành và cũng không chú trọng ở tiền lãi. Khách hàng chỉ
muốn đổi hình thức tiền tệ này thành hình thức tiền tệ khác và do sự thuận
tiện trong thanh toán mà họ đã chọn Sec. Sụ tiện lợi trong thanh tóan của tiền
gửi không kỳ hạn này phụ thuộc vào tổ chức và hoạt động của NHTM đã phát
hàng ra nó. Nếu gửi tiền vào tài khỏan này ở một NHTM có chi nhánh ở khắp
nơi trên lãnh thổ kể cả những vùng xa xôi hẻo lánh nhất, thì Séc do chủ tài
khoản ký phát có hiệu lực thanh tóan và được chấ nhận nhanh chẳng kém gì
tiền mặt. Đó là lý do để tiền gửi không kỳ hạn được xem là laọi hình gần tiền
mặt nhất trong tất cả các loại hình tiền của NHTM. Tuy nhiên, ở các nước
đang phát triển thì thanh toán bằng Séc chưa phổ biến do chi nhánh của các
NHTM ở những nước này còn ít và không phủ rộng khắp nơi để cả những
vùng sâu vùng xa hoặc có quan hệ không tốt với các ngân hàng khác, hơn
nữa, tâm lý của người dân còn ưa thích dùng tiền mặt hơn.
Tiền gửi laọi này có thể phát hành từ khách hàng là doanh nghiệp và chủ
doanh nghiệp đứng tên tài khoản hay người dân bình thường. Việc phân biệt
giữa tài khỏan vãng lãi mở cho doanh nghiệp và các tài khỏan Séc mở cho
người dân rất cần thiết cho ngân hàng không những về mặt pháp lý mà còn cả
về mặt kỹ thuật. Khoản tiền khách hàng gửi vào thực chất là khoản tiền khách
hàng cho ngân hàng vay. NGân hàng sẽ trả lãi cho khách hàng hàng tháng
mặc dù rất thấp. Do đó, đối với ngân hàng, nó là một khỏan nợ, khoản nợ này
sẽ được trả theo nhu cầu của người gửi.
II.1.2. Phân loại
Sự đa dạng của loại hình tiền gửi không kỳ hạn này để đáp ứng cho sự
phát triển của xã hội và nhu cầu thanh toán của người dân. Ở các nước phát
triển, tiền gửi không kỳ hạn có thể phấn ra thành các loại như sau:
a) Tiền gửi dùng Sec ( checking deposits)
b) Tiền gửi rút tiền tự động hay tiền gửi thông dụng ( Ordinary deposits)
Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp

10
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
thực hiện qua máy rút tiền ( cash dispensers) máy nhận rút và chuyển
tiền tự động ( Automated teller machine hay còn gọi là ATM)
c) Tài khỏan ATS ( automatic transfer service account) tài khoản phối
hợp tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tài khoản Séc ở Mỹ
d) Tiền gửi có thông tri ( deposit at notice), tiền gửi hẹn rút ( deposit at
call) hay tiền gửi có báo trước (dépots à prévis) : là loại tiền gửi
không có quy định một kỳ hạn nào, nhưng các bên có thỏa thuậ việc
thông báo trước từ 5 đến 8 ngày. Vậy việc thông báo trước có làm
mất tính khả dụng, nghĩa là làm cho khỏan tiền gửi mất tính pháp lý
cơ bản của nó?
+ Xét về khía cạnh kinh tế, thông tri báo trước một vài ngày nhằm mục
đích giúp ngân hàng có thời gian để gom đủ số tiền cần thiết cho việc
thanhtoán, thì số tiền gửi có báo trước đúng là một loại tiền gửi.
+ Xét về phương diện pháp lý, tiền gửi có báo trước không cho phép
khách hàng sử dụng sec để rút tiền trong các tài khoản có báo trước. Do đó,
tiền gửi có báo trước phụ thuộc quy tắc cho vay. Những loại tiền gửi có
báo trước thường cũng được trả lãi, nhưng thấp hơn so với các loại tiền gửi
có ký hạn.
Có nhiều ngân hàng đã dung hợp hai lối tiền gửi có kỳ hạn và báo trước.
Khách hàng lúc gửi tiền được ấn định một kỳ hạn, nhưng khi cần tiền gấp, có
thể rút tiền trước thời hạn, miễn là báo trước vài ngày hoặc một tuần tùy theo
số tiền lớn hay nhỏ.
e) Tài khoản NOW: Ra đời ở Anh trong thập kỷ 70 của thế kỷ XX, sự
kếp hợp giữa tiền gửi giao dịch không hưởng lãi và tiền gửi tiết kiệm
đã xuất hiện dưới hình thức tài khỏan NOW – negotiable order of
withdrawal – tài khoản lệnh rút tiền có thể thương lượng. NOW là tài
khoản giao dịch được hưởng lãi, do đó nó cho phép Ngân hàng đòi
Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp

