Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

LUẬN VĂN: Vai trò của Nhà Nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (700.67 KB, 38 trang )







LUẬN VĂN:

Vai trò của Nhà Nước trong sự nghiệp
công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước
ta hiện nay




LờI GIớI THIệu



Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển, đạt được trình độ một nước phát triển
đều phải trải qua nấc thang có tính tất yếu lịch sử. Đó là công nghiệp hoá. Trên thế giới
đã có nhiều nước tiến hành thành công công nghiệp hoá và hiện nay cũng còn nhiều
nước đang tiến hành công nghiệp hoá. Trong các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch
sử loài người, công nghiệp hoá ở những nước khác nhau có sự khác nhau về mô hình,
về thời gian thực hiện và do đó có sự khác nhau về ảnh hưởng của nó đến phát triển
kinh tế xã hội. Nước ta bắt đầu công nghiệp hoá từ năm 1960 theo đường lối do đại hội
đại biểu toàn quôc lần thứ 3 của đảng đề ra. Đến nay sự nghiệp đó vẫn tiếp tục. Nhưng
hoàn cảnh, điều kiện quốc tế và trong nước, trình độ phát triển kinh tế nươc ta hiện nay
khác nhiều so với năm 1960. Điều đó đặt ra nhiều vấn đề lí luận và thực tiễn phải giải
quyết như công nghiệp hoá có còn là tất yếu khách quan nữa không? Đánh giá như thế
nào về thực trạng công nghiệp hoá ở nước ta những năm qua? Mục tiêu, mô hình, nội


dung công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá ở nước ta hiện nay như thế nào?
Sự phát triển của nền kinh tế trong hơn mười năm kể từ khi đổi mới đến nay đã thu
được nhiều kết quả đáng kể. Trong đó phải kể đến vai trò rất quan trọng của Đảng và
Nhà nước. Nhà nước là người hoạch định ra các chính sách chiến lược phát triển kinh
tế, phát huy tối đa những mặt tích cực, và hạn chế tối thiểu những hạn mặt tiêu cực của
kinh tế thị trường. Mà quan trọng nhất là sự định hướng của Nhà nước để kinh tế phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã lựa chọn. Đây là điểm khác
biệt giữa cơ chế kinh tế thị trường ở nước ta và các nước khác.
Mặc dù Nhà nước ta đã phát huy vai trò của mình một cách có hiệu quả
trong sự nghiệp này, nhưng không phải là không có hạn chế. Đó là sự cồng kềnh
của bộ máy, chưa xóa bỏ được thói quen của cơ chế cũ, chưa thích nghi với cơ
chế mới nên hiệu quả của nó chưa cao. Để nhận thức rõ hơn về vai trò của nhà
nước trong phát triển kinh tế nói chung và trong công nghiệp hoá hiện đại hoá
nói riêng, trong bài viết này, em xin chọn đề tài: “Vai trò của Nhà Nước trong
sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay".
Do trình độ có hạn, không thể bao quát được hết mọi khía cạnh của vấn đề to lớn
và khó khăn này nên phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ xoay quanh một số vấn đề về vai
trò của nhà nước trong việc phát triển những điều kiện chính của quá trình công nghiệp


hoá hiện đại hoá. Trong bài viết này, em xin được trình bày các nội dung cơ bản về đề
tài trên như: Tại sao công nghiệp hoá lại phải có vai trò của Nhà Nước? Nhà Nước đóng
vai trò quan trọng như thế nào? Thực trạng vai trò của Nhà Nước ra sao? Và cuối cùng
là một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước ta trong thời gian tới.


NộI DUNG

CHƯƠNG 1: TíNH TấT YếU KHáCH QUAN VAI TRò CủA NHà NướC TRONG
QUá TRìNH CôNG NGHIệP HOá

1.1. Vai trò của nhà nước trong quá trình công ng`hiệp hoá:
1.1.1.Quan niệm công nghiệp hoá -thực chất công nghiệp hoá:
Quan niệm đơn giản nhất về công nghiệp hoá cho rằng “công nghiệp hoá là taọ
đặc tính công nghiệp cho một hoạt động; trang bị (cho một vùng, một nước ) các nhà
máy công nghiệp “. Quan niệm đơn giản trên có những mặt chưa hợp lí. Trước hết nó
không cho thấy mục tiêu của quá trình cần thực hiện. Thứ hai, trong nội dung trình bầy,
quan niệm này gần như đồng nhất quá trìng công nghiệp hoá với quá trình phát triển
công nghiệp. Và quan niệm này cũng không thể hiện được tính lịch sử của quá trình
công nghiệp hoá. Vì thế nó được sử dụng rất hạn chế trong thực tiễn.
Trong sách báo của liên xô (trước đây) tồn tại một định nghĩa phổ biến viết”công
nghiệp hoá là quá trình xây dựng đại cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp.
Đó là sự phát triển công nghiệp nặng với nghành trung tâm là chế tạo máy”. Quan
niệm này được coi là hợp lí trong điều kiện của liên xô thời kì đó. Nhưng sẽ là rất sai
lầm nếu coi đó là quan niệm phổ biến để áp dụng cho tất cả các nước đang phát triển
trong điều kiện hiện nay.
Năm 1963 tổ chức phát triển công nghiệp của liên hợp quốc đã đưa ra định nghĩa
sau ”công nghiệp hoá là quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận
ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế
nhiều nghành ở trong nước với kĩ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu này là có một bộ
phận chế biến sản xuất ra tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, có khả năng bảo đảm đạt
tới sự tiến bộ về kinh tế xã hội ”.
Hiện nay ở nước ta, công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa được coi là nhiệm vụ trung
tâm của thời kì quá độ. Đảng ta đã xác định thực chất của công nghiệp hoá xã hội chủ


nghĩa là ”quá trình thực hiện cách mạng kĩ thuật, thực hiện sự phân công mới về lao
động xã hội và là quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa không ngừng thực hiện tái sản
xuất mở rộng”.
Từ đó cho ta thấy”công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là quá trình xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, do giai cấp công nhân và nhân dân lao động thực

hiện dưới sự chỉ đạo và tổ chức của nhà nước chuyên chính vô sản, sự lãnh đạo của
đảng cộng sản. Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa có nhiệm vụ đưa nền kinh tế nước ta
từ nền sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trở thành một nước công nông
nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học kĩ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh cuộc
sống ấm no hạnh phúc”. Đường lối công nghiệp hoá được xác định là ”ưu tiên phát triển
công nông nghiệp một cách hợp lí trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ”. Đại hội lần thứ 8 của đảng cộng sản việt nam lại một lần nữa xác định mục tiêu
của công nghiệp hoá, hiệnđại hoá là ”xây dựng nước ta thành một nước có cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an
ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp”.
1.1.2.Vì sao hiện nay công nghiệp hoá lại gắn vơí hiện đại hoá.
Cho tới nay, thế giới đã hai lần trải qua cách mạng về kỹ thuật và công nghệ. Lần
thứ nhất với tên gọi là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra vào cuối thế kỉ 18
được thực hiện đầu tiên ở nước Anh mà nội dung chủ yếu là thay thế lao động thủ công
bằng lao động cơ khí hoá; lần thứ hai với tên gọi là cuộc cách mạng khoa học công nghệ
hiện đại được bắt đầu vào giữa thế kỉ 20 mà nội dung chủ yếu của nó không chỉ dừng lại
ở tính chất hiện đại của các yếu tố tư liệu sản xuất, mà còn ở kỹ thuật công nghệ sản
xuất hiện đại, phương pháp sản xuất tiên tiến …Hiện nay cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ có nhiều nội dung phong phú, trong đó có thể chỉ ra những nội dung nổi bật
sau đây:


