Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Luận văn Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Tháp trong hội nhập kinh tế quốc tế docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (920.91 KB, 109 trang )







Luận văn
Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Tháp trong
hội nhập kinh tế quốc tế



2

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ,
sự phát triển của kinh tế tri thức và phân công lao động xã hội mang tính quốc
tế sâu rộng. Trên cơ sở đó, xuất phát từ tiềm năng và nhu cầu phát triển của
mình, tất yếu các quốc gia đều phải tham gia vào sự phát triển kinh tế khu vực
và quốc tế.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là chiến lược phát triển kinh tế của
Đảng và Nhà nước ta, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Từ 07/11/2006,
Việt Nam là thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) và là Ủy viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Những sự kiện trên đã nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế, tạo ra cơ
hội lớn để nước ta gia nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, có điều kiện phát
triển nhanh, sớm thoát khỏi tình trạng nước kém phát triển.
Thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt những thành
tựu quan trọng. Đảng ta khẳng định: "Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan
trọng". Thực hiện định hướng đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế


đối ngoại, gắn kết kinh tế nước ta với kinh tế khu vực và thế giới thông qua
hoạt động thương mại và đầu tư , phối hợp hài hòa các tiêu chuẩn, chính
sách, tham gia các định chế kinh tế toàn cầu và khu vực, thực hiện hội nhập ở
3 cấp độ: song phương, khu vực và toàn cầu. Qua đó, nền kinh tế nước ta đã
phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng lĩnh vực, như: liên doanh, liên kết,
hợp tác đầu tư, chuyển giao công nghệ, phát triển các khu, đặc khu, các vùng
kinh tế cửa khẩu Trong đó, phát triển kinh tế cửa khẩu đối với các vùng, các
tỉnh có đường biên giới chung các nước là một chính sách quan trọng. Và
thực tế quá trình đó, các khu kinh tế cửa khẩu trong cả nước đã có sự phát
triển, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế
nước ta.



3

Cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của các nước trong khu
vực, các hành lang kinh tế Đông – Tây đã hình thành, gắn liền kinh tế các
nước trong tiểu vùng Mê Kông mở rộng (GMS) với nhau và với các nước
ASEAN, trong đó có sự gắn kết ngày càng chặt chẽ giữa khu vực đồng bằng
sông Cửu Long với Vương quốc Campuchia láng giềng.
Mục tiêu của GMS là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững,
xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân lưu vực sông Mê Kông. Hội
nghị Thượng đỉnh tiểu vùng Mê Kông mở rộng lần thứ 3 tại Vientiane (Lào)
có chủ đề “Nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua tăng cường kết nối” thể
hiện trọng tâm của các nước GMS là kết nối hạ tầng (giao thông, năng lượng,
viễn thông…), coi đó là nền tảng để triển khai kết nối về nguồn lực, con
người, qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh của từng nền kinh tế và của cả
tiểu vùng. Hội nghị đã tập trung thảo luận 6 nội dung chính; trong đó vấn đề
hợp tác phát triển hạ tầng giao thông được ưu tiên hàng đầu và đạt nhiều kết

quả nổi bật nhất, tập trung vào 3 Hành lang kinh tế chính, trong đó có Hành
lang kinh tế phía Nam (SEC): gồm 3 tuyến đường nối phía Nam Thái Lan qua
Campuchia với Việt Nam. Đây là vận hội mới cho các tỉnh có biên giới giáp
với Vương quốc Campuchia, trong đó có tỉnh Đồng Tháp.
Đồng Tháp là một tỉnh nông nghiệp nằm trong khu vực đồng bằng sông
Cửu Long, có đường biên giới dài 48,7 km giáp với tỉnh Prâyveng (Campuchia).
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và nhất là trong 5 năm thực hiện Nghị
quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng, kinh tế tỉnh Đồng Tháp đạt mức tăng trưởng
khá cao, năm sau cao hơn năm trước, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn
2001 - 2005 đạt 9,93%/năm (cao hơn 3,07% so với giai đoạn 1996 - 2000), năm
2007 GDP tăng 15,79%, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Đóng góp vào sự thành công ấy có sự hiện diện của khu kinh
tế cửa khẩu Đồng Tháp.
Bên cạnh những thành tựu quan trọng, quá trình phát triển khu KTCK
Đồng Tháp còn những mặt cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện.



4

Là một cán bộ của tỉnh, quan tâm theo dõi, nghiên cứu quá trình xây
dựng hình thành khu kinh tế cửa khẩu của địa phương, nên tôi chọn vấn đề
Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Tháp trong hội nhập kinh tế quốc tế để làm đề
tài luận văn thạc sĩ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ khi Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 53/2001/QĐ-TTg ngày
19 tháng 4 năm 2001 về "chính sách đối với Khu kinh tế cửa khẩu biên giới"
đã có một số nhà nghiên cứu, quản lý, báo chí viết bài xung quanh vấn đề này,
tiêu biểu như:
- Tác động kinh tế - xã hội của mở cửa biên giới của TS.Trịnh Tấn Đạt, TS

Vũ Tuấn Anh, TS Hoàng Công Hoàn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Tác động của sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai đến đời sống
kinh tế - xã hội của Tỉnh, Luận văn thạc sĩ Kinh tế của Nguyễn Thị Thanh Huyền,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2005.
Tác giả đã nêu lên cơ sở khoa học hình thành và phát triển khu kinh tế cửa
khẩu Lào Cai; đánh giá thực trạng của quá trình phát triển; những tác động tích
cực và hạn chế của khu kinh tế cửa khẩu đến đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh
Lào Cai. Qua đó đã đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc
đẩy phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai trong giai đoạn mới. Tác giả đã công
phu nghiên cứu đưa ra các giải pháp có tính khả thi, có ý nghĩa thực tiễn trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai.
- Khu kinh tế - quốc phòng trên địa bàn Tây Bắc nước ta hiện nay của Trần
Thanh Quang, 2006.
Đề tài đã nêu nhận thức chung, đánh giá thực trạng, sự tác động của
phát triển khu kinh tế - quốc phòng đến đời sống kinh tế - xã hội của vùng
Tây Bắc nước ta, đồng thời vạch ra phương hướng và một số giải pháp để
thúc đẩy sự phát triển khu kinh tế - quốc phòng trong thời gian tới.
- "Phát triển các khu kinh tế cửa khẩu" của Đặng Nguyễn, Thời báo
Kinh tế, số 109 (6), 2007.



