Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

TIỂU LUẬN ĐẠI THỪA KHỎI TÍN LUẬN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.02 KB, 21 trang )

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH

THÍCH NỮ CHÚC NHẬT

BÀN VỀ TÂM CHÂN NHƯ
VÀ TÂM SANH DIỆT
TIỂU LUẬN GIỮA HỌC KỲ VII
Môn : ĐẠI THỪA KHỎI TÍN LUẬN

Hà Nội – Năm 2020

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM


HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH

THÍCH NỮ CHÚC NHẬT

BÀN VỀ TÂM CHÂN NHƯ
VÀ TÂM SANH DIỆT
TIỂU LUẬN GIỮA HỌC KỲ VII
Mơn : ĐẠI THỪA KHỎI TÍN LUẬN
MSSV: TX5535
GVHD: TT.TS. THÍCH ĐỒNG TRÍ

Hà Nội – Năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Con xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng con. Các kết quả


nghiên cứu có tính độc lập riêng, khơng sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa công
bố nội dung này ở bất kỳ đâu. Các số liệu trong luận văn được sử dụng trung thực,
nguồn trích dẫn có chú thích rõ ràng, minh bạch, có tính kế thừa, phát triển từ các
tài liệu, tạp chí, các cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố, các website, internet .
Con xin hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của con.
Hà Nội, ngày 12 tháng 09 năm 2020

Thích Nữ Chúc Nhật


LỜI TRI ÂN
Thực tế luôn cho thấy, sự thành công nào cũng đều gắn liền với những sự hỗ
trợ, giúp đỡ của những người xung quanh dù cho sự giúp đỡ đó là ít hay nhiều,
trực tiếp hay gián. Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu nhập học đến nay, con đã
nhận được sự quan tâm, chỉ bảo, giúp đỡ của Chư Tôn Đức và chư vị giáo thọ
trong ban Giám Hiệu, ban Giảng Huấn, gia đình và bạn bè xung quanh. Với tấm
lịng biết ơn vơ cùng sâu sắc, con xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất từ đáy lịng
đến Chư Tơn Đức và chư vị giáo thọ , những bậc thiện tri thức đã dùng những tri
thức và tâm huyết của mình để có thể truyền đạt cho chúng con vốn kiến thức
quý báu suốt thời gian học tập tại trường.
Đặc biệt, con xin chân thành cảm ơn giáo thọ sư TT.TS. Thích Đồng Trí đã
tận tâm chỉ bảo hướng dẫn con qua các buổi học, thảo luận về mơn Đại Thừa
Khỏi Tín Luận, nhờ vậy, bài luận văn này của con đã hoàn thành một cách suất
sắc nhất. Một lần nữa, con xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy. Vì vốn kiến
thức của con có hạn, do vậy khơng tránh khỏi những thiếu sót, con rất mong
nhận được ý kiến đóng góp của chư Tôn Đức, quý Thầy Cô và các bạn học cùng
lớp để bài luận được hoàn thiện hơn. Con xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội , ngày 12 tháng 09 năm 2020

Thích Nữ Chúc Nhật



Nhận Xét Của Giaó Sư Hướng Dẫn



MỤC LỤC

Trang

A. DẪN NHẬP................................................................................................................. 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI................................................................................................1
2. PHẠM VI ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU......................................................................1
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................................................................................1
4. BỐ CỤC ĐỀ TÀI.........................................................................................................1
B. NỘI DUNG.................................................................................................................2
I. TÁC GIẢ- TÁC PHẨM..................................................................................................2
1.1. TÁC GIẢ..................................................................................................................2
1.2. TÁC PHẨM.............................................................................................................. 2
1.2.1. Giải thích về tên tác phẩm.................................................................................2
1.2.2. Tông chỉ sáng tác, nội dung bộ luận :.................................................................3
II. TÂM CHÂN NHƯ, TÂM SANH DIỆT..........................................................................3
2.1. TÂM LÀ GÌ?............................................................................................................3
2.2. TÂM CHÂN NHƯ ...................................................................................................6
2.2.1. Định nghĩa:....................................................................................................6
2.2.2. Thể, tướng, dụng của chân tâm.......................................................................7
2.3. TÂM SANH DIỆT....................................................................................................8
2.3.1. Định nghĩa:....................................................................................................8
2.3.2. Thể, tánh, dụng của tâm sanh diệt..................................................................8
III. MỐI LIÊN HỆ GIỮA TÂM CHÂN NHƯ, TÂM SANH DIỆT......................................9

3.1. SỰ GIỐNG NHAU GIỮA TÂM CHÂN NHƯ VÀ TÂM SANH DIỆT.....................9
3.2. MỐI LIÊN HỆ TƯƠNG TỒN GIỮA TÂM CHÂN NHƯ VÀ TÂM SANH DIỆT.......9
3.3. TU TẬP LÀM CHO TÂM CHÂN NHƯ HIỂN LỘ..................................................10
3.3.1. Chánh Tín.......................................................................................................10
3.3.2. Nhận ra và sống với bản giác- Tu tập Bồ Tát Hạnh........................................12
C. KẾT LUẬN...............................................................................................................14
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................14


Tra n g |1

A.

DẪN NHẬP.

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Trong đời sống hàng ngày chúng ta thường nghe, thường nói về chữ tâm. Và cũng thường
thắc mắc “tâm” là gì?”. Đã có nhiều học giả, triết thuyết nói về chữ tâm, nhưng ở đây
người viết chỉ xin nói về chữ tâm theo quan niệm nhà Phật. Theo quan niệm nhà Phật cho
rằng khi nói chữ tâm là nói đến “tâm chân như” và “tâm sinh diệt”. Nếu tâm chân như là
chân tâm, Phật tánh, trí tuệ bát nhã, bản thể tuyệt đối..v..v. Thì tâm sinh diệt là vọng tâm,
vọng niệm, vọng thức...v.v.. Bản chất của tâm chúng ta là tâm chân như thanh tịnh, tự
nhiên nhưng bởi vọng tưởng mê lầm mà khởi lên những vọng niệm, những tham lam, sân
hận, si mê gây ra phiền não rồi trôi lăn trong sinh tử luân hồi với tư cách là một hệ thống
tôn giáo, triết học, nền giáo lý của Phật giáo gồm những pháp môn tu nhằm khai mở cho
mọi người tin tưởng, thấy biết và sống với chân tâm của chính mình. Để đạt được kết quả
đó, người tu cần phải bỏ đi cái phần “tâm sanh diệt”.
Luận đại thừa khởi tín của ngài mã minh là bộ luận giúp cho người học phát khởi
lòng tin đại thừa, mà tin đại thừa là tin vào thể, tướng, dụng của tâm. Tâm ấy khơng có sự
khác biệt giữa tâm Phật, bồ tát và tâm của chúng sanh. Tin rằng mình và Phật khơng khác,