Một là, cách mạng về phương pháp sản xuất: đó là tự động hoá. Ngoài phạm vi tự
động trước đây, hiện nay tự động hoá còn bao gồm cả việc sử dụng rộng rãi người máy
thay thế con ngời điều khiển quá trình sản xuất.
Hai là, cách mạng về năng lượng: bên cạnh những năng lượng truyền thống mà con
người đã sử dụng trước kia như nhiệt điện, thuỷ điện, thì ngày nay con người ngày càng

khám phá ra nhiều năng lượng mới và sử dụng chúng rộng rãi trong sản xuất như năng
lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời.
Ba là, cách mạng về vật liệu mới: ngày nay ngoài việc sử dụng các vật liệu tự
nhiên, con người ngày càng tạo ra nhiều vật liệu nhân tạo mới thay thế hiệu quả cho các
vật liệu tự nhiên.
Bốn là, cách mạng về công nghệ sinh học: các thành tựu của cuộc cách mạng này
đang đựơc áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp y tế hoá chất v. v.
Năm là, cách mạng về điện tử tin học: đây là một lĩnh vực mà hiện nay con người
đang đặc biệt quan tâm nhất là máy tính điện tử.
Đất nước ta tiến hành công nghiệp hoá trong điều kiện thế giới đã trải qua hai cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ như vậy, vì thế nếu chỉ công nghiệp hoá nền kinh tế
thì sẽ không đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội, không thể theo kịp các nước
phát triển trong khu vực và thế giới. Công nghiệp hoá có thể coi là cuộc cách mạng khoa
học công nghệ lần thứ nhất, hiện đại hoá có thể coi là cuộc cách mạng khoa học công
nghệ lần thứ hai. Muốn rút ngắn khoảng cách tụt hậu giữa nước ta với các nước phát
triển thì chúng ta phải thực hiện đồng thời cả hai cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hay
thực hiện công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá. Có như vậy thì sự nghiệp công
nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân mới có thể thành công, đưa đất nước ta trở thành một
nước công nghiệp hiện đại tiến lên chủ nghĩa xã hội.
1.1.3.Vai trò của Nhà Nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá:
Trước khi nói đến vai trò của nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá phải nói
đến vai trò của nhà nước trong nền kinh tế. Nghiên cứu quá trình phát triển của các
nước ASEAN trong mấy thập kỉ qua cho thấy: nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng
đối với sự tăng trưởng kinh tế. Tuy kết quả đạt được không giống nhau nhưng từ thực
tiễn có thể rút ra những vai trò cơ bản sau của nhà nước trong quản lí vĩ mô:


Nhà nước định hướng chiến lược đúng đắn mang tính chất tiên quyết đối với sự
phát triển kinh tế mỗi nước. Nhà nước có chính sách thu hút vốn đầu tư từ các nguồn
trong và ngoài nước, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài, khuyến khích tư bản nước ngoài

đầu tư bằng cách có các chính sách ưu đãi đảm bảo và tạo điều kiện thuận lợi cho tư
bản nớc ngoài đầu tư và nhanh chóng phát huy vốn đầu tư. Tạo không khí ổn định, môi
trường kinh doanh thuận lợi cho hoạt động của các công ty nước ngoài, l ập ra các khu
vực mậu dịch tự do. Nhà nước thực hiện chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát
lạm phát ổn định tiền tệ.
Nhà nước điều tiết thu nhập, đảm bảo công bằng xẵ hội, xoá đói giảm nghèo. Ví
dụ: chính phủ Malaixia bằng việc thực hiện “chính sách kinh tế mới “ mục tiêu là xoá
đói giảm nghèo tiến tới xoá bỏ nghèo và cấu trúc lại nền kinh tế xã hội đã giảm tỉ lệ
người sống dưới mức nghèo khổ từ 49, 3% ( năm 1970 ) xuống 17% (1990 ) và 13, 5%
(1993 ).
Nhà nước điều chỉnh kịp thời việc sử dụng các thành phần kinh tế, nhấn mạnh việc
sử dụng các thành phần kinh tế nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ vai trò chủ
yếu trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Nhà nước xây dựng chiến lược phát
triển nguồn nhân lực, đầu tư thích đáng cho giáo dục đào tạo, sử dụng hiệu quả nguồn
lao động đã được đào tạo. Tại INĐÔNÊXIA, chi phí của nhà nước cho giáo dục và đào
tạo so với tổng nguồn chi tăng từ 9% (1969-1974) lên 17, 6% (1984-1989) và 21%
(1990-1995).
Từ đó cho ta thấy vai trò hết sức quan trọng của nhà nước trong sự nghiệp công
nghiệp hoá hiện đại hoá.
1.2. Tất yếu khách quan vai trò của nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá:
1.2.1.Vai trò của nhà nước trong việc định hướng cho quá trình công nghiệp hoá
Công nghiệp hoá là một quá trình diễn ra liên tục với những nội dung, bước đi
thích hợp cho từng thời kì, phù hợp với nền kinh tế. Nước ta cũng như nền kinh tế thế
giới. Muốn thực hiện thành công công nghiệp hoá hiện đại hoá thì phải có một phương
hướng cụ thể chiến lược đúng đắn thích hợp. Sau khi xác định được mục tiêu, quan
điểm nội dung của công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế nước ta thì một vấn đè


không kém quan trọng là đề ra những bước đi để đạt đến mục tiêu đó. Những bước đi
trong công nghiệp hoá có thể nêu ra đại thể cho mỗi thời kì nhưng phải đạt được một số

