Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

ĐẠO LỘ GIẢI THOÁT ĐƯỢC CHỈ BÀY TRONGĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.11 KB, 19 trang )

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


TIỂU LUẬN MƠN LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN

ĐỀ TÀI

ĐẠO LỘ GIẢI THỐT ĐƯỢC CHỈ BÀY TRONG
ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN

TP. Hồ Chí Minh, năm 2022.


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


MƠN LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN

Đề tài:
ĐẠO LỘ GIẢI THOÁT ĐƯỢC CHỈ BÀY TRONG
ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN

Giảng Viên Phụ Trách: TT.TS.Thích Đồng Trí
Sinh viên thực hiện: Bùi Ngọc Bích
Pháp danh: Ngọc Linh
Mã sinh viên: TX 6022
Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo


TP. Hồ Chí Minh, năm 2022.


MỤC LỤC


A.DẪN NHẬP
Có nhiều cách thực tập giáo pháp khác nhau,hằng trăm câu thần chú khác nhau để đọc
tụng, tất cả các loại thiền định nhưng điều quan trọng hơn tất cả là thực tập từ bi. Khi
mỗi người trong chúng ta đã có trách nhiệm đem lại hạnh phúc cho mọi chúng sanh,
thì sự phát triển lịng từ bi của chúng ta trở nên kiên định hơn. Nếu sự thực tập từ bi,
lịng tốt, qn đi bản thân mình, thì khơng có vấn đề gì khi bạn thực tập những
phương pháp khác ngay cả những phương pháp thâm sâu, bí truyền từ lãnh vực nghệ
thuật thiền quán cao nhất của mật chú đại thừa được khăngr định là mục đích nhanh
chóng đạt đến quả vị Phật càng nhanh càng tốt vì lợi ích của tất cả chúng sanh,chúng
khơng nhanh chóng trở thành con đường dẫn đến giác ngộ mà họ ước đốn. Nói
chung, nếu khơng có từ bi, thì khơng có phương pháp thực tập nào có thể dẫn đến giác
ngộ và thậm chí khơng những trở thành ngun nhân của luân hồi mà còn tái sanh vào
các cảnh giới thấp hèn địa ngục, ngạ quỷ hoặc súc sanh. Do đó, dù phương pháp thực
tập được xem là sâu sắc hoặc cấp tiến thế nào đi nữa pháp thiền quán đại viên mãn
(pháp tu tự nhiên hoàn hảo tối thượng” hoặc giai đoạn hoàn thiện, một giai đoạn hoàn
tất cao nhất của pháp tu thiền quán cao nhất nếu thực tập mà khơng có lịng tốt, mục
đích đem lại lợi ích cho người khác, thì thay vì đem lại lợi ích, phương pháp ấy có thể
gây nên tổn hại. Vì lẽ đó học viên chọn : ‘Đạo lộ giải thốt được chỉ bày trong Đại
Thừa Khởi Tín Luận”làm đề tài nghiên cứu và để cho bài viết có giá trị về nội dung
cũng như đầy đủ ý nghĩa, người viết dùng cách phân tích, tổng hợp, lập luận và chứng
minh để làm sáng tỏ mạnh đề.

4



B.NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
1.1. Sơ lược về tác giả Đại Thừa luận
1.1.1.Thân thế
Mã Minh (sa. A svaghosa) là một nhà thơ, nhà tư tưởng và là luận sư đại thừa người
Ấn Độ, sống vào giữa khoảng thế kỷ I và II TL, Ngài được xem là một trong những vị
luận sư quan trọng nhất của Phật giáo nói chung và đại thừa nói riêng. Quê ngài ở
thành Ba-la-nại thuộc Trung Ấn. Ngài sinh ra trong một gia đình bà-la-mơn, Thân phụ
của Ngài tên là Lư-già, thân mẫu của Ngài tên Cù-na. Ngài cũng được xem là vị tổ thứ
12 của thiền tông, kế tiếp của tổ thứ 11 Phú-na-dạ-xa.Trước khi xuất gia theo Phật,
Ngài chủ trương “Ngã thể bất biến”. Tuy nhiên, sau khi được tổ Phú-Na-dạ-xa quy
phục, Ngài đã làm đệ tử, và sau được sự giáo huấn của Tổ Hiếp Tôn giả nên Ngài trở
thành một trong bốn vị thánh tăng nổi tiếng nhất lúc bấy giờ, với tên gọi “bốn mặt trời
minh triết”, bao gồm: ngài Đề-bà ở Đông Ấn, Long Thọ ở Tây Ấn, Cưu-ma-la-thập ở
Bắc Ấn và Ngài ở vùng Đông Ấn.
1.1.2.Sự nghiệp
Về các dịch phẩm của Ngài, chúng ta thấy có các tác phẩm nổi tiếng sau:
1, Đại Thừa Khởi Tín Luận.
2, Phật Sở Hành Tán.
3, Đại Tơng Địa Huyền Văn Bản Luận.
4, Ni Kiền Tử Vấn Vô Ngã Kinh.
5, Thập Bất Thiện Nghiệp Đạo Kinh.
6, Sự Sư Pháp Ngũ thập Tụng.
7, Lục Đạo Luân Hồi Kinh.
8, Hi Khúc Xá Lợi Tử.
9, Tôn Già Lợi Nan Đà.
1.2. Sơ lược tác phẩm Đại Thừa Khởi Tín
1.2.1. Cấu trúc bộ luận

Đại Thừa Khởi Tín Luận (; Mahāyāna Śraddhotpāda Śāstra) cịn gọi là Khởi
Tín Luận (; Śraddhotpāda Śāstra), là bộ luận quan trọng được viết ra nhằm giới
thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa. “Đại Thừa Khởi Tín Luận”
là một bộ luận được viết ra để nhằm nói lên niềm tin về đại thừa, theo cách lập luận
của TT TS. T Nhật Từ; hay “Phát khởi lịng tin Đại thừa”, theo cách dịch của HT.
Thích Thiện Hoa: “Luận này làm cho người phát khởi lòng tin Đại thừa, nên gọi là
Đại thừa khởi tín”,Nói về niềm tin đại thừa, HT. Trí Quang đã giải thích: “Đại thừa
khởi tín khơng có nghĩa nhiều rằng phát khởi Đức tin đối với đại thừa, mà nghĩa chính
là phát khởi Đức tin đại thừa: Đức tin tin cái Tâm đại thừa”. Tồn bộ luận Khởi tín
này được phân thành 5 chương, bao gồm:
+ Chương một nói về phần nhân duyên.
+ Chương hai nói về phần Danh Nghĩa.
+ Chương ba nói về phần Giải thích.
5


+ Chương bốn nói về Tín tâm và Tu hành.
+ Chương năm nói về Lợi ích, khuyến tu.
2.2.2.Nội dung bộ luận
Về nội dung xác lập niềm tin đại thừa được nói tới trong năm chương đó, bao gồm:
a) Thuyết nhất tâm cho rằng tâm chúng sinh và tâm Như Lai vốn không khác nhau về
mặt chân lý tuyệt đối (chân đế);
b) Thuyết nhị mơn chủ trương rằng tâm có hai phương diện là tâm nhìn từ phương
diện bản thể (tâm chân như mơn) và tâm nhìn từ phương diện hiện tượng (tâm sinh
diệt môn);
c) Tam đại của tâm bao gồm ba cái lớn về mặt bản thể (thể đại), về mặt hình tướng
(tướng đại) và về mặt hoạt dụng (dụng đại).
d) Hai loại chân như (Bhūtatathatā) tức ly ngôn chân như (ngôn thuyết, danh từ và tâm
duyên) và y ngôn chân như (như thật không và như thật bất không).
e) Phân biệt tâm bất giác (gồm nghiệp tướng, chuyển tướng và hiện tướng) và tâm

giác ngộ (gồm thuỷ giác và bản giác).
f) Bản chất đồng và dị của bất giác và giác ngộ cũng như của tất cả mọi sự vật hiện
tượng.
g) Phân biệt tâm (tức a-lại-da = ālayavijñāna) với ý (tức năm ý: nghiệp thức, chuyển
thức, hiện thức, trí thức và tương tục thức) và thức (tức ý thức hay phân biệt sự thức).
h) Các huân tập nhiễm pháp (vô minh, vọng cảnh và vọng tâm) và huân tập tịnh pháp
(huân tập chân như).
k) Học thuyết tam thân: pháp thân (tức chân như tự thể tướng hay như lai tạng
Thatāgatagarbha), báo thân (tức nghiệp thức tâm sở hệ thức) và ứng thân (tức phân
biệt sự thức sở kiến).
l) Phát khởi tâm bồ-đề qua ba phương diện: ngôn thành tựu phát tâm, giải hành phát
tâm và chứng phát tâm.
Khởi Tín Luận cịn dạy hành giả về cách thiết lập tín tâm tu hành. Tín tâm ở đây là
lịng tự tín về khả năng phá trừ chấp pháp và chấp ngã và Đức tin bất động đối với
Tam Bảo. Tu hành ở đây bao gồm năm hạnh đầu trong lục độ (tỉnh lược độ thứ sáu là
trí tuệ)

