Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
LỜI MỞ ĐẦU
1. lý do chọn đề tài
Hiện nay, hoạt động thương mại đang diễn ra rất mạnh mẽ trên thế giới,
đó là một nhu cầu bất thiết của tất cả các nước trên thế giới. Thông qua hoạt
động xuất nhập khẩu các nước tích cực mở rộng quan hệ giao lưu hợp tác quốc
tế với nhau. Đều này sẽ tạo điều kiện để họ thúc đẩy sự phát triển kinh tế của
đất nước, tiếp thu các thành tựu khoa hoc kỹ thuật của các nước khác, góp phần
làm cho thế giói ngày càng phát triển hơn nữa. Với việc đẩy mạnh hoạt động
xuất nhập khẩu, thế giới đã tạo ra nhiều công cụ bổ trợ khác nhau.
Ở Việt Nam, trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế của nước ta đang ngày
càng phát triển. Đặc biệt, khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ Chức
Thương Mại Quốc Tế ( WTO ), thì càng tạo điều kiện thuận lợi để nền kinh tế
phát triển mạnh mẽ hơn nữa, nền sản xuất trong nước đã và đang vươn mình trỗi
dậy, hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng được đẩy mạnh, tạo điều kiện thuận
lợi để hoạt động trao đổi và mua bán hàng hóa phat triển thu về nhiều lợi nhuận
cho đất nước nói chung và các thương nhân nói riêng. Cùng với đó là nhu cầu
về việc phát triển các công cụ bổ trợ ngày càng bứt thiết. Trong đó phải kể điến
một công cụ đã tồn tại từ rất lâu trên thế giới đó là các sở giao dịch hàng
hóa.Trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế nước cùng nhu câu mua bán
hàng hóa, nước ta đã trở thành thị trường tiềm năng để phát triển hoạt động mua
bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa. Và thực tế Nhà nước đã tạo điều kiện
cho hoạt động này phát triển thông qua việc xây dựng hành lang pháp lý an
toang để điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch. Tuy nhiên,
thực tế áp dụng luật con nhiều bất cập đáng lo ngại đã cản trở sự phát triển của
nó, làm cho sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam phát triển chưa xứng với tiềm
năng. Đòi hỏi cần phải sớm có các biện pháp để diều chỉnh, nhằm tạo điều kiện
Nguyễn Hữu Tinh 1
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
tốt nhất cho hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa ngày càng
phát triển hơn nữa. Và đây cũng là lý do mà người viết chọn đề tài “Pháp luật
mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa” để nghiên cứu và tìm các hướng
giải quyết tốt nhất, hi vọng có thể là tài liệu tham khảo bổ ích.
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài, mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
hàng hóa là một hoạt động diễn ra từ rất lâu trên thế giới tuy nhiên với Việt
Nam nó là hoạt động tương đối mới mẻ. Vì vậy có nhiều vấn đề chưa được làm
rõ trong hình thức mua bán này. Do đó, đề tài sẽ đi sâu vào tìm hiểu các nội
dung cơ bản của hoạt động mua ban hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa theo
pháp luật hiện hành ở Việt Nam mà chưa đi sâu vào nghiên cứu từng vấn đề cụ
thể
3. Phương pháp nghiên cứu, đề tài được nghiên cứu dựa trên phương
pháp thu thập tài liệu có liên quan, tổng hợp thông tin, phân tích, so sánh thông
tin và đưa ra các đánh giá.
4. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan hệ xã hội phát sinh trong
hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa; các quy định của luật
doanh nghiệp về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa, cùng các văn
bản hướng dẫn như: Nghị định 158/2006/NĐ-CP, Thông tư 03/2009/TT-BCT,
Quyết định 0106/2011/QĐ-BCT, Quyết định 4361/2010/QĐ-BCT; thực trạng
hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Với việc phân tích các quy định của luật và tình hình thực tế của hoạt
động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa người viết đã đưa ra một số
giải pháp mang tính định hướng nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách nhận
ra được các bất cập của hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch và tiến
Nguyễn Hữu Tinh 2
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
tới hoàn thiện hệ thống pháp luật hơn nữa. Bên cạnh đó, người viết cũng hi
vọng đề tài sẽ là nguồn tư liệu bổ ích cho những ai quan tâm đến hoạt động mua
bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa.
6. Kết cấu của niên luận.
A. LỜI NÓI ĐẦU
B. NỘI DUNG.
CHƯƠNG1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA MUA BÁN HÀNG HÓA QUA SỞ
GIAO DỊCH.
CHƯƠNG2: THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN
HÀNG HÓA QUA SỞ GIAO DỊCH VÀ GIẢI PHÁP.
C. KẾT LUẬN.
Nguyễn Hữu Tinh 3
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA MUA BÁN HÀNG HÓA QUA SỞ GIAO DỊCH.
1. Khái quát chung về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch.
1.1. Khái niệm về sở giao dịch hàng hóa.
1.1.1 Lịch sử hình thành Sở giao dịch hàng hóa.
* Ở các nước trên thế giới.
Ngay từ thế kỷ XIX, nhiều quốc gia trên thế giới có nền kinh tế thị trường
đã thiết lập các Sở giao dịch hàng hóa.
Ở Hoa Kỳ, giữa thế kỷ XIX, tại các chợ đầu mối bến cảng đã có hàng
ngàn Sở giao dịch hàng hoá được thiết lập để thương nhân, nhà sản xuất các sản
phẩm trong lĩnh vực nông nghiệp ( ngô, gạo, bông, gia súc… ) gặp gỡ, mua bán,
giao kết hợp đồng. Tuy nghiên do sự thay đổi của nền kinh tế đã dẫn đến tình
trạng chỉ còn một số Sở giao dịch hàng hóa lớn còn tồn tại và phát triển. Ví dụ
như: Hoa Kỳ nổi tiếng với sở giao dịch hàng hóa New York được thiết lập vào
thế kỷ XIX chuyên về mua bán xăng dầu khí đốt, vàng bạc… Canada có sở giao
dịch hàng hóa Winnipeg được thiết lập tư cuối thế kỷ XIX chuyên về mua bán
các hàng nông sản ( lúa, mì, ngô,… ).Anh với sở giao dịch Luandon. Nhật với
sở giao dịch Tokyo chuyên về mua bán vàng bạc, bạch kim, cao su, bông vải,
nhôm,…
Nguyễn Hữu Tinh 4
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
Đến nay, trên thế giới Mĩ và Anh là hai nước dẫn đầu thế giới về sự phát
triển của Sở giao dịch hàng hóa. Trong khu vực Châu Á, Nhật Bản, Trung
Quốc, Singapo, Hàn Quốc, Malaysia,… đều đã có Sở giao dịch hàng hóa phát
triển.
* Ở Việt Nam.