chỉ tiêu quan trọng như: thu nhập quốc dân tính theo đầu người, tỷ trọng của các ngành
trong cơ cấu kinh tế, tỷ trọng đầu tư tỷ trọng xuất khẩu trong GDP. v. v. Mặt khác trong
từng lĩnh vực cũng phải có những bước đi cụ thể. Có thể hình dung sự nghiệp công
nghiệp hoá là một “cây mục tiêu” mà đỉnh của nó được lượng hoá bằng GDP tính theo
đầu người. Các cành nhánh của nó là những mục tiêu quan trọng như: cơ cấu kinh tế, cơ
cấu sở hữu. Mỗi mục tiêu có vị trí quan trọng khác nhau trong quá trình công nghiệp
hoá, có tác động qua lại thúc đẩy nhau phát triển nhưng bao trùm nhất, quyết định nhất
là làm cho dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh.
Nhà nước có vai trò quyết định trong việc định hướng cũng như thực hiện các bước đi
của quá trìng công nghiệp hoá nền kinh tế. Bởi vì chỉ có nhà nước mới có thể quyết định:
Mục tiêu chiến lược và kế hoạch tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh
tế trong từng giai đoạn. Huy động và phân bổ tập trung các nguồn lực cần thiết theo yêu
cầu công nghiệp hoá, cân đối và điều chỉnh thường xuyên quá trình công nghiệp hoá
hiện đại hoá.
Đề ra các chính sách cần thiết để khai thác mọi tiềm năng, nguồn lực trong và
ngoài nước để thực hiện nhanh, mạnh, chắc quá trình công nghiệp hoá.
Nhà nước tổ lại, xây dựng lại bộ máy quản lý đủ mạnh về cả chất lượng và số
lượng để quản lý có hiệu quả, kiên quyết thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ công chức nhà
nước, lựa chọn các cán bộ có khả năng, trình độ kinh nghiệm để đưa đất nước ta nhanh
chóng tiến lên hiện đại hoá hệ thống quản lý nhà nước theo yêu cầu công nghiệp hoá.
Nhà nước thực hiện việc quản lý qúa trình công nghiệp hoá bằng pháp luật và các
văn bản dưới luật. Hoàn thiện và xây dựng mới các công cụ cần thiết như chế độ thống
kê kế toán và kiểm toán, chế độ tài chính và báo cáo tài chính công khai chính xác để
quản lý thống nhất.
Nhà nước phối hợp, điều hoà các hoạt động trong quá trình công nghiệp hoá hiện
đại hoá nền kinh tế quốc dân theo mục tiêu và định hướng đúng đắn đã được xác định,
vì quá trình công nghiệp hoá chỉ có thể thành công khi có sự phối hợp cả về chiều
ngang và chiều dọc.



Nhà nước tổ chức việc kiểm tra giám sát quá trình công nghệp hoá để phát hiện kịp
thời những sai sót lệch lạc mất cân đối. Quyết định đúng đắn việc điều chỉnh quá trình
thực hiện công nghiệp hoá là việc làm cần thiết và thường xuyên để cân đối lại hoàn
chỉnh nâng cao chất lượng hoạt động của các ngành các địa phương và cơ sở.
Nhà nước đảm bảo đồng bộ các điêù kiện chủ yếu để thực hiện thành công công
nghiệp hoá. Những quan điểm phương hướng bước đi của công nghiệp hoá có được
thực hiện đầy đủ đúng đắn hay không hoàn toàn phụ thuộc vào các điều kiện chủ yếu có
được đảm bảo hay không. Nếu không có đủ các điều kiện chủ yếu thì quá trình công
nghiệp hoá sẽ không thể thành công. Từ đó ta thấy vai trò hết sức quan trọng của nhà
nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế.
1.2.2.Vai trò của nhà nước trong việc phát triển khoa học công nghệ:
Từ trước đến nay đảng và nhà nước ta luôn xác định khoa học và công nghệ có vai
trò quan trọng trong quả trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế. Nghị quyết hội
nghị trung ương lần thứ 7 ( khoá 7 ) vừa qua đã coi công nghệ là nền tảng của công
nghiệp hoá. Theo những đánh giá của bộ khoa học công nghệ và môi trường thì trình độ
khoa học và công nghệ ở nước ta lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Trang
thiết bị cũ nát, chắp vá các thiết bị đo lường thử nghiệm nói chung không đồng bộ, tổ
chức sản xuất còn nhiều bất cập. v. v. Với thực trạng công nghệ sản xuất như vậy thì
chúng ta không thể thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. Vơí
những nước đang phát triển như nước ta, công nghiệp hoá không phải là sự phát triển
ngành công nghiệp với mục đích tự thân mà là quá trình tạo tính chất công nghiệp cho
nền kinh tế quốc dân, là quá trình tăng trưởng nền kinh tế dựa trên cơ sở nâng cao trình
độ công nghệ của nền sản xuất xã hội. Thực chất của quá trình công nghiệp hoá là nâng
cao một cách mạnh mẽ và nhanh chóng trình độ công nghệ nhằm sử dụng và phát huy
tối đa mọi nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội. ở nước ta quá trình công nghiệp hoá
được xác định là quá trình chuyển từ tình trạng công nghệ lạc hậu với năng suất lao
động và hiệu quả thấp lên trình độ công nghệ tiên tiến hiện đại với năng suất lao động
cao, làm chuyển biến cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, dân cư theo hướng tăng tỷ trọng
của công nghiệp, dịch vụ và những lĩnh vực có vai trò quan trọng đối với việc hiện đại



hoá nền kinh tế quốc dân. Vì thế có thể thấy công nghệ là một vấn đề rất quan trọng cần
phải giải quyết khi bắt tay vào thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Để giải quyết vấn đề này phải có những chính sách đúng đắn của nhà nước những
chính sách đó sẽ kích thích các đơn vị kinh tế nhanh chóng đổi mới công nghệ sản xuất
Chính sách đổi mới mở cửa làm các doanh nghiệp phải đổi mới và nâng cao trình
độ công nghệ. Cơ chế thị trường buộc mọi cơ sở phải tìm cách để tồn tại, để phát triển.
Muốn vậy chỉ có một con đường là đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ. Nhà
nước khuyến khích phát triển công nghệ bằng các chính sách: ưu đãi trong việc vay vốn
ngân hàng để đầu tư xây dựng, mở rộng cơ sở hiện có, mua máy móc thiết bị mới cần
thiết cho sản xuất; tạo điều kiện thuận lợi trong xuất nhập khẩu, nhất là xuất khẩu những
sản phẩm do cơ sở mình sản xuất, nhập khẩu máy móc thiết bị tiên tiến của nước ngoài;
đưa cán bộ ra nước ngoài để tiếp cận thị trường, nghiên cứu học tập công nghệ mới.
Chính sách mở cửa với những điều kiện ưu đãi trong việc đầu tư nước ngoài đã tạo điều
kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài tìm đến liên doanh, đem theo những máy móc thiết
bị phụ tùng hiện đại, những chuyên gia kỹ thuật, chuyên gia quản lý tiên tiến của thế
giới. Việc đó đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước nhanh chóng tiếp cận và
tiếp nhận công nghệ tiên tiến hơn nhiều so với công nghệ hiện có trong nước. Nhà nước
cũng là nơi ban hành những chính sách, cơ chế ưu đãi làm động lực kích thích cán bộ
hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ trong nước, kích thích phát huy tính sáng
tạo nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ mới phục vụ công nghiệp hoá hiện đại
hoá đất nước.
1.2.3.Nhà nước với vai trò phát triển nguồn vốn:
Thực tiễn cách mạng việt nam cho thấy nhân tố hàng đầu, nếu không muốn nói là
quan trọng nhất đối với công nghiệp hoá hiện đại hoá cũng như đối với sản xuất kinh
doanh của nền kinh tế là phải có vốn lớn. Vấn đề huy động vốn cho quá trình công
nghiệp hoá có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế nước ta. Trước hết là huy động
vốn từ nội bộ nền kinh tế trong nước. Đây là nguồn vốn có tính quyết định, là nhân tố
nội lực. Nguồn vốn nội bộ được tạo ra từ sự liên doanh liên kết giữa các ngành, các lĩnh
vực, vùng, miền của nền kinh tế đất nước; từ sự phát triển mạnh mẽ của các công ty cổ



