Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

TIỂU LUẬN VAI TRÒ QUYẾT ĐỊNH của CHỦ NGHĨA mác lê NIN đối với VIỆC HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.75 KB, 14 trang )

VAI TRÒ QUYẾT ĐỊNH CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ
NIN ĐỐI VỚI VIỆC HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ II (tháng 2-1951) trở lại đây, đã liên tục khẳng định vai trò, ý
nghĩa, tác dụng của đường lối chính trị, tư tưởng, đạo đức, phương
pháp, phong cách… Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (Tháng 6-1991), Đảng
đã trân trọng ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình: "Đảng lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng kim chỉ nam cho hành động".
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4/2001)
một lần nữa khẳng định: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại; về sức mạnh của nhân dân, xây dựng nhà nước thực sự của dân,
do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá; về đạo đức cách
mạng cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch vững


2

mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân… Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường


cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh
thần to lớn của Đảng và nhân dân ta".
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn cờ thắng lợi của
cách mạng Việt Nam trong suốt hơn 85 năm qua và tiếp tục soi sáng
con đường chúng ta tiến lên xây dựng một nước Việt Nam hoà bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Qua học tập nghiên cứu nguồn gốc và quá trình hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta thấy rằng tư tưởng Hồ Chí Minh
được hình thành dưới tác động, ảnh hưởng của những điều kiện
lịch sử - xã hội cụ thể của dân tộc và thời đại mà Người đã sống
và hoạt động. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của
cách mạng Việt Nam ra đời do yêu cầu khách quan và là sự giải
đáp những nhu cầu bức thiết do cách mạng Việt Nam đặt ra từ
đầu thế kỷ XX đến nay. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ giữa
trí tuệ lớn của Hồ Chí Minh với trí tuệ của dân tộc và trí tuệ thời
đại. Chính sự vận dụng, phát triển của tư tưởng yêu nước Việt
Nam cuối thế kỷ XIX đến những năm 20 của thế kỷ XX, khi bắt
gặp chủ nghĩa Mác – Lênin, đã hình thành nên tư tưởng Hồ Chí
Minh. Từ tiếp thu vận dụng sáng tạo, Hồ Chí Minh từng bước góp
phần bổ sung, phát triển, làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin
bằng những luận điểm mới, được rút ra từ thực tiễn của đất nước
và dân tộc mình.


3

Như vậy nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ
những tinh hoa của dân tộc và nhân loại, trong đó có chủ nghĩa Mác
- Lênin. Tuy nhiên với tính cách là đỉnh cao của tinh hoa, trí tuệ

nhân loại, chủ nghĩa Mác - Lênin có vai trò đặc biệt quan trọng đối
với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong nguồn gốc tư tưởng, lý luận thì chủ nghĩa Mác Lênin là nguồn gốc cơ bản, chủ yếu có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất
đối với sự hình thành phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ
nghĩa Mác - Lênin là tinh hoa trí tuệ loài người, là nền tảng tư
tưởng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng Hồ Chí Minh vẫn có
thể vận dụng, sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên
một loạt các luận điểm cơ bản. Hoàn cảnh, điều kiện mà Hồ Chí
Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, bước đầu rút ra một số
lý do chính là:
Thứ nhất, là người có bản lĩnh trí tuệ vững vàng, sắc xảo, Hồ
Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Khi ra đi tìm đường cứu nước, ở tuổi 20, Nguyễn Tất Thành
đã được dân tộc, quê hương và gia đình trang bị cho một học vấn
chắc chắn, một năng lực, trí tuệ sắc sảo. Trong mười năm đầu (từ
1911 - 1920) của quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Người đã đi
qua nhiều nước để tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn và khảo sát
cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị đàn áp trên thế giới. Trong
quá trình này Người đã xây dựng cho mình một vốn văn hoá, vốn
chính trị và vốn sống thực tiễn phong phú, tạo ra một năng lực trí
tuệ mà không một nhà cách mạng Việt Nam trẻ tuổi nào. Vào thời
ấy có thể so sánh được. Kế theo những năm sau đó, Hồ Chí Minh