6


CHƯƠNG 2
CÁC PHƯƠNG PHÁP TU TẬP ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN VÀ ỨNG DỤNG
TU TẬP TRONG ĐỜI SỐNG
2.1.Tu tập tín tâm
2.1.1. Niềm tin vào Phật bảo
Trong luận nêu rằng: “Tin Phật có vơ lượng cơng Đức, hành giả thường phải nghĩ
tưởng, gần gũi, cung kính và cúng dường để phát khởi căn lành và cầu đặng nhất thiết
trí”. Sở dĩ cần phải tin Đức Phật, gần gũi cung kính cúng dường là vì Đức Phật ln
ln trịn đủ ba phương diện: trí tuệ viên mãn, hạnh Đức trịn đầy, và sắc thân vơ ngại.
Với Đức hạnh trịn đầy, Đức Phật trở thành tấm gương hành trì tâm linh cho tất cả

chúng sanh noi theo. Với trí tuệ viên mãn, Đức Phật hóa độ nhiều người tỉnh thức để
giải thốt khỏi khổ đau sinh tử và hướng về đại thừa chân chánh. Và với sắc thân, Đức
Phật đến và đi không tự tại không lệ thuộc không gian địa lý, và thời gian vật lý. Ba
Đức tính quan trọng này là tiêu biểu cho tất cả mọi công Đức lành và oai Đức khác
của Đức Thế Tôn thông qua mười tôn hiệu cao quý, thường được gọi là thập hiệu:
Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô
thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn. Trong Dị Bộ Tông
Luân Luận, Đại Chúng Bộ cũng tán dương Đức Phật là bậc có “oai Đức khơng giới
hạn, thọ lượng khơng giới hạn, sắc thân không giới hạn và thân thể của Thế Tơn đều là
vơ lậu”.Tin Phật cịn chính là tin vào khả năng thành Phật, khả năng giác ngộ sáng
suốt vượt thốt mọi khổ đau của chính chúng ta. Ta cũng là Phật, nhưng là những vị
Phật chưa thành. Tuy chưa thành nhưng trong chúng ta ln có sẵn tánh giác, khả
năng giác ngộ. nếu có phương pháp, có quyết tâm thì nhất định ta sẽ thành chánh giác,
chứng được quả vị giác ngộ tối thượng như chính Đức Phật. muốn được như vậy thì
cơng việc đầu tiên là chúng ta phải tin Đức Phật là người đã chứng ngộ và đạt được
những oai Đức thù thắng với thập hiệu, thập lực… tiếp theo phải tin rằng chúng ta
cũng sẽ đạt được như ngài.Với niềm tin và Phật bảo, và tánh giác và khả năng giác
ngộ giải thốt trong chính chúng ta sẽ khiến cho chúng ta có đủ niềm tin, nghị lực
thẳng tiến trên con đường tu tập theo hướng tịnh tín đại thừa, và nhất định tương lai,
chúng ta sẽ đạt giác ngộ giải thoát.
2.1.2. Niềm tin vào Pháp bảo
“Tin pháp của Phật có lợi ích lớn; hành giả thường phải tu hành các pháp ba la mật”.
Tin pháp bảo là tin tất cả những lời dạy của Đức Phật. Bởi vì giáo pháp của Ngài là
phương thuốc thần diệu có thể chừa lành mọi vết thương của chúng sanh, là thuyền tốt
đưa chúng sanh vượt thoát khỏi biển luân hồi sanh tử. Ngài Mã Minh đã dùng ảnh dụ
“đại dương” bao la không ngằn mé để mô tả bản chất và cơng dụng của giáo pháp.
Theo đó, thể tướng của giáo pháp vượt khỏi mọi tà thuyết, như biển sâu bao hàm tất
cả mọi sự vật hiện tượng.Nền giáo pháp ấy, theo các nhà Đại thừa thì có thể phân chia
thành bốn loại, đó là Giáo, Lý, Hạnh, Quả. Hoặc theo sự phân chia khác thì giáo pháp
của Đức Phật có những giá trị lớn mà tất cả chúng sanh cần phải nên tin tưởng thọ trì:

a) Diễn bày khéo léo bởi giáo pháp của Đức Phật luôn được diễn thuyết tài tình, ứng
hợp với mọi căn cơ giúp chúng sanh đạt được lợi ích lớn khi nghe pháp này.
b) Thiết thực hiện tại vì giáo pháp này có giá trị thiết thực, hiệu nghiệm ngay trong
hiện tại giúp cho hành giả cảm thấy an lạc ngay trong hiện tại mà không cần phải đợi
đến khi chết.
7


c) Đến để mà thấy vì giáo pháp này là chân lý thực nghiệm vượt thốt khỏi mặc ước
của tơn giáo thông thường mà hãy đến với niềm tin chân chính và rõ ràng rằng những
giáo pháp của Đức Phật sẽ chúng ta đến con đường giải thoát nếu chúng ta biết thực
hành trọn vẹn và bằng chánh kiến, chánh tư duy. Pháp còn là nguyên lý của vạn pháp,
là thực sẽ tướng của vạn pháp. Nguyên lý hay thực tướng của vạn pháp, đó là gì? là
Dun sinh – Vơ ngã.
“Do cái này có mặt, nên cái kia có mặt.
Do cái này không nên cái kia không.
Do cái này sinh nên cái kia sinh.
Do cái này diệt nên cái kia diệt”.
Cũng như niềm tin về Phật bảo, tin Pháp bảo tức là tin vào công năng của các pháp
được Đức Phật dạy đưa chúng ta vượt qua khỏi bến bờ mê vọng, khổ đau. Niềm tin đó
được xác quyết bằng chính những kinh nghiệm của Đức Phật, của lịch đại tổ sư, và
của chính bản thân chúng ta nếu chúng ta thành thật thực hành. Niềm tin vào pháp sẽ
soi sáng cho niềm tin về đại thừa luôn luôn vững chắc, không lầm lẫn, không sai lạc.
bởi tin vào pháp tức là chúng ta đang đặt niềm tin vào những nguyên lý chắc thật,
những định luật khách quan và chân chính nhất trong vũ trụ này. Thế nên, trong q
trình tu tập, phát khởi tịn tín, nếu khơng nương tựa vào pháp thì chúng ta khơng thể
nương nhờ vào đâu để niềm tin chúng ta được thành tựu viên mãn.Chúng ta đều biết
rõ, niềm tin của Phật giáo nói chung và niềm tin về Đại thừa nói riêng đều đặt trên cơ
sở của chánh tín, của trí tuệ. Tức nhiên là chúng ta chỉ tin vào những điều mà chư
Phật, tổ sư đã đạt, và chúng ta cũng chỉ tin vào những điều mà kết quả của quá trình tu