5

Tác giả đã đánh giá tình hình các khu kinh tế cửa khẩu Việt Nam nằm
tại các vùng tiếp giáp với 3 nước láng giềng Trung Quốc, Lào và Campuchia.
Và nhận định: Từ việc áp dụng các chính sách thí điểm trước đây, đặc biệt là
Quyết định 53/2001/QĐ-TTg, các khu kinh tế cửa khẩu đã có những tác dụng
tích cực, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
tỉnh cũng như của cả nước. Bên cạnh đó, tác giả còn nhận định: Hạn chế lớn

nhất của các khu kinh tế cửa khẩu hiện nay là do vị trí của các khu kinh tế cửa
khẩu Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia ở xa các trung tâm kinh tế và hệ
thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn kém, đòi hỏi nhu cầu đầu tư lớn.
- Thuốc nào cho hội chứng kinh tế cửa khẩu của Lâm Chí Công và
Hồng Thủy, Báo Lao động, số 104 (4), 2007.
Bài viết kiến nghị: Trung ương cần sớm tổng kết mô hình kinh tế cửa
khẩu, để từ đó lập lại bản đồ các khu kinh tế cửa khẩu toàn quốc một cách
hợp lý, trên cơ sở đó xác định những khu kinh tế cửa khẩu nào là quan trọng,
có hướng phát triển tốt để tập trung nguồn lực, đẩy nhanh tốc độ phát triển;
hạn chế đầu tư dàn trải, chia đều như hiện nay.
Tuy nhiên, do giới hạn lịch sử và đến nay chưa có một đề tài nào
nghiên cứu và trình bày một cách có hệ thống về "Khu kinh tế cửa khẩu Đồng
Tháp trong hội nhập kinh tế quốc tế", để qua đó đề xuất những giải pháp phát
triển khu kinh tế cửa khẩu quốc tế ở Đồng Tháp nhằm thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh, khu vực và cả nước.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
- Phân tích cơ sở lý luận khu kinh tế cửa khẩu trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế nói chung và Việt Nam.
- Từ cơ sở lý luận làm căn cứ khoa học để đánh giá thực trạng hoạt
động của khu KTCK Đồng Tháp về kết quả, hạn chế, những vấn đề đặt ra và
nguyên nhân. Đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển



6

khu kinh tế cửa khẩu mang lại hiệu quả theo định hướng phát triển chung của
Tỉnh và của khu kinh tế cửa khẩu Đồng Tháp.
3.2. Nhiệm vụ

- Nghiên cứu một số vấn đề chung về khu kinh tế cửa khẩu đối với phát
triển kinh tế - xã hội nói chung của cả nước và của tỉnh Đồng Tháp.
- Trình bày quan điểm, giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò khu kinh
tế cửa khẩu Đồng Tháp trong những năm tới.
4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Phát triển các khu kinh tế cửa khẩu là vấn đề mới, luận văn tập trung
nghiên cứu, phân tích đánh giá tình hình thực hiện một cách có hệ thống từ
khi có Quyết định số 53/2001/QĐ-TTg ngày 19 tháng 4 năm 2001 của Thủ
tướng Chính phủ về “chính sách đối với Khu kinh tế cửa khẩu biên giới” đến
năm 2007.
Các số liệu tham khảo chủ yếu từ năm 2001 đến năm 2007.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài áp dụng phương pháp nghiên cứu khoa học của chủ nghĩa Mác
- Lênin; kết hợp logíc với lịch sử. Đặc biệt là các phương pháp nghiên cứu
kinh tế chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Luận văn kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của một số tác giả
liên quan đến vấn đề này.
- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp;
thống kê, so sánh, mô hình
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.




7

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỂN

VỀ KHU KINH CỬA KHẨU TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.1. KHU KINH TẾ CỬA KHẨU VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động khu kinh tế cửa khẩu
Thuật ngữ khu kinh tế cửa khẩu mới được dùng ở Việt Nam trong một
số năm gần đây, khi quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam với Trung
Quốc, với Lào và Campuchia đã có bước phát triển mới đòi hỏi phải có mô
hình kinh tế phù hợp nhằm khai thác các tiềm năng, thế mạnh kinh tế của các
nước thông qua cửa khẩu biên giới.
Theo quá trình lịch sử, khái niệm khu kinh tế cửa khẩu được hình thành
trên cơ sở các khái niệm liên quan:
Trước hết, khái niệm: “Giao lưu kinh tế qua biên giới” theo nghĩa hẹp,
gồm các hoạt động trao đổi thương mại giữa cư dân, các doanh nghiệp nhỏ
đóng tại địa bàn biên giới xác định, thường là những nơi có các cửa khẩu biên
giới. Những hình thức này có thể được thực hiện ở các dạng chợ biên giới,
thậm chí ở các đường mòn biên giới với một khối lượng hàng hoá và giá trị
theo quy định của Nhà nước hoặc chính quyền địa phương. Với nhiều mức độ
khác nhau, giao lưu kinh tế theo nghĩa hẹp là hình thức diễn ra phổ biến ở tất
cả các quốc gia có đường biên giới chung trong điều kiện hoà bình. Tuy
nhiên, điều dễ thấy là quy mô, mức độ hoạt động kinh tế - thương mại, diễn ra
khác nhau giữa các vùng, miền, khu vực biên giới cả nước vì nó phụ thuộc
vào nhiều nguyên nhân khác nhau: trình độ phát triển kinh tế; điều kiện tự
nhiên; vị trí địa lý; chính sách biên mậu; các tiềm năng, thế mạnh tại chỗ; sự
ổn định về an ninh chính trị, …Vì vậy, xuất hiện một nội dung rộng hơn, bao
quát hơn về “giao lưu kinh tế - thương mại, đầu tư khoa học và công nghệ qua
các cửa khẩu biên giới”, giữa các quốc gia có đường biên giới chung. Khái
niệm này có nghĩa rộng hơn không chỉ đơn thuần là buôn bán, trao đổi hàng