4

tiếp tục phát triển vốn văn hoá và vốn sống thực tiễn của mình để
trở thành người có bản lĩnh trí tuệ vững vàng, sắc sảo. Cái bản lĩnh
đó đã giúp Hồ Chí Minh nâng cao khả năng độc lập, tự chủ và sáng
tạo trong khi tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin để không

rơi vào sao chép, giáo điều.
Thứ hai, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là
xuất phát từ nhu cầu thực tiễn cách mạng Việt Nam, sự nghiệp
cứu nước và giải phóng dân tộc đang cần có lý luận đúng đắn,
tiên phong soi đường, mà lý luận Mác - Lênin là khoa học, nhưng
được hình thành chủ yếu trên cơ sở thực tiễn của các nước ở
phương Tây, nên đòi hỏi phải vận dụng sáng tạo lý luận đó, phù
hợp với điều kiện Việt Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiến ở
phương Đông.
Khác với nhiều nhà lý luận tư sản phương Tây, đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin nhằm giải quyết những vấn đề lý luận hơn là vấn
đề thực tiễn. Còn Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,
trước hết là nhằm giải quyết nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt
Nam. Đến với lý luận của Lênin Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường
cứu nước đúng đắn và cũng tin theo V.I.Lênin mà Hồ Chí Minh đã
tiến tới nghiên cứu sâu sắc lý luận của C.Mác. Song, theo Hồ Chí
Minh, C.Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một cơ sở lịch
sử nhất định, đó là lịch sử Châu âu, mà Châu Âu chưa phải là toàn
thể nhân loại, nên cần "xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử
của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông. Đó chính là
nhiệm vụ mà các Xô viết, phải đảm nhiệm". Điều đó tạo nên một


5

động lực to lớn, thúc đẩy Hồ Chí Minh vận dụng, sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thứ ba: Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận Mác - Lênin theo
phương pháp nhận thức Mác xít, đồng thời theo lối "đắc ý, công
ngôn" của phương Đông, cốt là nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất

chứ không bị trói buộc vào cái vỏ của ngôn ngữ. Ngoài vận dụng
lập trường quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin
để tự tìm ra những chủ trương, giải pháp thích hợp với từng hoàn
cảnh cụ thể, từng thời kỳ cụ thể của cách mạng Việt Nam, chứ
không đi tìm những kết luận có sẵn trong các sách của các nhà
kinh điển.
Như vậy sau nhiều năm bôn ba đi tìm đường cứu nước, Hồ
Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin (vào tháng 7 năm
1920). Theo Hồ Chí Minh, "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắc nhất, cách mạng
nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin" và "tất cả mọi người đều có quyền
nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu chủ nghĩa
Mác. Đồng thời, Người còn chỉ rõ vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác
- Lênin đối với người cách mạng nói chung, những người cách
mạng Việt Nam nói riêng: "chủ nghĩa Mác - Lênin đối với chúng ta,
những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái
"cẩm nang" thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là
mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi
tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản".
Con đường dẫn Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,
Hồ Chí Minh viết:


6

"Ngay sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tôi làm thêm ở Pari,
khi thì làm cho một cửa hàng phóng đại ảnh, khi thì vẽ "đồ cổ mỹ
nghệ Trung Hoa" (Do một xưởng của người Pháp làm ra!). Hồi đó tôi
thường rải truyền đơn tố cáo tội ác bọn thực dân Pháp ở Việt Nam.
Lúc bấy giờ, tôi ủng hộ cách mạng tháng Mười rồi làm theo

tính tự nhiên. Tôi chưa hiểu hết tầm quan trọng lịch sử của nó. Tôi
kính yêu Lênin vì Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã giải
phóng đồng bào mình; trước đó, tôi chưa hề đọc một quyển sách
nào của Lênin viết.
Tôi tham gia Đảng xã hội Pháp chẳng qua là vì các "ông bà"
ấy (hồi đó tôi gọi các đồng chí của tôi như thế) - đã đồng tình với
tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn như Đảng là
gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì
tôi chưa hiểu.
Hồi ấy, trong các chi bộ của Đảng xã hội, người ta bàn cãi sôi
nổi về vấn đề có nên ở lại trong quốc tế thứ hai hay là nên tổ chức
một quốc tế thứ hai rưỡi, hoặc tham gia quốc thế thứ ba của Lênin!
Tôi đã dự rất đều các cuộc họp, một tuần hai lần hoặc ba lần; Tôi
chăm chú nghe những người phát biểu ý kiến; lúc đầu tôi không
hiểu được hết, tại sao người ta lại bàn cãi hăng như vậy? Với Quốc
tế thứ hai hoặc thứ hai rưỡi, hay là thứ ba, thì người ta cũng đều làm
được cách mạng cả, sao lại phải cãi nhau? và còn Quốc tế thứ nhất
nữa, người ta đã làm gì với nó rồi?