cùng có một bản tâm chân như giống nhau, để có ý thức nổ lực tu tập khai thị tâm ấy và
hộ trì hướng dẫn người khác cùng đạt được kết quả giác ngộ như các ngài. Trên thực tế,
có niềm tin vào sự hiện hữu của tâm chân như là tin tất cả giáo nghĩa, học thuyết và sự
hành trì đại thừa, được giới thiệu trong các kinh luật đại thừa như hoa nghiêm, mật
nghiêm, thắng-man, kim quang minh, đại tập, lăng-già, anh-lạc, bát-nhã, pháp hoa và niếtbàn mà ngài mã minh đã tóm tắt một cách cơ đọng và súc tích trong bộ luận. Vì vậy
người viết chọn đề tài “bàn về tâm Chân Như và tâm sanh diệt” làm đề tài nghiên cứu
cho học phần luận đại thừa khởi tín của mình.
2. PHẠM VI ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
Trong phạm vi đề tài, người viết chỉ tìm hiểu nghiên cứu về đề tài tâm Chân Như và
tâm sanh diệt được đề cập trong luận đại thừa khởi tín và một số kinh, luận Phật giáo liên
quan.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Người viết dùng phương pháp quy nạp, phân tích, lập luận, trích dẫn.v.v… Nghiên
cứu đề tài này.
4. BỐ CỤC ĐỀ TÀI.
Luận văn bao gồm phần mở đầu, kết luận, nội dung và danh mục tài liệu tham khảo.


Tra n g |2

B.

NỘI DUNG.

I. TÁC GIẢ- TÁC PHẨM.
1.1. TÁC GIẢ.
Ngài mã minh ( asvaghosha ), người nước ba-la-nại, hiệu mã-minh cũng có
hiệu cơng-thắng. Ngài là tổ thứ 12, để tử ngài hiếp tôn giả. Khi ngài sinh ra, ngựa
hý, khi thuyết pháp, ngựa bỏ ăn lắng nghe pháp, khi ngài đàn ngựa cũng hý...nên
được gọi là mã minh (ngựa kêu).

Ngài có hàng trăm tác phẩm, trong đó có tác phẩm Phật sở hành tán rất hay.
Ngài là tác giả của đại thừa khởi tín luận.
Các tác phẩm của tổ mã minh :
- đại thừa khởi tín luận (      ),
- Phật sở hạnh tán kinh (      ; s. Buddha-carita-kāvya)
- đại tông địa huyền văn bản luận ( ; s. Mahāyāna-bhūmi-guhyavācā-mūla-śāstra)
- đại trang nghiêm kinh luận (      ; s. Mahālaṇkāra-sūtra-śāstra)
- ni-kiền-tử vấn vô ngã nghĩa (),
- sự sư ngũ thập tụng (),
Ngồi ra, ngài cịn là tác giả của gần 100 luận bản khác, bao gồm cam-giá
luận (), thích lăng-già kinh ( ), nhất tâm biến mãn luận ( ), dung
tục quy chân luận () và chân như tam-muội luận () …
- các tác phẩm của ngài đã được dịch sang hán ngữ và việt ngữ bởi các dịch
giả : chơn đế, ht. Thiện hoa, ht trí quang, chân hiền tâm……
1.2. TÁC PHẨM.
1.2.1. Giải thích về tên tác phẩm.
Luận (śāstra) là thuật ngữ chỉ chung cho các tác phẩm Phật học của các vị tổ
sư Phật giáo, là một tạng quan trọng trong tam tạng kinh điển, do chư tổ rút ra từ
kinh và luật trước tác ra, nhằm làm sáng tỏ những luận điểm quan trọng trong lời
dạy của đức Phật theo sự tổng hợp và khai ngộ của một bậc tổ sư.
Đại thừa : (, sa. Mahāyāna), dịch âm hán-việt là ma-ha-diễn-na ( )
hay ma-ha-diễn (), tức là "cỗ xe lớn" hay còn gọi là đại thặng tức là "bánh xe
lớn", có khả chuyên chở cùng một lúc nhiều hành giả đến bến bờ giác ngộ tối
thượng. Là một trong hai trường phái lớn của đạo Phật phổ biến tại các nước trung
quốc, nhật bản, việt nam, hàn quốc và triều tiên. Đại thừa cịn được gọi là Phật
giáo bắc tơng. Sơ kỳ, các học giả dùng đại thừa để phân biệt với Phật giáo nguyên
thủy, hay còn gọi là tiểu thừa. Trong thập nhị mơn luận, bồ tát long thọ nói “vì sao
gọi là đại thừa? Vì đối với nhị thừa là trên nên gọi là đại thừa. Chư Phật là bậc tối
đại mà thừa này hay đến nên gọi là đại. Chư Phật là bậc đại nhân mà ngồi thừa này
nên gọi là đại. Hay diệt trừ các đại khổ của chúng sanh, cho việc đại lợi ích nên gọi

là đại. Vì là chỗ nương của các đại sĩ như quán âm, văn thù … Nên gọi là đại.
Thừa này tột biên để của tất cả pháp nên gọi là đại. Trong kinh bát nhã, Phật nói về
nghĩa đại thừa vơ lượng vô biên nên gọi là đại. Phần thâm nghĩa của đại thừa chính


Tra n g |3

là không. Nếu thông suốt nghĩa này là thông suốt đại thừa, đầy đủ ba la mật, khơng
có chướng ngại ...”.
Đại thừa (trong luận đại thừa khởi tín): nói về tâm, tức thể tướng dụng của
tâm. Tâm hàm chứa tất cả, quá rộng lớn nên gọi là đại.
Đại: gồm thể đại, dụng đại và tướng đại. Trong đó:
- thể đại – bản thể của tâm là chân như, là nhất quán, là bất biến;
- dụng đại – nương vào đó để thành tựu các hạnh lành, các thiện pháp và
thánh quả, bồ tát, Phật;
- tướng đại – Như Lai Tạng, đủ các tướng của như lai.
Thừa: nương tâm này mà thành tựu, nếu mình nương tâm sanh diệt thì thành
chúng sanh đọa vào ba đường ác đạo, nếu mình nương tâm tốt đẹp thì thành Phật,
bồ tát.
Khởi tín: khởi là phát khởi, tín là niềm tin, khởi tín là để phát khởi niềm tin.

Đại thừa khởi tín luận có thể được dịch là “phát khởi niềm tin về đại thừa”
hay “xây dựng niềm tin về đại thừa” hay “đánh thức niềm tin về đại thừa.”Là bộ luận
nhằm phân tích, quyết trạch, giản giải, phá trừ mê chấp, phát khởi chánh tín đại thừa. Là
tác phẩm phản biện trong hồn cảnh đại thừa bị chỉ trích, chê bai, tấn công và lung lay bởi
các luận sư tiểu thừa.
1.2.2. Tơng chỉ sáng tác, nội dung bộ luận :
Mục đích sáng tác khởi tín luận của tác giả, vì tám nhân duyên sau đây
1. Vì muốn cho chúng sanh xa lìa các khổ, đặng vui rốt ráo nên tạo luận này,
khơng phải vì danh lợi ở thế gian, hay cầu người cung kính.