tập ấy sẽ diễn ra một cách rất tự nhiên và rõ ràng. Vì thế, nếu khơng có giáo pháp, nếu
khơng có những ngun lý được diễn giảng trong giáo pháp của Phật thì niềm tin của
chúng ta khơng thể được thành lập, niềm tin về đại thừa cũng không thể tồn tại, và nếu
có chăng chúng chỉ là những niềm tin mang bóng dáng của sự mê tín mà thơi. Tin
Pháp bảo có khả năng xác quyết niềm tin tịnh tín của chúng ta như thế.
2.1.3. Niềm tin vào Tăng bảo
Trong trung bộ kinh bài kinh ví du tấm vải có đoạn: Vị ấy thành tựu lịng tin tuyệt đối
đối với chúng Tăng: Diệu hạnh là chúng Tăng, đệ tử Thế Tôn; Trực hạnh là chúng
Tăng, đệ tử Thế Tôn; Như lý hạnh là chúng Tăng, đệ tử Thế Tôn; Chánh hạnh là
chúng Tăng, đệ tử Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám vị. Chúng Tăng, đệ tử Thế Tơn, đáng
được cung kính, đáng được tơn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là
phước điền vô thượng ở đời.
+ Diệu hạnh: Supatipanno (Good conduct): thiện hạnh; hạnh lành.
+ Trực hạnh: Ujupatipanno (Upright conduct): hạnh chánh trực; thẳng thắn.
+ Như lý hạnh: Nyapatipanno (wise conduct): hạnh trí tuệ.
+ Chánh hạnh: Sàmìcipatipanno (Right conduct Dutiful conduct): đúng nghĩa phạm
hạnh, chân chính tự độ và độ tha.
* Bốn đơi tám vị:
1. Tu đà hoàn đạo --> Tu đà hoàn quả (Nhập lưu)
2. Tư đà hàm đạo --> Tư đà hàm quả (Nhất lai)
3. A na hàm đạo --> A na hàm quả (Bất lai)
4. A la hán đạo --> A la hán quả (Ứng cúng)
Tin tăng bảo bởi vì tăng là đồn thể ln sống đúng với chân như, tin Tăng cũng chính
là tin vào khả năng mình có thể tánh thanh tịnh, sống đúng với chân như đó. Ấy là đời
8


sống thực nghiệm tâm linh và sự thoát xác ra khỏi những triền phược.Vì đó là thể tính
của Tăng. Trong cái sai biệt muôn trùng giữa màn đời vớ vẫn âu cũng xuất từ cái
khơng sai biệt, hệt như khí tiết của trời đất bốn mùa xoay chuyển mà bản chất của nó

cũng khơng ra ngồi đặc tính âm dương. Con người ta cũng thế, hay nói rộng hơn, tất
cả chúng sanh đều hiện hữu từ cái bất dị ấy. Nhìn trên biểu tướng nó ln thiên
chuyển và phủ nhận chính nó như sự phủ nhận cái ấu trĩ của tầng lớp già nua. Nhưng
sự phủ nhận ấy khơng có nghĩa là khước từ thực tính mà là xác định lại tính chất đặc
thù của tất cả hiện hữu trước cái thiên chuyển khơng đồng. Cái đặc tính ấy, Phật giáo
gọi là Tăng, có nghĩa là hịa hiệp.Và thế, Tăng khơng cịn là điểm nhìn quy ngưỡng
nơi những cá thể, đoàn thể được gọi là Tăng già. Mỗi chúng ta đều khoác những chiếc
áo khác lạ ra chào đời nhưng ta vẫn có thể hàn huyên ở chổ ngồi chật hẹp nhất trên
trần thế, ấy là nhờ đặc tính của Tăng. Đặc tính ấy có thể gọi là Tăng tính, Hịa hợp
tính, Vơ ngã tính hay Phật tính cũng được vậy. Chính nhờ đặc tính ấy mà ta có cơ may
để nhận ra bộ mặt thật của mình bấy lâu ham dong ruỗi. Nhờ đặc tính ấy mà ta có thể
thoát khỏi những hệ lụy, đau khổ trần ai bằng cách sống chung thủy với nó bất luận ở
đâu và lúc nào…Như vậy tin Tăng là tin ở khả năng của chính mình có thể tự giải
thốt bản thân ra khỏi những khổ não, đồng thời cùng giúp cho tha nhân hướng về đời
sống an lành, Thánh thiện, cũng như tin vào chính đồn thể thanh tịnh từ lớp người đi
trước, tin vào những công Đức lành, vào sự thanh tịnh của tất cả chúng sanh. Tin tăng
không chỉ đơn giản là tin vào những người đi trước, là những người sống với lời Phật
dạy, mà còn là niềm tin vào sự trong sáng, là Đức tính thanh tịnh hằng hữu trong tất cả
mọi người.Niềm tin về tăng bảo như thế, một lần nữa lại khẳng định về khả năng
thanh tịnh của tất cả chúng sanh, khẳng định về khả năng có thể thành tựu được đạo
nghiệp của tất cả mọi người. và niềm tin về tăng cũng chính là tin về cái tâm trong
sáng, tâm đại thừa của chính tất cả chúng ta.
2.2. Phương pháp tu tập
2.2.1.Bố thí
Luận Đại thừa khởi tín có nói: “Bồ tát biết tánh Phật nơi mình khơng có tham lam,
bỏn sẻn, nên tùy thuận theo tánh Phật ấy, mà tu Bố thí ba la mật”.Tại sao tu hạnh Bố
thí mà phải viện dẫn và căn cứ vào tánh Phật là tánh vốn không tham lam, bỏn sẻn ?
Vì tu hạnh Bồ tát là phải rốt ráo, nếu cịn một phần nào hạn cuộc, thì đó chưa phải là
hạnh Bồ tát. Người làm Bố thí mà chưa hồn tồn thanh tịnh, vẫn cịn vướng vít một
phần nào nhiễm ơ, thì tánh Phật vẫn cịn bị che lấp, chưa hoàn toàn biểu lộ được.

Cũng như viên ngọc quý, nếu chưa hoàn toàn chùi rửa hết bụi nhơ, thì viên ngọc vẫn
chưa phục hồi đầy đủ, trọn vẹn giá trị của nó.Do đó, khi nói đến Bố thí Ba la mật là
người ta phải liên tưởng đến một sự bố thí hồn tồn, trọn vẹn, khơng thấy có nhân,
ngã, bỉ, thử, khơng một chút tiếc muốn, dù cho vật bố thí quý giá bao nhiêu, thân thiết
bao nhiêu, dù cho đó là thân mạng mình chăng nữa. Bố thí này là một thứ Bố thí hồn
tồn khơng vì danh, khơng vì lợi, khơng cầu người cảm ơn, không mong mỏi phước
báo. Trong khi cho Bồ tát không phân biệt ta đây là người cho, nên không sanh tâm
kiêu mạn; kia là kẻ được cho, nên không sanh tâm khinh rẽ họ, khơng thấy có giá trị
của vật đem cho, cho nên khơng tiếc nuối. Bố thí có ba thứ: thí tài, thí pháp, thí khơng
sợ. Thí tài, tức là cho của cải vật chất, sức cần lao…Loại Bố thí này có chia làm
hai:Đem tiền bạc giúp của cải cho người, thì gọi là thí ngoại tài (cho của ngồi
thân).Đem sức lực, hoặc thân mạng mình để cứu người, như cho máu, nhảy vào lửa,
xuống nước để cứu người lâm nạn, thì gọi là thí nội tài (thí tự thân).Thí pháp, tức là
9