8

hoá thông thường, mà còn bao hàm cả các hoạt động về hợp tác khoa học –
công nghệ, đầu tư, hoạt động xuất nhập khẩu, liên doanh phát triển kết cấu hạ
tầng, du lịch qua biên giới,… Như vậy, giao lưu kinh tế qua biên giới được
phát triển từ hình thái trao đổi hàng hoá đơn giản trở thành các hoạt động sản
xuất kinh doanh đa dạng.
Ngoài ra, trong lịch sử, còn có những hình thức quan hệ kinh tế song
phương hoặc đa phương giữa các quốc gia có đường biên giới chung, hoặc
giữa các quốc gia trong khu vực. Các hình thức liên kết kinh tế này, với
những cấp độ khác nhau về nội dung, yêu cầu, hình thức, quy định v.v. mà có
cách gọi khác nhau như: Khu kinh tế thương mại tự do; liên minh thuế quan; thị
trường chung; liên minh kinh tế; liên minh tiền tệ. Ngoài ra, ở những vùng, địa
phương có những điều kiện tự nhiên, kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội khác
nhau đã xuất hiện nhiều hình thức, mô hình liên kết kinh tế cụ thể, bao gồm:
+ Các vùng tăng trưởng kinh tế, là hình thức hợp tác kinh tế giữa các
vùng nằm kề nhau về địa lý của các nước láng giềng, thậm chí ở một số địa
phương cùng một quốc gia, cho phép khai thác những thế mạnh và hỗ trợ lẫn
nhau nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng nhanh hơn về thời gian, thấp hơn về chi
phí. Hơn nữa, chúng còn cho phép tận dụng những ưu điểm, bổ sung lẫn nhau
trong mỗi thành viên để đạt hiệu quả kinh tế với quy mô lớn.
+ Các thoả thuận về thương mại miễn thuế giữa các quốc gia, thực hiện
các quy định miễn trừ thuế quan cho một số loại hàng hoá được trao đổi giữa
các thành viên, là cơ sở để phát triển tới hình thức liên kết kinh tế cao hơn, đó
là liên minh thuế quan. Hình thức này đã được phát triển ở một số nước như
Trung Quốc, Ấn Độ, Nê Pan, …
+ Các đặc khu kinh tế như khu công nghiệp, khu chế xuất,… được áp dụng
ở một số nước: Trung Quốc, các nước ASEAN trong vài thập kỷ gần đây.
Như vậy, từ tính chất đa dạng trong các loại hình và yếu tố quyết định đến
sự lựa chọn một hình thức cụ thể phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, những

điều kiện cần và đủ để quyết định những loại hình phù hợp, có hiệu quả. Thông
qua các hình thức, các cấp độ phát triển khác nhau của liên kết kinh tế, căn cứ theo



9

đặc điểm của một loại hình kinh tế cửa khẩu cho phép áp dụng những chính sách
riêng trong một phạm vi không gian, thời gian xác định mà ở đó đã có giao lưu
kinh tế biên giới phát triển sẽ hình thành khu kinh tế cửa khẩu.
Ở Việt Nam, Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008
của Chính phủ Quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế, tại
Chương I, Điều 2, mục 4 có nêu:
Khu kinh tế cửa khẩu là khu kinh tế hình thành ở khu vực biên
giới đất liền có cửa khẩu quốc tế hoặc cửa khẩu chính và được thành
lập theo các điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này.
Khu kinh tế, khu kinh tế cửa khẩu được gọi chung là khu kinh
tế, trừ trường hợp quy định cụ thể [21, tr.2].
Theo đó, tại Điều 7, mục 2 về “Điều kiện thành lập khu kinh tế cửa
khẩu” có nêu:
a) Phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển khu kinh tế đã
được phê duyệt;
b) Có cửa khẩu quốc tế hoặc cửa khẩu chính được quy định tại
Nghị định số 32/2005/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2005 của Chính
phủ về Quy chế cửa khẩu biên giới đất liền; bao gồm các đơn vị
hành chính liền kề, không tách biệt về không gian;
c) Kết nối thuận lợi với các trục giao thông huyết mạch của
quốc gia; giao lưu thuận tiện với các nước láng giềng qua cửa khẩu
biên giới đất liền của nước bạn; có điều kiện thuận lợi và nguồn lực
để đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật;

d) Đáp ứng yêu cầu phát triển tổng hợp của khu kinh tế cửa
khẩu bao gồm các hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu, tạm nhập
tái xuất, vận chuyển hàng hóa quá cảnh, sản xuất công nghiệp, du
lịch, dịch vụ; có điều kiện phát huy tiềm năng tại chỗ và các vùng
xung quanh; có khả năng phát triển thương mại và thu hút đầu tư;
đ) Gắn kết giữa phát triển kinh tế với việc giữ vững an ninh,
chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc gia tại khu
vực biên giới;



10

e) Không tác động tiêu cực đến các khu bảo tồn thiên nhiên;
không gây ảnh hưởng xấu và làm tổn hại đến các di sản văn hóa vật
thể, danh lam thắng cảnh, các quần thể kiến trúc có giá trị lịch sử,
thẩm mỹ, khoa học; có điều kiện đảm bảo yêu cầu về môi trường,
môi sinh và phát triển bền vững [21, tr.5-6].
Qua những vấn đề nêu trên, chúng ta có thể hiểu: Khu kinh tế cửa khẩu
là một không gian kinh tế xác định gắn với cửa khẩu, có dân cư hoặc không
có dân cư sinh sống và được thực hiện những cơ chế, chính sách phát triển
riêng phù hợp với đặc điểm ở đó nhằm đưa lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao
hơn, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
Từ khái niệm cho thấy khu kinh tế cửa khẩu có những đặc điểm giống
và khác so với các mô hình kinh tế: khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu
chế xuất, khu kinh tế - quốc phòng,… Để rõ hơn về khu kinh tế cửa khẩu,
chúng ta xem xét nó trong sự so sánh với các mô hình kinh tế khác:
Một là, khu công nghiệp: là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản
xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có
ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, hưởng một số chế độ ưu

tiên của Chính phủ hoặc địa phương, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính
phủ quyết định thành lập.
Hai là, khu công nghệ cao: là khu tập trung các doanh nghiệp công
nghiệp kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ
cao, gồm nghiên cứu, triển khai khoa học – công nghệ, đào tạo các dịch vụ có
liên quan, có ranh giới địa lý xác định, được hưởng chế độ ưu tiên nhất, do
Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
Ba là, khu chế xuất: là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất
hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho hàng xuất khẩu với hoạt động xuất
khẩu, có ranh giới xác định, không có dân cư sinh sống, được hưởng một số
chế độ ưu tiên đặc biệt của Chính phủ, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính
phủ quyết định thành lập.



11

Bốn là, khu kinh tế - quốc phòng: là vùng lãnh thổ và dân cư thuộc các
xã đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa trên địa bàn chiến lược, biên giới,
ven biển, được đầu tư xây dựng phát triển kinh tế, xã hội gắn với quốc phòng
– an ninh theo Quyết định số 277/QĐ-TTg ngày 31/3/2000 của Thủ tướng Chính
phủ; do quân đội đảm nhiệm, lấy đơn vị kinh tế quốc phòng làm nòng cốt.
Từ những quan niệm trên cho thấy, khu công nghiệp, khu chế xuất và khu
công nghệ cao là các loại hình của khu kinh tế, chúng có những đặc điểm khác
nhau xuất phát từ mục đích, đối tượng tham gia, mối liên kết của chúng với nền
kinh tế. Khu Công nghiệp thường được thành lập ở những vùng khó khăn về
kinh tế, nơi có đông dân cư, có nguồn tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý thuận
lợi. Được nhận sự ưu tiên nhất định từ phía Chính quyền địa phương và Chính
phủ, có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương. Khu công nghiệp bao gồm
những doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp nước ngoài. Khu chế xuất cũng