2. Vì muốn cho chúng sanh hiểu biết chơn chánh, khỏi sự lầm lạc, nên tạo
luận này để giải thích nghĩa căn bản của như lai.
3. Muốn cho những chúng sanh căn lành đã thuần thục, lòng tin chẳng thối
lui và có thể lãnh thọ pháp đại thừa, nên tạo luận này.
4. Muốn cho những chúng sanh căn lành mỏng ít tu tập tín tâm.
5. Vì bảo hộ đạo tâm của những chúng sanh ác nghiệp sâu dày, nên chỉ bày
phương tiện, để chúng tiêu trừ nghiệp chướng xa lìa các phiền não si, mạn ...và ra
khỏi lưới tà.
6. Vì muốn đối trị tâm niệm sai lầm của phàm phu và nhị thừa, nên chỉ bày
cho họ tu tập chỉ quán.
7. Vì những chúng sanh căn tánh kém cỏi, nên chỉ bày phương tiện chuyên
tâm niệm Phật, sanh về cõi Phật, để cho tín tâm quyết định khơng thối chuyển.
8. Chỉ bày lợi ích để khuyên người tu hành1.
II. TÂM CHÂN NHƯ, TÂM SANH DIỆT.
2.1. TÂM LÀ GÌ?
Để biết tâm là gì, chúng ta cùng tìm hiểu trong một số kinh, luận của đức
Phật và chư tổ đã nói về tâm. Trong kinh hoa nghiêm đức Phật nói “một khi chỉ
một thoáng tâm sân hận khởi lên mà chúng ta khơng kiềm chế khắc phục được thì
lập tức muôn ngàn đau khổ chướng ngại tiếp nối theo sau” hay như lời phát
1 Luận Đại Thừa Khởi Tín, HT. Thích Thiện Hoa lược dịch và lược giải.


Tra n g |4

nguyện của đức Phật a di đà trong kinh a di đà: “người nào chấp trì danh hiệu của
ngài trong một, hai, cho đến bảy ngày mà một lịng khơng rối loạn thì lúc lâm
chung Phật a-di-đà và các thánh chúng sẽ hiện ra trước mắt, được vãng sinh tây
phương”; và trong kinh di giáo đức Phật dạy: “cái tâm của chúng ta luôn biến hiện
theo cảnh vật bên ngoài”. Trong kinh tăng nhất a-hàm đức Phật dạy: “này hỡi các
tỳ-khưu, như lai xác nhận rằng chính tác ý là nghiệp. Có ý muốn làm mới có hành

động, bằng thân, khẩu hay ý”. Thiền sư bách trượng hồi hải nói “tâm cảnh khơng
dính mắc nhau là giải thốt”.
Vậy tâm là gì, tâm ở đâu, và q trình tâm biến hiện tạo tác ra sao?
Theo Phật quang đại từ điển, kinh hoa nghiêm, tâm là “tích tập”, là thức thứ
tám, a-lại-da thức.theo bồ tát mã minh viết trong Đại Thừa Khởi Tín Luận thì tâm
là nội dung chính, cốt lõi. Tâm nhiếp tất cả thế gian và xuất thế gian. Tướng Chân
Như của tâm là thể của đại thừa, còn tướng sanh diệt là tướng và dụng của đại
thừa:
“Cái tâm này (tâm chúng sanh) có hai phần: 1. Tâm Chân Như, 2. Tâm
sanh diệt. Hai tâm này không rời nhau và đều bao trùm tất cả pháp.”
“Tâm Chân Như là cái tâm tánh bất sanh bất diệt. Thể và Tướng nó to lớn
bao trùm tất cả các pháp.
Sở dĩ các pháp sai khác là do vọng niệm; nếu rời vọng niệm thì khơng cịn
các cảnh tướng sai khác. Bởi thế nên tất cả pháp từ hồi nào đến giờ, không thể
dùng danh tự để kêu gọi, không thể dùng lời nói luận bàn, khơng thể dùng tâm
suy nghĩ được, khơng có biến đổi và cũng khơng phá hoại, vì nó rốt ráo bình
đẳng, chỉ có một “Tâm Chân Như ” mà thơi.”
“Tất cả những lời nói, đều do vọng niệm phân biệt mà sanh, chỉ có giả danh
chớ không thật thể. Cho đến danh từ Chân Như cũng không thực; chẳng qua
là một danh từ túng cùng của lời nói, dùng để trừ bỏ các danh từ khác (vọng)
mà thôi (nhơn ngôn khiển ngôn).
Song cái “Thể” của Chân Như không thể trừ bỏ và cũng không thể dựng
lập. Phải biết: tất cả các pháp cũng không thể trừ bỏ, vì đều là “Chơn” vậy, và
cũng khơng thể dựng lập, vì đều là “Như” vậy. Bởi tất cả các pháp đều là Chân
Như, nên khơng thể nói bàn và suy nghĩ được.”
Hỏi:
_Nếu “Chân Như ”, mà không thể dùng lời nói luận bàn hay tâm suy nghĩ,
thì chúng sanh làm sao tùy thuận và ngộ nhập được?
Đáp:
_Nếu người nào biết tất cả pháp, tuy có nói bàn, mà khơng có “năng nói” và

“sở nói”; tuy có suy nghĩ, mà khơng có “năng suy nghĩ”và “sở suy nghĩ”, thì
người ấy được tùy thuận Chân Như .
Cịn người nào lìa các niệm (vọng niệm) thì người đó được nhập Chân Như
2

Qua đoạn trích trên chúng ta thấy tâm Chân Như và tâm sanh diệt luôn
hiển bày nơi tâm của chúng sanh. Trong kinh Tứ Niệm Xứ Đức Phật giảng về đề
2 Trích Đại Thừa Khởi Tín Luận, Hịa thượng Thích Thiện Hoa.