Hiện nay, ở Việt Nam nhu cầu thiết lập các Sở giao dịch hàng hóa đã phát
triển. Tại nhiều vùng kinh tế trọng điểm của nước ta đã dần xuất hiện các hình
thức đầu tiên để hình thành Sở giao dịch hàng hóa, đó là việc các chợ đầu mối
mua bán nông sản ( lúa, gạo, cao su, cà phê, ) ở các tỉnh. Và để mở rộng và
phát triển nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay, tạo môi trường kinh doanh thuận
lợi, Quốc hội đã quy định những vấn đề có tính nguyên tắc về Sở giao dịch hàng
hóa cũng như việc mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa tại Luật thương
mại 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Trên cơ sở luật và các văn bản hướng dẫn thi hành thì Bộ Công Thương
cấp phép hoạt động cho Sở giao dịch hàng hóa VNX với vốn điều lệ 150 tỷ
đồng. Cà phê, cao su và thép là những mặt hàng giao dịch đầu tiên. Sở giao dịch
hàng hóa Việt Nam (VNX), trước đây là Sở giao dịch hàng hóa Triệu Phong
chính thức hoạt động vào ngày 11/1/2011. Đây được xem là Sở giao dịch hàng
hóa đầu tiên ở Việt Nam.
1.1.2 Sở giao dịch hàng hóa.
Ở Việt Nam, mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là một hình
thức mới mẻ, và lần đầu tiên được đưa vào Luật thương mại 2005. Đây là hình
thức mua bán hàng hóa có thể đáp ứng tốt việc bảo vệ nhà sản xuất nhằm giảm
thiểu rủi ro cho hàng hóa. Theo Thạc sĩ Hà Thị Thanh Bình thì “ Sở giao dịch
hàng hóa là nơi thỏa thuận va ký kết những hợp đồng để thực hiện việc mua bán
Nguyễn Hữu Tinh 5
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
hàng hóa không trực tiếp giao ngay mà là cam kết việc mua bán hàng hóa. Còn
việc giao hàng và nhận tiền sẽ được thực hiện trong tương lai”
Từ định nghĩa trên ta có thể thấy: Sở giao dịch hàng hóa không phải là tổ
chức mua bán hàng hóa mà là nơi để người mua bán gặp gỡ xác lập giao dịch
mua bán hàng hóa với nhau. Những giao dịch thông qua sở giao dịch hàng hóa
chủ yếu là các giao dịch kỳ hạn, tức là giao dịch mà thời điểm giao hàng sẽ
được ấn định trong tương lai chứ không phải tại thời điểm giao dịch. Do đó Sở
giao dịch hàng hóa là hình thức thị trường đặc biệt, thực hiện mua bán hàng hóa
quy mô lớn, theo mẫu và quy cách hàng hóa.
Theo điều 67 Luật thương mại 2005 quy dinh Sở giao dịch hàng hóa là tổ
chức có chức năng cung cấp điều kiện vật chất – kỹ thuật cần thiết để giao dịch
mua bán hàng hóa, điều hành các hoạt động giao dịch và niêm yết các mức giá
cụ thể để hình thành trên thị trường giao dịch tại thời điểm. Các vấn đề cụ thể
về điều kiện thành lập, quyền hạn, trách nhiệm của Sở giao dịch hàng hóa tương
lai được quy định trong văn bản hướng dẫn của Chính Phủ.
1.2. Khái niệm mua bán hàng hóa qua sở giao dịch.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở
giao dịch hàng hóa trong các tài liệu, luật giao dịch hàng hoá của các nước,
trong đó có Luật thương mại năm 2005, Nghị định của Chính phủ số
158/2006/NĐ-CP. Khoản 1 Điều 63 Luật thương mại năm 2005 quy định: “Mua
bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó các
bên thỏa thuận thực hiện việc mua bán một lượng nhất định của một loại hàng
hóa nhất định qua Sở giao dịch hàng hóa theo những tiêu chuẩn của Sở giao
dịch hàng hóa với giá được thỏa thuận tại thời điểm giao kết hợp đồng và thời
gian giao hàng được xác định tại một thời điểm trong tương lai”.
Nguyễn Hữu Tinh 6
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
Trong hoạt động thương mại, hàng hóa là đối tượng của giao dịch mua
bán có thể là hàng hóa hữu hình hoặc hàng hóa hình thành trong tương lai. Hoạt
động mua bán hàng hoá c ó thể không dẫn đến thực chất việc giao nhận hàng
hóa trong thực tế. Các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa tương lại có thể
giao kết và thực hiện với mục đích hạn chế rủi ro hoặc thu lợi nhuận. Có thể
thấy, khái niệm mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa của Luật thương
mại năm 2005 đã thể hiện đầy đủ bản chất của hoạt động mua bán hàng hóa qua
Sở giao dịch hang hóa.
1.3. Đặc điểm của mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa có những đặc điểm sau:
1.3.1. Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là hoạt động
thương mại
Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động
nhằm sinh lợi khác.Như vậy, mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, hay nói cách khác là hoạt động kinh doanh
nhằm tìm kiếm lợi nhuận của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ thương mại.
1.3.2 Về chủ thể
Tham gia vào hoạt động Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa
gồm những chủ thể chính sau:
Thứ nhất, khách hàng (hay những người có nhu cầu mua bán hàng hoá
qua Sở giao dịch hàng hoá) là tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của Sở
giao dịch hàng hoá, thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch
hàng hóa thông qua việc uỷ thác cho thành viên kinh doanh của Sở giao dịch
hàng hóa. Khách hàng là chủ thể hợp đồng mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch
Nguyễn Hữu Tinh 7
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
hàng hóa và không bắt buộc phải là thương nhân, chỉ là các tổ chức, cá nhân có
nhu cầu mua bán hàng hoá qua sở giao dịch. Tuy nhiên, khách hàng không trực
tiếp giao dịch tại Sở giao dịch mà phải uỷ thác cho thành viên kinh doanh của
Sở giao dịch để thực hiện hoạt động mua hoặc bán hàng hoá qua sở giao dịch.
Thứ hai, thành viên kinh doanh của Sở giao dịch hàng hóa. Thành viên
kinh doanh có quyền thực hiện các hoạt động mua bán hàng hoá cho chính mình
để tìm kiếm lợi nhuận hoặc nhận uỷ thác mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch
hàng hóa cho khách hàng để hưởng thù lao.
Thứ ba, thành viên môi giới của Sở giao dịch hàng hóa. Thành viên môi
giới thực hiện hoạt động môi giới mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa
để nhận thù lao.Thành viên môi giới không được nhận uỷ thác của khách hàng
như thành viên kinh doanh để mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa mà
chỉ được thực hiện hoạt động môi giới mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng
hoá.
