Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Thảo luận nhóm TMU trình bày cơ sở khách quan hình thành, phát triển tư tưởng hồ chí minh và chỉ ra tiền đề lý luận đóng vai trò quyết định trong việc hình thành, phát triển tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.43 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA HTTTKT & THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
~~~~~*~~~~~~

BÁO CÁO THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Lớp học phần: 2124HCMI0111
Đề tài 1: Trình bày cơ sở khách quan hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh và chỉ ra tiền đề lý luận đóng vai trị quyết định trong việc hình thành, phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đề tài 2: Vận dụng chuẩn mực cần cần, kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư trong
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh để xây dựng đạo đức, lối sống cho sinh viên Việt
Nam hiện nay.
Giảng viên hướng dẫn: Tiến sĩ Bùi Hồng Vạn
Nhóm thực hiện: Nhóm 3

Hà Nội, tháng 4 năm 2021
0

0

0


Trường Đại học Thương Mại

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................4


B. PHẦN NỘI DUNG....................................................................................................5
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN...................................................................................................5
1. Cơ sở thực tiễn.................................................................................................5
1.1. Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX....................................5
1.2. Tình hình thế giới cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.......................................6
2. Cơ sở lý luận.....................................................................................................7
2.1. Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam....................................7
2.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại..........................................................................8
II. TIỀN ĐỀ LÍ LUẬN ĐĨNG VAI TRỊ QUYẾT ĐỊNH TRONG VIỆC HÌNH
THÀNH, PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH........................................13
1. Chủ nghĩa Mac – Lenin là tiền đề lí luận đóng vai trị quyết định trong
việc hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.........................................13
2. Lý do chủ nghĩa Mác - Lênin là tiền đề lý luận đóng vai trị quan trọng
trong hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh...................................14
C. PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................................18
I. Ý nghĩa của việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh...............................................18
II. Liên hệ, mở rộng.................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................19

1

0

0


A. PHẦN MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19-5-1890 trong một gia đình nhà Nho, nguồn
gốc nơng dân ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có
truyền thống đấu tranh kiên cường chống chủ nghĩa thực dân. Ngay từ thời niên thiếu,

Hồ Chí Minh đã mang trong mình tình u nước thương dân cùng với sự nhạy bén về
chính trị, Người đã bắt đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong
trào yêu nước lúc bấy giờ và quyết tâm ra đi tìm con đường để cứu dân, cứu nước.
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, trên con tàu Amiran Latusơ Tơrêvin (Amiral
Latouche Tréville) từ bến cảng Nhà Rồng (thành phố Sài Gòn), người thanh niên yêu
nước Nguyễn Tất Thành (bí danh Văn Ba) rời Tổ quốc bắt đầu cuộc hành trình lịch sử
đi tìm đường cứu nước. Trong những năm ở nước Mỹ và nước Pháp, Người dành
nhiều thời gian tìm hiểu về các cuộc cách mạng nổi tiếng thế giới là cách mạng Mỹ
(1776) với bản “Tuyên ngôn Độc lập” và cách mạng tư sản Pháp (1789) bản “Tuyên
ngôn Nhân quyền và dân quyền”. Người rất khâm phục tinh thần cách mạng ở những
nước này, nhưng Người không lựa chọn con đường cách mạng tư sản, bởi theo Người,
đó là những cuộc cách mạng “khơng đến nơi”, khơng triệt để vì nó khơng hề đề cập
đến vấn đề giải phóng mọi tầng lớp nhân dân lao động khỏi sự áp bức, bóc lột, bất
cơng: “Kách mệnh Mỹ cũng như kách mệnh Pháp là kách mệnh tư bản, kách mệnh
khơng đến nơi, tiếng là cộng hịa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước đoạt cơng nơng,
ngồi thì nó áp bức thuộc địa”
Tháng 7 năm 1920, Người đã được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin (thường được gọi là Luận cương
của Lênin) đăng trên báo Nhân đạo (L'Humanité) Pháp. Trong bóng tối dày đặc của
chủ nghĩa thực dân, ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin đem đến cho Hồ Chí Minh về
một nhãn quan chính trị mới. Người đã kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin để ngày nay chúng ta có Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, tư tưởng
2

0

0


lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn của chân lý, lấy sự hợp lịng dân, phù hợp với hồn cảnh

thực tế làm thước đo cho sự đúng đắn và hiệu quả của mọi đường lối chủ trương, chính
sách. Để hiểu rõ hơn về Tư tưởng Hồ Chí Minh và biết được đâu là cơ sở hình thành,
tiểu luận này sẽ đi sâu vào phân tích đề tài “Trình bày cơ sở khách quan hình thành,
phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh và chỉ ra tiền đề lý luận đóng vai trị quyết định
trong việc hình thành, phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh”
B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Cơ sở thực tiễn
1.1. Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
Trong xã hội Việt Nam nổi lên hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể
dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với địa chủ
phong kiến. Các phong trào yêu nước cũng theo hai khuynh hướng: phong kiến và tư
sản. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến: Các cuộc khởi nghĩa vũ
trang tiếp tục khẳng định tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất chống xâm lược của dân
tộc ta và làm cho thực dân Pháp tổn thất nặng nề, không ổn định thống trị hàng chục
năm trời. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản: phong trào yêu
nước Việt Nam diễn ra sôi nổi theo khuynh hướng bạo động vũ trang do Phan Bội
Châu lãnh đạo và khuynh hướng cải cách dân chủ do Phan Châu Trinh (1782 – 1926)
tổ chức. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản phản ánh tinh
thần dân tộc của một bộ phận trí thức, tư sản Việt Nam nhưng tất cả đều thất bại. Nhìn
chung, nhân dân ta có tinh thần u nước vơ cùng quyết liệt, ý chí chiến đấu anh hùng
bất khuất nhưng các phong trào yêu nước đều thất bại, nguyên nhân chính là do thiếu
đường lối đúng đắn, các giai cấp đấu tranh đã khơng cịn đủ tiềm lực cả về kinh tế lẫn
chính trị.
Thời kỳ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỷ XX chính sách thống trị của thực dân Pháp
đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa
và xã hội. Trong đó, đặc biệt là sự ra đời hai giai cấp mới là công nhân và tư sản Việt
Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người
dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột.
Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngồi mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là

nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn ngày càng gay gắt
3

0

0


trong đời sống dân tộc đó là: mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân
Pháp xâm lược. Giai đoạn này, cách mạng Việt Nam đang ở thời kỳ khủng hoảng, bế
tắc về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo. Cách mạng Việt Nam ví như “trong
đêm tối khơng có đường ra”. Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về
đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo
lối cũ thì ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc,
Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới.
Đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, ngày 17/6/1929, Kỳ Bộ Bắc
Kỳ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng tại
Hà Nội. Ngày 1/1/1930, những đại biểu ưu tú của Tân Việt cách mạng Đảng (một tổ
chức tiền thân của Trách nhiệm lịch sử là phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất,
chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam. Từ ngày 6/1 đến ngày
7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kì mới
cho cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc.
1.2. Tình hình thế giới cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó: Cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc
quyền. Các đế quốc đua nhau xâm lược các nước châu Á, châu Phi và Mĩ la tinh. Sự
xâm lược và bóc lột thực dân làm cho nhân dân các thuộc địa rất khổ cực. Mâu thuẫn
giữa các đế quốc với các dân tộc thuộc địa và mâu thuẫn giữa các đế quốc với nhau rất
gay gắt.

Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc đã dẫn đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1914
- 1918); đế lại cho nhân dân thế giới những hậu quả rất nặng nề. Thực dân Pháp trút
gánh nặng, tăng cường bóc lột, đàn áp cách mạng các nước thuộc địa.
Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin: Đầu thế kỷ XX, V.I. Lênin (1870 –
1924) đã bảo vệ và phát triển học thuyết Mác, đưa ra lý luận về đảng vô sản kiểu mới
của giai cấp công nhân, về cách mạng vô sản trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc; về
nhiệm vụ kinh tế và chính trị trong xây dựng chủ nghĩa xã hội... Sự phát triển của chủ
nghĩa Mác– Lênin đã thúc đẩy phong trào cách mạng thế giới phát triển.

4

0

0


Tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga và Quốc tế Cộng sản: Thắng lợi của
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 làm rung chuyển thế giới, thức tỉnh hàng triệu
người, mở ra thời đại cách mạng chống đế quốc và giải phóng dân tộc.
Ảnh hưởng tới Việt Nam: Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trị quan
trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam. Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định vai trò của tổ chức này đối với cách mạng nước
ta là: "An Nam muốn cách mệnh thành cơng, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế".
2. Cơ sở lý luận
2.1. Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Trước hết, truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta được thể hiện ở chủ nghĩa yêu
nước chân chính, tinh thần bất khuất, kiên cường và ý thức độc lập, tự chủ, tự tôn dân
tộc. Đây là yếu tố cốt lõi, là dòng chảy xuyên suốt thơi thúc Chủ tịch Hồ Chí Minh ra
đi tìm đường cứu nước, cũng chính là cơ sở dẫn Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,
đến với con đường cứu nước trong thời đại mới “Muốn cứu nước và giải phóng dân

tộc, khơng có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản. Sau này, trong bài
viết Con đường tôi dẫn đến chủ nghĩa Lênin, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh
“Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin
theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba"…
Tư tưởng yêu nước của Hồ Chí Minh chính là yêu Tổ quốc và nhân dân, coi việc
đánh đổ ách thống trị của đế quốc, thực dân và ngoại bang, giải phóng dân tộc, mang
lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân là lòng yêu nước chân chính, sâu sắc
và triệt để. Vì thế, khi thấu hiểu rằng “tinh thần yêu nước cũng như các thứ của q.
Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có
khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hịm”, Người đã khơi dậy lòng yêu nước của
mỗi người dân Việt Nam, coi đó là “chìa khóa vàng” để xây dựng, củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân, tổ chức, lãnh đạo họ thực hiện mục tiêu giành độc lập, tự do cho Tổ
quốc, hạnh phúc cho nhân dân.
Thứ hai, ý thức tự lực tự cường, truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái của
dân tộc Việt Nam. Tương thân, tương ái là truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc ta.
Những con người có lương tri bao giờ cũng muốn gắn bó với nhau, cùng nhau “chia
ngọt sẻ bùi”. Đây chính là bản chất lương thiện và bản chất xã hội của con người, tạo
nên cộng đồng dân tộc và cộng đồng thế giới.
5

0

0


Tục ngữ, ca dao Việt Nam nói nhiều về lịng tương thân tương ái: “Lá lành đùm
lá rách”, “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”... Có lẽ hơn bất cứ dân tộc nào trên thế
giới, dân tộc Việt Nam từ bao đời nay, luôn luôn phải chiến đấu chống thù trong giặc
ngồi; ln ln phải đấu tranh với thiên tai khắc nghiệt nên tinh thần tương thân
tương ái trở thành phẩm chất tiêu biểu của con người Việt Nam, trở thành đặc trưng

bản sắc của văn hóa Việt Nam và hơn thế nữa, nó trở thành yêu cầu tất yếu để dân tộc
và đất nước Việt Nam tồn tại và phát triển.
Thứ ba, giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam không thể không nhắc
đến tinh thần lạc quan, yêu đời. Lạc quan là một thái độ sống vơ cùng quan trọng góp
phần tạo nên một cuộc sống tốt đẹp đối với tất cả mọi người. Chúng ta cần phải biết và
ý thức được giá trị của phẩm chất này. Nó khơng chỉ góp phần tạo nên một cuộc sống
tốt đẹp cho bản thân chúng ta mà những điều đó tạo nên một cuộc sống hạnh phúc và ý
nghĩa hơn. Tinh thần lạc quan xuất phát từ thái độ sống của con người. Chúng ta cần
phải có một thái độ sống đúng, có như vậy cuộc sống sẽ tràn đầy ý nghĩa và hạnh phúc
hơn.
Thứ tư, dân tộc Việt Nam có truyền thống hiếu học, cần cù, chịu khó, sáng tạo
thơng minh trong sản xuất và chiến đấu. Muốn được sống trong ấm no, hạnh phúc thì
phải siêng năng, cần cù. "Có làm thì mới có ăn - Không dưng ai dễ đem phần đến cho"
là một lời khuyên chí lí. Muốn dân giàu, nước mạnh thì người người phải lao động,
nhà nhà phải lao động; lao động một cách cần cù, siêng năng.
2.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
Nét đặc sắc trong q trình hình thành tư tưởng, nhân cách và văn hóa Hồ Chí
Minh là sự kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa phương Đơng và những thành
tựu hiện đại của văn minh phương Tây.