Tra n g |5

mục quán niệm tâm như sau: “Này các Tỷ kheo, ở đây vị Tỷ kheo “với tâm có
tham, biết rằng tâm có tham”; hay “với tâm khơng tham, biết rằng tâm khơng
tham”; hay “với tâm có sân, biết rằng tâm có sân”; hay “Với tâm khơng sân, biết
rằng tâm khơng sân” hay “với tâm có si, biết rằng tâm có si”; hay “Với tâm
khơng si, biết rằng tâm không si”; hay “Với tâm thâu nhiếp, biết rằng tâm thâu
nhiếp”; hay “Với tâm tán loạn, biết rằng tâm tán loạn”; hay “Với tâm quảng đại,
biết rằng tâm quảng đại”; hay “Với tâm không quảng đại, biết rằng tâm không
quảng đại”; hay “Với tâm hữu hạn, biết rằng tâm hữu hạn”; hay “Với tâm vô
thượng, biết rằng tâm vô thượng”; hay “Với tâm có định, biết rằng tâm có định”;
hay “Với tâm không định, biết rằng tâm không định”; hay “Với tâm giải thoát,
biết rằng tâm giải thoát”; hay “Với tâm khơng giải thốt, biết rằng tâm khơng giải
thốt”. Hai mặt chân và vọng luôn hiện hữu cùng nhau. Nếu chúng ta thường
xuyên thức tỉnh, không chạy theo vọng niệm, xúc cảm tình cảm xảy ra trong tâm;
ln chánh niệm tỉnh giác trong cuộc sống thì dần dần chúng ta sẽ phát hiện ra đời
sống của chúng ta không phải là những biểu hiện xoay dần lôi kéo chúng ta từ
chuyện này cho đến chuyện khác, dần dần chúng ta sẽ sống trong sự tỉnh giác,
trong ánh sáng của tâm; và chính ánh sáng này chính là chân tâm, cũng chính là sự
giải thốt.

Tâm chúng ta lâu nay mãi chạy theo thói quen của nghiệp nên tạo tác phiền
não, làm nhân luân hồi. Khi nhận biết và tu tập chúng ta sẽ phát hiện ánh sáng của
tâm, dần dần thốt khỏi chấp trước, lúc ấy chính là trạng thái tỉnh giác của tâm
thức. Tỉnh giác ấy bao trùm tất cả tâm, cảnh; và đó là mục đích mà chúng ta phải
kinh nghiệm trong đời tu của mình. Khi đã thuần thục trong tỉnh giác chúng ta sẽ
thấy mọi diễn biến sẽ không như lúc đầu là mọi hiện tượng xảy ra là có biết
như: “Khi tâm có tham, biết rằng tâm có tham…”; mà đến đây, mọi hiện tượng chỉ
là một vị của Tánh biết. cho nên nói: “Tâm Chân Như là cái tâm tánh bất sanh
bất diệt. Thể và Tướng nó to lớn bao trùm tất cả các pháp.” Người đã thật sự nhận
ra tâm Chân Như thì tất cả đều là tâm Chân Như. Cái bị biết và hay biết đều là
Chân như.
Chúng ta ai cũng muốn làm chủ cuộc đời mình, muốn được sống an lạc, vơ âu lo.
Nhưng đứng trước phong ba, sóng gió trong cuộc sống, chúng ta rất dễ gục ngã, chán
trường, và phó thác mọi thứ cho số phận. Với tuệ nhãn trí tuệ, thấu triệt nguyên lý hoạt
động của vạn sự, vạn vật, đức Phật dạy chúng ta phải quay về tìm hiểu, khám phá vườn
tâm của mình thì mới làm chủ được bản thân, làm chủ cuộc đời, bởi đức thế tôn đã dạy:
“nhất thiết pháp giới duy tâm tạo, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác”. Thử quán
chiếu chúng ta sẽ thấy, nếu ta nói hoặc làm với tâm thanh tịnh, sự vui sẽ theo nghiệp kéo
đến như bóng chẳng rời hình. Cịn nếu ta làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo
đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo. Ngoài ra, mọi sự vật ở thế gian, từ vật dụng
thường dùng cho đến thế giới tự nhiên, thậm chí cái thân xác thịt này của chúng ta, khơng
gì là khơng do tâm tạo. Vì thế, trong kinh hoa nghiêm, đức Phật dạy:
“tâm như họa sĩ khéo
Vẽ thế giới muôn màu
Cảnh ngũ ấm thế gian


Tra n g |6

Không pháp nào chẳng tạo.”

Tâm này bao gồm tâm của tất cả thánh phàm, mê ngộ. Nhờ nơi tâm này mà
các Đức Phật tu chứng Niết Bàn. Bồ Tát nương tâm này mà tu Bồ Tát Hạnh trên
cầu quả Phật, dưới hoá độ chúng sanh. Chúng sanh cũng do tâm này mà trơi lặn
trong dịng sanh tử ln hồi. Vì thế nên có kệ về chữ tâm “”
“ba chấm như ngôi sao
Uốn cong tợ trăng tà
Chúng sanh từ đâu có
Thành Phật cũng do đây.”
2.2. TÂM CHÂN NHƯ .
2.2.1. Định nghĩa:
Chơn là chơn chánh, thiện, đúng pháp.
Như là như như bất động, không đổi dời theo không gian, theo thời gian.
 Tâm Chân Như là chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh, như "tánh mặn"
vốn có của muối.
Theo ngài mã minh giải thích trong luận đại thừa khởi tín “tâm chân như,
chính là thể nhất pháp giới đại tổng tướng pháp mơn. Đó là tâm tánh chẳng
sanh chẳng diệt. Tất cả pháp chỉ nương nơi vọng niệm mà có sai biệt. Nếu lìa
vọng niệm thì khơng có tướng tất cả cảnh giới. Cho nên, tất cả pháp từ xưa đến
nay lìa tướng ngơn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, rốt ráo bình
đẳng, khơng có biến khác, chẳng thể phá hoại, chỉ là nhất tâm, nên gọi là chân
như”.
“Tâm Chân Như” còn được gọi là “Chân Tâm”, Bản Thể Tuyệt Đối, Phật
Tánh, Giác Tánh, Giác Tri Kiến, Tri Kiến Phật, Trí Tuệ Bát Nhã, Tánh Không, Niết
Bàn... vân vân ... Trên thực tế, ngôn ngữ xuất phát từ hữu vi, không thể biểu đạt
trọn vẹn vô vi, mà bản chất tâm này vốn sẵn có trong mỗi người thuộc pháp vơ vi,
khơng có tên và hình tướng, nên có nhiều tên khác nhau. Vì vậy, Diên Thọ Thiền
Sư trong Duy Tâm Quyết nói: một pháp có ngàn tên, hợp theo duyên mà lập hiệu.
Kinh Lăng Nghiêm gọi là Chơn Tâm; trong Bồ Tát Giới gọi là tâm địa; Kinh Bát
Nhã gọi là bồ đề; Kinh Hoa Nghiêm gọi là Pháp Giới; Kinh Kim Cang gọi là Như
Lai ; Tâm Kinh gọi là Niết Bàn; Kinh Kim Quang Minh gọi Như Như; Khởi Tín