phần, thông qua việc huy động tiền nhàn rỗi của dân cư, của các cơ sở kinh tế, các tổ
chức đoàn thể, các khoản thuế nộp ngân sách của nhà nước.
Nguồn vốn nội bộ của nền kinh tế có tính chất quyết định trong quá trình công
nghiệp hoá hiên đại hoá nhưng vẫn còn hạn hẹp. Các quốc gia khác trên thế giới cũng
như nước ta đều phải dùng mọi biện pháp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua
các hình thức: liên doanh, hợp tác kinh doanh, vay với lãi suất thấp, viện trợ. Trong điều
kiện nền kinh tế tích luỹ vốn còn chậm thì thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài là
rất quan trọng. Từ nguồn vốn bên ngoài biến thành nguồn lực trong nước tạo điều kiện
đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Để huy động vốn đầu tư nước ngoài
cần có cơ chế chính sách thoả đáng để thu hút ngày càng nhiều và tranh thủ cùng với
công nghệ tiên tiến. Muốn tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài thì cần phải có một nguồn
vốn tương ứng trong nước. Còn việc vay vốn thì phải tính đến khả năng trả nợ. Ngoài ra
còn phải đảm bảo các yếu tố khác về độc lập, chủ quyền, kinh tế, chinh trị. Vì thế mà
nguồn vốn nội bộ có ý nghĩa quyết định. Nhà nước phải tạo điều kiện cho từng địa
phương từng cơ sở phát triển mạnh mẽ sản xuất nhằm huy động nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Song song với việc huy động các nguồn vốn, vấn đề bảo toàn, sử dụng và phát
triển vốn cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Yêu cầu bảo toàn vốn được thể hiện trước hết
trong công tác tổ chức tài chính. Sự cần thiết của chế độ bảo toàn và phát triển vốn
trước hết xuất phát từ yêu cầu của cơ chế quản lý kinh tế mới, phải hạch toán kinh tế
kinh doanh.
Xuất phát từ yêu cầu của công nghiệp hoá hiện đại hoá là phải đảm bảo tính hiệu
quả kinh tế cao. Vì vậy, để quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá và sản xuất kinh
doanh đạt hiệu quả kinh tế cao, để nền kinh tế phát triển bền vững tất yếu phải bảo toàn
và phát triển vốn, phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
1.2.4. Vai trò của nhà nước trong quản lý quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá:
Quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá chỉ có thể thành công khi được thực hiện
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Công nghiệp hoá-hiện đại hoá là một

quá trình lâu dài và phức tạp. Nó tuân theo quy luật và tính quy luật của các quan hệ
cung cầu trên thị trờng. Điều đó có nghĩa là cơ chế thị trường và các bộ phận cấu thành:


cung cầu, giá cả, cạnh tranh sẽ quyết định quá trình công nghiệp hoá, quyết định các
phương án phát triển lựa chọn đầu tư. v. v. Nhưng cơ chế thị trường có những khuyết tật
và hạn chế riêng của nó, cho nên nếu quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá lệ thuộc
vào cơ chế thị trường thì sẽ không đạt được những mục tiêu công bằng xã hội an ninh
quốc gia và sự bền vững của môi trường. Thực tế khách quan này đòi hỏi phải có sự
quản lý của nhà nước. Sự quản lý của nhà nước là một bộ phận không thể thiếu của cơ
chế quản lý quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá.
Nhà nước quản lý quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá phải là nhà nước của
dân do dân. Nhà nước thực hiện quyền quản lý của mình thông qua các công cụ chủ yếu
như định hướng kế hoạch phát triển, hệ thống luật pháp, các chính sách kinh tế xã hội,
các quỹ quốc gia. v. v. Thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá trong điều kiện chuyển
sang nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước có vai trò quản lý vĩ mô sau:
Một là, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá-hiện
đại hoá, đảm bảo sự ổn định về chính trị, xã hội, thiết lập khuôn khổ luật pháp thống
nhất, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho công
nghiệp hoá.
Hai là, định hướng cho quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá, trực tiếp đầu tư
vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa ; ổn
định môi trường kinh tế vĩ mô như chống lạm phát chống khủng hoảng, ngăn ngừa
những đột biến xấu trong nền kinh tế.
Ba là, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đảm bảo yêu cầu của công nghiệp
hoá-hiện đại hoá, thực hiện đúng các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức
năng chủ sở hữu tài sản công của nhà nước.
Bốn là, khắc phục hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, phân phối thu
nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hóa gắn với

tiến bộ và công bằng xã hội.
Ngoài ra vai trò của nhà nước trong việc tổ chức quản lý quá trình công nghiệp
hoá hiện đại hoá còn thể hiện trong việc lựa chọn sử dụng những công cụ quản lý có
hiệu quả cao như hệ thống pháp luật, các chính sách kinh tế xã hội đặc biệt là các chính


sách kinh tế nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá; lựa
chọn các phương pháp quản lý như giáo dục, thuyết phục, động viên, phương pháp tổ
chức hành chính, phương pháp kinh tế; bố trí hợp lý các cán bộ đầu ngành chủ chốt
trong các cơ quan quản lý. Tóm lại nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc quản lý
quá trình công nghiệp hoá.



Chương 2: THựC TRạNG VAI TRò CủA NHà NướC TRONG QUá TRìNH CôNG
NGHIệP HOá HIệN đạI HOá ở NướC TA

2.1. Định hướng cho quá trình công nghiệp hoá:
2.1.1.Việc đề ra mục tiêu chiến lược kế hoạch bước đi của công nghiệp hoá
Thực hiện công nghiệp hoá nhằm tạo ra những chuyển biến cơ bản về kinh tế, trên
cơ sở đó góp phần cảI thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân đảm bảo công
bằng xã hôị. Nhưng việc xác định phương hướng bước đi của công nghiệp hoá hiện nay
còn nhiều thiếu sót bất cập. Tuy nhà nước đã ưu tiên đầu tư cho phát triển kinh tế nhưng
chưa giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng. Các chính sách kinh
tế của nhà nước chưa gắn bó hữu cơ với các chính sách xã hội: chính sách xoá đói giảm
nghèo đã được triển khai nhưng phương pháp thực hiện chưa hữu hiệu, tốc độ còn
chậm. Phương hướng và bước đi thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá chưa gắn bó
chặt chẽ với phương hướng và bước đi thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chưa định
hướng phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn để phát huy có hiệu quả nguồn lực và lợi
thế của đất nước.

Định hướng phát triển vẫn còn khá dàn trải, chia đều cho các ngành, chưa khai
thác và động viên có hiệu quả mọi nguồn lực có sẵn trong nước. Tuy nhà nước ta đã cố
gắng tích cực tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài phù hợp với khả năng tiếp thu, quản
lý và sử dụng công nghệ, nhân lực nhưng không có chính sách kiểm tra giám sát chặt
chẽ nên vẫn còn nhiều lãng phí, kém hiệu quả. Nhà nước chưa thúc đẩy nhanh chóng
quá trình đổi mới thiết bị, công cụ lao động trong các ngành kinh tế quốc dân, đặc biệt là
các ngành trọng điểm.
Việc lựa chọn mục tiêu các giai đoạn thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nền
kinh tế của nhà nước còn nhiều thiếu sót, chủ quan, nóng vội, duy ý chí, vợt quá khả
năng thực hiện.