Đối với văn hóa phương Đơng, bằng những hiểu biết uyên bác về Hán học, Hồ
Chí Minh đã chắt lọc lấy những gì tinh túy nhất trong các học thuyết triết học hay
trong tư tưởng của Lão Tử, Mặc Tử, Quản Tử... Hồ Chí Minh cũng sớm chịu ảnh
hưởng của Nho giáo, nền học vấn đầu tiên mà Người tiếp nhận. Người xuất thân trong
một gia đình nhà Nho: phụ thân là cụ Nguyễn Sinh Sắc, một nhà Nho lớn, thầy dạy
thuở ban đầu của Người. Quê hương xứ Nghệ là một vùng văn hóa có nhiều ảnh
hưởng của Nho giáo. Ngồi ra, Người cịn có thời gian sống và học tập ở Huế, kinh đô
của triều Nguyễn, nơi mà Nho giáo thâm nhập rất sâu rộng. Người đã tiếp thu những
6

0


0


mặt tích cực của Nho giáo. Đó là các triết lý nhập thế, hành đạo giúp đời, mong muốn
thế giới đại đồng có những kỹ năng giáo dục đạo đức tỉ mỉ. Đó là ước vọng về một xã
hội bình trị, hòa mục, hòa đồng, là triết lý nhân sinh, tu tâm dưỡng tính, đề cao văn
hóa lễ giáo và truyền thống hiếu học. Người dẫn lời của V.I. Lênin: “Chỉ có những
người cách mạng chân chính mới thu hái được những hiểu biết quý báu của đời trước
để lại”.
Phật giáo vào Việt Nam khá sớm và ảnh hưởng lớn tới sự hình thành văn hóa
Việt. Về Phật giáo, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tư tưởng
vị tha, từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn; là nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị; là
tinh thần bình đẳng, dân chủ, không phân biệt đẳng cấp; là việc đề cao lao động, chống
lười biếng “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”; là chủ trương sống không xa lánh
việc đời mà gắn bó với dân, với nước, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh của nhân
dân chống lại kẻ thù dân tộc. Người đã từng viết: “Đức Phật là đại từ đại bi, cứu khổ
cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn Người phải hy sinh tranh đấu, diệt lũ
ác ma... Chúng ta làm theo lòng đại từ đại bi của Đức Phật Thích Ca...”. Những mặt
tích cực của Phật giáo rất gần gũi, phù hợp với truyền thống của người Việt Nam nên
có ảnh hưởng lớn tới sự hình thành và phát triển của văn hóa, tư tưởng và lối sống của
người Việt, thấm đượm trong đời sống tinh thần của dân tộc và nhân dân lao động. Hồ
Chí Minh là hiện thân của lịng nhân ái, độ lượng, khoan dung, yêu thương con người;
sống có đạo đức, trong sạch, giản dị; tinh thần dân chủ, bình đẳng; tinh thần yêu lao
động…
Đối với Lão giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng của Lão Tử,
khuyên con người nên sống gắn bó với thiên nhiên, hòa đồng với thiên nhiên, hơn nữa
phải biết bảo vệ mơi trường sống. Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân ta trồng cây, tổ chức
“Tết trồng cây” để bảo vệ mơi trường sinh thái cho chính cuộc sống của con người. Hồ
Chí Minh chú ý kế thừa phát triển tư tưởng thốt mọi ràng buộc của vịng danh lợi

trong Lão giáo. Người khun cán bộ, đảng viên ít lịng tham muốn về vật chất; thực
hiện cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư; hành động theo đạo lý với ý nghĩa là hành
động đúng với quy luật tự nhiên, xã hội.
Hồ Chí Minh đã từng nói trong lời tự bạch: “Chủ nghĩa Tơn Dật Tiên có ưu
điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta”. Có thể thấy, trong hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa Tơn Văn biểu hiện khá rõ nét trên nhiều
7

0

0


lĩnh vực chính trị quan trọng. Hồ Chí Minh ngưỡng mộ Tôn Dật Tiên không chỉ ở chủ
thuyết dân tộc, dân quyền, dân sinh mà cịn tìm hiểu chủ trương “Liên Nga, liên cộng,
phù trợ công” này của ông.
Cùng với những tư tưởng triết học phương Đơng, Hồ Chí Minh cịn tiếp thu nền
văn hóa dân chủ và cách mạng phương Tây. Người đã sớm làm quen với văn hóa Pháp
và tìm hiểu các cuộc cách mạng ở Pháp và Mỹ. Tiếp cận với nhiều sách, báo, tài liệu
và qua những hoạt động chính trị, xã hội, Người đã có những hiểu biết sâu sắc về đời
sống chính trị, xã hội, về sự phân chia giai cấp, giàu nghèo, về những bất cơng trong
lịng xã hội Pháp và các nước, về bản chất bóc lột của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, về
cuộc đấu tranh của người lao động. Người trực tiếp đọc và tiếp thu các tư tưởng về tự
do, bình đẳng, bác ái qua các tác phẩm của các nhà khai sáng như Vonte (Voltaire),
Rútxô (Rousso), Môngtexkiơ (Montésquieu). Người tiếp thu những giá trị của bản
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Đại cách mạng Pháp, các giá trị về quyền
sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của Tuyên ngôn độc lập ở Mỹ năm 1776.
Người không theo hệ tư tưởng tư sản mà tiếp thu những giá trị tiến bộ, tích cực, làm
giàu thêm trí tuệ nhằm phục vụ sự nghiệp cách mạng.
Tháng 7-1920, Người đọc sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân

tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Luận cương khẳng định một số nội dung cơ bản
như: Quyền tự quyết, độc lập, tự chủ của các dân tộc; các Đảng cộng sản ở các nước
đế quốc phải ủng hộ, giúp đỡ tích cực đối với phong trào giải phóng của các dân tộc
thuộc địa và phụ thuộc; các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có nhiệm vụ đánh đổ ách
thống trị của nước ngoài và các lực lượng phản động trong nước; đoàn kết chặt chẽ
giữa phong trào giải phóng các dân tộc thuộc địa với các nước đã làm cách mạng
XHCN thành công, phải liên minh, thống nhất giai cấp vô sản tất cả các nước và các
dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Với bản luận cương của Lênin, Hồ Chí Minh đã
tìm thấy phương hướng và đường lối cơ bản của cách mạng giải phóng dân tộc. Trên
cơ sở những giá trị văn hóa, tư tưởng tích cực, tiến bộ được tiếp nhận, với những tri
thức mới mẻ về sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản,
Người bước đầu chuyển biến tư tưởng theo hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Cuối
tháng 12-1920, Hồ Chí Minh tham dự Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp tại
thành phố Tua. Người đã bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế III, Quốc tế Cộng sản,
trở thành một trong những thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và cũng trở thành
8

0

0


người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đó chính là bước chuyển biến lớn lao có tính
quyết định, thay đổi căn bản về chất trong tư tưởng và lập trường chính trị của Người,
từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác– Lênin, từ một người yêu nước trở
thành một chiến sĩ cộng sản quốc tế.