được xác định là khu công nghiệp nhưng tập trung những doanh nghiệp chuyên
sản xuất, chế biến các hàng xuất khẩu, được sự ưu tiên đặc biệt của Chính phủ,
có vai trò then chốt trong việc chuyển từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế
mở cửa. Còn khu công nghệ cao, điểm khác biệt chính là ở mục đích phát triển
công nghệ kỹ thuật cao, thu hút công nghệ nước ngoài, tiếp thu và chuyển giao
công nghệ cao, nâng cao năng lực công nghệ trong nước [37, tr.15].
Khu kinh tế - quốc phòng cũng nhằm phát triển kinh tế như các loại hình
khu kinh tế kể trên, nhưng điểm khác biệt cơ bản là để xây dựng và phát triển nó
không những cần có chính sách ưu tiên của Nhà nước mà quan trọng hơn là có sự
tham gia trực tiếp của Nhà nước vào các quá trình kinh tế - xã hội thông qua hoạt
động của các lực lượng quân đội nhằm tạo lập những cơ sở ban đầu cho phát triển
kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa, kinh tế thị trường, hội nhập.
Từ những đặc điểm cơ bản của các loại hình kinh tế trên cho thấy, khu
kinh tế cửa khẩu có đặc điểm giống và khác cơ bản, như sau:
Những đặc điểm giống nhau: về tư cách pháp nhân, các mô hình kinh
tế này đều được thành lập do quyết định của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính



12

phủ; được hưởng một số chế độ ưu đãi của Chính phủ và chính quyền địa
phương; có một không gian kinh tế xác định. Các khu kinh tế này đều nhằm mục
đích nâng cao hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, thông qua việc phát
huy đặc điểm hoạt động của từng loại hình với vùng hay kinh tế cả nước.
Những đặc điểm khác nhau: Điểm khác nhau dễ thấy giữa khu kinh tế cửa
khẩu với các hình thức kinh tế nói trên là ở vị trí và điều kiện hình thành. Để thành
lập đuợc khu kinh tế cửa khẩu, điều kiện tiên quyết là phải gắn với vị trí cửa khẩu
(hoặc biên giới quốc gia với nhau để hình thành cửa khẩu), là khu vực có hoặc
không có dân cư sinh sống, có các doanh nghiệp trong nước, ngoài nước. Mục

đích thành lập khu kinh tế cửa khẩu nhằm ưu tiên phát triển thương mại, xuất nhập
khẩu, dịch vụ, du lịch và công nghiệp. Trong đó, quan trọng nhất là hoạt động
thương mại, dịch vụ gồm có: hoạt động xuất nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, vận
chuyển hàng hoá quá cảnh, kho ngoại quan, cửa hàng miễn thuế, hội chợ triển
lãm, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, các cơ sở sản xuất, gia công hàng xuất khẩu và
các chi nhánh đại diện các công ty nước ngoài, trong nước, chợ cửa khẩu. Khác
với khu chế xuất và khu công nghiệp, nguồn hàng hoá để trao đổi ở khu kinh tế
cửa khẩu có thể là tại chỗ, có thể là nơi khác đưa đến. Các chính sách ưu tiên cũng
khác nhau phù hợp với từng loại hình và địa phương nơi chúng được thành lập.
Một vấn đề cần lưu ý là do đặc điểm riêng có, khu kinh tế cửa khẩu đặt lên hàng
đầu là các hoạt động về thương mại, dịch vụ, gắn với cửa khẩu chịu sự tác động
mạnh mẽ của khu vực kinh tế, chính sách biên mậu của các nước láng giềng có
đường biên giới chung. Do vậy, nguồn hàng hóa tại chỗ và từ nơi khác (các vùng
kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất) là rất quan trọng để đảm bảo hiệu quả
hoạt động của nó. Mặt khác, hoạt động của khu kinh tế cửa khẩu còn liên quan
nhiều đến thông lệ quốc tế, vấn đề chủ quyền, an ninh biên giới, các chính sách
chung của hai nước thông qua cặp cửa khẩu và hệ thống các đường giao thông.
Từ phân tích đặc điểm giống và khác nhau, có thể khái quát mô hình
khu kinh tế cửa khẩu theo cách tiếp cận đối với từng vùng, địa phương nước
ta cho phù hợp, đó là:



13

Thứ nhất, tiếp cận theo mô hình không gian: là mô hình đòi hỏi được
xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản như tôn trọng chủ quyền, lãnh thổ,
vùng trời, vùng biển, thềm lục địa, các hiệp định và hiệp ước quốc tế, đảm
bảo sự phối hợp tốt tất cả các yếu tố để các quốc gia có đường biên giới chung
đều có lợi, đảm bảo về môi trường, sự phối hợp các nguồn lực khi triển khai;

tìm hiểu các yếu tố tương đồng, các vị trí tạo ra khả năng phát triển đối xứng.
Mặt khác, có mối liên hệ tốt trong nội địa để bù đắp sự thiếu hụt về nguồn lực
và trao đổi hàng hoá, cũng như tránh các vị trí bất lợi xảy ra tranh chấp, lấn
chiếm, nơi chứa chấp các hoạt động tội phạm. Trong mô hình không gian có
một số loại hình cụ thể sau đây:
- Mô hình đường thẳng: Đây là mô hình có ưu điểm là một mặt giảm sự tập
trung cao về biên giới, một mặt có thể sử dụng kênh hàng hoá xuất khẩu, nhập
khẩu trên cơ sở đường giao thông. Vì thế nó phải có các tuyến đường sắt, đường
bộ hoặc đường sông, kèm theo đó là các khu công nghiệp, đô thị, cảng biển ở mỗi
bên với một cự ly hợp lý. Thông thường, mô hình này được lựa chọn ở những nơi
có lối mòn dân cư hai bên qua lại, do nhu cầu trao đổi tăng, giao thông phát triển
thành cửa khẩu. Đây là mô hình cơ sở cho các mô hình khác (hình 1. 1 a).
- Mô hình có quạt giao nhau ở cán: là mô hình dựa trên cơ sở hai bên
đã có hàng loạt các đô thị, khu công nghiệp có khoảng cách thích hợp với
đường biên giới, khoảng cách này được hình thành tự nhiên hoặc do quy ước
giữa hai bên, việc trao đổi hàng hoá tập trung về khu kinh tế theo đường giao
thông gần nhất. Mô hình này có tính tập trung cao về thương mại, còn gọi là
khu thương mại tự do (hình 1. 1. b).
- Mô hình quạt giao nhau ở cánh: là mô hình được xây dựng dựa trên
việc các đô thị, khu công nghiệp tập trung, hàng hoá ở hai bên trao đổi phân
tán ở nhiều cặp chợ biên giới, thích hợp cho những nơi có địa hình bằng
phẳng, đông dân cư (hình 1. 1. c).
- Mô hình lan toả: mô hình lan toả được sử dụng thích hợp dựa trên cơ
sở tập quán sinh hoạt của dân cư, phù hợp với các cặp chợ, thị trấn ven đường