Bên cạnh ba chủ thể chính này, trong mua bán hàng hóa thông qua Sở
giao dịch hang hóa còn có một số chủ thể khác, đó là các nhà tư vấn thực hiện
việc phân tích thị trường, lập báo cáo, cho ý kiến tư vấn hoặc đưa ra các đề xuất
về việc mua bán hợp đồng kỳ hạn cho một người nào đó và thu phí; các đại lý
giao dịch được cấp phép làm đại lý cho công ty môi giới hàng hóa giao sau
trong việc môi giới các lệnh mua bán từ khách hàng…
1.3.3. Hình thức mua bán hàng hóa thông qua Sở giao dịch hàng hóa.
Hình thức mua bán hàng hóa thông qua Sở giao dịch hàng hóa là hợp
đồng, đó là hợp đồng kì hạn và hợp đồng quyền chọn.
Hợp đồng kì hạn là thoả thuận, theo đó bên bán cam kết giao và bên mua
cam kết nhận hàng hoá tại một thời điểm trong tương lai theo hợp đồng.
Nguyễn Hữu Tinh 8
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
Để giảm thiểu rủi ro cho chính mình, trên cơ sở hợp đồng kì hạn đã giao
kết, hai bên có thể kí tiếp hợp đồng về quyền chọn bán hoặc quyền chọn mua
(hợp đồng quyền chọn). Hợp đồng về quyền chọn bán hoặc quyền chọn mua là
thoả thuận, theo đó bên mua quyền có quyền được mua hoặc được bán một hàng
hoá xác định với mức giá định trước (gọi là giá giao kết) và phải trả một khoản
tiền nhất định để mua quyền này (gọi là tiền mua quyền). Bên mua quyền có
quyền chọn thực hiện hoặc không thực hiện việc mua bán hàng hoá đó.
1.3.4. Về phương thức giao dịch.
Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là phương thức trung gian
( Sở giao dịch hàng hóa ).
Các hợp đồng mua bán qua Sở giao dịch hàng hóa đã được Sở giao dịch
tiêu chuẩn hóa về số lượng, thời gian giao hàng và địa điểm giao hàng, các bên
chỉ cần thỏa thuận về giá. Một trong các căn cứ để các bên xác định giá cho hợp
đồng mua bán hàng hóa là giá niêm yết tại Sở giao dịch hàng hóa.
Ngoài ra, khi mua bán hàng hóa thông qua Sở giao dịch hàng hóa, quan hệ
mua bán phải tuân thủ các điều kiện do từng Sở giao dịch quy định. Do đó, các
bên tham gia mua bán hàng hóa thông qua Sở giao dịch hàng hóa không nhất
thiết phải xem xét khả năng thực tế của bên kia, người mua không phải lo lắng
về hàng hóa có được đảm bảo chất lượng, số lượng và người bán cũng không
cần phải lo về khả năng thanh toán của bên mua. Bởi những điều này đã được
Sở giao dịch hàng hóa quy định chặt chẽ. Vì vây, khi mua bán hàng hóa qua Sở
giao dịch hàng hóa, quyền lợi của khách hàng sẽ được đảm bảo tốt hơn khi mua
bán hàng hóa ngòi Sở giao dịch hàng hóa.
Như vậy có thể nói rằng, Sở giao dịch là phương thức giao dịch trung
gian trong hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa. Sở giao
dịch hàng hóa thành lập hoặc ủy thác cho tổ chức khác thành lập trung tâm
Nguyễn Hữu Tinh 9
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
thanh toán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa ( trung tâm thanh toán ), trung
tâm giao nhận hòng hóa khi khách hàng thực hiện các hợp đồng mua bán hàng
hóa.
1.3.5. Đối tượng của quan hệ mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng
hóa.
Đối tượng của quan hệ mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là
hàng hoá. Hàng hoá được các bên thoả thuận giao kết phải là hàng hoá được
phép giao dịch tại sở giao dịch; tuân thủ các quy định về loại hàng, tiêu chuẩn
chất lượng, chủng loại và các điều kiện khác do Bộ công thương quy định hoặc
Sở giao dịch hàng hóa đặt ra. Theo thông lệ chung, hàng hoá được mua bán tại
Sở giao dịch thường là những hàng hoá được giao kết với số lượng lớn và có sự
biến động mạnh về giá cả, ví dụ: Nông sản ( gạo, hạt tiêu, cà phê, ca cao, ngũ
cốc ), vàng, kim loại màu, len thô… Hàng hoá được giao dịch tại Sở giao dịch
hàng hóa có thể chưa hiện hữu vào thời điểm giao kết hợp đồng ( ví dụ: Máy
móc chưa sản xuất; nhà chưa hoặc đang xây dựng; gạo, cà phê, ca cao, cao su,
bông vải…chưa đến vụ thu hoạch ).
1.4. Pháp luật hiện hành về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa ở
Việt Nam
Hiện nay, hành lang pháp lí cho việc xây dựng Sở giao dịch hàng hóa và
hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam đã tương
đối đầy đủ. Luật thương mại năm 2005 đã đặt nền móng đầu tiên về các quy
định quản lý nhà nước đối với Sở giao dịch hàng hóa. Tiếp đó, Chính phủ và
các cơ quan quản lý đã ban hành một số văn bản quy định có liên quan như
Nghị định số 158/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 28 tháng 12 năm 2006 quy
định chi tiết Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch
Nguyễn Hữu Tinh 10
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
hàng hóa; Thông tư số 03/2009/TT-BCT của Bộ Công Thương ngày 10 tháng 2
năm 2009 hướng dẫn hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp giấy phép thành lập và quy
định chế độ báo cáo của Sở giao dịch hàng hóa theo quy định tại Nghị định số
158/2006/NĐ-CP; Quyết định số 4361/2010/QĐ-BCT của Bộ trưởng Bộ Công
Thương ngày 18 tháng 8 năm 2010 ban hành danh mục các loại hàng hóa được
phép giao dịch qua Sở giao dịch hàng hóa; Quyết định 0106/2011/QĐ-BCT
ngày 10 tháng 01 năm 2011 về sửa đổi, bổ sung giấy phép thành lập Sở giao
dịch hàng hóa . Có thể khái quát ở một số nội dung cơ bản sau:
1.4.1. Về tổ chức và hoạt động của Sở giao dịch hàng hoá.
Sở giao dịch hàng hóa là một chủ thể tổ chức và điều hành hoạt động mua
bán hàng hóa. Ở các nước Sở giao dịch hàng hóa tồn tại rất đa dạng về hình
thức tổ chức và cơ chế vận hành. Tuy nhiên, bản chất chung của Sở giao dịch
hàng hóa vẫn là một tổ chức nghề nghiệp, có tư cách pháp nhân, hoạt động theo
nguyên tắc hạch toán kinh tế độc lập. Do đó, việc thành lập Sở giao dịch hàng
hóa phải tuân thủ quy định của pháp luật điều kiện và thủ tục chặt chẽ.
1.4.1.1. Địa vị pháp lý của Sở giao dịch hàng hóa.