Như vậy, có thể thấy mặc dù tiếp thu nhiều dòng tư tưởng khác nhau, song tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống nhất quán, không lẫn lộn với bất cứ nhà tư tưởng
nào của dân tộc và nhân loại. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã thể hiện trình độ phát
triển cao về trí tuệ, nhân cách đạo đức và tầm thước của một vĩ nhân. Nguyên lý triết

học chi phối cách tiếp biến các giá trị tư tưởng này không chỉ là quan điểm tồn diện,
chỉnh thể, mà cịn là tinh thần khoan dung và gắn kết với thực tiễn Việt Nam.
2.3. Chủ nghĩa Mác – Lênin
Trong giai đoạn chuẩn bị, trong thời điểm phát động khởi nghĩa và sau khi giành
được chính quyền, V.I.Lê-nin đã nhạy bén và sáng suốt trong việc phát triển lý luận,
điều chỉnh hoạt động thực tiễn cho phù hợp với từng bước phát triển của cách mạng.
V.I.Lê-nin đã khơng chỉ có sáng tạo lớn về lý luận và thực tiễn trong quá trình lãnh đạo
thực hiện cuộc Cách mạng Tháng Mười, mà còn trong cả công cuộc bảo vệ các thành
quả cách mạng, xây dựng xã hội mới. Thực tiễn sinh động của Cách mạng Tháng
Mười năm 1917 đã cung cấp những “chất liệu” để V.I.Lê-nin làm phong phú thêm lý
luận cách mạng của chủ nghĩa Mác. Những luận điểm cách mạng mới được vận dụng
trong thực tiễn giúp hình thành đường lối đúng đắn, những quyết sách kịp thời đã thúc
đẩy thực tiễn phát triển đúng quy luật, phù hợp với điều kiện lịch sử mới.
V.I.Lê-nin từng rút ra một kết luận quan trọng: "... chủ nghĩa xã hội có thể thắng
trước hết là trong một số ít nước tư bản chủ nghĩa, hoặc thậm chí chỉ trong một nước
tư bản chủ nghĩa, tách riêng ra mà nói". Khi lực lượng phản cách mạng đã lộ rõ âm
mưu tiêu diệt cách mạng, khi các điều kiện bảo đảm cho thắng lợi của cuộc khởi nghĩa
vũ trang đã hội đủ, nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền được V.I.Lê-nin
chuyển hóa từ lý luận thành hiện thực. Ðặc biệt, V.I.Lê-nin đã nhấn mạnh một quan
niệm của C. Mác: Khởi nghĩa là một nghệ thuật. Ðó là sự sáng tạo trong việc vận dụng
đường lối trước các diễn biến khẩn trương của tình hình nhưng vẫn tuân thủ chặt chẽ
các nguyên lý. Và phải nói rằng, tháng 10-1917 (theo lịch cũ ở Nga) tại Pê-trô-grát và
sau này, tháng 8-1945 tại Hà Nội, những người theo học thuyết cách mạng của V.I. Lênin đã trực tiếp làm sáng rõ, làm nổi bật được nghệ thuật đó.
9

0

0



Thực tiễn Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 cho thấy: Giành chính quyền
đã khó, giữ vững được chính quyền cịn khó hơn. Nước Nga sau nội chiến bị tàn phá
nặng nề, bị bao vây; nạn đói và dịch bệnh làm trầm trọng hơn khủng hoảng kinh tế và
chính trị. Tại Ðại hội lần thứ X của Ðảng Bơn-sê-vích (3-1921), V.I.Lê-nin đã trình
bày đường lối kinh tế - chính trị mới của Nhà nước Xơ-viết là Chính sách kinh tế mới
(NEP). Chỉ sau một năm thực hiện NEP, dựa trên cơ sở các luận điểm khoa học của
mình, V.I.Lênin khẳng định: "Từ nước Nga của chính sách kinh tế mới sẽ nảy ra nước
Nga xã hội chủ nghĩa", và thực tiễn lịch sử đã chứng minh điều đó. Chỉ bốn năm sau
khi thực hiện NEP, năm 1925, nước Nga Xô-viết đã hồn thành cơng cuộc phục hồi
nền kinh tế quốc dân để bước sang thời kỳ trực tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với
NEP, V.I.Lênin cho thấy rằng, những người cộng sản khi điều hành kinh tế càng phải
năng động, sáng tạo và có sự uyển chuyển cần thiết. Bài học đó mang nhiều giá trị với
những người cộng sản trong những giai đoạn cách mạng sau, cho tới hôm nay.
Phải khẳng định rằng, việc V.I.Lênin phát triển khẩu hiệu chiến lược của C.Mác
"Vô sản tất cả các nước đồn kết lại" thành "Vơ sản tất cả các nước và các dân tộc bị
áp bức đoàn kết lại" đã khái quát một nội hàm rộng lớn hơn, khi phạm vi, tính chất
cuộc đấu tranh đã có nhiều thay đổi trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản đã phát triển
thành chủ nghĩa đế quốc và mang tính tồn cầu. Những luận điểm của V.I.Lênin được
thể hiện rất cụ thể trong "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về những vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa". Lần đầu tiên trong lịch sử phong trào cộng sản quốc tế,
V.I.Lê-nin đặt ra vấn đề liên minh giữa cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở các nước
tư bản công nghiệp phát triển với phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Từ lần gặp gỡ đầu tiên, Luận cương của V.I.Lênin đã chinh phục hoàn toàn
Nguyễn Ái Quốc. Người đã thấy được cái cần thiết cho dân tộc Việt Nam - con đường
giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc đã tiếp nhận những bài học sâu sắc từ V.I.Lê-nin
và Cách mạng Tháng Mười Nga. Bằng vốn kiến thức lý luận và từ kinh nghiệm hoạt
động thực tiễn phong phú của mình, Nguyễn Ái Quốc là người đầu tiên cho rằng, cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa khơng hồn tồn phụ thuộc vào cách
mạng ở "chính quốc", nhân dân thuộc địa có thể đứng lên tự giải phóng chính mình,
cuộc cách mạng có thể thắng lợi trước ở một nước thuộc địa. Những luận điểm cách

mạng của Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và
giai cấp, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trong quá trình phát triển của
10

0

0


cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chiến lược giải
phóng dân tộc của Hồ Chí Minh được hiện thực hóa trong đường lối của Ðảng Cộng
sản Việt Nam và đã thể hiện tính đúng đắn, hiệu quả bằng thành công của Cách mạng
Tháng Tám 1945, giành độc lập dân tộc, kháng chiến thắng lợi, thống nhất đất nước, đi
lên chủ nghĩa xã hội.