chỉ bày phương pháp, thí pháp cũng chia làm hai loại :Chỉ dạy cho người những
phương pháp (dạy nghề nghiệp) chơn chánh để họ tự nuôi sống, làm lợi lạc cho đời
họ, thì gọi là thí pháp thế gian. Chỉ dạy cho người những phương pháp tu hành để giải
thoát sanh tử ln hồi, thì gọi là thí pháp xuất thế gian. Thí sự khơng sợ hãi, tức là làm
cho người khác vững tâm, khơng sợ sệt. Loại Bố thí này cũng có hai phần:Về phương
diện tiêu cực, khơng làm cho người khác phải sợ hãi vì mình.Về phương diện tích cực,
đem cho người khác sự gan dạ, vững tâm để đối phó với những nỗi nguy nan, hoạn
nạn đang xảy ra.Hạnh Bố thí đem lại kết quả lớn lao trên đường tu hành, đó là: trừ
được tâm ích kỷ, tham lam, bỏn sẻn, và nuôi lớn tánh Phật Từ bi, Hỷ xả, Vị tha. Đối
với người thọ thí, thí hạnh này đem lại nguồn an ủi, trút hết nổi khổ đau, tạo niềm
hoan lạc khai trí sáng suốt.Trong thời đại mới ngày nay, thời đại của kỹ thuật số, thời
đại của thông tin bùng nổ, với công nghệ hiện đại, giáo pháp được phổ biến khá nhanh
và rộng rãi. Đó là một lợi thế lớn của các vị giảng sư trong việc hoằng truyền chánh
pháp. Với mức lan tỏa nhanh chóng của thời đại cơng nghệ này, những thơng tin, bài

giảng của các vị giảng sư có thể cập nhật đến quần chúng dễ dàng. Thế nhưng những
thuận lợi này cũng đưa đến những tác hại. Nếu một vị giảng sư không quán chiếu căn
cơ, xứ sở mà thuyết những pháp ngược lại khiến người ta hiểu lầm chánh pháp thì sự
phổ biến rộng rãi và nhanh chóng này ngược lại càng tai hại. Đặc biệt là trong cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0, một vị giảng sư, hơn bao giờ hết, cần dành nhiều thời giờ
hơn cho sự tu tập, hành trì chánh pháp để khơng đắm chìm trong sự quyến rũ của cơng
nghệ ảo. Bên cạnh đó, vị giảng sư càng cần trau dồi tuệ giác, hiểu biết thơng suốt về
cơng nghệ kỹ thuật. Có như thế, vị giảng sư ấy mới có thể làm chủ thân tâm, tùy cơ
thuyết pháp, dùng ảo đối ảo, linh hoạt đưa công nghệ kỹ thuật vào phục vụ chánh
pháp, ứng dụng cơng nghệ làm phương tiện độ sanh.
2.2.2.Trì Giới
Kinh Bhikkhu Sutta, Tương Ưng Giác Chi, Tương Ưng Bộ Kinh, có ghi lại: “Giới
thanh tịnh là khởi điểm của tất cả thiện pháp”.Tu tập Giới như thế nào? Đó là khơng
sát sinh,khơng trộm cướp, khơng dâm dục, khơng nói hai lưỡi, khơng nói thơ ác,
khơng nói dối trá, khơng nói thêu dệt, không tham lam gồm cả ganh ghét,lừa đảo, gian
dối, dua nịnh, giận dữ và tà kiến. Nếu là người xuất gia thì vì bẻ gãy phiền não, cần
phải tránh chỗ náo động, thường ở chỗ thanh vắng mà thực hành hạnh ít ham muốn,
biết vừa đủ, và hạnh đầu đà. Dù lỗi nhỏ đi nữa cũng biết lo sợ hổ thẹn đổi bỏ, không
nên khinh thường Giới pháp Như Lai quy định, phải giữ gìn để tránh sự phỉ báng, ác
cảm; nghĩa là đừng làm cho mọi người phát sinh tội lỗi một cách vô cớ. Trong Tăng
Nhất, quyển 1, trang 168, Đức Phật bảo: “Nếu người nào có tâm dính mắc 21 kết là:
Giận (sân), làm hao tổn (nhuế hại), ngủ nghỉ (thuỳ miên), chơi bời (điều hý), nghi
ngờ, dữ tợn (nộ), sợ hãi (kỵ), buồn (não), ganh ghét (tật), đắng cay (tắng), khơng thẹn
với mình (vơ tàm), khơng xấu hổ với người (vô quý), giả vờ (huyển), gian dối, chống
đối (ngụy), tranh giành, kiêu căng, phóng túng (mạn), đố kỵ, tự cao tự đại (tăng
thượng mạn), tham; người này ắt đọa đường ác chẳng thể sinh cõi lành, ví như áo
lơng cũ nát lâu ngày dính đầy bụi, nếu muốn nhuộm màu xanh, vàng, chẳng thể thành
được.Ngược lại, nếu có người khơng có 21 kết nêu trên dính mắc tâm, người đó ắt
sinh lên Trời, ví như áo dạ trắng mới sạch không bụi, muốn nhuộm màu nào cũng
được”. “Do hành động, trí huệ và Giáo Pháp, do giới hạnh và nếp sống cao đẹp mà

chúng sanh được thanh tịnh, chớ khơng phải do dịng tộc hay tài sản”, (Kinh
Anāthapiṇḍikovāda Sutta, Trung Bộ Kinh bài số 143). Trong luận Đại thừa khởi tín có
10


nói: “Bồ tát biết tánh Phật nơi mình khơng có phiền não, nhiễm ơ, xa lìa các tội lỗi
ngũ dục, nên tùy thuận theo Phật tánh, tu pháp Trì giới Ba la mật”.Trì giới Ba là mật
tức là giữ giới một cách rốt ráo, đầy đủ, hoàn toàn trong mọi phương diện, chớ không
hạn cuộc trong một vài phạm vi nào.Giới đầy đủ nhất là “Tam tụ tịnh giới”; nghĩa là 3
phần giới thanh tịnh sau đây:Nhiếp luật nghi giới, nghĩa là bỏ các điều tội lỗi. Giới
này thuộc về phần tiêu cực, mục đích ngăn ngừa khơng cho các điều ác phát hiện.
Giới này hàng Thanh văn (Tiểu thừa) là sở trường. Nhiếp thiện pháp giới, nghĩa là làm
các việc lành. Giới này thuộc về phần tích cực, mục đích thúc giục làm các điều thiện,
ích lợi cho mình và người. Giới này hàng Thanh văn cũng thường giữ.Nhiêu ích hữu
tình giới, nghĩa là làm lợi ích cho tồn thể chúng sanh. Giới này thuộc phần tích cực,
phạm vi vô cùng lớn lao, bao trùm tất cả, rốt ráo vô cùng; giới này bắt buộc kẻ tu hành
phải nỗ lực làm tất cả mọi việc ích lợi, khơng riêng gì trong phạm vi nhân loại mà
chung cho tất cả lồi hữu tình (nghĩa là có sự sống, biết vui mừng và đau khổ). Vì nó
bao qt, vơ hạn lượng như thế, nên hàng Thanh văn không thể làm được, mà chỉ hàng
Đại thừa Bồ tát mới giữ nổi.
2.2.3. Nhẫn nhục
Luận Đại thừa khởi tín cho rằng: “Bồ tát biết tánh Phật của mình khơng sân hận, xa lìa
các khổ não, nên thuận theo tánh Phật, tu pháp nhẫn nhục Ba la mật”.Nhẫn nhục có
hai phần:Cam chịu những điều khổ não, nhục nhã, xót đau người ta làm cho mình mà
mình khơng hờn giận, phẫn uất và nghĩ đến sự trả thù, như Đức Phật đã nhẫn chịu
những âm mưu phá hại của Đề bà đạt đa khi lăn đá từ trên núi cao xuống chân Phật;
của bọn ngoại đạo khi cho cô gái độn bụng đến vu oan cho Phật, để làm tổn thương
đến uy danh Ngài; của vua A xà thế khi cho voi uống rượu say chạy đên để sát hại
Ngài. Ngài đã không hờn giận, trừng phạt, mà trái lại, cịn Từ bi hóa độ cho tất cả đều
được giải thốt.Bình thản, khơng xao động trước tất cả các cảnh thuận và nghịch của