Sở giao dịch hàng hóa do Bộ công thương cấp phép thành lập dưới hình thức
một công ty cổ phần hoặc công ty TNHH, có tư cách pháp nhân và hoạt động
theo quy định của Luật doanh nghiệp, Luật thương mại và Nghị định của Chính
phủ số 158/2006/NĐ-CP. Đây là điểm khác biệt cơ bản của hoạt động mua bán
hàng hóa thông qua Sở giao dịch hàng hóa với hoạt động mua bán hàng hóa
thông thường và hoạt động mua bán hàng hóa giao sau trên thị trường ngoài sở.
Trong hoạt động mua bán hàng hóa thông thường, các bên trực tiếp thỏa thuận
với nhau về giá cả, số lượng, phẩm cấp hàng hóa, thời hạn giao nhận mà không
cần phải thông qua một chủ thể trung gian nào. Tại thì trường hàng hóa giao sau
ngoài sở cũng vậy, các bên có thể chủ động thỏa thuận với nhau việc mua, bán
một lượng hàng hóa nhất định với các điều khoản về chất lượng, giá cả và thời
Nguyễn Hữu Tinh 11
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
điểm giao hàng trong tương lai nhất định mà không thông qua một tổ chức nào.
Nhưng đối với hoạt động mua bán hàng hóa thông qua Sở giao dịch hàng hóa,
thỏa thuận mua bán hàng hóa của các bên nhất thiết phải thực hiện thông qua Sở
giao dịch hàng hóa. Sở giao dịch hàng hoá đóng vai trò trung gian, kết nối quan
hệ mua bán hàng hóa của các bên mua bán hàng hóa. Để tham gia được vào
quan hệ mua bán này, người mua và người bán phải đáp ứng được những yêu
cầu nhất định do Sở giao dịch hàng hóa quy định.
1.4.1.2. Điều kiện để thành lập Sở giao dịch hàng hóa
Theo quy định tại Điều 8 Nghị định 158 Sở giao dịch hàng hóa được
thành lập nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
1. Có vốn pháp định 150 tỷ đồng trở lên;
2. Điều lệ hoạt động phù hợp với quy định của Nghị định này;
3. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải có bằng đại học, cử nhân trở lên
và có thời gian công tác trong lĩnh vực kinh tế - tài chính ít nhất là 05 năm; có
đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tượng bị cấm quản lý doanh
nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp;
4. Các điều kiện khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
Như vậy, Sở giao dịch hàng hóa chỉ được thành lập nếu đáp ứng các điều
kiện trên, trong đó Điều lệ hoạt động của Sở giao dịch phải phản ánh được theo
đúng nội dung quy định tại điều 14 Nghị định 158 bao gồm: Điều kiện và thủ
tục chấp thuận tư cách thành viên; quyền và nghĩa vụ thành viên; Các trường
hợp chấm dứt tư cách thành viên và trách nhiệm khi chấm dứt tư cách thành
viên; Loại hàng hoá giao dịch; tiêu chuẩn và đơn vị đo lường của loại hàng hoá
đó; Mẫu hợp đồng giao dịch và lệnh giao dịch; Thời hạn giao dịch hợp đồng và
quy trình thực hiện giao dịch; Hạn mức giao dịch, ký quỹ giao dịch và phí giao
Nguyễn Hữu Tinh 12
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
dịch; Các phương thức, thủ tục thực hiện hợp đồng; Nội dung công bố thông tin
của Sở Giao dịch hàng hóa và các báo cáo hoạt động, báo cáo tài chính của các
thành viên; Các biện pháp quản lý rủi ro; Giải quyết tranh chấp; Sửa đổi, bổ
sung Điều lệ hoạt động và các nội dung có liên quan khác .
1.4.1.3. Quyền và trách nhiệm của Sở giao dịch hàng hóa
Nghị định 158 đã quy định khá rõ và chi tiết về các quyền và nghĩa vụ
của Sở giao dịch hàng hóa. Trong đó, bao gồm các nghĩa vụ cơ bản được quy
định tại điều 16 như: công bố các giấy tờ chứng minh tư cách giấy phép thành
lập, điều lệ hoạt động, mẫu hợp đồng, mẫu lệnh giao dịch… của Sở giao dịch;
thực hiện chế độ báo cáo…và là chủ thể chịu trách nhiệm đến cùng về các giao
dịch. Đều này, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư thực hiện giao dịch
một cách dễ dàng và họ cũng không cần phải quá lo sợ rằng sở giao dịch sẽ “bỏ
chạy” giữa chừng nếu có bất lợi. Mà luật đã quy định khá rõ sở giao dịch phai
có trách nhiệm đến cùng trong các giao dịch. Nghĩa là phải đảm bảo giao dịch
được thực hiện một cách thuận lợi và phải chịu mọi trách nhiệm khi giao dịch
không thành công mà có lỗi của so giao dịch. Do đó, nhà đầu tư có thể yên tâm
khi tham gia các giao dịch tại sở giao dịch. Ngoài ra, với tính chất là một trung
gian trong các giao dịch nên có thể sở giao dịch sẽ liên kết với một bên để làm
phương hại đến lợi ích của bên còn lại, không đảm bảo tính công bằng và cạnh
tranh. Lường trước được điều này luật cũng đã có quy định cụ thể trong nghĩa
vụ của Sở giao dịch hàng hóa dó là nghĩa vụ tổ chức giao dịch một cách vô tư,
công bằng và hiệu quả
Bên cạnh đó, cũng như bất kì một tổ chức kinh doanh nào, luật cũng quy
định khá rõ các quyền cơ bản của Sở giao dịch hàng hóa khi tham gia hoat đông
tại điều 15 Nghi định 158/2006/NĐ-CP như: Sở giao dịch hàng hóa có quyền
lựa chọn hàng hóa cơ sở đưa vào danh mục giao dịch tại sở; tổ chức, điều hành
và quản lý hoạt động giao dịch qua sở; chấp thuân, hủy bỏ tư cách thành viên
Nguyễn Hữu Tinh 13
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
của công ty có “chân” tại sở giao dịch; yêu cầu các thành viên ký quỹ để thực
hiện giao dịch; thu các loại phí theo quy định; ban hành quy chế niêm yết, công
bố thông tin; kiểm tra, giám sát hoạt động giao dịch; yêu cầu thành viên áp
dụng biện pháp quản lý rủi ro; làm trung gian giải quyết tranh chấp theo yêu
cầu….Để đảm bảo, tạo điều kiện thuận lợi cho sở giao dich có thể hoạt động có
hiệu quả, tạo một hành lang pháp lý an toan cho Sở giao dịch hàng hóa hình
thành và phát triển bền vững.