14

biên giới. Sử dụng mô hình này sẽ tận dụng được các yếu tố tự nhiên, các công

trình kết cấu hạ tầng sẵn có hoặc hai bên cùng hợp tác xây dựng (hình 1. 1. d).
Hình 1.1: Một số mô hình khu kinh tế cửa khẩu

Hình 1.1.a: mô hình đường thẳng Hình 1.1.b: Mô hình quạt giao ở
cán

Hình 1.1.c: Mô hình quạt giao ở cánh Hình 1.1.d: Mô hình lan
tỏa

Khu kinh tế cửa khẩu: Đường biên giới:

Đường giao thông đô thị: Khu công nghiệp:



15

Thứ hai, mô hình một khu kinh tế cửa khẩu: mô hình này phải đảm bảo
một số nguyên tắc cơ bản như thuận lợi cho việc kiểm soát các phương tiện,
người, hàng hóa qua lại, được thiết kế chi tiết cho hai khu đô thị giáp nhau,
đồng thời phối hợp, hổ trợ các công trình công cộng gồm điện nước, chiếu
sáng, cây xanh, môi trường đảm bảo dịch vụ tốt cho người lưu thông, hàng
hoá, phương tiện quá cảnh. Có 2 mô hình cụ thể:
- Mô hình đối xứng, được xây dựng trên sự thoả thuận của địa phương hai
nước có đường biên giới chung và cặp cửa khẩu đối diện nhau. Mỗi bên
xâydựng khu kinh tế cửa khẩu độc lập, cạnh tranh cùng phát triển. Do đó, chúng
có những điểm bố trí tương đồng nhau về kết cấu, bao gồm: khu dân cư; khu
thương mại và dịch vụ; khu vui chơi giải trí; khu sản xuất và khu hành chính.
Sơ đồ 1.1: Mô hình khu kinh tế cửa khẩu đối xứng
Khu sản xuất

Các cửa kiểm
soát
Khu hành chính
Khu thương mại
và dịch vụ
Dải phân cách
Khu sản xuất
Các cửa kiểm
soát
Khu hành chính
Khu thương mại
và dịch vụ
- Mô hình đặc biệt, là mô hình liên kết giữa hai quốc gia, tạo ra vùng
lãnh thổ đặc biệt. Sự liên kết này dựa trên hiệp ước, theo đó chỉ ra lãnh thổ
hợp lý, có hàng rào, không có dân cư sinh sống. Mô hình này có nhiều điểm
tích cực khi hai bên cùng nhau phối hợp tốt, có khả năng thu hút đầu tư quốc
tế, tuy nhiên cơ chế quy định trách nhiệm và lợi ích mỗi bên cần rõ ràng để
tránh mâu thuẫn.
Sơ đồ 1.2: Khu kinh tế cửa khẩu đặc biệt
Khu sản xuất (Công ty
liên doanh đầu tư phát
triển và kinh doanh hạ
tầng thuê đất)
Các cửa kiểm
soát
Khu hành
chính
Khu thương mại
dịch vụ


Đường phân cách



16

Khu sản xuất (Công ty
liên doanh đầu tư phát
triển và kinh doanh hạ
tầng thuê đất)
Các cửa kiểm
soát
Khu hành
chính
Khu thương mại
dịch vụ

Thứ ba, mô hình thể chế: Đây là phương thức để nhà nước soạn thảo
chính sách phù hợp với thực tế hoạt động của khu kinh tế cửa khẩu ở các quốc
gia có đường biên giới chung. Việc xây dựng thể chế, chính sách phải đảm
bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, các hiệp định, thoả thuận song phương hoặc
đa phương, truyền thống và tập quán, bản sắc văn hoá của mỗi quốc gia. Đảm
bảo giữ gìn hòa bình, cùng có lợi, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Chủ động cùng trao đổi với nhau những vấn đề cùng tồn tại, vướng mắc, tạo
điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp, cư dân mỗi nước tham gia hoạt động
sản xuất kinh doanh. Những thông tin về tình hình xây dựng cơ chế, chính
sách phát triển khu kinh tế cửa khẩu mỗi nước cần được trao đổi thường
xuyên, cùng phối hợp điều chỉnh, thực hiện cho phù hợp. Các nhóm thông tin
cần được trao đổi thường xuyên bao gồm:
- Khảo sát thực tế nguồn lực trong khu vực hai bên cùng quy ước: Điều

kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hoá, dân tộc, tập quán, các thế mạnh và
những hạn chế được bổ sung.
- Những vấn đề về cơ chế, chính sách chung như đường lối, chủ trương,
chính sách của Nhà nước Trung ương và địa phương, những văn bản pháp lý
gắn với việc xây dựng, phát triển khu kinh tế cửa khẩu, cũng như những hiệp
định, thoả ước có liên quan.
- Các thông tin về chính sách thực hiện cụ thể trong hoạt động xuất
nhập khẩu, các biểu thuế và thủ tục hải quan, thủ tục xuất nhập cảnh đối với
người, phương tiện; những văn bản quy định về đầu tư trong nước và ngoài
nước vào khu vực kinh tế cửa khẩu, cũng như tất cả các biện pháp bảo vệ an
ninh, môi trường cho sự phát triển của khu kinh tế cửa khẩu.



17

- Những văn kiện dự kiến đưa ra trao đổi, thoả thuận và phân cấp hợp
lý giữa hai bên, các dự án phối hợp tiến hành cùng với những đối tác trực tiếp
tham gia.
Do đặc điểm của khu kinh tế cửa khẩu, Nhà nước khoanh vùng một số khu
dân cư, cho phép thí điểm cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện để có một khu
vực phát triển hơn, được Trung ương phân cấp quản lý, trực tiếp chịu tác động của
cơ chế, chính sách kinh tế biên mậu quốc gia có đường biên giới chung.
Do vậy, ở đây có sự giao thoa về cơ chế, chính sách giữa Trung ương,
địa phương và nước bạn, cũng vì lẽ đó, các cơ chế, chính sách cần được xác
định rõ ràng, công khai, tránh mâu thuẫn và triệt tiêu lợi ích của nhau. Trong
điều kiện kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém, đầu tư của nhà nước còn ít mà
yêu cầu về sự phát triển kinh tế ở đây đòi hỏi phải được đẩy mạnh hơn. Vì
vậy, trong một số năm đầu, những nguồn thu từ lệ phí, thuế và các nguồn thu
khác cần được dành lại một phần thích đáng để đầu tư phát triển tại chỗ. Sau

này khi điều kiện, khả năng cho phép sẽ tăng dần sự đóng góp của khu kinh tế
cửa khẩu cho ngân sách nhà nước [37, tr.18-26].
Sự giao thoa thể chế, chính sách tại khu kinh tế cửa khẩu được biểu
diễn dưới dạng mô hình như sau:
Hình 1.3: Mô hình thể chế


2 5 1
4 5
5
3

Mỗi mô hình khu kinh tế cửa khẩu có những đặc điểm, tính chất, nội
dung khác nhau. Sự lựa chọn để xây dựng theo mô hình nào phải căn cứ vào
Trong đó:
1- Chính sách quốc gia.
2- Quy định của địa
phương
3- Chính sách của nước
láng giềng có đường biên
giới chung.
4- Thể chế kinh tế cửa
khẩu.
5- Chính sách hổ trợ khu
kinh tế cửa khẩu.