7

Điều mà tôi muốn biết hơn cả - và cũng chính là điều mà
người ta không thảo luận trong các cuộc họp là: Vậy thì cái Quốc tế
nào bênh vực nhân dân các nước thuộc địa?
Trong một cuộc họp, tôi đã nêu câu hỏi ấy lên, câu hỏi quan
trọng nhất đối với tôi. Có mấy đồng chí đã trả lời: Đó là Quốc tế thứ
ba, chứ không phải Quốc tế thứ hai. Và một đồng chí đã đưa cho tôi
đọc luận cương của Lênin và các vấn đề dân tộc và thuộc địa đăng
trên Báo Nhân đạo.

Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu, nhưng
cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần
chính. Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi,
sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi
một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần
chúng đông đảo "Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ! Đây là cái cần
thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!".
Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba.
Trước kia, trong các cuộc họp chi bộ, tôi chỉ ngồi nghe người
ta nói; tôi cảm thấy người nào cũng có lý cả, tôi không phân biệt
được ai đúng và ai sai. Nhưng từ đó tôi cũng xông vào những cuộc
tranh luận. Tôi tham gia thảo luận sôi nổi. Mặc dù chưa biết đủ
tiếng Pháp để tôi nói hết ý nghĩa của mình, tôi vẫn đập mạnh những
lời lẽ chống lại Lênin, chống lại Quốc tế thứ hai lý lẽ chung nhất
của tôi là: Nếu đồng chí không lên án chủ nghĩa thực dân, nếu đồng
chí không bênh vực các dân tộc thuộc địa thì đồng chí làm cái cách
mạng gì? Không chỉ tham gia các cuộc họp của chi bộ tôi mà thấy


8

tôi còn đến những chi bộ khác để bênh vực lập trường "của tôi". Ở
đây cần nhắc thêm rằng các đồng chí Mác Xen Ca-Sanh, Vai-Ăng
Cơtuya-ri-ê, Mông-mút-xô và nhiều đồng chí khác đã giúp tôi hiểu
biết thêm, cuối cùng ở Đại hội Thành phố Tua, tôi cùng các đồng
chí ấy biểu quyết tán thành tham gia quốc tế thứ ba.
Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, nếu chưa phải chủ
nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba.
Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận
Mác – Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng

chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được
các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ.
Ở nước ta và ở Trung Quốc cũng vậy, có câu chuyện đời xưa
về cái "cẩm nang" đầy phép lạ thần thánh. Khi người ta gặp những
khó khăn lớn, người ta mở cẩm nang ra, thì thấy ngay cách giải
quyết. Chủ nghĩa Lênin đối với chúng tôi, những người cách mạng
và nhân dân Việt Nam, không những là cái "cẩm nang" thần kỳ,
không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng, con
đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản".
Có thể nói trong bài con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin,
Hồ Chí Minh đã cắt nghĩa một cách chân thành và giản dị quá trình
hình thành tư tưởng của mình. Trong đó khi tiếp xúc với Luận
cương của Lênin không chỉ tạo ra một bước ngoặt trong tư tưởng
Hồ Chí Minh mà còn có ý nghĩa mở đầu một thời kỳ mới cho cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Hiểu rõ vị trí


9

không gì thay thế nổi chủ nghĩa Mác - Lênin, ngay sau lần tiếp xúc
đầu tiên, Hồ Chí Minh tiếp tục đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu các văn
kiện khác của chủ nghĩa Mác - Lênin. Qua nghiên cứu và hoạt động
thực tiễn, từ giữa những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã
đến một sự lựa chọn và khẳng định rất khoát: "Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin. Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mạng nhất mà còn khoa học nhất. Chính vì vậy, chủ

nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động
của Người. Đó là những nguyên nhân khiến Hồ Chí Minh không
một phút xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin .
Mỗi bước phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh đều không
tách rời việc học tập, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ
Chí Minh cho rằng, những việc cần kíp thường xuyên đặt ra đối với
Người và toàn Đảng là: "Học tập chủ nghĩa, dùi mài tư tưởng, nâng
cao lý luận". Đối với Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin
là nắm vững phép biện chứng, bản chất cách mạng, khoa học của
chủ nghĩa ấy để vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, chứ không phải
học thuộc ít câu để loè thiên hạ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Chủ
nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam cho hành động, chứ không phải là
kinh thánh". Với phương pháp luận đúng đắn Hồ Chí Minh rất mực
trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng trong khi vận dụng
chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết những vấn đề của cách mạng
Việt Nam, chính Người đã góp phần phát triển chủ nghĩa ấy trên
nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là cách mạng giải phóng các dân