1.4.1.4. Thành viên của Sở giao dịch hàng hóa.
Điều 17 Nghị định 158 đã quy định khá rõ các quyền và nghĩa vụ cũng
như điêu kiện để trở thành và chấm dứt tư cách thành viên của Sở giao dịch
hàng hóa. Theo đó:
Thứ nhất, Thương nhân môi giới: Theo Điều 19 Nghị định 158 Thành
viên môi giới phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây: “Là doanh nghiệp
được thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp; vốn pháp định là 5 tỉ
đồng trở lên; giám đốc hoặc tổng giám đốc phải có bằng đại học, cử nhân trở
lên, có đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tượng bị cấm quản lí
doanh nghiệp theo quy định của Luật doanh nghiệp; các điều kiện khác theo
quy định của Điều lệ hoạt động của Sở giao dịch hàng hoá”. Thương nhân môi
giới thực hiện các hoạt động môi giới mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng
hóa. Quyền và nghĩa vụ của thành viên môi giới thực hiện theo Luật Thương
mại và Điều lệ hoạt động của Sở Giao dịch hàng hóa.
Thứ hai, Thương nhân kinh doanh thực hiện các hoạt động mua bán hàng
hoá qua Sở giao dịch hàng hóa. Điều kiện trở thành thành viên kinh doanh của
Sở giao dịch hàng hóa bao gồm: “Là doanh nghiệp được thành lập theo quy
định của Luật doanh nghiệp; vốn pháp định 75 tỉ đồng trở lên; giám đốc hoặc
tổng giám đốc phải có bằng đại học, cử nhân trở lên, có đủ năng lực hành vi dân
sự và không thuộc đối tượng bị cấm quản lí doanh nghiệp theo quy định của
Nguyễn Hữu Tinh 14
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
Luật doanh nghiệp; các điều kiện khác theo quy định của Điều lệ hoạt động của
Sở giao dịch hàng hoá” (Điều 21 Nghị định 158).
Họ có quyền thực hiện các hoạt động tự doanh hoặc nhận uỷ thác mua bán
hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hóa cho khách hàng; yêu cầu khách hàng kí quỹ
để thực hiện giao dịch; Nộp phí thành viên, phí giao dịch và các loại phí khác
theo quy định của Điều lệ hoạt động của Sở Giao dịch hàng hóa; Thiết lập hệ
thống kiểm soát nội bộ, quản trị rủi ro và giám sát, ngăn ngừa những xung đột
lợi ích trong nội bộ và trong giao dịch; Trong trường hợp nhận uỷ thác, phải ký
kết hợp đồng uỷ thác bằng văn bản với khách hàng và chỉ được thực hiện giao
dịch cho khách hàng khi nhận được lệnh uỷ thác giao dịch từ khách hàng; Cung
cấp đầy đủ, trung thực và kịp thời thông tin cho khách hàng; Lưu giữ đầy đủ các
chứng từ và tài khoản phản ánh chi tiết, chính xác các giao dịch cho khách hàng
và cho chính mình.; Ưu tiên thực hiện lệnh uỷ thác giao dịch của khách hàng
trước lệnh giao dịch của chính mình; Giao dịch trung thực và công bằng, vì lợi
ích của khách hàng; Đảm bảo hạch toán riêng hoạt động mua bán hàng hóa qua
Sở Giao dịch hàng hóa của từng khách hàng và của chính mình; Thực hiện chỉ
định của Sở Giao dịch hàng hóa theo quy định; Các nghĩa vụ khác theo quy
định của Nghị định này và Điều lệ hoạt động của Sở Giao dịch hàng hóa
Ngòai ra, để đảm bảo giám sát có hiệu quả các hoạt động của thương
nhân, đảm bảo cho hoạt động mua bán hàng hóa thuận lợi thì theo quy định tại
điều 24 Nghị định 158 Thương nhân bị chấm dứt tư cách thành viên nếu vi
phạm các điều kiên sau đây:
1. Không còn đáp ứng đủ các điều kiện trở thành thành viên.
2. Giải thể, phá sản hoặc chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp
luật.
Nguyễn Hữu Tinh 15
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
3. Tự đề nghị chấm dứt tư cách thành viên và được Sở Giao dịch hàng
hóa chấp thuận theo quy định của Điều lệ hoạt động của Sở Giao dịch hàng
hóa.
4. Có hành vi vi phạm là điều kiện chấm dứt tư cách thành viên theo quy
định của Điều lệ hoạt động của Sở Giao dịch hàng hóa hoặc quy định của pháp
luật.
1.4.2. Hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hóa
1.4.2.1. Hợp đồng mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hóa.
Hợp đồng được sử dụng làm công cụ để giao dịch theo quy định của Luật
thương mại là “hợp đồng kì hạn” và “hợp đồng quyền chọn” và là loại hợp đồng
song vụ, theo đó các bên cam kết thực hiện nghĩa vụ trong tương lai.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 64 Luật thương mại 2005: “Hợp đồng kì
hạn là thoả thuận, theo đó bên bán cam kết giao và bên mua cam kết nhận hàng
hoá tại một thời điểm trong tương lai theo hợp đồng”. Như vậy, theo cách định
nghĩa truyền thống, hợp đồng kì hạn giống như những hợp đồng mua bán thông
thường, đó là sự thoả thuận, thống nhất ý chí giữa các chủ thể giao kết để
chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho người mua và đổi lấy khoản tiền là giá trị
hàng hoá. Tuy nhiên, khác với mua bán thông thường, việc kí kết hợp đồng kì
hạn không phải là kí kết trực tiếp giữa người bán và người mua mà được thực
hiện thông qua Sở giao dịch hàng hóa với tư cách là cơ quan trung gian. Khi
một người muốn mua hàng hoá qua sở giao dịch, người đó sẽ phải tuân thủ các
quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch
hàng hóa cũng như quy tắc, điều lệ hoạt động của Sở giao dịch hàng hóa đó.
Hợp đồng kì hạn chứa đựng yếu tố rủi ro cao hơn so với hợp đồng mua bán
thông thường nhưng bên mua và bên bán nhiều khi lại tìm kiếm lợi nhuận trên
cơ sở sự biến động đó của thị trường.
Nguyễn Hữu Tinh 16
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
Trên cơ sở hợp đồng kì hạn đã giao kết, hai bên có thể kí tiếp hợp đồng
quyền chọn.Hợp đồng quyền chọn bao gồm hợp đồng về quyền chọn bán hoặc
quyền chọn mua. Hợp đồng về quyền chọn bán hoặc quyền chọn mua là thoả
thuận, theo đó bên mua quyền có quyền được mua hoặc được bán một hàng hoá
xác định với mức giá định trước (gọi là giá giao kết) và phải trả một khoản tiền
nhất định để mua quyền này (gọi là tiền mua quyền).Bên mua quyền có quyền
chọn thực hiện hoặc không thực hiện việc mua bán hàng hoá đó (khoản 3 Điều
64 LTM). Hợp đồng quyền chọn thực chất là sự tự bảo hiểm cho chính hợp
đồng kì hạn mà hai bên đã kí kết; theo đó:
Cho phép dồn nghĩa vụ về một bên (bên bán quyền). Khi giá cả hàng hoá
trên thị trường tăng hoặc giảm so với giá thoả thuận trong hợp đồng, bên mua
quyền có quyền thực hiện hoặc không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng kì hạn.