2.1.2.Thực trạng việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với bước đi của quá
trình công nghiệp hoá:
Nước ta khi bước vào thời kì đổi mới đã phải tiếp nhận thực trạng của một cơ cấu
kinh tế mang nặng đặc trưng của một nước nông nghiệp lạc hậu. Sau nhiều kế hoạch
phát triển kinh tế lần lượt các mô hình cơ cấu kinh tế được hình thành, song cho đến
cuối những năm 80 nền kinh tế về cơ bản vẫn là cơ cấu kinh tế cũ lạc hậu và kém hiêu
quả mà việc cấu trúc lại không phải là đơn giản. Qua hơn 10 năm đổi mới cơ cấu kinh tế
bước đầu có sự chuyển biến đáng khích lệ: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP
từ 22, 7% năm 1990 tăng lên 30, 1% năm 1995 ;tỷ trọng ngành dịch vụ từ 38, 6% năm
1990 tăng lên 42, 4% năm 1995. Nước ta đã chuyển hẳn sang một thời kì mới thời kì
đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá, phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá để đến năm 2000 về cơ bản nước ta trở thành một
nước công nghiệp.
Tuy vậy nhưng về cơ cấu ngành kinh tế, nhà nước chưa thúc đẩy nhanh các vùng
tập chung chuyên canh, chậm đưa công nghệ sinh học và các phương pháp canh tác tiên
tiến vào nông nghiệp; công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản xuất khẩu chưa phát
triển; công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng cơ bản thiết yếu còn ít oỉ nhỏ bé. Ngành cơ
khí chưa hướng vào sản xuất công cụ thiết bị phục vụ sản xuất nông lâm ngư nghiệp,

thiết bị phục vụ công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản. v. v.
Nhà nước chưa chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế cho phù hợp với bước đi của
công nghiệp hoá hiện đại hoá. Tỷ trọng GDP của ngành nông nghiệp vẫn còn ở mức
cao, tỷ suất hàng hoá nông lâm sản thấp, tỷ trọng hàng suất khẩu nhỏ bé manh mún.
Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong tổng GDP còn quá thấp. Công nghiệp chế biến
nông lâm hải sản và công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng để xuất khẩu phát triển chậm.
2.2. Phát triển công nghệ
2.2.1.Phát triển công nghệ sản xuất
Đất nước ta đang chuyển hẳn sang hoạt động theo cơ chế thị trường với nền kinh
tế mở, phải cạnh tranh trên thị trường trong nước và thị trường thế giới. Chúng ta đã
thấy được chính sách và cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp của nhà


nước đã kìm hãm việc đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ sản xuất ở nước ta như
thế nào. Chính vì vậy mà những chính sách kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế mới ban
hành nhằm kích thích đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ đã nhanh chóng tìm được
sự hưởng ứng và đón nhận, đem lại kết quả ban đầu đáng khích lệ. Những chính sách và
cơ chế mới ban hành cuả nhà nước trong thời gian qua nhằm tạo quyền chủ động cho
các đơn vị sản xuất trong việc ứng dụng các tiến bộ của khoa học công nghệ vào sản
xuất đã có tác dụng giúp nhiều cơ sở sản xuất đứng vững được trong cạnh tranh mạnh
mẽ trên thị trờng, bước đầu làm ăn có hiệu quả. Ví dụ như nghị quyết số 217-HĐBT
ngày 14/11/98 về các chính sách đổi mới kế hoạch hoá và hạch toán kinh doanh đối với
các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh (ban hành theo nghị định số 50-HDBT ngày
22/3/1998) đã có những tác động tích cực, làm các doanh nghiệp nhà nước độc lập hơn
tự chủ hơn trong sản xuất và tiêu thụ. Luật đầu tư nước ngoài vào việt nam ; luật bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp; pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào việt nam
và một loạt các thông tư quyết định cụ thể khác của nhà nước đã tạo điều kiện ban đầu
thuận lợi cho các doanh nghiệp nhà nước nhanh chóng đôỉ mới công nghệ sản xuất.
Những quy định trong chính sách và cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước đã:
- Tạo ra nhu cầu bức thiết cho các doanh nghiệp phải đổi mới và nâng cao trình độ

công nghệ.
- Tạo quyền chủ động cho chủ thể sử dụng (các doanh nghiệp ) quyết định lựa
chọn mua bán công nghệ kể cả việc trực tiếp quan hệ với bạn hàng nước ngoài.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh chủ động sử dụng có
hiệu quả hơn những yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất.
- Mở ra những hình thức mới không những tiếp cận mà còn thu hút đợc công nghệ
tiên tiến của thế giới.
Báo cáo tại hội thảo kinh tế việt nam, bộ trưởng bộ khoa học công nghệ và môi
trường Đặng Hữu đã đánh giá: ”xem xét lại trong 363 dự án với tổng số vốn gồm 2, 7 tỷ
USD và các hợp đồng chuyển giao công nghệ khác thấy rằng nhiều công nghệ mới được
đưa vào việt nam đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ chung của sản xuất, nâng
cao tính cạnh tranh của sản phẩm”.


Đồng thời bên cạnh những mặt tích cực những chính sách và cơ chế quản lý kinh
tế của nhà nước với việc đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ phục vụ công nghiệp
hoá cũng còn có những mặt hạn chế tồn tại. Đó là:
-Thiếu sự định hướng rõ rệt trong đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ. Hiện
nay, nhà nước vẫn chưa xác định được chiến lược phát triển khoa học và công nghệ
quốc gia làm cơ sở định hướng cho các hoạt động khoa học công nghệ và hoạch định
chính sách công nghệ. Do thiếu định hướng hoạt động và chính sách công nghệ, cụ thể
hoá định hướng thành các quy định quản lý nên phải thừa nhận rằng hiện tại các hoạt
động để phát triển công nghệ đang diễn ra một cách tự phát, thiếu sự quy hoạch và phối
hợp tổng thể cả trong ngành lẫn ở địa phương.
-Thiếu sự an tâm tin tưởng từ phía người đầu tư cho phát triển công nghệ đối với
tính ổn định nhất quán của các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của nhà
nước. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy sự tin tưởng an tâm từ phía người đầu tư trong và
ngoài nước là một yêu cầu rất quan trọng khi hợp tác. Những đổi mới trong những chính
sách và cơ chế quản lý kinh tế thời gian qua vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu này. Nhiều
văn bản của đảng nhà nước, quốc hội đều nhận xét về môi trường kinh tế hiên nay là “