Tiếp nhận những bài học sâu sắc từ V.I. Lê-nin và Cách mạng Tháng Mười Nga,
nhưng Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh không sao chép V.I.Lê-nin, mà Người tiếp thu
cái tinh thần của chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi chủ nghĩa Mác - Lênin là cái
cẩm nang thần kỳ nhưng Người cũng luôn nhấn mạnh rằng cần phải vận dụng sáng tạo
"cẩm nang thần kỳ" đó.
II. TIỀN ĐỀ LÍ LUẬN ĐĨNG VAI TRỊ QUYẾT ĐỊNH TRONG VIỆC HÌNH
THÀNH, PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Chủ nghĩa Mac – Lenin là tiền đề lí luận đóng vai trị quyết định trong việc
hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng
Hồ Chí Minh. Người tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin trên nền tảng những tri thức văn
hóa tinh túy của nhân loại cùng với sự hiểu biết chính trị phong phú được tích lũy qua
hoạt động thực tiễn đấu tranh vì mục tiêu cứu nước, giải phóng dân tộc của chính
mình.
Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đi vào nghiên
cứu chủ nghĩa Mác. Người tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo phương pháp macxít,

nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất. Người vận dụng lập trường, quan điểm, phương
pháp biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin để giải quyết những vấn đề thực tiễn của
cách mạng Việt Nam, chứ khơng đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở. Như vậy,
chính thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin đã giúp Hồ Chí
Minh vận dụng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình để từ đó tìm ra
con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ta.
Trong thời kỳ đổi mới, cải cách, mở cửa, Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng
sản Trung Quốc, cùng một số Đảng Cộng sản khác đã vận dụng, bổ sung, phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn mỗi nước. Trên cơ sở nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin, Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam với 8 đặc
trưng, trong đó đặc trưng “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” vừa
11

0

0


là đặc trưng thứ nhất vừa là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt
Nam. Vì vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn tồn tại và phát triển, vẫn là thế giới quan,
phương pháp luận khoa học của hàng triệu triệu con người tiến bộ trên trái đất. Chủ
nghĩa Mác – Lênin là một hệ thống lý luận khoa học là còn bởi lẽ, các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác - Lênin đã kế thừa toàn bộ tinh hoa trong lịch sử tư duy của nhân loại.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cịn có căn cứ cơ sở, tiền đề khoa học; có giai cấp vơ sản và
thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp này và các phương pháp khoa học, khách
quan trong nhận thức tự nhiên, xã hội và tư duy của con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin là
nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất của khoa học và cách mạng của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển chủ nghĩa

Mác - Lênin ở nhiều vấn đề lý luận quan trọng, nhất là lý luận về giai cấp - dân tộc và
lý luận về chủ nghĩa xã hội.
Nhân cách, phẩm chất, tài năng và trí tuệ của Hồ Chí Minh đã giúp Người đến
với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu được các giá trị văn hóa nhân loại và vận dụng
sáng tạo vào điều kiện Việt Nam, là tiền đề cho những thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng.
Vì vậy nên trong các tiền đề trên thì chủ nghĩa Mác - Lênin là tiền đề quan trọng
nhất. Bởi chủ nghĩa Mác - Lênin là thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng
Hồ Chí Minh, là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất, đã chỉ ra
con đường giải phóng dân tộc và phát triển cho dân tộc ta.
2. Lý do chủ nghĩa Mác - Lênin là tiền đề lý luận đóng vai trị quan trọng trong
hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và thời đại mới cũng như chủ nghĩa
Mác - Lênin là cơ sở lý luận quyết định bước phát triển mới về chất trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, khiến Người vượt hẳn lên phía trước so với những người yêu nước cùng
thời. Ngay từ cuối những năm 20 của thế kỉ XX, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng:
“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin”. Vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã giải quyết được cuộc khủng hoảng đường lối
cứu nước và người lãnh đạo cách mạng ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
12

0

0


Trên cơ sở lập trường, quan điểm và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, Hồ Chí Minh đã triệt để kế thừa, đổi mới, phát triển những giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại kết hợp với thực tiễn cách
mạng trong nước và thế giới hình thành nên một hệ thống các quan điểm cơ bản, toàn

diện về cách mạng Việt Nam. Người đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin trên nền tảng
những tri thức văn hóa tinh túy của nhân loại cùng với sự hiểu biết chính trị phong phú
được tích lũy qua hoạt động thực tiễn đấu tranh vì mục tiêu cứu nước, giải phóng dân
tộc của chính mình.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã trở thành người cộng sản với
tầm vóc trí tuệ lớn như Lênin mong muốn: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng
sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức
mà nhân loại đã tạo ra”. Tổng kết kinh nghiệm thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Hồ
Chí Minh khẳng định: “Chúng tơi giành được thắng lợi đó là do nhiều nhân tố, nhưng
cần phải nhấn mạnh rằng - mà không phải chỉ nhân dịp kỉ niệm lần thứ 100 ngày sinh
Lênin - chúng tôi giành được thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí khơng gì thay thế
được là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Dưới sự lãnh đạo, dẫn dắt của Ðảng Cộng sản Việt Nam, dưới ánh sáng của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã liên tiếp giành thắng
lợi vẻ vang trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ khẳng định Chủ nghĩa Mác - Lênin
là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, đến Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991), Đảng đã bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh
vào nền tảng tư tưởng và khẳng định: “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Văn kiện Đại hội
XII yêu cầu toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải: Kiên định Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn
Việt Nam. Đó là lời khẳng định giá trị vững bền và ý nghĩa to lớn của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin
tiền đề lý luận quan trọng nhất, có vai trị quyết định trong việc hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Xét về tổng thể, chủ nghĩa Mác - Lênin là thành tựu tư tưởng vĩ đại của nhân
loại do C. Mác và Ph. Ăngghen đặt nền móng vào đầu thế kỷ XIX, được V.I. Lênin kế
13

0


0


tục, phát triển từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa Mác - Lênin phơi bày
bản chất sâu xa nhất, những mâu thuẫn cố hữu nhất tồn tại trong chế độ tư bản chủ
nghĩa và dự đoán chính xác xu hướng vận động của các hình thái kinh tế - xã hội để đi
đến khẳng định tương lai của nhân loại là chế độ cộng sản chủ nghĩa. Vì vậy, đây là
học thuyết khoa học, cách mạng và nhân văn duy nhất đề ra mục tiêu giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người và chỉ rõ lực lượng, con đường, phương
thức nhằm đạt được mục tiêu đó.