Luận gọi Chân Như ; Kinh Niết Bàn gọi Phật Tánh; Kinh Viên Giác gọi Tổng Trì.
Tồn bộ ngơn ngữ đều do quan niệm, nhận thức, khái niệm, tâm thức của thế giới
loài người tạo ra để ước định một phạm trù nào đó mang tính chất tương đối thuộc
trong phạm trù hữu vi và tục đế nên không thể nào định nghĩa và mô tả được ý
nghĩa chân đế. Những danh từ được dùng để đặt tên cho Tâm chân chư chỉ là
phương tiện, khi đã thấu đạt được ý nghĩa rồi thì cũng như qua sơng liền bỏ
thuyền, hay như dung ngón tay chỉ mặt trăng. Cho nên, trong 49 năm thuyết pháp
Như Lai khơng nói một lời nào 3. “Phật thuyết nhất âm, chúng sanh tùy loại các
đắc giải”. Đức Phật thuyết pháp tùy nhận thức mỗi loài chúng sanh mà thẩm thấu,
đắc ngộ khác nhau. Giá trị ý nghĩa và nội dung của tâm chân như như thế nào là do
3 Kinh Lăng Già


Tra n g |7

mỗi chúng sanh tự tu tập và có cách nhận định riêng của mình, như uống nước
nóng lạnh tự biết vậy. Cho nên, người học Phật Pháp chúng ta không nên đặt nặng
vấn đề ngôn ngữ, định danh, hình tướng. Khơng đặt nặng nó, nhưng chúng ta vẫn
cần vay mượn nó làm phương tiện trong giao giao tiếp, nghiên cứu để chuyên chở
những ý tưởng nào đó. Như dung danh từ Chân Như để nói đến cái bất sanh bất
diệt, cái tồn chân thiện mỹ, cái khơng biến dị thay đổi. Để rồi, khi giác ngộ được
Tâm Chân Như rồi thì mới thấy rõ ngơn ngữ chỉ một phương tiện mà thôi.
2.2.2. Thể, tướng, dụng của chân tâm.
“Tâm Chân Như là cái tâm tánh bất sanh bất diệt. Thể và Tướng nó to lớn
bao trùm tất cả các pháp”
Tâm chân như là chủ tể của sự sống, nó hằng lưu lộ ở sáu căn. Tâm này chính
là tâm của chư Phật, bồ tát, chư thánh. Bản chất tâm này vốn thuần khiết, thiện mỹ,
không thay đổi theo thời gian, khơng gian. Ví như tâm của ngài anan khi phát
nguyện:
“diệu trạm tổng trì bất động tơn

Thủ lăng nghiêm vương thế hy hữu
Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập
Như nhất chúng sanh vị thành Phật
Chung bất ư thử thủ nê hoàn
Đại hùng đại lực đại từ bi
Hi cánh thẩm trừ vi tế hoặc....”4
Trong kinh Phật có câu: “chân như bình đẳng, như như nhất vị” là nói về thể
tánh của tâm chân như, tâm này có khả năng nhiếp thâu tất cả pháp thế gian lẫn
xuất thế gian một cách bình đẳng, nên hành giả chỉ cần nương vào tâm ấy bèn thấu
rõ nghĩa của đại thừa. Vì sao? Bởi vì tướng chân như của tâm chân như ấy biểu
thị cái thể của đại thừa, còn cái tướng nhân duyên sanh diệt của tâm ấy thì biểu thị
tự thể, tự tướng và tự dụng của đại thừa. Nếu thể của Chân Như là Như Lai Tạng
là nền tảng xuất sinh hiện hữu và trở về của tất cả pháp. Thì tướng của Chân Như
là biểu hiện của Chân Như, chính là mọi hình tướng đang có ở đây trong mọi mặt
của cuộc sống. Ngay nơi tướng của Chân Như này nếu hành giả khơng rời thể của
Chân Như thì sẽ thấy Thể và tướng của Chân Như là không hai. Vì vậy, nếu ln
sống trong chánh niệm tỉnh giác thì mọi hoạt dụng đều là hoạt dụng của Chân Như,
mọi hình tướng đều là hình tướng của Chân Như, từ Chân Như .
- Tự thể thì tâm ấy chính là cái chân như bình đẳng, khơng tăng khơng
giảm, khơng dơ khơng sạch của tất cả các pháp. Ví như sóng biển, nước sơng,
nước biển tuy có hình dáng và mùi vị khác nhau, nhưng tự thể của nó đều chỉ thuần
là nước.
- Tự tướng thì tâm ấy chính là cái Như Lai Tạng có đầy đủ vơ lượng tánh
cơng đức. Ví như tuy tánh của nước chỉ là nhất thể, nhưng nước lại có nhiều hình
dạng, mùi vị khác nhau.
- Tự dụng thì tâm ấy có cơng năng sinh ra tất cả nhân quả lành thế gian và
xuất thế gian. Tất cả chư Phật đều lấy một pháp này để phổ độ chúng sanh. Tất cả
4Bài Tựa kinh Lăng Nghiêm.



Tra n g |8

chư bồ-tát cũng đều lấy một pháp này làm phương tiện để đi đến đất nước của như
lai. Ví như tuy nước có các dạng khác nhau, nhưng chúng đều có một tánh ướt,
dùng để giải khát, tắm rửa giặt giũ v.v…
Nếu là tâm Chân Như thì là một thể ưu việt, tối thắng, bất động, thì tất cả
các đức tướng tốt đẹp của như lai được biểu hiện là từ bi, hỷ xả, bao dung.... Thể
hiện tướng Chân Như và dụng lớn của tâm chân như là tất cả các quả vị thánh,
bồ tát, Phật thừa. Thừa là nương vào tâm Chân Như này để tu tập để thành tựu
thiện pháp và thánh quả bồ tát, Phật.
2.3. TÂM SANH DIỆT.
2.3.1. Định nghĩa:
Trong luận đại thừa khởi tín bồ tát mã minh viết “do Như Lai Tạng (chơn)
mà có "tâm sanh diệt"; nghĩa là chơn (khơng sanh diệt) vọng(sanh diệt) hồ
hiệp, khơng phải "một" khơng phải "khác" gọi là thức a lại da (tâm sanh diệt).
Thức này tóm thâu tất cả các pháp và xuất sanh tất cả các pháp. Thức này có
hai nghĩa "giác" và "bất giác" (mê).”
+ Như Lai Tạng : tạng là tích tụ, chứa nhóm, duy trì các chủng tử. Như Lai
Tạng có hai nghĩa: (1)như lai tại triền, nghĩa là tánh Phật cịn bị chứa trong vịng
phiền não nhiễm ơ. (2)như lai xuất triền, nghĩa là tánh Phật chứa đựng các pháp vô
lậu thanh tịnh, đã ra khỏi phiền não nhiễm ô.
+ A lại da: trong luận này, thức a lại da, tức là "thức a đà na", thức tạng hay
là thức thứ 8. Theo duy thức, khi chứng quả vị a la hán thì thức a lại da khơng cịn;
vì ở quả vị này, hành giả đã diệt trừ ngã chấp, nên thức này khơng cịn là a lại da,
mà chỉ gọi là thức a đà na. Còn trong đại thừa khởi tín luận, bồ tát mã minh cho
rằng: từ phàm phu cho đến quả Phật, đều có thức a lại da, vì thức này vừa thâu tóm
tất cả pháp vừa sanh tất cả pháp và nó duy trì ở cả hai quả vị thánh (giác)
phàm(mê).
“Tâm sinh diệt” còn được gọi là a lại da thức, vọng tâm, vọng niệm, vọng thức,
nghĩ tưởng, niệm tưởng, suy nghĩ, suy tưởng, tư tưởng, nhớ nghĩ, tưởng nhớ, tâm ngôn,