chính sách quản lý vĩ mô có nhiều sơ hở và thiếu sót, kỉ luật phép nước không
ngiêm”. Nhà nước cần đổi mới và hoàn thiện các chính sách kinh tế nhằm tạo ra niềm
tin cho các hoạt động đầu tư phát triển khoa học công nghệ phục vụ công nghiệp hoá
hiện đại hoá.
-Thiếu sự khuyến khích phát triển dịch vụ công cộng và kết cấu hạ tầng để đảm
bảo tiếp nhận và khai thác có hiệu quả công nghệ mới phục vụ công nghiệp hoá. Sự yếu
kém về hàng hoá dịch vụ công cộng và kết cấu hạ tầng ở nước ta đang là một trong
những cản trở lớn nhất trong chuyển giao công nghệ. Nó đã và đang để tuột nhiều dự án
đầu tư, mặc dù đã có những ưu đãi đặc biệt so với thông lệ chung của quốc tế
2.2.2.Phát triển đội ngũ cán bộ khoa học
Các chính sách cơ chế của nhà nước chưa tạo ra động lực kích thích đối với cán bộ
hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Sự phát triển khoa học và công nghệ
vừa là mục tiêu vừa là phương tiện của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Con
người là yếu tố quan trọng của sự phát triển ấy bởi vì con người là yếu tố chủ động,


năng động của sự phát triển ấy. Thế nhưng hiện tại lao động làm việc trong lĩnh vực này
đang thiếu sự khuyến khích, kích thích cần thiết. Nhận xét về các chính sách đối với cán
bộ khoa học công nghệ, nghị quyết 26 của bộ chính trị vừa qua đã chỉ rõ “ chính sách,
chế độ đãi ngộ trong khoa học còn nhiều điều bất hợp lý. Tiền lương mang nặng tính
chất bình quân chủ nghĩa. Lao động chất xám nói chung rẻ hơn lao động giản đơn.
Điều kiện tối thiểu để làm việc và sinh hoạt của cán bộ khoa học chưa được đảm bảo
“. Hiện nay, với yêu cầu của công nghiệp hoá thì chất lượng, trình độ kĩ thuật và tay
nghề của lao động nước ta còn quá thấp. Lực lượng lao động Việt Nam được giáo dục
đào tạo có hệ thống cơ bản chỉ chiếm 11% trong tổng số lao động toàn xã hội. Mặt bằng
dân chí thấp, lao động trí tuệ, lao động chân tay có trình độ đại học sau đại học còn ít.
Nhìn tổng thể mà xét thì về mặt lượng thì nguồn lao động của nước ta là lớn nhưng về
mặt chất thì chưa đủ để đáp ứng nhu cầu của công nghiệp hoá hiện đại hoá. Vì vậy phải
có những giải pháp nhằm nâng cao trình độ lao động phát triển cán bộ khoa học kỹ thuật
để tạo ra một sự biến đổi về chất lực lượng lao động nước ta.

2.3. Phát triển nguồn vốn
2.3.1.Thực trạng huy động vốn của nhà nước
Nước ta cũng như bất kỳ một nước nào trên thế giới muốn thực hiện công nghiệp
hoá hiện đại hoá thì cần phải có vốn. Từ năm 1992 trở lại, nhờ thực hiện chính sách tài
chính thắt chặt, nhà nước đã chấm dứt được tình trạng phát hành tiền cho tiêu dùng của
ngân sách, số thu không những đã bù đắp số chi thờng xuyên mà còn dành ra một phần
để tích luỹ đầu tư cho công nghiệp hoá hiên đại hoá. Nhưng nếu chỉ dùng số tiền tích
luỹ đó thì sẽ không đủ để phát triển kinh tế. Do đó nhà nước đã có những biện pháp để
huy động vốn trong và ngoài nước. Việc huy động vốn trong nước bằng các hình thứcg
tín phiếu, trái phiếu tuy có phát triển song số vốn huy động được còn rất hạn chế và chủ
yếu vẫn là nguồn vốn ngắn hạn ( chiếm 90% doanh số phát hành ). Hình thức huy động
vốn còn đơn điệu. Hình thức tín phiếu kho bạc với thời hạn dài ( 3 năm ) hầu như chưa
nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của dân cư, và chủ yếu là dùng biện pháp bắt buộc
các doanh nghiệp phải mua. Tuy nhà nước đã thiết lập được hệ thống ngân hàng hai
cấp: ngân hàng nhà nước quan lý nhà nước về tiền tệ tín dụng và ngân hàng ngân hàng
thương mại làm nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ trên nguyên tắc đi vay để cho vay. Nhưng,


tổng số vốn huy động trong dân cư bằng các hình thức qua kênh ngân sách và ngân
hàng như tín phiếu, trái phiếu kho bạc, tiền tiết kiệm … gần đây mới chỉ đạt 8000 tỷ
đồng / năm, chiếm khoảng 5% GDP và chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn. Như vậy, nếu so
với các nước cùng khu vực đông nam á thì tỷ lệ vốn trong nước để đầu tư cho công
nghiệp hoá hiên đại của nước ta còn thấp. Nguyên nhân của tình hình trên là do một số
chính sách tài chính tiền tệ hiện nay chưa tạo điều kiện và khuyến khích thoả đáng các
doanh nghiệp tự đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh như chính sách thuế, chế độ thu
khấu hao. Các hình thức huy động vốn chưa được mở rộng. Người dân chưa thật tin
tưởng vào sự ổn định kinh tế, còn sợ lạm phát khủng hoảng. Kế dến là nhà nước chưa có
nhiều hình thức huy động vốn linh hoạt, có lãi suất hấp dẫn cũng như chưa tạo ra được
môi trường pháp lý môi trường kinh tế và bộ máy nhân sự đáp ứng yêu cầu của kinh tế
thị trường.

2.3.2.Thực trạng vai trò của nhà nước trong việc sử dụng và quản lý vốn:
Những năm gần đây, đầu tư của nhà nước bước đầu đã có một số thay đổi theo
chiều hướng tốt, một số công trình đã phát huy tác dụng làm tăng thêm cơ sở vật chất kỹ
thuật cho bước mới thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá. Tuy nhiên nhìn chung việc sử
dụng vốn đầu tư của nhà nước đến nay vẫn còn rất lãng phí và kém hiệu quả. Quan niệm
của nhà nước về đầu tư còn đơn giản, chỉ chú trọng vào đầu tư xây dựng cơ bản để làm
tăng tài sản cố định, chưa quan tâm thích đáng và gắn nó với đầu tư xây dựng cơ sở
nguyên liệu, đầu tư vào con người và phát triển khoa học kỹ thuật. Đối với cơ cấu đầu tư
cũng còn nhiều bất hợp lý: nhà nước chưa chú ý thích đáng đến đầu tư cho kết cấu hạ
tầng; hiệu quả vốn đầu tư thấp do không ít trờng hợp đầu tư sai; cơ chế cấp phát vốn của
nhà nước vẫn còn mang tính chất bao cấp, thất thoát, lãng phí nhiều. Kết quả tính toán
cho thấy hiệu quả vốn đầu tư hiện nay là rất thấp thể hiện qua sự so sánh giữa tổng số
vốn đầu tư và giá trị tài sản cố định tăng thêm như sau: thời kì 1986 - 1990 cứ bỏ ra 100
đồng vốn đầu tư thì chỉ thu được khoảng 50 đồng giá trị tài sản tăng thêm, năm 1991 là
51, 5 đồng và năm 1992 là 48, 2 đồng, tỷ lệ thất thoát lên đến 30%. Sở dĩ có sự thất thoát
lớn nh thế là do cơ chế cấp phát, thanh toán đến giao nhận thầu, nghiệm thu, quyết toán
công trình có nhiều cơ quan quản lý nhng lại thiếu sự quy định trách nhiệm cụ thể,
không cơ quan nào chịu trách nhiệm từ đầu đến cuối về số vốn đầu tư của nhà nước.