18


những khác nhau đó và phải phù hợp với thực tiễn điều kiện tình hình kinh tế
- xã hội tại chỗ. Trên cơ sở những yêu cầu đó, có thể chọn một mô hình thích
hợp hoặc kết hợp các mô hình. Quá trình phát triển khu kinh tế cửa khẩu cần bổ
sung hoặc khắc phục những mặt hạn chế để khu kinh tế cửa khẩu ngày càng
hoàn thiện nhằm phát huy đúng mức về lợi thế, hiệu quả kinh tế - xã hội của nó.
Xuất phát từ đặc điểm, điều kiện, yêu cầu sự phát triển biên giới và tình hình
kinh tế - xã hội của hai tỉnh Đồng Tháp – Prâyveng, quá trình xây dựng và phát
triển khu kinh tế cửa khẩu Đồng Tháp nên tiếp cận theo hướng mô hình không
gian đường thẳng là chủ yếu, đồng thời kết hợp với mô hình thể chế.
1.1.2. Vai trò của khu kinh tế cửa khẩu đến sự phát triển kinh tế -
xã hội
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, cùng với sự
phát triển các ngành, các lĩnh vực, các vùng kinh tế, các khu kinh tế cửa khẩu
được hình thành và phát triển nhằm mục đích phát huy lợi thế về quan hệ kinh
tế - thương mại cửa khẩu biên giới. Thu hút các kênh hàng hoá, đầu tư, dịch
vụ và du lịch từ các nơi trong cả nước và từ nước ngoài vào nội địa thông qua
các cơ chế, chính sách ưu đãi tại khu kinh tế cửa khẩu. Chính sự thu hút này
đã làm cho các ngành, các địa phương trong cả nước, tùy theo quy mô, sự hấp
dẫn của cơ chế, chính sách ưu đãi mà thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu sản
xuất, lưu thông hàng hoá cho phù hợp. Trong điều kiện của Việt Nam, yêu
cầu phát triển nền sản xuất hàng hoá nên cần mở rộng thị trường đầu ra, vừa
nhằm tiêu thụ sản phẩm hàng hóa và vừa thu hút đầu tư các nguồn lực từ bên
ngoài, cũng như tiếp thu trình độ khoa học – công nghệ tiên tiến để thúc đẩy
phát triển kinh tế trong nước. Những nhu cầu này sẽ được đáp ứng nếu chúng
ta biết sử dụng, khai thác có hiệu quả mô hình khu kinh tế cửa khẩu. Vì thế
phải mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế để nhanh chóng hội nhập với các nước
trong khu vực, trên thế giới. Điều này càng có ý nghĩa đối với nền kinh tế hàng
hoá chậm phát triển, thị trường nhỏ hẹp, sức mua thấp, khả năng cạnh tranh còn
yếu như nước ta. Về cơ bản vai trò của khu kinh tế cửa khẩu thể hiện:




19

- Xây dựng và phát triển khu KTCK, phát triển kinh tế đối ngoại, thúc
đẩy mạnh mẽ lưu thông hàng hóa, mở rộng thị trường, hội nhập kinh tế khu
vực, quốc tế và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng cửa khẩu.
+ Kinh tế hàng hóa đòi hỏi phải có thị trường để phát triển, vì vậy xây
dựng và phát triển khu KTCK là điều kiện không thể thiếu được để đáp ứng
yêu cầu của sự phát triển sản xuất hàng hóa. Bởi lẽ, một mặt, hàng hóa của
một địa phương, của một tỉnh, một vùng, của các trung tâm kinh tế và cả nước
có điều kiện lưu thông để xuất khẩu hàng hóa qua khu KTCK đến với nước có
chung đường biên giới, các nước trong khu vực và quốc tế; mặt khác, mỗi địa
phương, mỗi tỉnh, mỗi vùng và cả nước có điều kiện nhập khẩu hàng hóa của
nước ngoài theo nhu cầu của mình. Vì vậy, phát triển khu KTCK vừa có tác
dụng thúc đẩy lưu thông hàng hóa trên thị trường, kích thích đẩy mạnh sản
xuất hàng hóa, thúc đẩy thương mại, dịch vụ, xuất nhập khẩu phát triển, vừa
đáp ứng thỏa mãn ngày tốt hơn nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của toàn xã hội.
Chẳng hạn, khu KTCK Đồng Tháp và các tỉnh có đường biên giới giáp với
Campuchia được mở ra, xây dựng và phát triển sẽ thúc đẩy sự lưu thông hàng
hóa được sản xuất ở Đồng Tháp, các tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long
và của cả nước sang Campuchia, đến các nước GMS và trên thế giới, đáp ứng
nhu cầu phát triển kinh tế đối ngoại, mua bán, xuất nhập khẩu trong nước và
quốc tế. Nước ta có thời kỳ lưu thông và sản xuất hàng hóa không phát triển,
ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội cả nước và đương
nhiên kinh tế cửa khẩu cũng không phát triển được.
+ Xây dựng và phát triển khu KTCK là quá trình tác động trực tiếp,
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội vùng cửa khẩu. Để đáp ứng yêu cầu
thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, vai trò của khu KTCK, thì quá trình xây
dựng khu KTCK đòi hỏi tập trung ở nhiều lĩnh vực, như: một mặt, là tập trung

đầu tư xây dựng các khu chức năng của khu KTCK; xây dựng phát triển kết
cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội khu KTCK (các tuyến đường giao