cuộc đời mà mình gặp phải. Chẳng hạn, khi gặp nghịch cảnh, Bồ tát khơng ốn hận,
trách móc, phiền não, để cho tâm mình phải vướng bận, đảo điên. Khi gặp thuận cảnh,
Bồ tát cũng khơng mừng rỡ, thích thú, để cho tâm mình phải bị xáo động, vương vấn
theo.Nhẫn nhục Ba la mật là một thứ nhẫn nhục cùng tột, không một sự vui buồn,
sướng khổ, vinh nhục nào trong đời có thể làm lay động, xáo trộn tâm tư được. Thứ
nhẫn nhục này, chỉ có hạng Đại thừa Bồ tát mới thực hiện nổi; vì các Ngài đã nhận
chân được bản tánh thanh tịnh, bình đẳng, khơng thấy có nhân ngã, có người làm nhục
và kẻ bị nhục.Luận chủ chỉ giới thiệu tu tập Nhẫn nhục căn bản (hữu lậu) là nhẫn
người, nhẫn cảnh về hai mặt thuận ý và nghịch ý. Xã hội vốn đầy dẫy các bất công,
bất như ý, tranh chấp, bạo hành..., mà người tu phải giáp mặt: các hiểu lầm, vu khống,
mạ lỵ, các rắn rít, ruồi muỗi... Với các đối tượng này, người tu cần kham nhẫn để tránh
các phiền não gây trở ngại công phu giải thoát. Đây là ý nghĩa "kham nhẫn đoạn trừ"
thuộc cơng phu hộ trì giới được Đức Phật nói trong bài kinh Kinh Tất Cả Lậu HoặcTrung Bộ Kinh - Bài Kinh số 2: “Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do
kham nhẫn được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây, có Tỷ-kheo như lý giác sát, kham
nhẫn lạnh, nóng, đói, khát, sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các
lồi bị sát; kham nhẫn những cách nói mạ lị phỉ báng. Vị ấy có tánh kham nhẫn các
cảm thọ về thân, những cảm thọ thống khổ, khốc liệt, đau nhói, nhức nhối, khơng sung
sướng, khơng thích thú, chết điếng người. Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không kham
nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não có thể khởi lên. Nếu vị ấy kham nhẫn

11


như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy khơng cịn nữa. Này các Tỷ-kheo, các
pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ.”
2.2.4. Tinh tấn
Đó là đối với mọi thiện pháp, tâm khơng biếng nhác, thối lui, lập chí kiên cường ra
khỏi khiếp nhược. Phải luôn nghĩ nhớ rằng,từ quá khứ xa xưa đến giờ, ta đã chịu đựng
vô số sự đau khổ to lớn về thân thể cũng như về tâm lý, mà chẳng có lợi ích gì cả. Do
vậy, ngày nay ta phải siêng năng tu tập mọi công Đức tự lợi lợi tha, để sớm thoát ly

mọi khổ não.Lại nữa, người nào đang tu tập Đức tin (Thập tín),mà vì đời trước đến
giờ có nhiều tội nặng, Nghiệp dữ gây ra lắm sự trở ngại, như sự quấy phá của Tà ma
Quỷ quái, sự trói buộc của thế sự đa đoan, sự hành hạ của bệnh tật đau đớn; có nhiều
sự trở ngại như vậy,nên người ấy cần phải nỗ lực chuyên cần, ngày đêm sáu buổi lễ
bái chư Phật, thành tâm sám hối, khuyến thỉnh chư Phật thuyết pháp, tùy hỷ công Đức
và hồi hướng cầu Tuệ giác vô thượng; thường làm như thế không ngừng không bỏ thì
trở ngại tiêu trừ, thiện căn lớn mạnh.
2.2.5. Chỉ và Quán
Căn bản của thiền Phật giáo là tu tập thiền chỉ và thiền quán hay thiền định và thiền
tuệ. Nền tảng của tu tập Chỉ Quán là có giới Đức, sống phạm hạnh. Hành giả cần phải
tuân thủ, thọ trì, sống trong sự bảo hộ của Giới bổn thì tu tập Chỉ và Quán mới nhanh
chóng thành tựu. Trong khuynh hướng học thiền đang nở rộ hiện nay, nhất là trong
giới trẻ thì việc tìm hiểu nội dung tu tập thiền của Đức Phật Thích Ca để ứng dụng
hành trì là điều cần thiết, nên làm.“Một thời, Phật ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câudiệm-di. Bấy giờ Tôn giả A-nan đi đến chỗ vị Thượng tọa. Khi đến nơi ấy, Tơn giả
cung kính thăm hỏi, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Thượng tọa: Nếu có Tỳ-kheo ở nơi
vắng vẻ, dưới bóng cây, hay ở trong phịng n tĩnh tư duy, nên dùng pháp gì để
chuyên tinh tư duy?Thượng tọa đáp:Này Tôn giả A-nan, nếu người nào ở chỗ vắng vẻ,
dưới bóng cây hay trong phịng n tĩnh, nên dùng hai pháp này để chuyên tinh tư
duy, đó là Chỉ và Quán.Tôn giả A-nan lại hỏi Thượng tọa:Tu tập Chỉ, sau khi tu tập
nhiều, sẽ thành tựu được pháp gì? Tu tập Quán, sau khi tu tập nhiều, sẽ thành tựu được
pháp gì?Thượng tọa trả lời Tơn giả A-nan:Tu tập Chỉ, cuối cùng thành tựu được Quán.
Tu tập Quán, cũng thành tựu được Chỉ. Nghĩa là Thánh đệ tử tu tập gồm cả Chỉ và
Quán, chứng đắc các giải thoát giới.Tôn giả A-nan lại hỏi: Bạch Thượng tọa, thế nào
là các giải thốt giới?Thượng tọa đáp: Này Tơn giả A-nan, đoạn giới, vơ dục giới, diệt
giới, đó gọi là các giải thốt giới.Tơn giả A-nan lại hỏi:Thế nào là đoạn giới cho đến
diệt giới?Thượng tọa đáp:Này Tôn giả A-nan, đoạn tất cả hành, đó gọi là đoạn giới.
Đoạn trừ ái dục, đó là vơ dục giới. Tất cả hành diệt, gọi là diệt giới…”.(Kinh Tạp Ahàm, kinh số 464 [trích]).Luận nói Tu Chỉ là đình chỉ tất cả mọi phân biệt đối cảnh,
thuận theo ý nghĩa quán Xa-ma-tha (Samatha). Tu Quán là quán sát sự tương quan
chuyển biến, thuận theo ý nghĩa quán Tỳ-bát-xá-na (Vipasyana). Thuận theo là như
thế nào? -Đó là, trước hết tu tập Chỉ-Quán riêng biệt, kế đó xen kẽ với nhau, sau đó

hịa hợp song tu khơng cịn tách rời nhau theo Khởi Tín, tồn bộ Pháp giới là Nhất
Tâm hay Tâm, Tâm này có hai mặt, mặt Chân như và mặt sinh diệt. Do đó, muốn ngộ
nhập Nhất Tâm, khơng gì khác hơn là phải vào bằng hai lối ấy. Luận chủ đã lưu ý
hành giả: Ban đầu cần tu tập riêng lẻ, dần dần xen kẽ vào nhau, đến khi thành
thục,Chỉ-Quán sẽ dung hợp không tách rời nhau nữa.Theo ngài Mã Minh môi trường
thuận tiện cho tu Chỉ, đó là hành giả cần phải chọn nơi thanh vắng. Khi tọa thiền,
hành giả cần theo tiến trình điều thân trước rồi đến điều tâm; về điều tâm, Luận chủ
12


hướng dẫn rằng, không nên nghĩ đến mọi đối cảnh, như nghĩ về thân, tâm, sắc và vô
sắc.v.v… Tổng quát để nói, mọi ý nghĩ cần được hủy diệt và ngay ý nghĩ hủy diệt
cũng phải được hủy diệt luôn. Đây là thời điểm mà hành giả an trú trong Chánh niệm
hay an trú Chân như. Để được thành tựu như thế, hành giả cần vận dụng tu tập ngay cả
khi đi, đứng, nằm, ngồi; nếu siêng năng tu tập lâu ngày thì phiền não sẽ được đoạn trừ,
thiện căn sẽ lớn mạnh, dần dần thích ứng mà hội nhập Chân như.Luận chủ khẳng định
rằng, bất cứ ai cũng có thể tu tập để chứng đạt Chánh định Chân như, miễn là có Đức
tin vững mạnh, ý chí kiên cường Tuy nhiên, với những hành giả chướng dày Đức
mỏng, khi tu tập thì nội ma hiện ra đủ mọi hình tướng,mọi dữ kiện thuận ý, nghịch ý
đa đoan quấy rầy đương sự, làm cho rơi vào Tà ma ngoại đạo. Dù là nội ma hay ngoại
ma quấy phá, phương pháp đối trị tổng quát vẫn là, hành giả cần biết rằng, tất cả mọi
đối cảnh đều do tâm, mà Bản Thể của tâm là Chân như, là vô tướng, siêu việt mọi hữu
vi. Duy trì Chánh niệm như thế với tâm lý khơng tham đắm, khơng chấp thủ, thì
Nghiệp chướng sẽ tiêu trừ, sự quấy phá sẽ biến mất.
+ Quán vơ thường: Thấy người chết biết rằng mình cũng chết
Thấy người đau mình khỏe mãi hay sao
Xe tang vừa khuất qua mau
Đưa người hơm trước hơm sau đưa mình
Chúng ta thấy rõ ràng giáo lý vô thường do Covid-19 gây ra đang là hồi chuông thức
tỉnh mọi người trên thế giới phải biết quý giá giây phút sống để rồi mình làm những