11
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
hỏi khách hàng phải thông báo trước về việc rút tiền. Do đòi hỏi này
ít khi được thực hiện nên NOW được sử dụng như là một tài khoản
phát séc để chi trả cho việc mua hàng hóa và dịch vụ. Từ năm 1981,
NOW đựoc chấp nhận rộng rãi trên toàn nước Mỹ. Tuy nhiên, loại tài
khoản này chỉ có thể được nắm giữ bởi cá nhân và các tổ chức phi lợi
nhuận (nonprofit institutions). Khi NOW được chấp nhận trên tòan
nước Mỹ, Chính phủ Mỹ đã cho phép ngân hàng thực hiện nghiệp vụ
chuyển vốn tự động, trong đó khách hàng ủy quyền trước
(preauthorize) cho ngân hàng trong việc chuyển vốn từ tài khỏan tiết
kiệm sang tài khoản séc để bù đắp thấu chi (overdraft). Kết quả cuối
cùng là khách hàng hưởng lãi trên tài khoản giao dịch tương đương
với lãi thu được từ tài khoản tiền tiết kiệm.
f) Tài khoản MMDA: “Với việc thông qua đạo luật về các tổ chức nhận
tiền gửi Garn-st Germain năm 1982, hai loại hình tài khoản giao dịch
hưởng lãi quan trọng được hình thành. Ngân hàng và các tổ chức tiết
kiệm phi Ngân hàng có thể đưa ra một loại hình tiền gửi mới để cạnh
tranh với tài khoản đầu tư chứngkhóancó lãi suatá cao hơn, được
cung cấp bởi các quỹ trên thị trường tiền tệ và được đảm bảo bằng
danh mục đầu tư chứng khóan có chất lượng cao. Kết quả là đưa tới
sự ra đời của tài khoản tiền gửi trên thị trường tiền tệ (MMDA) và tài
khoản Super NOW”. Hai loại tài khoản này trả lãi theo lãi suất thị
trường tiền tệ và khách hàng có thể thực hiện thanh tóan cho các giao
dịch mua hàng hóa và dịch vụ thông qua việc phát séc hay hối phiếu
ủy quyền trước (preauthorised draft).
MMDA là tài khoản tiền gửi thời hạn ngắn, có thể là vài ngày, vài tuần
hay vài tháng và NGân hàng có thể trả lãi suất ở mức đủ lớn để thù hút và
nắm giữ tiền gửi của khách hàng. Có tới sáu hối phiếu ủy quyền trước được
Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp

12
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
phép thực hiện trong một tháng nhưng số lượng séc phát hàng chỉ được giới
hạn là 3 lần. Đối với lệnh rút tìen cá nhân thì không có hạn chế (mặc dù ngân
hàng có quyền đặt mức tối đa cho quy mô tiền rút và cho số lượng lệnh rút
tiền cá nhân ). Không như NOW, MMDA có thể được nắm giữ bởi cả doanh
nghiệp và cá nhân.
g) Tài khoản Super NOW (SNOW) ra đời gần như cùng thời gian với
MMDA, nhưng tài khoản này chỉ có thể được nắm giữ bởi cá nhân và
các tổ chức phi lợi nhuận. Không có quy định nào hạn chế số lượng
séc người gửi tiền có thể phát hàng. Tuy nhiên, Ngân hàng áp dụng
một mức lãi đối với SNOW thấp hơn cả với MMDA bởi vì SNOW có
thể được phát séc thường xuyên hơn. Do đó, các nhà quản lý trung
ương xếp MMDA vào nhóm tiền gửi tiết kiệm. Tuy vậy, chúng ta
xếp tài khoản loại này vào phần tài khoản giao dịch vì chúng có đặc
quyền phát séc.
h) Tiền gửi đặc biệt: Nhằm phát triển tiền gửi, một số ngân hàng áp
dụng loại tiền gửi đặc biệt với các nội dung sau:
+ Các bên có thể thỏa thuận về số tiền gửi sẽ được phong tỏa. Thông
thường thì các vụ rút tiền được quy định trong phạm vu một phần số tiền gửi,
người gửi cam kết không sử dụng vào phần tối thiểu quy định. Đối với các số
tiền phong tỏa, người ta sẽ áp dụng lãi suất cao hơn. Nếu khách hàng rút tiền
ra trước ngày đã dự tính thì hoặc không được hưởng lãi suất như thỏa thuận
hoặc được hưởng một lãi suất thấp.
+ Có khi khách hàng ký gửi một số tiềnvào ngân hàng để chuẩn bị cho
một doanh vụ đã có dự định trước. Cũng có khi dùng loại tiền gửi này để tạo
một đảm bảo cho chính ngân hàng hay một bên thứ ba, hoặc tiền gửi được
dùng đeer tạo một khoản dự phòng để trả lãi công trái, hoặc là các khoản tiền
đã được gửi nhằm để mua các chứng khoán, để dự tính vào vốn của một công
Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp

13
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
ty đang thành lập hoặc tăng vốn hay là để thanh toán cho một hối phiếu.
Trên đây là những loại tiền gửi không kỳ hạn phổ biến nhất. Tùy theo
nhu cầu đa dạng của khách hàng và sự phát triển của hệ thống ngân hàng ở
mỗi nước mà các quốc gia lại có thêm những khoản tiền gửi không kỳ hạn
khác nhau.
II.2. Tiền gửi có kỳ hạn
II.2.1. Định nghĩa
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi được ủy thác vào ngân hàng mà
có sụ thỏa thuận về thời gian rút tiền giữa ngân hàng và khách hàng. Như
vậy, về nguyên tắc, khách hàng gửi tiền chỉ đựoc rút tiền ra khi đến hạn
đã thỏa thuận.
Thực ra, các loại tiền gửi định kỳ này không phải là những loại tiền gửi
theo nghĩa của pháp lý, mà nó có dạng như một khỏan tiền vau của ngân hàng
nhưng không thể hiện bằng một phiếu khoán. Nó là một ngoại lệ của quy tắc
bất khả dụng, bởi vì khách hàng chỉ phải hoàn lại số tiền gửi vào ngày đáo
hạn ghi trên hợp đồng.
Tiền gửi có kỳ hạn có những đặc điểm sau đây:
+ Tên gọi “ có kỳ hạn” có nghĩa là khỏan tiền được gửi sẽ có thời hạn
gửi tối thiếu theo thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng và không được rút
ta trước thời hạn đã cam kết. Nếu vì một lý do nào đó mà người gửi tiền phải
rút tiền trước hạn thì ngân hàng có một trong ba cách xử lý như sau: thứ nhất,
từ chối. Bởi vì theo như cam kết của hợp đồng, người gửi tiền sẽ cho ngân
hàng vay với thời hạn đã thống nhất, nếu khách hàng rút tiền trước thời hạn sẽ
làm ảnh hưởng đến công việc kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, thông
thường ngân hàng làm hai cách mềm dẻo hơn sau: Thứ hai, ngân hàng yêu
cầu khách hàng phải báo trứoc, ít nhất một khoảng thời gian nào đó về ý định
rút tiền. Thứ ba, với những yêu cầu rút tiền đột xuất như vậy, khoản lãi suất
Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp

14
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
mà ngân hàng trả cho tiền gửi của khách hàng sẽ rất thấp như là một hình thức
xử phạt khách hàng do đã làm ảnh hưởng đến kế hoạch đầu tư của ngân hàng
( thông thường lãi suất được hưởng lãi tương đương với lãi suất tiền gửi
không kỳ hạn).Hiện nay, do áp lực cạnh tranh, ngân hàng thường cho phép
khách hàng rút ra trước hạn và chỉ được hưởng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn,
hoặc ngân hàng có thể cho vay bằng cách mở một tài khoản đặc biệt cho viêc
này trong giới hạn số dư tài khoản tiền gửi định kỳ của khách hàng.
+ Xuất phát từ loại hình tiền gửi có kỳ hạn, một khái niệm được hình
thành đó là “thời hạn đáo hạn” hay “đến hạn thanh toàn” của các loại chứng
thư tiền gửi. Khi khách hàng gửi tiền vào một ngân hàng tại tài khoản có kỳ
hạn 3 tháng rồi nhận một cuốn passbook ( quyển sổ) do ngân hàng cấp, hoặc
dùng tiền mua một trái phiếu tiết kiệm (savings bonds) cũng của chính ngân
hàng đó phát hàng ra với thời hạn thanh toán sau ba tháng. Hai việc này tính
chất không khác nhau, ngoạt trừ một điểm là trá phiếu không được đổi lại
thành tiền mặt nửa chừng như passbook. Vấn đề co bản ở đây là cả hai loại
chứng thư này đều có thời hạn thanh toán tiền mặt về nguyên tắc là đến ngày
cuối cùng của tháng thứ ba. Đúng hơn, khách hàng chỉ có thể và chỉ có quyền
(theo hợp đồng) dùng các loại chứng thư nói trên để đổi trở lại thành tiền mặt
vào ngày cuối cùng của tháng thứ ba. Ngàu nói trên là ngày đáo hạn. Khỏang
thời gian hay kỳ hạn ba tháng của chứng thư được gọi là “ thời gian đến hạn”
kể từ ngày chứng thư được phát ra. Thời gian đến hạn của các khoản tiền gửi
có kỳ hạn như tiền tiết kiệm passbook và các loại trái phiếu khác là tieue
chuẩn hqy cơ sở để đánh giá khả năng thanh khỏan của các loại tài sản nói
trên. Khả năng thanh khoản là khả năng chuyển đổi trở lại thành tiền mặt của
các loại tài sản mà chúng ra sở hữu. Với cách xác định như trên, một khoản
gửi có kỳ hạn hoặc một trái phiếu tiết kiệm ba tháng có khả năng thanh khoản
cao hơn rất nhiều lần so với một khoản gửi hoặc một trái phiếu có thời gian
Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp

15
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
đến hạn 10 năm.
+ Tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cố định. Tuy nhiên, giữa các
loại tiền gửi có kỳ hạn khác nhau, lãi suất được trả sẽ khác nhau. Tiền gửi có
kỳ hạn với thời gian càng lâu, lãi suất sẽ càng lớn bởi vì ngân hàng hoàn toàn
có thể dùng tiền gửi này đem đầu tư vào những dự án sản xuất kinh doanh có
tính lâu dài hơn, lợi tức cao và ổn định hơn. Lãi suất là ngân hàng trả cho tiền
gửi có kỳ hạn thường là cai hơn nhiều so với tiền gửi không kỳ hạn. Lý do là,
ngân hàng hoàn toàn yên tâm sử dụng tiền gửi của khách hàng để cho vay với
thời hạn ổn định và sẽ kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. Vì thế “tiền thù lao”
trả cho khách hàng cũng phải cáo hơn để kích thích sự gửi tiền nhiều nữa.
Khác với tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn là tiền tạm thời chưa
sử dụng hoặc là tiền để dành của cá nhân, vì vậy, mục đích gửi tiền vào ngân
hàng là nhằm tìm kiếm lợi tức. Tiền gửi có kỳ hạn thường phụ thuộc vào ba
thông số chính: 1)Lãi suất do các NHTM trả cao hay thấp, 2) lãi suất của các
loại hình đầu tư khác như trái phiếu, cổ phiếu… (tức là các hàng hóa thay thế
gần nhất ), 3) thu nhập của người dân. Thông số đầu tiên là quan trọng nhất.
Vì vậy việc đưa ra chiền lược lãi suất như thế nào để thu hút được vốn nhiều
và kinh doanh có lãi là điều quan trong hàng đầu, phản ánh khả năng quản trị
của các NHTM
II.2.2. Phân loại tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn có thể phân ra thành các loại sau đây:
a) Các chứng chỉ tiền gửi ( Certifficate of depposit – CD )
b) Chứng thư tiết kiệm ( savings certificates)
c) Trái phiếu tiết kiệm
Ở một số tài liệu người ta gộp tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm
thành một nhóm vì người gửi tiền chọn hai loại hình gửi tiền này để vì mục
tiêu tìm kiếm lợi tức. Tuy nhiên, ở đây, chúng ta tách hai loại hình này riêng
Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp

16
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
để dễ dàng phân tích.
II.3. Tiền gửi tiết kiệm
II.3.1. Định nghĩa và đặc điểm
Tiền gửi tiết kiệm (savings deposits) hay tài khoản dùng sổ (passbook
account). Một khoản ký thác dưới hình thức tiết kiệm rất đa dạng và phổ biến
trong nền kinh tế được NHTM huy động là các khoản tiền tiết kiệm.
Loại ký thác này có đặc điểm: người gửi tiền tham gia gửi tiền vào ngân
hàng rất đông, nhưng số tiền gửi từng lần thường ít, về số lượng tuyệt đối lại
rất lớn, chiếm tỷ trọng rất quan trọng trong cơ cậu vốn ký thác huy động
được.
II.3.2. Phân loại
Thông thường có hai loại tiền gửi tiết kiệm sau:
a) Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
b) Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
Nguồn vốn từ loại tiết kiệm không kỳ hạn có lãi suất thấp, làm cho lãi
suất đầu vào của ngân hàng rất thấp và rất có lợi khi vay.
Việc điều hành các tài khoản này tại phần lớn các nước được quy định
như sau: Các sổ tiết kiệm chỉ được mở cho các thể nhân và chỉ mở một sổ cho
mỗi người. Ngưởi gửi tiền, khi mở sổ tiết kiệm, phải cam đoan chưa mở một
tài khoản tiết kiệm nào ở một ngân hàng khác. Số dư tối đa của sổ tiết kiệm
cũng được quy định cụ thể cho từng thời kỳ. Các nghiệp vụ cho pháp thực
hiên được hạn chế tối đa: chỉ có thể gửi tiền mặt và chỉ có chủ tài khoản mới
được rút tiền, không cấp tập séc.
Các nghiệp vụ thực hiện phải chẵn số, nghĩa là phải là bội số của 100
đồng hay 1000 đồng chẳng hạn.
III. Chi phí đối với các loại tiền gửi
3.1. Lãi suất huy động tiền gửi
Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp

17
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
Mỗi loại tiền gửi là chúng ta cần nghiên cứu đều mang một mức lãi suất
khác nhau. Lãi suất sẽ quyết định chi phí. Chi phí cho các nguồn tiền gửi khác
nhau là không giống nhau. Giả định rằng các yéu tố khác không đổi, ngân
hàng sẽ huy động vốn bằng cách cung cấp các loại hình gửi tiền có chi phí
thấp nhất, hay thu nhập ròng tạo ra từ việc sử dụng các nguồn vốn tiền gửi
này là lớn nhất sau khi đã trừ đi mọi chi phí. Nếu một ngân hàng có thể huy
động toàn bộ tiền gửi từ các nguồn có chi phí thấp nhất và đầu tư vào các tài
sản có mức lãi suất cao nhất, ngân hàng sẽ tối đa hóa mức chênh lệnh lãi suất,
và có thể tối đa hóa thu nhập ròng của cổ đông. Trong tất cả các loại tiền gửi,
loại tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm tạo ra thu nhập ròng cao nhất và là khỏan
chi phí lớn nhất cho của ngân hàng.
Theo quy luật giá trị theo thời gian cua rtiền và theo mối quan hệ tỷ lệ
thuận trong đường cong thu nhập thì tiền gửi có kỳ hạn thanh toán càng dài sẽ
tạo ra mức lãi càng cao cho người gửi tiền. Ví dụ, tài khoản NOW và tài
khoản tiết kiệm đều có thể được rút tiền ngay lập tức, và do đó kháhc hàng
được hưởng mức lãi suất thấp nhất trong số tất cả các loại tiền. Ngược lại
ngân hàng trả lãi suất tiền gửi cáo nhất cho chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển
nhượng với kỳ hạn một năm hoặc dài hơn.
Quy mô và mức độ rủi ro trong hoạt động của ngân hàng cũng đóng một
vai trò quan trọng trong việc hình than lãi suất tiền gửi. Ví dụ các ngân hàng ở
New York, London hay Tokyo nhờ vào quy mô lớn và sức mạnh tài chính nên
có thể thu hút tiền gửi ở mức lãi suất bình quân thấp nhất, trong khi lãi suất
được thông báo tại các ngân hàng khác thường cao hơn. Những yếu tố quan
trọng là triết lý về Marketing và mục tiêu của việc cung cấp các dịch vụ ngân
hàng. Ngân hàng nào quyết định chon mục tiêu là cạnh tranh giành tiền gửi sẽ
luôn luôn đặt ra mức lãi suất cao hơn để kéo khách hàng khỏi các đối thủ cạnh
tranh. Ngược lại, khi ngân hàng muốn hạn chế quy mô của một loại hình tiền
Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp

18
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
gửi nào, ngân hàng sẽ hạ lãi suất công bố thấp hơn mức lãi suất của các đối
thủ cạnh tranh đưa ra.
3.2. Các phương pháp định giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi
Khi huy động tiền gửi, một mặt, ngân hàng phải trả một mức lãi suất đủ
lớn để có thể thu hút và duy trì sự ổn định trong lượng tiền gửi của khách
hàng. Mặt khác, ngân hàng phải cố gắng hạn chế việc trả lãi suất quá cao bởi
vì điều này sẽ làm giảm mức thu nhập tiềm năng của ngân hàng. Hiện nay, sự
cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng có xu hướng làm tăng chi phí trả tiền
lãi tiền gửi trong khi làm giảm thu nhập dự kiến từ hoạt động đầu tư và cho
vay. Một yêu cầu đặt ra đối với các ngân hàng là phải đánh giá đúng chi phí
trả lãi để từ đó có thể thu hút được lượng tiền nhiều nhất với lãi suất hợp lý để
tối đa hóa thu nhập ròng của ngân hàng. Một trong những biện pháp để giải
quyết vấn đề trên là các ngân hàng phải định giá đúng các dịch vụ liên quan
đến tiền gửi. Tuy nhiên, việc này không hề đơn giản. Hiện nay, có năm
phương pháp định giá được áp dụng:
3.3.1. Phương pháp tổng hợp chi phí – thu nhập
Trong hoạt động của ngân hàng hiện nay, các nhà quản lý nhìn chung
không chấp nhận quan điểm cho rằng khách hàng là người phải gánh chịu
toàn bộ chi phí dịch vụ liên quan đến tiền gửi. Cho đến vài năm gần đây, luận
điểm “ khách hàng nên được sử dụng miễn phí các dịch vụ về tiền gửi” được
xem như một đường lối khôn ngoan nhằm đối phó với sự cạnh tranh ngày
càng gay gắt từ phía các trung gian tài chính khác trên thị trường truyền thống
của ngân hàng. Tuy nhiên, rất nhiều ngân hàng đã sớm nghi ngờ tính hiệu quả
của chiến lược Marketting mới này bởi nó làm gia tăng số lượng các tài khoản
có số dư nhỏ với mức độ nhạy cảm cao và buộc ngân hàng phải đối mặt với
tình trạng bùng nổ trong chi phí hoạt động.
Theo phương pháp chi phí – thu nhập, ngân hàng đáng giá các chi phí
Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp

19
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
nghiệp vụ và chi phí quản lý chung cho mỗi đơn vị dịch vụ tiền gửi và mức
thu nhập để trả cho các cổ đông – những người đóng góp vốn thành lập ngân
hàng. Do cạnh tranh ngày càng gay gắt cùng với sự tăng lên của lệ phí bảo
hiểm, chi phí trung bình của ngân hàng cho một khoản tiền gửi đã tăng lên.
Điều này có nghĩa là ngân hàng tiến hàng định giá tiền gửi độc lập, tách biệt
khỏi các khoản cho vay và các dịch vụ khac. Đồng thời, mỗi dịch vụ liên quan
tới tiền gửi thường được định giá sao cho khoản thu đủ bù đắp tất cả hoặc
phần lớn chi phí cho việc cung cấp dịch vụ đó. Giá của các dịch vụ này được
xác định theo công thức tổng hợp chi phí – thu nhập như sau:
Giá khách hàng
phải trả cho 1 đơn
vị dịch vụ tiền gửi
=
Chi phí hoạt động
cho 1 đơn vị dịch
vụ tiền gửi
+
Chi phí quản lý
chung dự tính phân
bổ cho bộ phận
nhận tiền gửi
+
Định mức lợi
nhuận từ 1
đơn vị tiền
gửi
Phương pháp định giá theo chi phí – thu nhập như công thức trên khuyến
khích các ngân hàng đặt giá sát hơn với chi phí và loại bỏ nhiều dịch vụ trước

đây miễn phí. Ví dụ, ngày càng nhiều ngân hàng Mỹ ấp đặt phí cho dịch vụ
chấp nhận thấu chi, tăng lệ phí đối với các tờ Séc bị máy rút tiền tự động
ATM, tính phí hàng tháng cho việc duy trì tài khoản kể cả đối với tài khoản
tiết kiệm nhỏ, đồng thời nâng cao mức quy định về số dư tiền gửi tối thiểu.
Trong hầu hết các trường hợp, những khoản phí dịch vụ này dường như tăng
nhanh hơn tỷ lệ lạm phát. Kết quả của những xu hướng này nói chung có lợi
cho ngân hàng, thu nhập từ phí dịch vụ vượt trội tổn thất của ngân hàng.
3.3.2. Phương pháp định giá xâm nhập thị trường
Xâm nhập thị trường là một phương pháp định giá không nhấn mạnh về
vấn đề lợi nhuận, ít nhất là ngắn hạn. Ý tưởng ở đây là nâng cao lãi suất,
thường là cao hơn hẳn mặt bằng lãi suất thị trường hoặc thu phí dịch vụ thấp
hơn mức phí thị trường để có thể thu hút được số lượng khách hàng tối đa.
Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp
20
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
Nhà quản lý hy vọng rằng sự gia tăng nhanh chóng của quy mô tiền gửi và
của những khoản tín dụng sẽ bù đắp một phần sự giảm sút trong lợi nhuận cận
biên. Với chién lược này, ngân hàng muốn tối đa hóa thị phần trong một thị
trường đang tăng trưởng nhanh chóng. Còn đối với khách hàng, chọn ra được
một ngân hàng có đủ uy tín để gửi tiền là một công việc ratá tốn kém. Do vậy,
khách hàng thường tậo trung mua dịch vụ của một ngân hàng. Một tài khoản
tiền gửi có thể là điều kiện nền tảng cho các khoản vay, dịch vụ ủy thác và
các dịch vụ khác. Việc cắt đứt quan hệ thường gây ra những thiệt hại lớn nên
khách hàng có xu hướng trung thành với ngân hàng họ đã lựa chọn. Bởi vậy,
tiền gửi có thể được xem là yếu tố ổn định. Tiền gửi thường kém nhạy cảm
hơn các nguồn tiền khác trước những thay đổi trong lệ phí, lãi suất và chính
sách huy động vốn của ngân hàng đối thủ. Nếu ngân hàng có thể đưa ra lãi
suất cao hơn mức bình quân thị trường trong một thời gian đủ dài để tạo ra sự
trung thành của khách hàng thì trong tương lai, khách hàng vẫn sẽ gửi tiền
vào ngân hàng dù rằng lãi suất mà ngân hàng đưa ra không còn cao như trước.

Chi phí không nhỏ cho việc lựa chọn và thay đổi ngân hàng là nguyên nhân
giải thích cho hành vi nêu trên của khách hàng.
Trên thực tế, sự thất bại của các ngân hàng trong chiến lược thu hút thêm
tiền gửi bằng cách giảm lệ phí hoặc nâng cao lãi suất bắt nguồn từ tính ổn
định tương đối của tiền gửi: khách hàng thường không thay đổi ngân hàng
ngay lập tức bởi vì chi phí và rủi ro cho sự thay đổi này là không nhỏ. Các
công ty và các hộ gia đình trước khi quyết định gửi tiền vào ngân hàng nào
đều xem xét đến rất nhiều yếu tố, không chỉ có lái suất.
3.3.3. Phương pháp Bảng tỷ lệ phí tiền gửi
Khách hàng sẽ phải trả một khoản lệ phí rất nhỏ, thậm chí là không phải
trả nếu số dư tiền gửi bình quân của họ cao hơn một mức nhất định hoặc
khách hàng sẽ phải trả lệ phí cao hơn nếu số dư tài khoản trong bình thấp hơn
Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp
21
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
mức giới hạn. Do đó, mức giá dịch vụ mà khách hàng phải trả phụ thuộc vào
việc anh ta sử dụng tiền gửi như thế nào
Giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi thay đổi trên cơ sở một hoặc một
số những yếu tố sau:
+ Số lần giao dịch thực hiện qua tài khoản ( số Séc được viết, số tiền gửi
vào, số lần chuyển tiền, số lệnh ngừng trả hay số lần thấu chi).
+ Số dư tài khoản trung bình trong một thời kỳ nhất định ( thường là một tháng).
+ Kỳ hạn của tiền gửi thao ngày, tuần hoặc tháng.
Khách hàng phải lựa chọn ngân hàng và xây dựng kế hoách tiền gửi sao
cho mức lệ phí là thấp nhất và ( hoặc) nhận được thu nhập cao nhất trên cơ sở
dự kiên về số séc viết , số tiền gửi vào và rút ra cũng như số dư trung bình của
tài khoản. Đương nhiên, khách hàng cũng phải xem xét tới các khía cạnh khác
như mức độ an toàn và sự sẵn có của các dịch vụ.
3.3.4. Định giá mục tiêu trọng điểm
Một số ngân hàng, nhất là những ngân hàng ở các thành phố lớn có