Bên bán quyền trong hợp đồng quyền chọn phải sẵn sàng đón nhận hàng hoá
nếu bên mua quyền thực hiện quyền giao hàng, mặc dù có thể hợp đồng đó
không còn có lợi cho mình. Bù lại, bên bán quyền chắc chắn đã được hưởng một
khoản tiền (tiền bán quyền) chứ không phải là lợi nhuận mà hợp đồng mang lại.
Điều này đòi hỏi bên bán quyền trong hợp đồng quyền chọn phải là những chủ
thể có tiềm lực kinh tế mạnh để sẵn sàng chấp nhận rủi ro đồng thời vẫn thu
được lợi nhuận. Đây là một lợi thế rất lớn của hợp đông quyền chọn và cũng
phù hợp với mục đích tham gia Sở giao dịch của các nhà đầu tư đó là lợi nhuận,
do dó mà loại hợp đông này rất được các nhà đầu tư ưa chuộng.
1.4.2.2. Loại hàng hoá được phép đưa vào giao dịch
Theo quy định của Nghị định số 158/2006/NĐ-CP, danh mục hàng hoá
giao dịch tại SGDHH phải được công bố và nằm trong danh mục được phép
giao dịch của Sở giao dịch hàng hóa theo quyết định của Bộ trưởng Bộ thương
mại trong từng thời kì. Sở giao dịch hàng hóa chỉ được phép giao dịch các loại
hàng hoá thuộc danh mục đã công bố với những điều kiện rất nghiêm ngặt về
Nguyễn Hữu Tinh 17
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
tiêu chuẩn, khối lượng, chất lượng Danh mục hàng hóa được phép giao dịch
qua Sở giao dịch hàng hóa đã được Bộ Công Thương xây dựng tại Quyết định
4361/QĐ-BCT ngày 18/8/2010. Theo đó, có 8 loại hàng được phép giao dịch là:
cà phê nhân, chưa rang, chưa khử chất cafein; Mủ cao su tự nhiên, đã hoặc
chưa tiền lưu hóa; Cao su tự nhiên ở dạng tấm cao su xông khói; Cao su tự
nhiên đã được định chuẩn kỹ thuật; Các sản phẩm thép không hợp kim được
cán phẳng, có chiều rộng từ 600 mm trở lên, được cán nóng, chưa phủ, mạ
hoặc tráng; Các sản phẩm thép không hợp kim được cán phẳng, có chiều rộng
từ 600mm trở lên, cán nguội, chưa dát phủ, mạ hoặc tráng; Các sản phẩm thép
không hợp kim được cán phẳng, có chiều rộng từ 600mm trở lên đã phủ, mạ
hoặc tráng; Các sản phẩm thép không hợp kim ở dạng thanh và que khác, mới
chỉ qua rèn, cán nóng, kéo nóng hoặc ép đùn nóng, kể cả công đoạn xoắn sau
khi cán.
Thông qua việc liệt kê các sản phẩm được phép mua bán qua Sở giao dịch
hàng hóa, về cở bản là bao gồm cà phê, các sản phẩm mủ cao su và thép. Đều
này, có thể khẳng định rằng Nhà nước ta đã rất quan tâm đến sự phát triển của
hoạt động mua bán hang hóa qua sở giao dịch này. Bởi các sản phẩm được đưa
vào ranh mục đêu là những sản phẩm thế manh của Việt Nam trên trường quốc
tế ( cà phê, mủ cao su ) hoặc đang có nhu cầu trong thị trường trong nước ( thép
). Nó thể hiện tầm nhìn sâu rộng của các nhà hoạch định chính sách trong nước,
tạo điều kiện thuận lợi để Sở giao dịch hàng hóa phát triển một cách bền vững.
Tuy nhiên, với lợi thế là nước xuất khẩu hàng đầu về gạo, điều…, thiết nghĩ
cũng nên đưa các sẩn phẩm này vào danh sách này.
1.4.2.3. Phương thức giao dịch
Cũng như trên thị trường chứng khoán tập trung, Sở giao dịch hàng hóa
thực hiện phương thức giao dịch thông qua việc khớp lệnh tập trung trên cơ sở
lệnh mua, lệnh bán với nguyên tắc: Là mức giá thực hiện đạt được khối lượng
Nguyễn Hữu Tinh 18
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
giao dịch lớn nhất; nếu có nhiều mức giá đạt được khối lượng giao dịch lớn
nhất thì lấy mức giá trùng hoặc gần với giá thực hiện của lần khớp lệnh gần
nhất.Và nếu có nhiều mức giá thoả mãn điều kiện trên thì lấy mức giá được trả
cao nhất.Đồng thời, việc khớp lệnh dựa trên cơ sở lệnh có mức giao cao hơn
được ưu tiên thực hiện. Đều này cho thầy tuy các mặt khác là khác nhau nhưng
về phương thức giao dịch thì Sở giao dịch hàng hóa và thị trường chứng khoán
là giống nhau. Với việc thực hiện phương thức khớp lệnh đã và sẽ tạo điều kiện
thuận lợi để các nhà đầu tư rễ ràng nắm bắt được giá của các mặt hàng trong sàn
và nhanh chóng có thể đưa ra các quyết định hợp lý nhằm đảm bảo lợi nhuận
hoặc tránh bị thua lỗ.
Để được tham gia giao dịch, đều 39 Nghị định của Chính phủ số
158/2006/NĐ-CP cho phép Sở giao dịch hàng hóa căn cứ vào điều kiện của
mình mà quy định mức kí quỹ giao dịch nhưng không được thấp hơn 5% trị giá
của từng lệnh giao dịch và phải đảm bảo số dư tài khoản kí quỹ mở tại trung
tâm thanh toán. Ngoài ra, Nghị định này cũng đặt ra các trường hợp ngoại lệ.
Đều này sẽ đảm bảo cho khả năng thanh toán của các nhà đầu tư tránh hiện
tượng lừa dảo hoặc đổ vỡ hợp đồng do mất khả năng thanh toán. Ngoài ra, để
đảm bảo nguồn sản phẩm trên thực tế có thể đáp ứng thực hiện hợp đồng, cũng
như tránh hiện tượng lừa dảo để kiếm lời thì Đều 34 Nghị định của Chính phủ
số 158/2006/NĐ-CP đã giới hạn tổng mức giao dịch của toàn bộ các hợp đồng
trong thời gian giao dịch không được vượt quá 50% tổng khối lượng hàng hoá
đó được sản xuất tại VN, tính theo năm trước đó. Đồng thời, mỗi thành viên chỉ
được giao dịch không vượt quá 10% tổng hạn mức giao dịch kể trên.
khi dáp ứng các điều kiện này thì nhà đầu tư có thể tham gia giao dịch và
Thời gian giao dịch do Sở giao dịch hàng hóa công bố theo ngày, theo phiên
giao dịch, thời gian khớp lệnh, mở cửa, đóng cửa và công bố các thông tin
liên quan đến việc thay đổi thời gian kể trên. Và để đảm bảo tính pháp lý của
Nguyễn Hữu Tinh 19
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
việc xác lập hợp đồng thi luật còn quy định: Thời hạn giao dịch hợp đồng được
tính từ phiên giao dịch đầu tiên của ngày đầu tiên giao dịch hợp đồng đó cho
đến phiên giao dịch cuối cùng của ngày cuối cùng giao dịch hợp đồng đó. Khi
hết hạn giao dịch, các bên nắm giữ hợp đồng có nghĩa vụ phải thực hiện các
quyền và nghĩa vụ ghi trên hợp đồng.