tức là tất cả những gì chúng ta đã làm, đã sống qua thân khẩu ý đều được thu nhận và lưu
trữ.
2.3.2. Thể, tánh, dụng của tâm sanh diệt.
Tâm sanh diệt nương vào Như Lai Tạng mà sanh khởi, vì bản chất của Như
Lai Tạng vốn không sanh diệt, do bất giác động niệm mà hn tập thành vơ minh
nên có sanh diệt. Tuy nhiên, tâm sanh diệt ấy lại khơng lìa cái tâm khơng sanh diệt,
nên nói: “chẳng sanh chẳng diệt cùng với sanh diệt hòa hợp”.
Thức A Lại Da xưa nay vốn dĩ niệm niệm sanh diệt, trước sau thay đổi diến
dị, chẳng phải đoạn chẳng phải thường, nhân diệt quả sanh, nên được ví như một
cái kho dung chứa mọi chủng tử khi nó tác động vào 7 thức cịn lại để chuyển thức
huân tập thành chủng tử. Thức này rất vi tế, nếu hành giả chưa có chủng tánh giác
ngộ thì khơng thể biết tận căn để của nó. Ngồi ra, nó cịn có tác dụng làm chỗ
nương tựa cho tất cả pháp và giữ gìn sự lưu chuyển luân hồi trong các đường cũng
như sự hoàn diệt niết bàn.


Tra n g |9

Thức a lại da này có hai nghĩa là “giác” và “bất giác”. Cả “giác” và “bất
giác”. Đều có khả năng thâu nhiếp và sanh tất cả pháp. Thâu nhiếp là tất cả và đem
chủng tử cất giữ. Sanh là biến ra để làm thành cảnh giới. Bất giác thì thuận với vơ
minh nên sanh ra tam tế, lục thô và tất cả nhiễm pháp ở thế gian. Giác thì ngược
dịng vơ minh nên sanh ra tịnh pháp và tứ thánh xuất thế.
Thể và tướng của tâm Chân Như trùm khắp tất cả pháp, nhưng tại sao phần đa
chúng sanh không nhận ra tất cả pháp đều là Chân Như mà lại sống với caí tâm
sanh diệt? Bởi vì kẻ vơ minh bị che chướng bởi vọng niệm. Mà tất cả vọng niệm
của tâm sanh diệt chỉ là thứ giả tạm, khơng thật có. Chân Như có hai biểu hiện
không tách rời là thật Không và thật có. Thể của Chân Như thì vắng lặng trong
sáng trùm khắp tất cả pháp, tướng của Chân Như thì biểu hiện thành tất cả pháp,
tuy biểu hiện là tất cả pháp nhưng lúc nào cũng là Chân Như thật Không. Cịn thật

có là những biểu hiện dù có thành hình tướng nhưng không rời thể của Chân Như,
cho nên các hình tướng đó thật có nhưng là biểu hiện thanh tịnh.Chúng sanh khơng
thấy được điều đó mà trên biểu hiện của Chân Như, nên sanh tâm chấp trước mê
lầm. Đứng trên bản thể Chân Như thì những lầm chấp đó chỉ là hư giả không thật.
Ngay cả từ Chân Như cũng là hư giả vì so với vọng niệm mà có. Cho nên, biết tất
cả lầm chấp đều là hư giả khơng thật để chúng ta lìa lầm chấp này. Như trong kinh
Kim Cương dạy: “lìa tất cả tướng gọi là chư Phật” hay “thấy tất cả tướng không
phải tướng là thấy Như Lai”. Khi đã lìa tướng hoặc thấy tướng không phải tướng
là chúng ta thể nhập Chân Như .
III. MỐI LIÊN HỆ GIỮA TÂM CHÂN NHƯ, TÂM SANH DIỆT
3.1. SỰ GIỐNG NHAU GIỮA TÂM CHÂN NHƯ VÀ TÂM SANH DIỆT.
Cả hai phương diện này đều chứa đựng tất cả các hạt giống, vì chân như và sinh diệt
tương thuộc vào nhau và không tách rời khỏi nhau. Tâm Chân Như và tâm sanh diệt có
thể ví như sóng với mặt nước biển. Tuy không phải là một nhưng cũng khơng phải là hai.
Sóng lăn tăn dao động tượng trưng cho tâm sanh diệt, mặt nước biển phẳng lặng thì tượng
trưng cho tâm Chân Như. Tuy sóng khơng phải là nước biển nhưng cũng khơng ngồi
nước biển, vì bản chất của nó chính là nước, cũng như nước đá, tuyết, mây tuy khơng phải
là nước nhưng đều có bản chất là nước, bao gồm các thành tố H 2O. Cũng vậy, tâm Chân
Như, tâm sanh diệt đều là tâm. Cả hai cùng tích chứa các hạt giống chủng tử và cùng có
tác dụng nhận biết trần cảnh.
3.2. MỐI LIÊN HỆ TƯƠNG TỒN GIỮA TÂM CHÂN NHƯ VÀ TÂM SANH DIỆT.
Tính chất của nước vốn khơng thay đổi, chỉ vì những ngun nhân khách
quan bên ngồi mà tạo ra sóng, nước đá, tuyết, mây…. Tính chất của tâm vốn
khơng sanh, khơng diệt. Chỉ vì chạy theo vọng niệm phân biệt nên thấy mọi sự vật
hiện tượng có sai biệt. Nếu dứt trừ được vọng niệm sẽ khơng cịn ý niệm về tướng
trạng của cảnh giới sai khác. Trong luận nói “chẳng phải một, chẳng phải khác”
là nói giữa tâm sanh diệt và tâm khơng sanh diệt có mối lien hệ gắn kết mật thiết
với nhau, chúng không hề tách rời nhau.. Cả hai thứ tâm này đều có mặt ở nơi mỗi
chúng sanh. Trên thực tế, Tâm Chân Như vốn bất sanh, bất diệt, nó khơng cần