20

thông, hệ thống bưu chính viễn thông, điện, nước,…); tăng cường các hoạt
động kinh tế thương mại, dịch vụ, xuất khẩu, nhập khẩu, nông nghiệp, công
nghiệp,…. thúc đẩy sự phát triển kinh tế; mặt khác, quá trình xây dựng khu
KTCK, gắn sản xuất xen với các tuyến dân cư dọc biên giới, triển khai các
hoạt động văn hóa, giáo dục, dạy nghề, giải quyết việc làm, chăm lo cho các
gia đình chính sách, chăm sóc sức khỏe nhân dân, tổ chức các hoạt động nhằm
đẩy lùi các tệ nạn xã hội,… sẽ cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân khu
KTCK, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế của địa phương, khu vực, cả nước.
Tóm lại, việc hình thành và phát triển khu kinh tế cửa khẩu thúc đẩy trao
đổi thương mại, phát triển ngành nghề sản xuất, do đó kích thích tăng trưởng
kinh tế và thu nhập dân cư vùng cửa khẩu. Buôn bán tại khu kinh tế cửa khẩu
tăng lên làm giảm bớt tỷ lệ đói nghèo, đời sống nhân dân được nâng từng
bước. Sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu còn tạo điều kiện hình thành các khu
dân cư tập trung dọc biên giới, phát triển kết cấu hạ tầng, các tuyến đường
giao thông, hệ thống bưu chính viễn thông, hệ thống chợ, mạng lưới cung
cấp,… góp phần cải thiện đời sống tinh thần của dân cư, đẩy mạnh giao lưu
kinh tế văn hoá, đầy lùi các tệ nạn xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng khu
vực biên giới, thắt chặt tình hữu nghị giữa hai nước, thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
- Xây dựng và phát triển khu KTCK có vai trò vừa thúc đẩy sự tăng
trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và các thành phần kinh tế,
vừa thúc đẩy phát triển văn hóa – xã hội của tỉnh và khu vực và cả nước từng
bước thích ứng với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Xây dựng, phát triển khu KTCK không chỉ là mục đích tự thân, mà còn
có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội lan tỏa đến các lĩnh vực có liên
quan đến khu KTCK, thể hiện:
Góp phần tăng trưởng kinh tế: Trao đổi kinh tế thương mại ở khu kinh tế
cửa khẩu góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Tỉnh



21

theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Theo đó tỷ trọng lao động và GDP
của ngành công nghiệp – xây dựng và thương mại - dịch vụ tăng với tốc độ
cao. Khơi dậy tiềm năng thế mạnh của Tỉnh, vùng, từ đó giảm bớt những khó
khăn trong sản xuất kinh doanh, giúp địa phương và vùng phụ cận cải thiện cơ
bản tình hình kinh tế - xã hội. Thúc đẩy sự ra đời trong tương lai một số trung
tâm thương mại quan trọng. Hoạt động của khu kinh tế cửa khẩu còn tạo điều
kiện để địa phương thu hút đầu tư từ các thành phần kinh tế và từ nước ngoài
để phát triển các ngành kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, phát
triển các ngành dịch vụ. Kết quả những thay đổi nói trên bắt nguồn từ việc
khai thác có hiệu quả khu kinh tế cửa khẩu.
Thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn: phát triển khu kinh tế
cửa khẩu nói chung, khu KTCK Đồng Tháp nói riêng góp phần công nghiệp
hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn. Thông
qua hoạt động của khu kinh tế cửa khẩu, các sản phẩm nông nghiệp có được
thị trường tiêu thụ, hạ giá thành, nâng cao chất lượng. Mặt khác, chúng ta sẽ
có điều kiện nhập từ nước khác những thiết bị, vật tư, giống cây trồng, vật
nuôi cần thiết, học hỏi được nhiều kinh nghiệm của nước ngoài để phát triển
nông nghiệp. Sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu còn tạo điều kiện thúc đẩy
quá trình đô thị hoá nông thôn, biên giới, tạo thêm nhiều ngành công nghiệp,
dịch vụ thu hút lao động nông nghiệp, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá,

hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của tỉnh, của vùng và cả nước.
Thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp: khu kinh tế cửa khẩu sẽ tại
môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ, khai thác hiệu
quả nguồn tài nguyên và nhân lực để phát triển các ngành công nghiệp địa
phương cũng như khả năng hợp tác để phát triển các ngành công nghiệp mới
như bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, các ngành chế tạo, công
nghiệp chế biến.



22

Quá trình phát triển khu kinh tế cửa khẩu sẽ tạo điều kiện cải thiện đáng
kể hệ thống kết cấu hạ tầng của Tỉnh. Hệ thống đường bộ, đường sông, bến
cảng, thông tin liên lạc,… sẽ từng bước được thực hiện đại hoá. Điều kiện kết
cấu hạ tầng được cải thiện sẽ góp phần làm cho các ngành kinh tế phát triển,
tăng sức đầu tư, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Mở rộng hoạt động du lịch: Phát triển khu kinh tế cửa khẩu sẽ tạo điều
kiện để khai thác tốt hơn tiềm năng du lịch. Khách du lịch nước ngoài sẽ có
điều kiện tiếp cận với các trung tâm du lịch của nhau, thông qua đó đến các
khu du lịch khác trong tỉnh và cả nước.
Việc hình thành và phát triển khu kinh tế cửa khẩu thúc đẩy trao đổi
thương mại, phát triển ngành nghề sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế do đó
kích thích tăng trưởng kinh tế và thu nhập dân cư. Buôn bán tại khu kinh tế
cửa khẩu cũng làm giảm bớt tỷ lệ đói nghèo, đời sống nhân dân được nâng
từng bước. Sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu còn tạo điều kiện hình thành
các khu dân cư tập trung dọc biên giới, phát triển kết cấu hạ tầng, các tuyến
đường giao thông, hệ thống bưu chính viễn thông, hệ thống chợ, mạng lưới
cung cấp,… góp phần cải thiện đời sống tinh thần của dân cư, đẩy mạnh giao
lưu kinh tế văn hoá, giữ vững an ninh quốc phòng khu vực biên giới, thắt chặt

tình hữu nghị giữa hai nước, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới.
Thúc đẩy quan hệ hợp tác về khoa học, giáo dục - đào tạo và các lĩnh
vực khác: Phát triển khu kinh tế cửa khẩu sẽ là cơ sở để thúc đẩy quan hệ hợp
tác về khoa học, đào tạo – đào tạo. Cùng với việc thực hiện các chương trình
hợp tác kinh tế hai bên sẽ có điều kiện trao đổi nghiên cứu khoa học, phối hợp
đào tạo.
Thúc đẩy các hoạt động đối ngoại, tăng cường mối quan hệ với các nước
láng giềng, trước nhất là những nước có đường biên giới chung, nhằm khai
thác lợi thế của mỗi bên, phát triển kinh tế đối ngoại.