1.4.2.4. Phương thức thực hiện hợp đồng
Để có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc thanh toán trong khi tham gia
Sở giao dịch thì các bên trong quan hệ hợp đồng có thể lựa chọn, thực hiện theo
thủ tục thanh toán bù trừ qua trung tâm thanh toán hoặc giao nhận hàng.
Theo khoản 1,2 đều 26 và khoản 1, 2 đều 29 Nghị định 158 trung tâm
thanh toán là tổ chức thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ thanh toán trong
hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở Giao dịch hàng hóa.Trung tâm giao nhận
hàng hoá là tổ chức thực hiện chức năng lưu giữ, bảo quản và giao nhận hàng
hoá cho các hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở Giao dịch hàng hóa. Đều này
cho thấy tính chuyên môn hóa và tính chặt chẽ cao của sở giao dịch. Với hai
trung tâm này nhà đầu tư có thể dễ ràng giao nhận hàng hóa cũng như thanh
toán chi phí giao dịch và chi phí hợp đồng thuận tiện và nhanh chóng. Ngoài sự
thuận tiện, nhanh chóng, nó cũng sẽ là một chiếc khiên an toàn cho các nhà đầu
tư nếu có sự lo lắng vế hàng hóa tránh sự gian dối.
1.4.2.5. Chế độ ủy thác mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
Với tính chất là sở giao dịch hàng hóa, do đó mọi hoạt động mua bán phải
qua Sở giao dịch hàng hóa, đều này đôi khi sẽ làm cho các nhà đầu tư cảm thấy
bất tiên. Nhất là với những người không có khả năng đến trực tiếp sàn để giao
dịch thì lại càng khó khăn khi muốn tham gia giao dịch hàng hóa qua Sở giao
dịch. Bên cạnh đó, mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa còn mang tính
chất quốc tế, nên rất khó để nhà đầu tư có thể đến trực tiếp sở để tham giao giao
Nguyễn Hữu Tinh 20
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
dịch. Và để giải quyết tình trạng này tạo điều kiện cho nhà sản xuất cung như
đầu tư tham gia mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch thì họ có thể chọn chế độ
ủy thác mua bán hàng hóa để nhân viên tại sở giao dịch có thể thực hiện thay
mình. Và để cụ thể hóa cho phương pháp này thì Điều 45 Nghị định của Chính
phủ số 158/2006/NĐ-CP đã có quy định chi tiết việc thực hiện chế độ uỷ thác
mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hóa của tổ chức, cá nhân khác cho
thành viên kinh doanh qua Sở giao dịch hàng hóa theo hợp đồng uỷ thác bằng
văn bản. Để có thể yêu cầu thành viên kinh doanh qua Sở giao dịch hàng hóa
thực hiện các yêu cầu mua, bán hợp đồng của mình, khách hàng phải có nghĩa
vụ kí quỹ theo quy định, mức tiền kí quỹ do các bên thoả thuận nhưng không
được thấp hơn 5% trị giá lệnh uỷ thác giao dịch. Kết quả giao dịch được thành
viên kinh doanh qua Sở giao dịch hàng hóa thông báo theo quy định của pháp
luật.
Ngoài các quy định trên, Luật thương mại và Nghị định của Chính phủ số
158/2006/NĐ-CP đã cho thấy một bước tiến vượt bậc so với trước đây khi đã
ghi nhận quyền được tham gia giao dịch với các Sở giao dịch hàng hóa ở nước
ngoài của thương nhân Việt Nam. Điều này, đã tạo một hành lang an toàn cho
các nhà đầu tư khi muốn tham gia giao dịch ở nước ngoài, nó cũng thể hiện sự
hội nhập của thị trường mua bán hàng hóa qua sở giao dịch của Việt Nam so với
thế giới.
1.4.2.6. Quản lí nhà nước và cơ chế giải quyết tranh chấp, vi phạm,
khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở
giao dịch hàng hóa.
Thứ nhất, Pháp luật đã quy định vị trí, vai trò chủ đạo trong quản lí nhà
nước liên quan đến hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hóa
thuộc về Bộ thương mại (nay là Bộ công thương), ngoài ra hoạt động này còn
chịu sự điều tiết quản lí từ phía Ngân hàng nhà nước (đối với chế độ, hoạt động
Nguyễn Hữu Tinh 21
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
thanh toán); từ phía Bộ tài chính (đối với chế độ thuế, phí, lệ phí giao dịch); từ
phía Bộ kế hoạch đầu tư (trong việc phối kết hợp để thẩm định tính khả thi
của việc thành lập Sở giao dịch hàng hóa).
Thứ hai, , theo điều 50, điều 51 Nghị định 158 việc xử lí tranh chấp, giải
quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện theo các quy định của pháp luật hiện
hành, cụ thể là tuân theo quy định của Luật thương mại, Luật khiếu nại, tố
cáo, pháp luật về tố tụng dân sự
Như vậy, với việc xác định cụ thể các cơ quan quản lý cũng như các biện
pháp giả quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo đã tạo điều kiện thuận lợi cho các
sở giao dịch hoạt động. Việc quản lý được tập chung về một bộ ( Bộ công
thương ) sẽ giúp cho việc quản lý hoạt động này thống nhất hơn trên cơ sở đó
có thể kịp thời hoạch định chính sách phương hướng phát triển phù hợp. Tuy
nhiên hoạt đông mua bán hàng hóa qua sở giao dịch còn có sự tham gia quản lý
của các cơ quan khac như Bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước,… sẽ khó tránh
khỏi sự chồng chéo. Ngoài ra, việc cơ chế giải quyết tranh chấp còn chung
chung, thiết nghĩ không thể sử đụng các cơ chế hiện có mà phải có một cơ chế
riêng để điều chỉnh.
1.4.2.7. Một số hành vi bị cấm trong mua bán hàng hóa qua sở giao
dịch
Để đảm bào hiệu quả của hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch
hàng hóa điều 71 Luật thương mại 2005 quy định một số hành vi bị cấm trong
mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch như sau:
“1. Nhân viên của Sở giao dịch hàng hóa không được phép môi giới, mua
bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá.