Nhờ có chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, C. Mác đã lý giải một
cách khoa học và khách quan các quy luật phát triển của xã hội lồi người thơng qua
sự vận động và phát triển của nền sản xuất xã hội; đồng thời, tìm ra quy luật giá trị
thặng dư, chỉ rõ bản chất, hình thức và cách thức mà nhà tư bản bóc lột người cơng
nhân và nhân dân lao động. Với chủ nghĩa xã hội khoa học, C. Mác khẳng định sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, đứng lên
giải phóng chính mình để xây dựng một chế độ xã hội khơng cịn người bóc lột người,
biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học, như Lênin nhận định: “đem
khoa học thay thế cho mộng tưởng”. Học thuyết Mác đã trở thành một vũ khí lý luận,
tư tưởng sắc bén trong cuộc đấu tranh chống lại mọi áp bức, bóc lột và bất cơng trong
xã hội.
Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới chuyển sang giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa, sự phát triển không đồng đều giữa các nước khiến mâu thuẫn gia tăng và
chiến tranh xảy ra là điều tất yếu, trong khi phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc diễn ra mạnh mẽ. Vì vậy, Lênin đã vận
dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác để giải quyết những vấn đề phát sinh trong
thời đại của mình. Ơng chỉ ra khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản; làm rõ mối
quan hệ giữa cách mạng vô sản với cách mạng giải phóng dân tộc; sáng lập học thuyết
đảng kiểu mới của giai cấp công nhân và lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng
Mười Nga, đưa Đảng Cộng sản lần đầu tiên trở thành đảng cầm quyền tại nước Nga

Xơ Viết. Cũng chính Lênin là người kiến tạo mơ hình phát triển mới của chủ nghĩa xã
hội với “Chính sách kinh tế mới” cùng nhiều biện pháp cụ thể để hiện thực hóa xã hội
xã hội chủ nghĩa từ thực tiễn của nước Nga. Sự phát triển sáng tạo học thuyết Mác của
Lênin đã làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành hệ thống lý luận thống nhất của giai
cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
14

0

0


Trong thời kỳ đổi mới, cải cách, mở cửa, Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng
sản Trung Quốc, cùng một số Đảng Cộng sản khác đã vận dụng, bổ sung, phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn mỗi nước. Lấy chủ nghĩa Mác
- Lênin làm nền tảng, Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam với 8 đặc trưng,
trong đó đặc trưng “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” vừa là đặc
trưng thứ nhất vừa là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Vì
vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn tồn tại và phát triển, vẫn là thế giới quan, phương pháp
luận khoa học của hàng triệu triệu con người tiến bộ trên trái đất. Chủ nghĩa Mác Lênin là một hệ thống lý luận khoa học là còn bởi lẽ, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác Lênin đã kế thừa toàn bộ tinh hoa trong lịch sử tư duy của nhân loại. Chủ nghĩa Mác Lênin cịn có căn cứ cơ sở, tiền đề khoa học; có giai cấp vơ sản và thực tiễn đấu tranh
cách mạng của giai cấp này và các phương pháp khoa học, khách quan trong nhận thức
tự nhiên, xã hội và tư duy của con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tin theo V.I.Lênin, tin theo cách mạng Tháng Mười Nga
và lựa chọn con đường cách mạng vơ sản khơng chỉ xuất phát từ tình cảm, sự kính
trọng V.I.Lênin và lịng u mến, ngưỡng mộ cách mạng Tháng Mười do V.I.Lênin
lãnh đạo. Điều quan trọng là, từ hành trình tìm đường cứu nước, nghiên cứu thực tiễn
chính trị và tư tưởng, lý luận hàng chục năm ở nhiều nước, Người nhận thấy: “cách
mạng” có nhiều, “chủ nghĩa”, “học thuyết” cũng có nhiều nhưng chỉ có Cách mạng
Tháng Mười Nga là thành công bậc nhất và chủ nghĩa Lênin là “chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất”. Chỉ theo con đường Cách mạng Tháng Mười

và theo chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thể giải đáp được những yêu cầu khách quan
của lịch sử dân tộc, đó là độc lập cho dân tộc và ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân
dân.
Trên cơ sở kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và
tinh hoa văn hóa nhân loại. Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí
Minh đi vào nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Người tiếp thu lý luận Mác - Lênin theo
phương pháp macxit, nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất, Người vận dụng lập trường,
quan điểm, phương pháp biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết những
vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam, chứ khơng đi tìm những kết luận có sẵn
trong sách vở. Trong các vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc; chủ nghĩa
xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; các vấn đề xây dựng Đảng, Nhà
15

0

0


nước, văn hóa, con người, đạo đức, v.v. Hồ Chí Minh đều có những luận điểm bổ sung,
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước nhảy vọt trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Nhân cách, phẩm chất, tài năng và trí tuệ của Hồ Chí Minh đã giúp Người đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu được các giá trị văn hóa nhân loại và vận dụng sáng tạo
vào điều kiện Việt Nam, là tiền đề cho những thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Như
vậy, chính thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã giúp Hồ
Chí Minh vận dụng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình để từ đó tìm
ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ta, hình thành lên tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh.
C. PHẦN KẾT LUẬN
I. Ý nghĩa của việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh

Việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh giúp nâng cao năng lực tư duy lý luận đối
với sinh viên. Đồng thời, giúp họ nhận thức rõ ràng vai trị, vị trí của tư tưởng Hồ Chí
Minh đối với cách mạng Việt Nam, làm cho tư tưởng của Người ngày càng giữ vai trò
chủ đạo trong đời sống tinh thần của thế hệ trẻ. Cũng như bồi dưỡng, củng cố lập
trường, quan điểm Cách mạng vững vàng dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó tích cực chủ động đấu tranh phê phán những quan điểm
sai trái, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin.