23

Các hoạt động trên sẽ tác động đến việc thay đổi, bố trí lại cơ cấu lao
động, các thành phần kinh tế, phát triển các ngành kinh tế, các vấn đề văn hóa
- xã hội, tạo thêm công ăn, việc làm góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng cao
mức sống vật chất, tinh thần cho nhân dân địa phương.
Thực tế, quá trình phát triển khu kinh tế cửa khẩu Đồng Tháp trong
những năm qua, quan hệ ngoại giao, kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng kết
cấu hạ tầng, vấn đề an ninh, quốc phòng giữa Đồng Tháp – Prâyveng đã phát
triển hơn trước. Phát triển khu kinh tế cửa khẩu Đồng Tháp càng tạo điều kiện
để 2 nước Việt Nam – Campuchia tăng cường hợp tác văn hoá như tôn tạo,
bảo tồn các di tích, thắng cảnh, phát triển kết cấu hạ tầng du lịch như đường
xá, khách sạn, dịch vụ y tế, khu vực chơi giải trí. Ngoài ra, hai nước còn hợp
tác trong việc bảo vệ môi trường, xã hội: sử dụng có hiệu quả tài nguyên
rừng, nước, ngăn chặn tình trạng ô nhiễm môi trường qua biên giới; hợp tác
chống ma tuý, buôn lậu, gian lận thương mại; bảo vệ sức khoẻ cộng đồng,
ngăn ngừa các dịch bệnh lây lan qua biên giới. Tuy nhiên, đi kèm với những

vai trò tích cực do khu kinh tế cửa khẩu đem lại, những vấn đề xã hội nhức
nhối như buôn lậu, ma tuý, mại dâm, khoảng cách giàu nghèo,… vẫn còn.
1.2. SỰ CẦN THIẾT VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN KHU KINH TẾ CỬA KHẨU ĐỒNG THÁP
1.2.1. Sự cần thiết hình thành và phát triển khu kinh tế cửa khẩu
Đồng Tháp
Trong vài thập niên gần đây, Châu Á – Thái Bình Dương được đánh giá
là khu vực phát triển kinh tế thương mại năng động nhất với sự cất cánh kinh
tế của nhiều quốc gia. Khu vực này thu hút nhiều cường quốc kinh tế lớn như
Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Anh, Đức và nhiều nước khác đang trong thời kỳ
phát triển nhanh như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Newzeland,… Tại đây,
đã hình thành nhiều tổ chức liên kết kinh tế khu vực: Diễn đàn hợp tác kinh tế
Châu Á – Thái Bình Dương (APEC); Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á



24

(ASEAN); khu vực thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc v v Những
hình thức liên kết nói trên sẽ tạo thêm điều kiện để các quốc gia trong khu vực
tận dụng những cơ hội toàn cầu hoá đẩy mạnh kinh tế - xã hội phát triển.
Đồng thời tạo ra sức mạnh của khu vực trong việc cạnh tranh với các khu vực
khác. Nhiều dự báo cho rằng thế kỷ XXI, trung tâm kinh tế - thương mại của
thế giới sẽ chuyển sang Châu Á – Thái Bình Dương. Ở khu vực Đông Nam Á,
quá trình hợp tác kinh tế cũng diễn biến ra hết sức mạnh mẽ với việc thành
lập khu vực mậu dịch tự do các nước ASEAN (AFTA), hợp tác các nước tiểu
vùng Mê Kông mở rộng…
Bối cảnh quốc tế thuận lợi nói trên là một trong những điều kiện để Việt
Nam – Campuchia tăng cường mối quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại. Vì
vậy, cùng với các khu KTCK khác, việc xây dựng khu kinh tế cửa khẩu Đồng

Tháp sẽ góp phần tạo điều kiện để hai nước mở rộng quan hệ hợp tác với các
nước trong khu vực và trên thế giới.
Do đó, việc xây dựng khu kinh tế cửa khẩu Đồng Tháp là hết sức cấp
thiết, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về hội nhập kinh tế quốc tế của hai
nước, đặc biệt là yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng, địa phương
trong cả nước. Sự cần thiết phát triển khu kinh tế cửa khẩu Đồng Tháp bao
gồm các nội dung:
Thứ nhất, xây dựng, phát triển khu KTCK Đồng Tháp, vừa là cơ hội,
thách thức, vừa góp phần phát triển kinh tế - xã hội hai nước Việt Nam –
Campuchia.
Về phía Campuchia, năm 1998, khi được thành lập, Chính phủ Liên
hiệp Campuchia khẳng định vẫn theo đuổi những chính sách của Chính phủ
trước dựa trên năm quan điểm: 1). Phát triển dựa trên nguồn lực sẵn có; 2).
Hội nhập nền kinh tế Campuchia vào nền kinh tế thế giới; 3). Phát triển nguồn
tài nguyên con người, cải cách nền hành chính nhà nước; 4). Phát triển kinh tế
gắn với bảo vệ môi trường; 5). Phát triển cân đối bền vững.



25

Trên cơ sở những quan điểm trên, Chính phủ Liên hiệp đã đề ra những
nhiệm vụ ưu tiên trong thời gian trước mắt và các giải pháp đi kèm là: 1. Phát
triển nông nghiệp nông thôn; 2. Phát triển công nghiệp, thương nghiệp và dịch
vụ; 3. Khôi phục cơ sở hạ tầng giao thông vận tải; 4. Khuyến khích đầu tư đặc
biệt là đầu tư nước ngoài.
Đó là những quan điểm và chủ trương đúng đắn. Tuy nhiên, những năm
qua thực hiện những nhiệm vụ đó chưa tiến triển được nhiều. Chẳng hạn,
trong khi mức tăng dân số bình quân những năm trở lại đây là 3,7% thì nhịp
độ tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 4%. GDP bình quân đầu người tăng từ 270

USD năm 1998 lên 280 USD năm 2001. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp vẫn là
chủ yếu, chiếm 41 – 42% GDP cả nước. Thu ngân sách, mới chỉ đảm bảo
khoảng 35 – 40% chi ngân sách, còn lại vẫn trông chờ vào các nguồn viện trợ.
Nguồn thu trong nước, chiếm 1/3 từ thuế nhập khẩu. Dự kiến, trong thời gian
tới khoản thu này cũng sẽ bị giảm dần.
Theo đánh giá của các chuyên gia, tình hình xuất nhập khẩu sẽ ngày
càng khó khăn do thị trường xuất khẩu EU và Mỹ bị thu hẹp, khả năng cạnh
tranh của sản xuất trong nước thấp. Thêm vào đó, việc thực thi Hiệp định
thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, Trung Quốc gia nhập WTO, Khu mậu dịch
tự do ASEAN + Trung Quốc ra đời, sẽ là những thách thức lớn đối với các
ngành công nghiệp non yếu của Campuchia. Nhiều chỉ tiêu về xã hội cũng ít
được cải thiện. Tỷ lệ đói nghèo còn ở mức cao (36%, năm 1999). Tuổi thọ
thấp ở mức đáng ngại (53 tuổi).
Tình hình kinh tế trên của Campuchia cho thấy trong vòng 10 – 15 năm
tới khả năng trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa Việt Nam và Campuchia theo
kiểu bổ sung những hàng hóa thiết yếu và hàng hóa thông dụng ở dạng trung
bình phù hợp với hàng hóa hiện nay của ta còn rất lớn. Luồng hàng tiêu dùng
thiết yếu từ Việt Nam vào Campuchia và luồng hàng từ Thái Lan qua
Campuchia vào Việt Nam (những mặt hàng tiêu dùng cấp cao hơn) sẽ ngày

×