2. Các bên liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch
hàng hóa không được thực hiện các hành vi sau đây:
Nguyễn Hữu Tinh 22
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
a) Gian lận, lừa dối về khối lượng hàng hóa trong các hợp đồng kỳ hạn
hoặc hợp đồng quyền chọn được giao dịch hoặc có thể được giao dịch và gian
lận, lừa dối về giá thực tế của loại hàng hoá trong các hợp đồng kỳ hạn hoặc
hợp đồng quyền chọn;
b) Đưa tin sai lệch về các giao dịch, thị trường hoặc giá hàng hoá
mua bán qua Sở giao dịch hàng hóa;
c) Dùng các biện pháp bất hợp pháp để gây rối loạn thị trường
hàng hóa tại Sở giao dịch hàng hoá;
d) Các hành vi bị cấm khác theo quy định của pháp luật”
Đối với thương nhân hoạt động môi giới hàng hóa qua Sở giao dịch hàng
hóa, ngoài việc không thực hiện các hành vi nêu trên còn bị cấm thực hiện các
hành vi sau:
“1. Lôi kéo khách hàng ký kết hợp đồng bằng cách hứa bồi thường toàn
bộ hoặc một phần thiệt hại phát sinh hoặc bảo đảm lợi nhuận cho khách hàng.
2. Chào hàng hoặc môi giới mà không có hợp đồng với khách hàng.
3. Sử dụng giá giả tạo hoặc các biện pháp gian lận khác khi môi giới cho
khách hàng.
4. Từ chối hoặc tiến hành chậm trễ một cách bất hợp lý việc môi giới hợp
đồng theo các nội dung đã thoả thuận với khách hàng.
5. Các hành vi bị cấm khác quy định tại khoản 2 Điều 71 của Luật này”.
Bên cạnh các biện pháp quản lý của Nhà nước trong hoạt động mua bán
hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa, thì việc luật đã xác định các hành vi bị
cấm khi tham gia giao dịch là một công cụ vô cùng hữu ích. Nó không chỉ giúp
cho Nhà nước quản lý tốt hoạt động này, mà còn tạo điều kiện thuận lợi để hoạt
động này phát triển hơn nữa. Với việc quy định rõ các hành vi bị cấm trong khi
Nguyễn Hữu Tinh 23
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
giao dịch qua sở giao dịch hàng hóa thì có thể khẳng định rằng cơ quan quản lý
Nhà nước đang hướng tới việc hoàn thiện hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt
động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN HÀNG HÓA
QUA SỞ GIAO DỊCH VÀ GIẢI PHÁP
2.1. Giao dịch hàng hóa của Việt Nam
Giao dịch hàng hóa không phải là khái niệm mới tại Việt Nam. Giao dịch
bằng hợp đồng tương lai áp dụng với mặt hàng cà phê đã được Techcombank và
Công ty Đầu tư xuất nhập khẩu Đắk Lắk (Inexim Đắk Lắk) triển khai từ vài
năm nay. Trước đây, tham gia trên các sàn giao dịch quốc tế, doanh nghiệp Việt
Nam chỉ là các nhà đầu tư nhỏ về tiềm lực tài chính. Do khả năng phân tích, tập
hợp thông tin về thị trường thế giới có hạn, vì thế không ít doanh nghiệp đầu tư
kiểu hợp đồng tương lai đã thua lỗ nặng. Do đó, yêu cầu đặt ra là phải tạo dựng
một sân chơi tại Việt Nam, do doanh nghiệp và cơ quan quản lý Việt Nam đứng
ra tổ chức, nhằm đem lại lợi ích lớn hơn, đồng thời tránh được tình trạng "chảy
máu ngoại tệ" sang các sàn quốc tế.
Để giải quyết yêu cầu này, Ngày 20/10, tại Dinh Độc Lập, TP.HCM đã
diễn ra Lễ Ra mắt Sở Giao dịch Hàng hóa Triệu Phong (TPE). Sở Giao dịch
hàng hóa đầu tiên được cấp phép hoạt động tại Việt Nam theo quyết định số
4596/GP-BCT do Bộ Công Thương ký ban hành ngày 01/9/2010. Cổ đông sáng
lập của TPE bao gồm 2 pháp nhân là Công ty Cổ phần Chứng khoán SME
Nguyễn Hữu Tinh 24
Pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở hàng hóa
(SMES); Công ty Cổ phần Vàng Quốc Tế Triệu Phong (TPG) và các thể nhân.
TPE có vốn điều lệ 150 tỷ đồng, được phép giao dịch tất cả cá loại hàng hóa do
Bộ Công Thương quy định tại Quyết định số 4361/QĐ-BCT ký ngày 18/8/2010
của Bộ Công Thương bao gồm Cà phê, Cao su và Thép.
Sau đó, Ngày 11-1, Sở Giao dịch hàng hóa VN (VNX) đầu tiên đã chính
thức đi vào hoạt động tại 18-20 Phước Hưng, quận 5 – TPHCM và sàn giao dịch
đặt tại số 52 Nguyễn Công Trứ, quận 1- TPHCM
VNX ( tiền thân là Sở giao dịch hàng hóa Triệu Phong ) có vốn điều lệ
150 tỉ đồng, giao dịch 3 mặt hàng chủ yếu, gồm: cà phê, cao su và thép. Mô
hình hoạt động gồm 3 phần chính là sàn giao dịch, trung tâm thanh toán bù trừ,
trung tâm kiểm định và giao dịch hàng hóa.
VNX sẽ là nơi tập trung tất cả các đầu mối buôn bán với khối lượng lớn 3
mặt hàng trên thông qua một bộ phận môi giới. Giá cả giao dịch dựa theo
nguyên tắc đấu giá công khai, hàng hóa giao dịch đều được kiểm định chặt
chẽ.Sở sẽ là nơi cung cấp địa điểm, phương tiện các dịch vụ cần thiết cho việc
thực hiện giao dịch. Hàng hóa được mua bán tại các sàn giao dịch phải qua
giám định đạt những tiêu chuẩn chung, gọi là chuẩn chất. Giá cả giao dịch theo
nguyên tắc đấu giá công khai, đấu giá mua và cả đấu giá bán.
VNX còn là khai thác, tổng hợp, phân tích và cung cấp thông tin về tình
hình thị trường hàng hóa trong và ngoài nước, các thông tin có liên quan cho
các thành viên và các chủ thể khác tham gia thị trường; thiết lập các giao dịch
liên kết với các SGDkhác trên thị trường trong nước và thế giới. Sở sẽ trực tiếp
niêm yết giá chuẩn cho các mặt hàng cà phê, cao su, thép trong nước dựa trên
cơ chế khớp lệnh liên tục.
Ngoài ra, VNX cũng là nơi niêm yết giá chuẩn cho các mặt hàng cà phê,
cao su, thép trong nước dựa trên cơ chế khớp lệnh liên tục. Sở còn khai thác,
Nguyễn Hữu Tinh 25