Không chỉ vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh cịn đóng một vai trị khơng hề nhỏ khi
giúp thế hệ trẻ tu dưỡng đạo đức và rèn luyện bản lĩnh chính trị. Tư tưởng Hồ Chí
Minh giáo dục đạo đức,tư chất, phẩm chất cách mạng cho cán bộ, đảng viên, nhân dân,
giúp sinh viên nâng cao lòng tự hào về Bác, Đảng, Tổ quốc, tự nguyện: "sống, chiến
đấu, lao động và học tập theo lời Bác". Qua đó sinh viên biết vận dụng những điều đã
học vào cuộc sống, tu dưỡng, rèn luyện bản thân, đóng góp thiết thực và hiệu quả cho
cơng cuộc xây dựng đất nước.
II. Liên hệ, mở rộng
Sinh viên là những con người được đào tạo trong các trường đại học và có tài
năng tuy nhiên có tài mà khơng có đức thì chỉ là người vơ dụng, cho nên việc tu dưỡng
đạo đức với sinh viên là vô cùng quan trọng và cần thiết. Để học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh có hiệu quả thì sinh viên phải có sự tu dưỡng, rèn luyện
16

0

0


hết mình, học tập, nghiên cứu, tìm hiểu tất cả các chương trình học tập về mọi mặt,
nâng cao ý thức tự học, đổi mới các phương pháp học tập để tiếp thu kiến thức một
cách khoa học hơn.
Bên cạnh việc nâng cao kiến thức cho bản thân thì sinh viên cũng cần phải rèn

luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức tốt, ln ln cố gắng phấn đấu vì gia đình q
hương đất nước, giàu lịng nhân ái và tích cực làm theo tấm gương đạo đức của Hồ Chí
Minh. Hoàn thiện bản thân về tài và đức là tư tưởng, là lời dạy, là định hướng cho lớp
người sẽ làm chủ tương lai của đất nước và đó cũng luôn là kim chỉ nam cho các thế
hệ học sinh, sinh viên Việt Nam cố gắng phấn đấu học tập và rèn luyện theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (dành cho bậc đại học- khơng chun ngành lý
luận chính trị, 2019)
2. Văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX (NXB Chính trị Quốc gia, 2001)
3. Hồ Chí Minh tồn tập (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011)
4. Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch (Theo Trần Dân Tiên, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2015)
17

0

0


5. V.I Lenin toàn tập (NXB Tiến Bộ, Mátxcơva, 1977)
6. Hồ Chí Minh truyện (theo Trương Niệm Thức, NXB Tam Liên, Thượng Hải,
6/1949, Bản Trung văn), (bản dịch Tiếng Việt của Đặng Nghiêm Vạn)
Đề tài 2: Vận dụng chuẩn mực cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư trong tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh để xây dựng đạo đạo đức, lối sống cho sinh viên Việt
Nam hiện nay.
Bài làm
I. Mở đầu
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư đều là những phẩm chất tốt đẹp của

Người - đại cương đạo đức Hồ Chí Minh.
Lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước đã chứng minh, trong bất kỳ giai
đoạn, triều đại hay chế độ nào, việc dùng người luôn là công việc hệ trọng liên quan
trực tiếp tới sự an-nguy, thịnh-suy của một quốc gia. Vì thế, ngay từ khi nước Việt
Nam mới giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi việc phát hiện, rèn luyện,
sử dụng cán bộ là khâu trọng yếu. Và theo Người, phẩm chất đầu tiên của một cán bộ
tốt là phải giữ được 4 đức tính: Cần, kiệm, liêm, chính. Trong di sản Hồ Chí Minh,
Người đã nêu tấm gương sáng ngời trước nhân dân Việt Nam về đạo đức mới. Với tinh
thần “cần, kiệm, liêm, chính”, Người sống một cuộc sống thanh cao và giản dị. Từ đó
sự nghiệp, tư tưởng và đạo đức sáng ngời của Người sống mãi trong lịng kính u vơ
hạn của nhân dân Việt Nam.
Các chuẩn mực cần, kiệm, chính, chí cơng vơ tư trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
 Cần: là siêng năng, chăm chỉ, lao động có kế hoạch, có hiệu quả, có năng suất
với tinh thần tự lực cánh sinh không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm.
 Kiệm: là tiết kiệm (tiết kiệm thời gian, tiết kiệm công sức, tiết kiệm của cải…)
của nước, của dân; “không xa xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa bãi”, khơng phơ
trương hình thức, khơng liên hoan, chè chén lu bù. Tiết kiệm không phải là bủn
xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng khơng nên tiêu.
Khi có việc đáng làm, việc lợi ích thực sự cho dân thì tốn bao nhiêu cơng, bao
nhiêu của cũng không tiếc.
 Liêm: là luôn tôn trọng của công và của dân. Phải “trong sạch, không tham
lam” tiền của, không tham địa vị, không tham danh tiếng, không tham sung
sướng, khơng ham người tâng bốc mình.
18

0

0



 Chính: là thẳng thắn, đứng đắn: Đối với mình – không được tự cao, tự đại, tự
phụ, phải khiêm tốn học hỏi, phát triển cái hay, sửa chữa cái dở của mình. Đối
với người – khơng nịnh người trên, không khinh người dưới, thật thà, không dối
trá. Đối với việc – phải để việc công lên trên, lên trước, việc thiện nhỏ mấy
cũng làm, việc ác nhỏ mấy cũng tránh.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, các đức tính Cần, Kiệm, Liêm, Chính có quan hệ chặt
chẽ với nhau. Cần mà không kiệm, làm chừng nào, xào chừng ấy giống như một chiếc
thùng khơng đáy. Kiệm mà khơng cần thì lấy gì mà kiệm. Chữ Liêm phải đi đơi với
chữ Kiệm, có Kiệm mới Liêm được vì xa xỉ mà sinh tham lam. Cần, Kiệm, Liêm là
gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ lại cần có cành, lá, hoa, quả mới là
hoàn chỉnh.
Đối với một quốc gia, Cần, Kiệm, Liêm, Chính là thước đo sự giàu có về vật
chất, vững mạnh về tinh thần, thể hiện sự văn minh tiến bộ. Cần, Kiệm, Liêm, Chính
cịn là nền tảng của đời sống mới, của các phong trào thi đua u nước.
 Chí cơng vơ tư: là cơng bằng, công tâm, không thiên tư, thiên vị; làm việc gì
cũng khơng lo nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc, “lo trước thiên
hạ, vui sau thiên hạ” (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc).