điều có ích cho mình ,cho người và cho Xã hội.Khi ta biết rằng vạn vật luôn biến đổi,
dù ta đang trải qua một giai đoạn rất khó khăn, ta vẫn có thể tìm thấy niềm an ủi trong
sự hiểu biết, rằng tình trạng đó sẽ khơng như vậy mãi, khơng có gì phải tuyệt vọng.Ta
biết rằng con người không thể thay đổi quy luật sinh, lão, bệnh, tử, đó là điều lợi ích.
Vì sao? Nếu khơng nghĩ rằng mình phải già, phải có bệnh, sẽ có thể chết sớm, ta sẽ rơi
vào ảo tưởng về sự trường tồn của mình. Vận mạng tốt cũng khơng trường cửu thì làm
sao có thể nắm chắc được điều gì ở đời. Như vậy, khi sự việc tốt đẹp đến với mình,
mình cũng khơng nên tham muốn q nhiều. Nếu khơng ý thức về sự chết, ta sẽ không
để ý đến việc tu tập mà chỉ sống một cách vô nghĩa, khơng tìm hiểu những thái độ và
hành vi nào gây ra đau khổ và những loại nào đưa đến phúc lạc. Với ý thức mạnh mẽ
về sự chết tất yếu sẽ đến với mình, bạn sẽ thấy mình cần phải tu tập, chuyển hóa tâm
trí và khơng lãng phí thời giờ với những thú vui từ ăn uống đến những chuyện phù
phiếm. Quán vô thường để biết rằng đời người là quý báu và không để mất cơ hội tu
tập, làm làm thiện.
+ Quán khổ: Trong kinh Trung bộ, sau khi đề cao giá trị hạnh phúc tâm linh của
những tầng thiền định, Đức Thế Tôn dạy thêm rằng chúng là những trạng thái “không
thường hằng (vô thường), là khổ (dukkha) và luôn bị đổi thay (aniccàdukkha)”.2
Chúng ta phải ghi nhớ rằng từ “dukkha” khơng phải chỉ có đau khổ theo nghĩa thơng
thường của thế gian, mà bởi vì những gì vơ thường đều là khổ. Khái niệm “dukkha”
có thể được nhìn từ ba khía cạnh:Về phương diện sinh lý, về phương diện tâm lý, Khổ
là do chấp thủ vào thân này. Nguyên nhân của khổ là do ái dục (taṇhā). Ái có nghĩa là
u hay ưa thích, dục là ham muốn. Đức Phật ví sự nguy hiểm của ái dục như: khúc
xương và con chó đói, miếng thịt trong đám diều hâu, tù nhân và hố than hừng, dục
như tài sản vay mượn, như người cầm đuốc đi ngược gió, như con rắn độc, dục như
giấc mộng… Ái dục không thể tự nhiên phát sinh. Chúng ta không thể tự nhiên thích
ai hay yêu mà chưa bao giờ gặp hay tiếp xúc với người đó. Do sự tiếp xúc mà tham ái
13


phát sinh. Nói chung, do tham ái mà chấp thủ, bám víu vào đối tượng của tham ái. Sự

khát khao về dục lạc sẽ dẫn đến khổ đau, bởi vì lịng khát ái ấy khơng bao giờ thỏa
mãn. Phương pháp diệt khổ là Bát Chánh đạo .
+ Quán vô ngã: Hầu hết các tơn giáo đều nói có một đấng tối cao như Thượng đế
sáng tạo ra thế giới và sinh ra lồi người, trong khi đó đạo Phật nói vơ ngã và khơng
chấp nhận có một đấng tạo hóa nào tạo ra con người. Trong rất nhiều bài kinh trong
trung bộ kinh đều nói về vơ ngã, và lặp đi lặp lại nhiều lần những đoạn như sau:“Sắc,
này các Tỷ-kheo, là vơ thường. Cái gì vơ thường là khổ. Cái gì khổ là vơ ngã. Cái gì
vơ ngã, cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là: “Cái này không phải của tôi; cái
này không phải là tôi; cái này không phải tự ngã của tôi”. Do như thật quán với
chánh trí tuệ như vậy, tâm ly tham, được giải thốt, khơng có chấp thủ các lậu hoặc”.
Trong đời sống hàng ngày, chúng ta đau khổ phiền não vì tham, sân, si, giận hờn, ưa
ghét, buồn lo, ... tất cả những thứ phiền não đó có là vì chấp ngã mà ra. Vì khi tham
thì ai tham? Tham cho ai, vì ai? Khi tham thì Ta tham chứ ai vào đây. Ta tham cho Ta,
cho vợ con của Ta, cho gia đình của Ta, vì quyền lợi của Ta.Khi sân thì ai sân? Tại sao
sân? Khi sân thì Ta sân. Ta sân tại vì người khác làm trái ý Ta. Khi ưa thì ai ưa? Khi
ghét thì ai ghét? Khi ưa thì Ta ưa, ưa những thứ làm cho Ta vừa lịng. Khi ghét thì Ta
ghét, ghét những thứ làm cho Ta bực bội, khó chịu.Khi có nội kết thì ai có? Tại sao có
nội kết? Khi có nội kết thì Ta có. Có nội kết bởi vì người khác làm tổn thương Ta,
danh dự của Ta, tình cảm của Ta.Chấp ngã nhiều chừng nào thì khổ đau nhiều chừng
đó. Ngược lại, tu tập vơ ngã nhiều chừng nào thì bớt khổ nhiều chừng đó.
4. Qn bất tịnh: Chấp thủ vào thân tâm, không thấy bất tịnh là điểm tựa mạnh mẽ
nhất cho tham ái và các món triền phược khác hoành hành. Nên một khi thấy rõ về sự
thật của thân này là không sạch, vô thường, hư giả thì các trói buộc tự khắc suy yếu
hoặc rơi rụng. Vì thế, thiền quán bất tịnh được xem như pháp mơn căn bản, khơng thể
thiếu trong lộ trình tu tập. Trong kinh niệm xứ Đức Phật có dạy: Lại nữa, này các Tỷkheo, Tỷ-kheo quán sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao
bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này: "Ðây là tóc, lơng,
móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi,
ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước
miếng, niêm dịch, nước ở khớp xương, nước tiểu". Này các Tỷ-kheo, cũng như một
bao đồ, hai đầu trống đựng đầy các loại hột như gạo, lúa, đậu xanh, đậu lớn, mè, gạo