T r a n g | 10

nương vào cái gì để sanh ra và cũng khơng vì cái gì để mất đi, vấn đề là nó có
được hiển bày hay không, hay bị che lấp. Trong Kinh Đại Bát Niết-Bàn, Đức Phật
có dạy “tất cả chúng sinh đều có bản tâm thanh tịnh. Chúng sinh chẳng nhận thấy
được vì bị vô minh che lấp”. Nghĩa là, tất cả chúng sanh đều có bản tâm thanh tịnh,
tâm chân như, trong sáng trịn đầy, vắng lặng; nhưng vì bị ngoại cảnh bên ngồi
chi phối, tâm đó ln bị xao động, “tâm viên ý mã”, thành vọng tâm, vọng động
vọng tưởng theo cảnh giới do giác quan đưa lại, thành ra tâm trí bất an điên đảo,
tạo tội tạo nghiệp trong vòng luân hồi bất diệt. Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức
Phật dạy: “cội nguồn của sinh tử luân hồi là vọng tâm, cội nguồn của Bồ-Đề NiếtBàn là chân tâm; biết nơi mình có chân tâm thường trú mà tu hành là ngộ, là
thành Phật; khơng biết điều đó là mê, là chúng sinh”5. Như vậy, Tâm sanh diệt và
tâm chân như nương tựa vào nhau mà tồn tại hiển bày. Nếu khơng có tâm sanh diệt
thì làm sao thấy được tâm chân như, và nếu khơng có tâm chân như thì khơng sanh
ra tâm sanh diệt. Ngài Huyền Giác có câu: “Vơ minh thật tánh tức Phật tánh, Ảo
hóa khơng thân tức Pháp thân”6. Có nghĩa là Tánh của vơ minh và Phật tánh khơng
hai, Phật Tánh ấy! Chính là thật tánh của Vơ Minh đấy! Tâm Chân Như có thể tạm
thị hiện ở tâm sanh diệt và nhờ có tâm sanh diệt mà chúng sanh mới có thể tu tập,
chuyển hóa về tâm Chân Như. Cũng như nếu khơng có chúng sanh thì làm sao có
Phật, nếu khơng có bùn nhơ làm sao có hoa sen, nếu khơng có thế gian thì làm sao
thành tựu Bồ Tát Hạnh. Chúng sanh do nương nơi bất giác mà sanh tâm vọng động
khởi tạo nghiệp, nghiệp chính là cái nhân gây ra quả khổ, tu tập dừng tâm vọng
động ấy là giác ngộ thành thánh quả.
3.3. TU TẬP LÀM CHO TÂM CHÂN NHƯ HIỂN LỘ.
Cốt lõi của Đạo Phật hay mục tiêu cuối cùng của việc tu hành chính là giác ngộ giải
thốt. Tức là làm cho chân tâm hiển bày. Chân tâm này thánh phàm đều có. Đức phật là
bậc đã giác ngộ thường sống với chân tâm này, chúng ta cũng như Phật đều có bản giác
rồi, nhưng vì bất giác ngăn che nên chúng ta phải đoạn những bất giác này để đưa về bản
giác, tức giác ngộ.

3.3.1. Chánh Tín.
Tuy tâm chân như ln thường có, nó bất động nhưng nếu chúng ta muốn
nhận ra nó, bước đầu ta phải tin chắc chơn tâm này vốn hằng hữu. Đức Phật có dạy
rằng tín là căn bản của sự thành cơng, và là nguồn gốc của muôn hạnh lành. Kinh
hoa nghiêm dạy: “tin là gốc đạo, là mẹ của các công đức, tin có thể ni dưỡng các
căn lành, tin có thể thành tựu quả bồ đề”. Duy thức nói: “tin như hạt thanh châu, có
khả năng làm nước đục hóa trong. Vì thế, mn việc lành phát sanh, tin ln luôn
đi tiền đạo, nên trong tất cả kinh Phật đều đề “ta nghe như vầy” để mọi người sanh
lòng tin trước nhất. Niềm tin rất quan trọng, niềm tin là sức mạnh, khi mình tin là
có Phật tánh, bản giác, Chân Như thì sẽ cung cấp cho chúng ta thêm sức mạnh.
Chúng ta cần biết rằng đức tin đưa con người đến chỗ thành công không phải là
một thứ mê tín, bởi một niềm tin mù qng khơng được xây dựng trên sự hiểu biết
5 Kinh Thủ Lăng Nghiêm
6 Chứng đạo ca


T r a n g | 11

đúng đắn là một nguy hại lớn cho đời sống của cá nhân, của gia đình, dân tộc và xã
hội. Mê tín là tin tưởng một cách mê muội, mù quáng, tin với sự không hiểu biết
tường tận. Trong bối cảnh xã hội ngày nay, khi phương tiện thông tin đại chúng
ngày càng phát triển, con người lại có xu hướng dùng tai, mắt để phán quyết mọi
vấn đề mà chưa thong qua sự suy xét thật hư, phái trái, đúng sai nên vừa nghe hay
đọc được thơng tin ở đâu đó là liền nắm bắt, đuổi theo rồi phán quyết, mặc cho sự
thật như thế nào. Chẳng hạn như, chúng ta vừa đọc trên Facebook một thong tin về
vị sư nào đó đánh mắng trẻ em, nhưng chưa tìm hiểu kỹ nguyên nhân vì sao mà vị
ấy làm vậy, liền đem tâm chê bai, trách móc vị ấy, thậm chí cịn thóa mạ người tu,
mất tín tâm với Đạo Phật.
Đức Phật dạy chúng sanh nên lấy lời dạy trong kinh, luật làm thầy, lấy đề
mục quán niệm làm chỗ trụ tâm để đạt được sức chánh định mà gạn lọc tâm tư, trừ