Tình hình quản lý và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài cũng còn nhiều điều cần phải
xem xét lại. Những năm qua vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào nước ta tuy tăng
nhanh qua các năm, song vẫn còn có sự mất cân đối về cơ cấu đầu tư, việc chuyển giao
công nghệ mới vào Việt Nam còn bị hạn chế. Trong quá trình thực hiện luật đầu tư và
triển khai các dự án đã và đang xuất hiện những tiêu cực trong việc lợi dụng sơ hở trong
cơ chế chính sách cuả nhà nước. Có thực trạng trên là do:
Luật đầu tư của nhà nước dù đã xác định các lĩnh vực ưu tiên phát triển nhưng lại
chậm đưa ra danh mục các dự án gọi vốn và còn bị động trong gọi vốn.
Chính sách tài chính chưa rõ ràng trong xác định ưu đãi theo vùng lãnh thổ cũng
như chưa đủ sức hấp dẫn để khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh vào lĩnh

vực thuộc cơ sở hạ tầng phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá. Một số năm do bội chi
nên nhà nước đã phải dùng cả vốn vay của nước ngoài để tiêu dùng cho ngân sách làm
đồng vốn vay không phát huy được hiệu quả. Nhà nước khá chú trọng vay nợ nhưng
xem nhẹ hiệu quả sử dụng vốn vay và nghĩa vụ trả nợ. Tính chất bao cấp trong việc vay
và sử dụng vốn còn khá phổ biến và nghiêm trọng. Nhà nước chưa có một chiến lược
vay nợ, tiếp nhận và sử dụng vốn vay nước ngoài một cách chủ động, có tính đến nhu
cầu khả năng hấp thụ và trả nợ của đất nước nên việc vay nợ còn diễn ra rất tuỳ tiện.
Tình trạng mất cân đối trong cơ cấu đầu tư vẫn còn tồn tại, người dân chưa thật tin
tưởng vào đường lối đổi mới của nhà nước. Trong một số chính sách kinh tế tài chính,
nhà nước chưa có các biện pháp khuyến khích mạnh mẽ đầu tư trong và ngoài nước vào
các lĩnh vực, ngành nghề mũi nhọn cần phát triển nhanh chóng để phục vụ công nghiệp
hoá. Trong những năm tới, để quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá và sản xuất kinh
doanh đạt hiệu quả kinh tế cao Nhà Nước tất yếu phải bảo toàn phát triển và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn hơn nữa.
2.4. Quản lý quá trình công nghiệp hoá
2.4. 1.Thực trạng vai trò quản lý của nhà nước
Các biện pháp quản lý quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá chủ yếu nhằm vào
những hoạt động điều hành chỉ đạo việc hình thành và triển khai thực hiện chủ trương
của nhà nước trong nền kinh tế. Các biện pháp quản lý của nhà nước ta trong thời gian


qua đã có nhiều thay đổi tiến bộ. Trong nhận thức về công nghiệp hoá đã có những nhìn
nhận mới cả về mục tiêu, nội dung, quy mô lẫn biện pháp quản lý. Mục tiêu của công
nghiệp hoá hiện đại hoá trong giai đoạn hiện nay là tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật
và trình độ công nghệ, nâng cao trình độ hiện đại hoá trong các ngành công nghiệp và
các ngành kinh tế quốc dân.
Chủ trương đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá đã được xác định toàn diện
thích hợp hơn. Đó là thực hiện công nghiệp hoá toàn diện trong các ngành kinh tế quốc
dân, có trọng điểm là công nghiệp, ưu tiên ngành công nghiệp chế biến; có sự kết hợp
chặt chẽ giữa trung ương và địa phương trong đó phải ưu tiên cho các vùng trọng điểm.

Thực hiện công nghệp hoá hiện đại hoá với sự đầu tư phát triển toàn diện nhưng trong
đó chú trọng nhất về công nghệ và tri thức công nghệ.
Biện pháp thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá cũng được nhà nước điều chỉnh
trong đó rõ nhất là: thực hiện quy hoạch phát triển toàn diện kinh tế xã hội theo từng
cấp, căn cứ vào điều kiện và lợi thế so sánh cụ thể mà xác định quy hoạch xây dựng các
công trình theo yêu cầu công nghiệp hoá. Điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng tập
chung và sớm dứt điểm để nâng cao hiệu quả đầu tư. công tác đào tạo cán bộ được tăng
cường mạnh ở những ngành chuyên môn đang rất thiếu như: công nghệ, marketing quản
trị kinh doanh và những lĩnh vực không thể thiếu khi thực hiện công nghiệp hoá.
Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề chưa thống nhất trong biện pháp quản lý thực
hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá. Cụ thể là:
Phương hướng khai thác tiềm năng chưa rõ ràng chính xác. Nhìn chung các địa
phương đều đã xây dựng quy hoạch phát triển, trong đó phân tích khá rõ những điều
kiện và lợi thế của địa phương mình; nhưng phân tích để làm rõ những lợi thế so sánh
trong xu thế phát triển chung của nước ta và thế giới còn có những điểm khác xa nhau.
Tiến trình thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá chưa được nhà nước định ra cụ
thể. Về tổng quát, quá trình công nghiệp hoá sẽ được thực hiện trong thời gian từ nay
đến năm 2020 nhưng các bước cụ thể chưa được xác định rõ ràng. Do đó trong tiến
trình thực hiện các mục tiêu phát triển đã nảy sinh một số vấn đề. Ví dụ như vấn đề thực
hiện phát triển công nghiệp chế biến như thế nào và vào lúc nào khi nguồn nguyên liệu
chưa được phát triển v. v. giải pháp vay vốn và sử dụng vốn vay chưa thật thuyết phục


trong cân nhắc về hậu quả. Nhu cầu vốn cho thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá rất
lớn phải có sự hỗ trợ từ bên ngoài. Nhưng nhà nước vẫn chưa tính toán kĩ trong việc
thanh toán trả nợ sau này. Việc phát triển hiện nay với sức đè nặng của các món nợ
trong 20 - 25 năm nữa.
Phương hướng chỉ đạo nhập công nghệ chưa cụ thể. Nhiều vấn đề trong chủ
trương nhập công nghệ không được chỉ đạo dứt khoát và thực hiện thống nhất như: xác
định trình độ công nghệ tiên tiến ở mức nào, cơ cấu công nghệ cần nhập ra sao, hiện đại

hoá các công nghệ truyền thống như thế nào. Việc kiểm soát nhập công nghệ qua các dự
án đầu tư của nớc ngoài cũng không chặt chẽ, diễn ra tình trạng nhập các công nghệ
thấp công nghệ loại thải vào nước ta. Chúng ta lại quá thiếu các thông tin về công nghệ.
Do vậy khi được nước ngoài giới thiệu về một công nghệ nào đó thì không có điều kiện
để so sánh nhận biết được trình độ công nghệ đó tiên tiến mức nào, ưu điểm nhược điểm
so với công nghệ cùng loại khác làm nhà nước rất khó khăn trong quá trình quản lý, ảnh
hưởng lớn tới quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá của nước ta.