10

tộc thuộc địa. Có thể khẳng định rằng, từ khi tìm thấy chủ nghĩa
Mác - Lênin đến khi vĩnh biệt chúng ta, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn
chi phối mọi tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí
Minh. Trong Di chúc Hồ Chí Minh viết: "Tôi để sẵn mấy lời này,
phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, Cụ Lênin và các vị đàn anh
khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp
nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột".
Như vậy vai trò quyết định của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với
tư tưởng Hồ Chí Minh được biểu hiện ở những điểm chính là:

Chủ nghĩa Mác - Lênin đã đem lại cho Hồ Chí Minh thế giới
quan và phương pháp luận khoa học chung nhất chỉ đạo hoạt động
nhận thức của Người.
Do đứng vững trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận Mác
- Lênin mà Hồ Chí Minh đã xem xét, đánh giá được các hiện tượng lịch
sử, những giá trị truyền thống của dân tộc, các học thuyết trong xã hội…
một cách đúng đắn, trên cơ sở đó mà lọc bỏ các yếu tố lỗi thời, lạc hậu,
tiếp thu và chuyển hoá những nhân tố tiến bộ cách mạng, để từng bước
phát triển và hoàn thiện hệ thống tư tưởng của Người.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến
bản chất giai cấp của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Để hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chí
Minh đã tiếp thu tinh hoa trong nhiều học thuyết về chính trị, xã
hội, quân sự của nhân loại. Trong các học thuyết đó, có học thuyết
thuộc hệ tư tưởng phong kiến, có học thuyết thuộc hệ tư tưởng tư
sản và có học thuyết thuộc hệ tư tưởng vô sản. Song, trước khi đến
với chủ nghĩa Mác-Lênin - hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, Hồ Chí


11

Minh tuy là một người yêu nước nồng nàn nhưng chưa phải là một
người cộng sản. Nhờ tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin gắn liền với
việc tích cực hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, Hồ Chí Minh đã trở thành người cộng sản, trở thành người
yêu nước theo lập trường vô sản. Với lẽ đó, tư tưởng Hồ Chí Minh
thuộc hệ tư tưởng Mác-Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp vô sản. Sau
này khi được hỏi về vai trò của Lênin và chủ nghĩa Lênin đối với
Người, Hồ Chí Minh trả lời: "Đồng chí biết truyền thống của
chúng tôi về cái "Cẩm nang". Khi gặp khó khăn, người ta giở cẩm

nang ra và tìm thấy cách giải quyết. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng
gần như cái cẩm nang thần kỳ đó. Lúc đầu chính do chủ nghĩa yêu
nước mà tôi tin theo Lênin. Rồi, từng bước một, tôi đi đến kết luận
là chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải quyết
được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới. Và
Lênin đã vạch con đường cho chúng tôi một cách cụ thể; năm
1919, tại đại hội những người cộng sản phương Đông, Người tuyên
bố "Các đồng chí đang có một nhiệm vụ mà trước đây những người
cộng sản trên toàn thế giới không có: Trong khi dựa vào lý luận
chung và thực tiễn của chủ nghĩa cộng sản, các đồng chí phải vừa
thích ứng với những điều kiện riêng biệt mà các đồng chí các nước
châu Âu không có, vừa phải học cách vận dụng được lý luận và
thực tiễn ấy vào nơi mà quần chúng chủ yếu là nông dân, nơi cần
phải xác định sự cần thiết không phải là đấu tranh chống chủ nghĩa
tư bản, mà là đấu tranh chống những tàn tích phong kiến". Sự thật
là cuộc cách mạng ở các nước thuộc địa và nước thuộc địa lúc đầu
và trước hết là một cuộc cách mạng nông dân. Cuộc cách mạng ấy