đã xay rồi. Một người có mắt, đổ các hột ấy ra và quán sát: "Ðây là hột gạo, đây là
hột lúa, đây là đậu xanh, đây là đậu lớn, đây là mè, đây là hột lúa đã xay rồi". Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo quán sát thân này dưới từ bàn chân trở lên trên
cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân
này: "Ðây là tóc, lơng, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hồnh
cách mơ, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ,
nước mắt, mỡ da, nước miếng, niêm dịch, nước ở khớp xương, nước tiểu".
+ Quán Đại bị: Trong giai đoạn hiện nay, trước những ảnh hưởng tiêu cực của nền
kinh tế thị trường, nhiều giá trị bị lệch chuẩn, bị chi phối bởi sức mạnh đồng tiền,
trong đó có giá trị “đạo đức”. Do đó mọi người cần phải có nhận thức , giữ mình và
tránh xa mọi cạm bẫy, cám dỗ vật chất tầm thường của đời sống xã hội, giữ cho tâm
hồn trong sáng, mọi hành vi của bản thân từng cá nhân phải được nâng lên thành văn
hóa, trong đối nhân xử thế, từ việc nhỏ đến việc lớn. Có phải mọi sai lầm, sự lệch
chuẩn, xuống cấp đạo đức xã hội đều do “mặt trái của kinh tế thị trường”? Hay cịn có
14


những nguyên nhân khác bắt nguồn sâu xa từ nền tảng văn hóa đang bị lung lay bởi sự
thay đổi của cuộc sống hiện đại? từ nhận thức chưa đúng, chưa tới tầm? Từ sự suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “Tự diễn biến”, “Tự
chuyển hóa” mà Đảng ta đã thẳng thắn chỉ ra tại Hội nghị TW4 ( khóa XII).Ví dụ các
em học sinh đánh hội đồng, kinh hoàng những vụ cố ý đâm đinh vào đầu trẻ ở Hà Nội,
cô gái đầu độc giết cha, tạo hiện trường giả ở Bà Rịa - Vũng Tàu,hay các vụ cướp
ngân hàng ở Bình Dương,Quảng Ninh tới vụ án lớn như công ty Việt á liên quan tới
rất nhiều cán bộ ngành y tế..v..v..Đã sinh ra là con người thì ai đó cũng ít nhiều phạm
phải những sai lầm nếu chúng ta không biết quán chiếu vấn đề để rồi ta biết thông cảm
và tha thứ cho họ giúp học có cơ hội sửa sai và trở thành những người tốt.Là người
học Phật quán đại bi giúp chúng ta hiểu rằng vị họ không có duyên lành được quy y
tam bảo được học Phật pháp lên họ không làm chủ được cái tham,sân,si của mình lên
gây ra hậu quả nghiêm trọng,do sự huân tập những tập quán tạo thành nghiệp ở kiếp

trước ,những người bị hại kiếp này họ phải trả nghiệp ở kiếp trước ....chúng ta biết
thương họ ,tự nhắc nhở mình phải cố gắng giữ giới, tu tập chuyển hóa tam độc để có
sự an lạc trong cuộc sống ,chúng ta đem giáo lý nhà Phật như nhân quả nghiệp báo,vô
thường,khổ,vô ngã chia sẻ và lan tỏa cho người thân và cộng đồng thông qua trực tiếp
hoặc các trang mạng xã hội . Như Đức Phật xưa kia đã từng tế độ cho một người phụ
nữ lạc bước giang hồ Ambapàli và cho cả một tên sát nhân tàn ác, toan hại Ngài
Angulimāla . Về sau, cả hai đều theo Ngài và hồn tồn đổi tính. Bên trong mỗi
người, dù xấu xa thế nào cũng ngầm có những tính tốt. Đơi khi chỉ có lời nói phải,
đúng lúc, cũng có thể làm đổi hẳn con người. Như vua A Dục ngày xưa, tàn bạo đến
nỗi, người đời bấy giờ gọi là “A Dục, con người tội lỗi”. Thế mà, khi nghe được lời
nói phải của một thầy Sa di trẻ tuổi, ơng đổi hẳn lại tính tình, mạnh tiến trên con
đường tự giác và trở thành “A Dục, con người hiền đức”. Ta nên nhận định rằng, tâm
bi của Phật giáo không phải là giọt nước mắt nhỏ suông gọi là thương xót. Kẻ thù gián
tiếp của tâm bi là “âu sầu, phiền não”.Tâm Từ và Tâm Bi thường đi chung với nhau.
Trước hết phải dùng tâm bi để trừ giùm đau khổ cho chúng sinh, rồi kế đó dung tâm từ
mà cho họ niềm vui. Như thế, cái vui mới được hoàn toàn. Vậy “bi” là nhân mà “từ”
là quả. Người sống có tâm từ bi, có tình thương thì mọi hận thù trên thế gian này sẽ
tiêu tan.
+ Quán Đại nguyện: Hành giả thường suy nghĩ chúng sanh khổ sở như thế, nên phát
tâm dõng mãnh, tu tất cả công Đức lành, lập lời thệ nguyện rộng lớn: "Nguyện cho
tâm tơi khơng cị phân biệt thân sơ (đồng thể) để dùng vô lượng phương tiện cứu độ
tất cả chúng sanh khổ não khắp cả mười phương, cùng tận vi lai, đều được an vui Niết
bàn".
+ Quán Tinh tấn:Một nhà Triết học Tây phương có nói: "Thế giới này thuộc về những
ai có ý chí và nghị lực". Tinh tấn chính là ý chí và nghị lực sắt đá của những ai muốn
tiến đến địa vị Phật-đà.Người tu hành khơng có tinh tấn chẳng khác gì kẻ muốn vượt
qua biển rộng mà chẳng có thuyền bè. Bao nhiêu những đức tính q báu như: Từ-bi,
Trí-tuệ, Bình-đẳng, Lợi-tha...sẽ trở thành những tiếng nói sng, khơng có tác dụng
gì, nếu thiếu tinh tấn. Cho nên lời dặn cuối cùng của Đức Phật Thích Ca với các đệ tử,
trước khi từ giã cõi đời để nhập Niết-bàn Ngài nói: "Hỡi các đệ tử! Hãy tinh-tấn lên để

được giải thốt". Nếu ở đời này có một gương tinh tấn rực rỡ và cao quý nhất, thì đó là
gương tinh tấn của Đức Bổn Sư Thích Ca.

15


CHƯƠNG 3
ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN VẤN ĐỀ SUY TƯ VÀ KIẾN NGHỊ
3.1.Vấn đề suy tư
Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học - một trong ba tôn giáo lớn nhất trên
thế giới hiện nay và tồn tại từ rất lâu đời (từ khoảng thế kỷ VI trước công nguyên). Hệ
thống giáo lý rất đồ sộ và số lượng Phật tử đông đảo được phân bố trên nhiều nước.
Lĩnh vực nghiên cứu Phật giáo hiện nay được mở rộng, ngoài việc nghiên cứu giáo lý,
kinh điển, lịch sử Phật giáo ra còn đề cập đến các lĩnh vực Triết học, Tâm lí học, Khảo
cổ học, Xã hội học Phật học đã trở thành một khoa học tương đối quan trọng trong
khoa học xã hội. Hay như Tôn Trung Sơn nói: “Phật học là mẹ của triết học, nghiên
cứu Phật học có thể bổ khuyết cho khoa học” . Mặc dù Phật giáo có những giá trị sâu
sắc như vậy nhưng cũng có những mặt hạn chế, khơng phù hợp cần hồn thiện. Trong
cơng cuộc xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin là
tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc thượng tầng
của xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng, trong đó giáo lý nhà Phật đã ít nhiều ăn sâu
vào tư tưởng tình cảm của một bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu lịch
sử, giáo lý và sự tác động của đạo Phật vào thế giới quan, nhân sinh quan là rất cần
thiết. Đạo Phật được truyền bá vào nước ta khoảng thế kỉ II sau cơng ngun và đã
nhanh chóng trở thành một tơn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của
con người Việt Nam, bên cạnh đạo Nho, đạo Lão, đạo Thiên Chúa. Vậy nên có thể nói
q trình Phật giáo phát triển, truyền bá ở Việt Nam gắn liền với quá trình hình thành,
phát triển tư tưởng, đạo đức của con người. Tác dụng hay ý nghĩa của tư duy chính
niệm ảnh hưởng tích cực tới đời sống con người nói chung. Người xưa nói, sai một li
đi vạn dặm. Sai ở đây là sai về tư duy chính niệm, dẫn tới hành động sai kết quả xấu