Chương 3: một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò
của nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá
ở nước ta trong thời gian tới

3.1. Định hướng quá trình công nghiệp hoá
3.1.1.Xác định một cách toàn diện thích hợp hơn quá trình công nghiệp hoá
Để nâng cao vai trò của mình trong việc định hướng cho quá trình công nghiệp hoá
hiện đại hoá nền kinh tế, nhà nước cần phải:
Phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế nhất là kinh tế nhà nước, nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước nhằm phát huy vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế, hỗ trợ và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Nhà nước phải sớm chủ động nắm bắt sự tác động khách quan của các quy luật
trong nền kinh tế thị trường để định hướng đúng đắn chiến lược phát triển kinh tế xã
hội, xây dựng thống nhất chặt chẽ quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, định hướng đúng
đắn kế hoạch thực hiện quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Nhà nước phải nắm
vững nhu cầu và khả năng tiến hành công nghiệp hoá, tập trung đúng mức vào những
ngành, địa phương, lĩnh vực quan trọng nhất để có thể tạo ra sự tăng trưởng nhanh với
hiệu quả kinh tế cao.
3.1.2.Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế cho phù hợp với bước đi của công
nghiệp hoá hiên đại hoá

Trong những năm trước mắt cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta sẽ được xác định là cơ
cấu công nông nghiệp dịch vụ. Phương hướng phát triển của các ngành trong cơ cấu ấy
phải đáp ứng được mô hình chiến lược của công nghiệp hoá. Cụ thể là:
-Nhà nước đẩy mạnh khai thác có hiệu quả tiềm năng đa dạng về nông lâm ngư
nghiệp, thúc đẩy nhanh việc hình thành các vùng tập trung, chuyên canh, đa công nghệ
sinh học và các phương pháp canh tác tiên tiến vào nông nghiệp thúc đẩy công nghiệp


hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Kết hợp phát triển nông lâm ngư nghiệp với
phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản.
-Phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng tiêu dùng thông thường để thoả mãn tiêu dùng
cơ bản, thiết yếu và phổ thông của dân cư, hạn chế tối đa nhập khẩu mặt hàng này để
tiết kiệm ngoại tệ phục vụ công nghiệp hoá.
-Xây dựng, cải tạo và nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển các
ngành kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trước hết ưu tiên cho những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở sự phát triển.
-Nhà nước chú trọng xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng
yếu và hết sức cấp thiết cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. Ưu tiên phát triển
dịch vụ du lịch, khai thác có hiệu quả lợi thế về tự nhiên, truyền thống lịch sử văn hoá
dân tộc, phục vụ phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân.
Về cơ cấu giữa thị xã thị trấn, thành phố và đô thị thì:
Tuỳ điều kiện từng nơi, tất cả các thị xã thị trấn đều phải được phát triển trên cơ sở
đẩy mạnh công nghiệp dịch vụ mang ý nghĩa tiểu vùng. Phát triển các đô thị vệ tinh
xung quanh các thành phố lớn để dãn bớt công nghiệp và dân cư, tránh sự tập trung quá
mức vào Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Tạo điều kiện cần thiết để thu hút công
nghiệp và phát triển đô thị mới lên vùng trung du, tránh sử dụng nhiều diện tích đất lúa
Hạn chế mở rộng quy mô các thành phố lớn. Sớm quy hoạch mạng lưới đô thị lớn,
vừa và nhỏ trong toàn quốc phù hợp với phát triển kinh tế xã hội. Phát triển đô thị phải
đi đôi với việc xây dựng và quản lý các công trình công cộng ( điện, cấp, thoát nước,
cây xanh…).

Coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và văn hoá, giữ gìn bản sắc
và truyền thống văn hoá dân tộc với tiến lên hiện đại trong phát triển đô thị.
3.2. Phát triển khoa học công nghệ
Trước hết cần khẳng định sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ nước ta trong thời
gian qua. Những chính sách đúng đắn, những định hướng chiến lược về khoa học công
nghệ do nhà nước ban hành đã có tác dụng kích thích các cơ sở sản xuất kinh doanh đổi
mới và nâng cao trình độ công nghệ sản xuất. Tuy vậy so với yêu cầu của công cuộc đổi


mới kinh tế nói chung và công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá nói riêng thì nhà
nước cha hỗ trợ được nhiều cho phát triển khoa học công nghệ. Vì thế, nhà nước cần
ban hành thay đổi một số chính sách nhằm phát triển mạnh công nghệ theo hướng công
nghiệp hoá. Phương hướng chung là: hình thành cơ cấu kỹ thuật nhiều tầng, kết hợp
nhiều trình độ, nhiều quy mô tranh thủ tối đa công nghệ tiên tiến, cải tiến công nghệ
truyền thống. Trong những năm trước mắt, coi trọng loại công nghệ có suất đầu tư thấp
thu hồi vốn nhanh, tạo thêm việc làm cho người lao động. Cụ thể:
3.2.1.Công nghệ nước ngoài
Nhà nước trong việc hoạch định chính sách phát triển công nghệ phải tạo ra môi
trường thuận lợi nhất cho việc nhập khẩu công nghệ, nhằm tăng các nguồn cung công
nghệ. Phải chú ý đổi mới và hoàn thiện các quy định về nhập khẩu, đầu tư nước ngoài,
chuyển giao công nghệ mới vào Việt Nam.
Cố gắng tranh thủ các công nghệ tiên tiến, đặc biệt là đối với các dự án đầu tư
nước ngoài. Thực hiện giám định ngiêm ngặt việc nhập công nghệ và thiết bị. Nhà nước
cần đặt ra một cách ngiêm túc ngay từ đầu vấn đề bảo vệ môi trường trong quá trình
công nghiệp hoá hiện đại hóa để tránh những hậu quả xấu phải trả giá đắt sau này. Đầu
tư nước ngoài bắt buộc phải tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế về bảo vệ môi trường, nên bố trí
các cụm công nghiệp phân tán ở nhiều địa bàn vừa là một biện pháp tiết kiệm vừa để
hạn chế ô nhiễm. Trong quá trình tiếp nhận chuyển giao công nghệ phải rất tỉnh táo để
tránh nhập công nghệ lỗi thời do các nước thải ra, tránh không để cho Việt Nam trở
thành “ bãi thải công nghệ “ của các nước phát triển.

Gấp rút nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia nhằm đổi mới và làm
chủ công nghệ nhập, sáng tạo công nghệ mới. Ưu tiên nghiên cứu ứng dụng tập trung
cho các lĩnh vực công nghệ điện tử và tin học, công nghệ sinh học, hoá học, chế tạo và
gia công vật liệu nhất là nguồn nguyên vật liệu trong nước.
3.2.2.Công nghệ và cán bộ khoa học trong nước
Gắn liền với các biện pháp kích thích công nghệ nhập, nhà nước cũng cần tạo ra
sự phát triển mạnh mẽ đối với công nghệ sản xuất trong nước. Những văn bản quản lý
của nhà nước đối với hoạt động công nghệ phải tạo thành một hệ thống ăn khớp với
nhau. Phải có các văn bản chính sách mới cho hợp với bối cảnh hiện tại và bao quát hết

×