12

không tách rời cuộc cách mạng chống phong kiến. Sự liên minh
giữa quần chúng đông đảo nông dân và giai cấp công nhân làm cái
nền tảng trên đó có thể thành lập một mặt trận dân tộc rộng rãi và
vững chắc. Cho nên cải cách ruộng đất là một nhiệm vụ cơ bản của
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Những kinh nghiệm của chúng
tôi chứng tỏ rằng muốn đưa cuộc cách mạng dân chủ đến thắng và
chỉ ra một giai đoạn nói tiếp nhau cho sự phát triển của một nhà
nước dân tộc dân chủ, giai cấp công nhân và Đảng của nó phải lãnh
đạo cuộc cách mạng. Cuộc cách mạng giải phóng các dân tộc bị áp

bức và cuộc cách mạng của giai cấp vô sản các nước đi áp bức phải
ủng hộ lẫn nhau. Như Lênin đã dự kiến, ngày nay đã đến lúc mà
các dân tộc ngẩng cao đầu bước lên vũ đài quốc tế. Nhân dân Việt
Nam về phần mình, Đảng tiến lên chủ nghĩa xã hội, dưới ngọn cờ
vinh quang của chủ nghĩa Mác - Lênin".
Chủ nghĩa Mác - Lênin có ảnh hưởng sâu sắc và toàn diện
đến nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nội dung những nguyên lý, những qui luật của lý luận Mác Lênin nói chung, nhất là những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin về lý luận nhận thức, về lý luận hình thái kinh tế - xã
hội, về dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về đoàn kết dân tộc và
đoàn kết quốc tế, về phương pháp cách mạng, về Đảng và nhà nước
vô sản, về đạo đức nhân văn và văn hoá, về bạo lực cách mạng, về
vai trò của con người trong hoạt động quân sự, về mối quan hệ giữa
chính trị và quân sự… mà Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, tiếp thu
chính là cơ sở quan trọng nhất để Hồ Chí Minh từng bước xây dựng,


13

phát triển tư tưởng của mình về các vấn đề đó. Nói cách khác, tư
tưởng Hồ Chí Minh trước hết là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin chưa phù hợp với thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa
Mác - Lênin trong thời đại mới - thời đại các dân tộc thuộc địa bị áp
bức vùng lên giành độc lập, tự do, hạnh phúc thực sự và xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nhân tố có ảnh hưởng to lớn đến tính
khoa học, cách mạng và sức sống mãnh liệt của tư tưởng Hồ Chí
Minh.

Sự kế thừa có chọn lọc nhiều chủ nghĩa, học thuyết của
nhân loại đã góp phần giúp cho Hồ Chí Minh xây dựng phát
triển hệ thống quan điểm của mình mang tính khoa học, cách
mạng và có sức sống mãnh liệt. Trong những học thuyết chủ
nghĩa, chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất. Như vậy, trong nguồn
gốc tư tưởng, lý luận thì chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc
cơ bản, chủ yếu, có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với sự hình
thành phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác - Lênin
là tinh hoa trí tuệ loài người, là nền tảng tư tưởng của tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu cho chúng ta một tấm gương
sáng chói và tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đổi mới và
sáng tạo. Người đã tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những giá trị truyền
thống của dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại, nhất là vận dụng sáng
tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và điều kiện cụ thể ở nước


14

ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã soi đường cho cuộc đấu tranh của
nhân dân ta giành thắng lợi.
Ngày nay, thế giới đang có những biến đổi nhanh chóng, phức
tạp về kinh tế, chính trị, xã hội, tiến tới thế giới hoà bình, hợp tác và
phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng vẫn tiềm ẩn những bất trắc khó
lường. Đối với nước ta công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau
hơn 30 năm đổi mới (1986 - 2016) tuy đã đạt được những thành tựu
to lớn và có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt đất nước
nhưng cho đến nay kinh tế nước ta vẫn trong tình trạng kém phát
triển và tụt hậu so với nhiều nước, các lĩnh vực văn hoá xã hội…

còn nhiều yếu kém. Cách mạng nước ta đang đứng trước thời cơ
mới, những nguy cơ và thách thức mới.
Trước tình hình đó, để góp phần xây dựng thành công và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần
kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh có ý nghĩa thực, cấp thiết và lâu dài đối với việc củng cố
phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng, của cách mạng Việt Nam.
Nền tảng đó là chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cách mạng nước ta có được những thắng lợi to lớn như ngày nay,
trước hết là nhờ có chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Vì vậy phải coi trọng việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định nền tảng tư tưởng
của Đảng.



×