khó lường. Trong cuộc sống mà chúng ta đang sống, với thời đại công nghiệp 4.0, con
người phải đối mặt với nhiều thử thách khó khăn: làm thể nào để kích cầu kinh tế phát
triển, làm thế nào để ổn định văn hóa xã hội, làm thế nào để có hạnh phúc gia đình?
Đó là những vấn đề cần đặt ra, là trách nhiệm chung của con người trên thế giới. Tư
duy chính niệm giúp cho mọi người ln tỉnh thức, sống yêu thương lẫn nhau, gần gũi
nhau, khi ốm cũng như khi khỏe. Người ta nói khi nghèo nhờ điều kiện hợp lý thành
tri thức, người giàu về vật chất, kém về tinh thần – văn hóa là hay quên mất bản chất
của con người, nhiều khi quên đi cái đạo hiếu làm con, cái tình làng nghĩa xóm, đặc
biệt quên đi hạnh phúc của một gia đình bé nhỏ của mình. Mỗi ngày, mỗi chúng ta học
hành nghiên cứu, thực hành chính niệm tư duy kỹ lưỡng thì chúng ta cảm nhận được
năng lượng trong ta dồi dào, ta khỏe mạnh, minh mẫn, gắn kết gia đình.
3.2.Kiến nghị
Thứ nhất Các q Thầy cơ trụ trì các chùa nên khuyến khích tụng các bài kinh gần gũi
dễ hiểu như kinh người áo trắng,kinh tất cả lậu hoặc,kinh thiện sanh...cho Phật tử tại
gia đọc tụng hàng ngày còn đọc tụng kinh Đại thừa họ khơng hiểu dẫn đến kính lễ hóa
kinh điển để cầu phúc ,Phật giáo bị mê tín hóa.Như Ngài Mã Minh đã nói trong tám
nguyên nhân tạo luận : Giúp chúng sanh có căn lành thuần thục thì thiết lập niềm tin
tuyệt đối vào giáo lý Đại thừa,Giúp chúng sanh có căn lành kém cỏi có thể phát khởi
niềm tin, tu tập tín tâm.Trải qua nhiều năm một số Qúy thầy cô không được học ở các
trường phật học ,công việc của người tu là đi tụng đám ma,đi cầu an,đi cúng trai đàn
16


và thầy tu trở thành thầy cúng.Phật giáo Hòa Hảo loại tăng bảo cũng vì lý do Qúy thầy
cơ phải làm sao giúp cho Phật tử tại gia có được sơ tín Phật pháp.Ví như việc Phật tử
thờ lung tung:thần tài thổ địa,bà mẫu,quan công...trong khi các tôn giáo khác như
thiên chúa chỉ thờ một thượng đế duy nhất họ xóa đi những mê tín khác chỉ tập trung
mê tín vào thượng đế thôi trong nhà của họ không thờ tượng thần linh của các tôn giáo
khác .Thứ hai,trong đại hội Phật giáo thế giới tổ chức ở Colombo ,Tích Lan điều
thống nhất bỏ từ tiểu thừa và đại thừa ,để tránh hiểu thiên cực về vấn đề này nhất là

những người khơng có kiến thức cơ bản về Phật pháp,cũng như tránh lợi dụng các tôn
giáo khác về vấn đề này con xin thỉnh cầu thay vì gọi là mơn Đại thừa khởi tín luận
mà chúng ta lên mạnh dạn và thống nhất dùng :khởi tín luận hay luận khởi tín ạ.Việt
Nam là một trong số nước như Trung Quốc,Nhật Bản,Hàm Quốc theo Phật giáo bắc
truyền (Đại thừa)nhưng thực tế số lượng người theo Phật giáo ít hơn các nước theo
Phật giáo nam truyền.Dưới đây là số liệu thống kê của wikipedia
Các nước có tỉ lệ dân số theo Phật giáo cao nhất, thống kê năm 2010
Quốc gia
Campuchia
Thái Lan
Myanmar
Bhutan
Sri Lanka
Lào
Mông Cổ
Nhật Bản
Đài Loan
Singapore
Hàn Quốc
Malaysia
Trung Quốc
Việt Nam

17


So sánh là sự khập khễnh ,nhưng nó sẽ giúp cho những người thiện cận sẽ có cách
nhìn thực tế vấn đề một cách thấu đáo hơn.

C.KẾT LUẬN

Trong lịch sử Phật giáo, các bậc Đạo Sư, chư Tổ và các thánh giả là những người sau
nhiều năm tu học đã chứng đắc ở những mức độ cao nhất . Các ngài chắt lọc tất cả
những gì tinh túy nhất trong Phật giáo (cả hiển giáo lẫn mật giáo) để lập thành một bộ
pháp tu từ từ từng bước một. Trong dịa thừa khởi tín luận là “5 pháp mơn,niệm Phật” ,
nghĩa là con đường tu có thức bậc dẫn đến giác ngộ, tức là một con đường có thể dẫn
đến giác ngộ nhưng lại khơng q khó và phù hợp với căn cơ của chúng sinh. Pháp tu
có chỉ có quán và niệm Phật nhưng thực chất vẫn chỉ là một mà thơi. Tất cả các
phương pháp đều có chung một nguyên tắc đó là tuần tự từng bước một. Lý do phải đi
từng bước một là vì giáo lý của chư Phật vốn dĩ thậm thâm, không dễ để nắm bắt và
đưa nó vào cuộc sống đời thường. Cuộc sống con người vốn ngắn ngủi cho nên không
thể thực hành hết được tất cả các Pháp môn đức Phật để lại. Thế nên điều chủ yếu là
chọn lựa những thực hành phù hợp với mình, thơng qua việc tuần từ từng bước một
thì dần dần chúng ta sẽ đạt đến được kết quả cuối cùng - và tất cả các pháp môn tu tập
đều đưa đến một quả như nhau. Có những vị đạo sư khơng phải qua giai đoạn tu mà tu
thẳng đến các pháp cao - nhưng đó là vì căn cơ các ngài cao. Cịn chúng ta, những
chúng sinh bình thường, khơng được phép nóng vội và tự cho phép mình đốt cháy giai
đoạn bởi điều này sẽ đem lại những hậu quả rất nặng nề. Mỗi con người chúng ta cần
xem xét kỹ, trao đổi, chia sẻ học tập, nghiên cứu, thực hành về tư duy chính niệm của
Phật giáo thơng qua nhiều ngành, ứng dụng các khoa học công nghệ vào để nhận biết
rõ về giá trị của tư duy chính niệm hơn, ta biết có thể hướng dẫn cho người khác hiểu,
chúng ta biết ta đang tư duy đúng đắn, suy nghĩ đúng việc ta đã tư duy, làm việc ta
đang làm, một cách rành mạch, luôn biết tiếp thu ý kiến hay, xóa bỏ những ý kiến lỗi
thời (chấp thủ), ln tinh tiến rèn luyện cử chỉ hành động đẹp, làm những việc có lợi
cho mọi người, phù hợp với lối sống đạo đức con người trong xu thế tồn cầu hóa,
biết giúp đỡ lẫn nhau, thông cảm tha thứ cho nhau, cùng sống cùng làm việc với trách
nhiệm chung của xã hội, tôn trọng ý kiến tập thể, được vậy sẽ góp phần cho đạo đức
18


con người cao hơn, giảm nguy cơ chiến tranh, bớt ô nhiễm môi trường, nạn tham

nhũng giảm, nhận thức đúng đắn cao, tư duy trong sáng hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.HT Thích Minh Châu,kinh trung bộ tồn tập, Nxb Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh,2019.
2. HT Thích Liêm Chính,Luận Đại Thừa Khởi Tín,Nxb Tơn giáo.
3. Cao Hữu Đính ,Luận Đại Thừa Khởi Tín, 1983.
4. Sa Mơn Thích Thiện Hoa ,Đại Thừa Khởi Tín Luận Lược Dịch Và Lược Giải.
5.TT.TS. Thích. Đồng Trí, Đại Thừa Khởi Tín ,bài dạy tại lớp Phật học từ xa TP.HCM,
khoá VI-2022.

19



×