Chí cơng vơ tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
II. Vận dụng chuẩn mực cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư trong tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh để xây dựng đạo đạo đức, lối sống cho sinh viên Việt Nam hiện
nay
1. Thực trạng đạo đức, lối sống của sinh viên hiện nay
-

Mặt tích cực:

 Sinh viên là lớp trẻ năng động, sáng tạo, luôn luôn đi đầu trong những cải cách,
đổi mới. Họ luôn mang lại những ý tưởng, suy nghĩ sáng tạo mà độc đáo.
 Là những con người táo bạo, tự tin. Dám chấp nhận thử thách, dám đương đầu
với khó khăn và dám thực hiện những điều mới mẻ. Có rất nhiều cuộc thi lớn

được mở ra - là nơi để sinh viên thể hiện, phát triển bản thân như: cuộc thi
robotcon, cuộc thi khởi nghiệp, ...
 Thừa hưởng những truyền thống tốt đẹp của cha ông ta, truyền thống hiếu học.
Sinh viên Việt Nam mọi thời đại luôn ham học, ham hiểu biết. Họ luôn khao

19

0

0


khát tìm tịi, khám phá chân trời tri thức, ln say mê với những những điều
mới mẻ.
-

Mặt tiêu cực:

 Một bộ phận nhỏ sinh viên hiện nay rất đáng báo động về vấn đề tư tưởng. Nếu
ngày trước lý tưởng của chủ nghĩa xã hội luôn sục sôi trong mỗi thanh niên việt
Nam, thì ngày nay để tìm được một sinh viên như thế quả là khơng dễ. Đơi khi
có những bạn sinh viên sống và học tập theo mong muốn của bố mẹ, của cá
nhân và có những bạn cịn khơng có mục đích gì, bng thả bản thân - được coi
là “chủ nghĩa cá nhân”. Chính vì cách sống khơng có mục tiêu này khiến cho
sinh viên khơng có mục tiêu phấn đấu hay động lực để phát triển, dễ đi và
những con đường tiêu cực, sa ngã.
2. Xây dựng đạo đức, lối sống của sinh viên VN hiện nay theo các chuẩn mực cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư.
-


Vai trị của việc giáo dục phẩm chất: Cần, Kiệm, Liêm, Chính cho học sinh,
sinh viên.

 Trong nhiệm vụ bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Hồ Chí Minh nhắc
đến vai trị, nhiệm vụ của các thế hệ đi trước, chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng các
thế hệ đi sau làm sao để họ tiến bộ hơn mình. Theo Người, thế hệ đi sau tiến bộ
hơn thế hệ đi trước mới tốt. Nếu thế hệ đi sau không bằng thế hệ đi trước là
không tốt.
 Cần, Kiệm, Liêm, Chính là một trong những nội dung quan trọng nhất trong tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, được coi là đại cương đạo đức Hồ Chí Minh.
Đồng thời, Cần, Kiệm, Liêm, Chính cũng chính là những phẩm chất quan trọng
cần có ở mỗi người, cần phải được rèn luyện gắn với hoạt động thực tiễn hàng
ngày. Việc rèn luyện những phẩm chất đạo đức này cho học sinh, sinh viên,
thanh niên trí thức lại càng quan trọng hơn, vì họ là “người chủ tương lai của
nước nhà”.
-

Phương pháp giáo dục các phẩm chất Cần, Kiệm, Liêm, Chính cho học sinh,
sinh viên:

 Cần phải bồi dưỡng thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nắm vững phương pháp luận biện chứng duy vật
giúp cho con người xem xét sự vật, hiện tượng khách quan một cách đúng đắn,
20

0

0



tránh cho ta mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí tùy tiện trong hoạt động thực
tiễn.
 Cần phải tuân thủ và thực hiện tốt các nguyên tắc xây dựng đạo đức mới mà
Bác đã nêu để xây dựng nền tảng đạo đức mới trong đời sống xã hội nước ta.
Đó là: Nói đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức. Xây phải đi đôi với
chống, phải tạo thành phong trào trong quần chúng rộng rãi. Phải tu dưỡng đạo
đức suốt đời.
 Đề cao vai trò của sự giáo dục từ gia đình, nhà trường và cả xã hội. Trong gia
đình, thế hệ trước làm gương cho thế hệ sau. Giáo dục các phẩm chất đạo đức
nói chung và các phẩm chất Cần, Kiệm, Liêm, Chính cho học sinh, sinh viên
nói riêng có lẽ phải bắt đầu bằng cách dạy cho tốt những môn học như: lịch sử,
địa lý, văn học, đạo đức và nhất là môn giáo dục công dân, những môn chú
trọng phần dạy người, cụ thể là những con người Việt Nam ở thế kỷ 21 này
trước những vấn đề lớn của dân tộc, của đất nước và của thế giới, trong đó có
những vấn đề như lối sống xa hoa, lãng phí; tham nhũng; lối sống chủ nghĩa cá
nhân…
 Thay đổi phương pháp giảng dạy để các mơn học khơng cịn “gánh nặng điểm
số” đối với học sinh, sinh viên, chúng khơng cịn là những môn vô bổ, chán
ngán, là những bài giảng khô khan trên lớp học được trả lại cho thầy cô và nhà
trường bằng những bài thi trên giấy và được ghi nhận bằng những con số vô
hồn trên học bạ. Cùng với đó, các tổ chức Đồn – Đội – Hội cần tổ chức những
buổi tọa đàm, thảo luận…
 Về những vấn đề thực hiện đạo đức nói riêng và thực hiện Cần, Kiệm, Liêm,
Chính nói riêng cho học sinh, sinh viên; đẩy mạnh triển khai có hiệu quả cuộc
vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
III. Kết luận
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vô tư là nền tảng của đời sống mới, là phẩm
chất trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, là mối
quan hệ “với tự mình”. Tư tưởng và tấm gương đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư của Chủ tịch Hồ Chí Minh ln là những giá trị đạo đức cao đẹp

của thời đại. Mọi công dân Việt Nam nói chung và thế hệ trẻ tương lai - học sinh, sinh
viên nói riêng cần hiểu sâu sắc đường lối tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc giáo dục đạo
21

0

0


đức cho học sinh, sinh viên nói chung và giáo dục các phẩm chất Cần, Kiệm, Liêm,
Chính nói riêng đã đang và mãi là việc có ý nghĩa quan trọng. Học sinh, sinh viên cần
phấn đấu rèn luyện hơn nữa, thể hiện bằng chính những hoạt động thường ngày để trở
thành người công dân – học sinh, sinh viên tốt xứng đáng với niềm tin yêu và mong
mỏi của Bác.

22

0

0



×