nhiều tài khoản tiền gửi với số dư lớn, ổn định, thường mạnh dạn sử dụng
phương pháp định giá mục tiêu trọng điểm. Các chương trình quảng cáo công
phu của họ thường hướng tới những người có địa vị trong xã hội và các gia
đình khá giả tới những dịch vụ của ngân hàng. Đối với những tài khoản khác,
đặc biệt là các tài khoản có số dư thấp, ít ổn định, việc đánh giá có thể nhằm
vào mức hòa vốn hoặc ngân hàng có thể hạn chế các tài khoản này bằng việc
đánh giá cao hơn. Chiến lược này thường được kếp hợp với chương trình nhà
ngân hàng cá nhân ( personal banker), theo đó mỗi khách hàng lớn được một
cán bộ ngân hàng chịu trách nhiệm đáp ứng tất cả các nhu cầu về dịch vụ
ngân hàng. Ngày nay, trên các thị trường tiền gửi, sức cạnh tranh gay gắt giữa
các ngân hàng cùng với việc ngày càng nhiều ngân hàng sử dụng phương
pháp định giá mục tiêu trọng điểm đã khiến cho khách hàng được thông tin tốt
Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp
22
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
hơn và tìm được cho mình nhiều khoản có lợi nhất.
3.2.5. Định giá tiền gửi trên cơ sở mối quan hệ tổng thể với khách hàng
Với ý tưởng nhằm tranh thủ những khách hàng tốt nhất, ngân hàng đã
tiến hành định giá tiền gửi theo số lượng dịch vụ mà khách hàng sử dụng.
Những khách hàng sử dụng từ hai dịch vụ trở lên có thể phải chịu lệ phí ở
mức thấp hoặc không phải trả lệ phí, còn những khách hàng chỉ có quan hệ
hạn chế với các ngân hàng sẽ phải trả lệ phí cao. Nhà quản lý cho rằng việc sử
dụng một số lượng lớn các dịch vụ sẽ làm tăng sự phụ thuộc của khách hàng
vào ngân hàng và điều này sẽ khiến cho khách hàng gặp nhiều khó khăn hơn
khi muốn tìm kiếm một ngân hàng khác. Bởi vậy, ít nhất là trên lý thuyết,
chính sách định giá trên cơ sở quan hệ sẽ tạo ra dự trung thành của khách
hàng và làm cho họ kém nhạy cảm hơn với lãi suất tiền gửi cũng như phí dịch
vụ của đối thủ cạnh tranh.
Trên đây là năm phương pháp định giá tiền gửi cơ bản. Tùy thuộc vào
quy mô, chính sách của từng ngân hàng mà các nhà quản lý áp dụng các

phương pháp định giá khác nhau. Phương pháp phổ biến nhất hiện nay là lập
bảng giá định giá có điều kiện, theo đó ohí dịch vụ phụ thuộc vào mức độ sử
dụng từng loại dịch vụ tiền gửi. Phương pháp này cho phép khách hàng dễ
dàng lựa chọn kế hoách tiền gửi để tối đa hóa chi phí, qua đó ngân hàng cũng
nhận được các thông tin về thói quen sử dụng tiền của khách hàng.
IV. Cơ cấu tiền gửi trong NHTM
IV.1. Các yếu tố quyết định cơ cấu tiền gửi trong NHTM
Các yếu tố quyết định cơ cấu tiền gửi trong NHTM có thể kể đến hai loại
yếu tố cơ bản như sau:
+ Nhu cầu của công chúng đối với các loại hình dịch vụ gửi tiền: đây là
yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định cấu trúc ( cơ cấu ) nguồn vốn tiền gửi
của một ngân hàng.
Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp
23
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
+ Chính sách huy động vốn của NHTM: bao gồm việc thu phí dịch vụ
tương quan lãi suất giữa các loại tiền gửi khác nhau, sự tích cực trong hoạt
động quảng cáo, thời gian và quy mô vốn đầu tư vào việc thu hút và duy trì
các khách hàng gửi tiền.
IV.2. Cơ cấu tiền gửi trong NHTM
Tiền gửi trong NHTM thường có ba cách phân loại như sau: Cách thứ
nhất, tiền gửi bao gồm tiền gửi không hưởng lãi và tiền gửi hưởng lãi. Cách
thứ hai bao gồm tiền gửi giao dịch và phi giao dịch. Cách thứ ba phổ biến hơn
cả bao gồm tiền gửi giao dịch, tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi kỳ hạn. Trong
những năm gần đây, loại hình tiền gửi mà ngân hàng sẵn sàng cung cấp nhất
là tiền gửi kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm ( hai loại tiền gửi này thường chiến tới
khoảng 80% trong tổng nguồn vốn tiền gửi tại mọi ngân hàng trong khi tiền
gửi giao dịch chỉ chiếm 20% còn lại).
Nhìn chung, nếu được tự quyết định cho bản thân mình về cơ cấu tiền
gửi tối ưu, các ngân hàng sẽ hướng về một tỷ trọng cao đối với tiền gửi giao

dịch, tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi kỳ hạn lãi suất thấp. Các tài khoản này
thuộc những nguồn vốn có chi phí thấp nhất của ngân hàng và thường chiếm
một tỷ lệ lớn trong lượng tiền gửi cơ sở ( core deposits). Các loại tiền gửi này
ổn định, ít nhạy cảm với những biến động của lãi suất trên thị trường và
thường được duy trì tại ngân hàng. Mặc dù phần lớn tiền gửi cơ sở ( như tiền
gửi tiết kiệm) có thể bị rút ra ngay lập tức nhưng trên thực tế thì các tài khoản
này thường được bổ sung và kéo dài trong nhiều năm.
Để huy động được nhiều lượng tiền cơ sở, các ngân hàng thường cạnh
tranh lãi suất, đưa ra những mức lãi suất hấp dẫn đối với khách hàng. Đồng
thời, sự phát triển của các loại hình tiền gửi mới mang lãi suất cao hơn và
nhạy cảm hơn với những thay đổi của lãi suất cao hơn đã buộc ngân hàng
phải nâng mức lãi suất cho các loại tiền gửi khác. Những ngân hàng không
Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp
24
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
thoe kịp mặt bằng lãi suất thị trường sẽ phải tăng cường dự trữ để đối phó với
sự tăng lên trong nhu cầu thanh toán và những biến động trong lượng tiền gửi
vào. Đối đầu với một áp lực lớn về chi trả lãi, ngân hàng buộc phải tìm mọi
cách nhằm cắt giảm các chi phí khác, nâng cao hiệu quả hoạt động.
Cơ cấu tiền gửi tại các NHTM thường bao gồm các khoản sau:
Tiền gửi tại các NHTM trong nước chủ yếu thuộc khu vựa tư nhân ( bao
gồm cá nhân , các công ty ) , chiếm hơn 80 % tổng lượng tiền gửi của hệ
thống ngân hàng. Lượng tiền gửi lớn thứ hai là tiền gửi của Chính phủ, các tổ
chức chính quyến và của NHTW. Các khoản tiền gửi này biến động thất
thường với biên độ lớn, tăng mạnh trong kỳ từ thuế hay khi trái phiếu được
phát hành, giảm nhanh khi Chính phủ phải trả lương hay các công trình công
cộng bắt đầu được xây dựng. Mặc dù không mang lại lợi nhuận cao nhưng
các ngân hàng thường chấp nhận tiền gửi của Chính phủ, cơ quan chính
quyền như hình thức dịch vụ cho cộng đồng nơi ngân hàng hoạt động.
Một khoản mục tiền gửi quy mô lớn khác là tiền gửi của Chính phủ,

doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài. Phần lớn lượng tiền này được huy động
thông qua các chi nhánh của ngân hàng tại nước ngoài. Tuy nhiên, loại tiền
này chiếm tỷ trọng nhỏ do lãi suất nội địa trong những năm gần đây giảm
đáng kể và các cuộc khủng hoảng nợ, khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh
tế toàn cầu cũng tác động rất lớn khiến cho các ngân hàng giảm quy mô kế
hoạch bành trướng ra nước ngoài.
Khoản mục tiền gửi quan trọng cuối cùng là Tiền gửi của các tổ chức tín
dụng, các ngân hàng khác, bao gồm tiền gửi của ngân hàng đại lý – đây là tiền
gửi mà các ngân hàng muốn nắm giữ của nhau nhằm thanh toán cho các dịch
vụ đại lý. Ví dụ các dịch vụ như thanh toán bù trừ, thu séc…. Khi nhận tiền
gửi từ các ngân hàng khác, ngân hàng sẽ ghi vào tài khoản “ tiền gửi của ngân
hàng khác” (deposits due to banks) thuộc bên nguồn vốn trên bảng cân đối kế
Lăng Thị Kiều Oanh Tài chính Doanh nghiệp tiếng Pháp
25

×