bớt tham dục, khiến trí huệ nảy sinh, qt sạch vơ minh. Nhưng chúng sanh đa
phần làm ngược lại lời Phật dạy, phế bỏ kinh sách, chẳng tu phạm hạnh. Trong
Kinh Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ, Đức Phật dạy: “người đời thiện ác, tự
mình chẳng thấy, lành dữ họa phúc, tranh nhau tạo tác, tâm mê thần ám, triển
chuyển gây nghiệp, điên đảo tương tục, vô thường là gốc, mờ mờ mịt mịt, không
tin kinh pháp, tâm chẳng lo xa, ham muốn thỏa thích. Mê muội sân giận, tham tài
đắm sắc, rốt cùng chẳng dứt, thật đáng thương thay.” Chúng sanh do lầm tưởng
mê mờ, không tin kinh Phật, chẳng chịu trì giới, nên tâm hồn mới bị điên đảo như
vậy, chỉ thấy cái lợi ích hiện tại mà chẳng cần biết đến cái họa mai sau, cứ mãi
chạy theo dục vọng, làm thỏa mãn lòng ham muốn, trở thành mê muội sân giận,
tạo ra biết bao nhiêu ác nghiệp khơng thể nói nổi. Người khơng tin Phật Pháp, sẽ
khơng biết cái gì là tâm chân như, cái gì là tâm sanh diệt, nên chẳng thể buông xả
được cái vọng tâm tham tài đắm sắc, mặc tình để chúng làm ông chủ sai khiến, để
rồi tạo ra vô số ác nghiệp, chẳng có lúc nào ngừng dứt, đến lúc cuối cùng phải lãnh
chịu quả báo vô cùng khốn khổ.
Người không tin, không học Phật Pháp nên không tin, không hiểu được chân Tâm
Phật tánh là thật, là hằng hữu nên nhận lầm vọng niệm hư dối là thật. Hoặc học Phật Pháp
mà ngoan cố không tin Chân tâm Phật tánh thường hằng thì cũng chỉ là kẻ si mê. Còn
những người học Phật một cách chân thành, tin, hiểu, ghi nhớ nghĩa lý sâu xa lời kinh
Phật dạy sẽ tự nhiên biết mình có chân tâm Phật tánh nên biết hồi quang phản chiếu, thực
hành bát nhã, quán chiếu ngũ uẩn để phát sanh trí tuệ bát nhã thấu rõ tâm mình. Vì vậy,
chánh tín rất quan trọng đối với người đang đi trên lộ trình tìm về bản giác.
Tâm chúng sanh là sở hữu cả hai tâm sanh diệt và tâm Chân Như. Đúng hơn, vì các
tướng vốn là thanh tịnh lưu xuất từ tâm Chân Như, các tướng này biểu hiện thanh tịnh và
thật Không, nhưng bởi chúng ta chấp cho nó thành thật có cứng đặc, khác biệt, sanh
diệt…đây là biểu hiện của tâm sanh diệt, không phải là biểu hiện thanh tịnh của tâm Chân
Như. Như vậy tâm sanh diệt này đã che mất đi biểu hiện của tâm Chân Như. Do vậy, từ
tâm sanh diệt khởi thấy biết, nhưng nếu khơng chấp trước thì tâm sanh diệt biến thành
biểu hiện thanh tịnh và nó là một với thể của tâm Chân Như.
Tâm Chân Như xưa nay chưa từng sinh chưa từng diệt bao giờ. Nhưng khi từ các

tướng biểu hiện từ Chân Như khởi vọng chấp thì chân như biến thành sanh diệt, nếu lìa


T r a n g | 12

vọng chấp thì cũng các tướng đó nhưng là biểu hiện của tâm Chân Như thanh tịnh.
Khơng có loại bỏ hay thêm vào nơi các pháp, mà chỉ chuyển từ sự nhận thức dính mắc
sang nhận thức như thật mà thôi.
“_Nếu người nào biết tất cả pháp, tuy có nói bàn, mà khơng có “năng nói” và “sở
nói”; tuy có suy nghĩ, mà khơng có “năng suy nghĩ”và “sở suy nghĩ”, thì người ấy
được tùy thuận Chân Như.”
Năng là trung tâm nhận biết, sở là đối tượng bị trung tâm này biết. Khi chúng ta thấy
có ta biết và sự việc, sự vật bị biết là chúng ta đang ở trong mê lầm, lúc này cái thấy từ
Chân Như đã phân mảnh thành vụn vặt khơng cịn nhất thể nữa.
Như vậy, nếu cái thấy biết cịn có chỗ phân biệt là vẫn cịn năng và sở. Đứng trên
phương diện sinh diệt hễ còn năng còn sở là còn mê. Nhưng nếu chúng ta từ góc độ nhận
thức ta thấy giữa cái biết và cái bị biết, nếu khơng để tâm dính mắc, khơng sanh sanh tâm
phân biệt dần dần chúng ta an trú trong sự tỉnh biết. Khi thực tập được sự tỉnh biết mạnh
mẽ và tương tục, chúng ta hoàn nguyên năng biết trở về Tánh nhận biết. Khi đó năng sở
sẽ tiêu vong trong sự tỉnh giác toàn khắp của Tánh giác. Và như vậy là chúng ta thể nhập
Chân Như. Với Chân Như thì năng biết và sở biết đều là Chân Như .
Đây là cách tìm về Chân Như trên chính biểu hiện của Chân Như mà biểu hiện nào
gần Chân Như nhất. Biểu hiện đó chính là năng biết hay cái biết đồng hiện cùng với các
tư tưởng và các hình tướng.
3.3.2. Nhận ra và sống với bản giác- Tu tập Bồ Tát Hạnh
“Chánh niệm trong tỉnh giác
Dù thuận cảnh, nghịch cảnh,
Quán chiếu lời Phật dạy,
Thiện duyên hay ác duyên,
Trong nếp sống hàng ngày,

Ta đều phải buông bỏ,
Mọi sự là nhân duyên.
Trở về Thanh Tịnh Tâm,
Tất cả Pháp Hữu Vì,
An nhiên và tỉnh giác.”
Như Mộng huyễn bào ảnh,


Chân tâm và vô ngã liên quan mật thiết với nhau. Trở về chân tâm thì khơng cịn
ngã, cho nên tu tập xóa bỏ tâm sanh diệt cũng chính là phương pháp tu để đạt vô ngã.
Tâm bất giác vọng tưởng tạo ra cái bản ngã, rồi theo bản ngã trơi lăn trong sinh tử. Bây
giờ nói tu tập trở về chân tâm, nhưng Ai trở về? Và trở về đâu? Tâm trở về, và trở về bổn
tánh của nó, cái tánh thanh tịnh thường hằng. Khi tâm trở về bổn tánh thanh tịnh thì nó
được gọi là chân tâm. Chúng sanh do một niệm vô minh bất giác, bỗng nổi lên từ Biển
Tâm mênh mông, cũng như người đang thức, chớp mắt đã lạc vào giấc ngủ. Trong mơ,
thấy đủ thứ hiện ra, bị đánh cũng thấy đau, khóc cũng có nước mắt, sợ hãi cũng chạy trốn,
vân vân ... Nhưng thời gian của giấc ngủ bình thường chỉ lâu có một đêm, sáng dậy bèn
biết ngay rằng chuyện xảy ra trong đêm là ngủ mơ, khơng thật. Dịng sanh tử ấy kéo dài
triền miên, như một giấc mơ dài từ cái niệm vơ minh bất giác đó khởi tạo tham sân si, tạo
nghiệp thiện, hoặc ác, tất cả đều chứa trong Tàng Thức làm nhân cho những kiếp sau, tiếp
tục trôi lăn trong mê vọng của sinh tử luân hồi, mãi đến khi nào thức tỉnh, trở lại được
trạng thái Tâm Thanh Tịnh, thì mới hội nhập lại với Bản Thể Chân Tâm được, đó là Kiến
Tánh thành Phật. Đức Phật là người giác ngộ, ngài đã đoạn dứt được Tâm sinh diệt, đưa
Tâm trở lại trạng thái thanh tịnh, khơng cịn nghiệp nhân làm chủng tử gây nên đời sau,
hội nhập Bản Thể Chân Tâm. Đức Phật đã thành công, và Ngài đã chỉ cho chúng ta
phương pháp tu hành để đạt được như vậy. Sau khi mình tin là mình có Phật tánh, bản
giác, Chân Như thì chúng ta có thêm sức mạnh để tìm về bản giác chân như vốn có của
mình. Bản giác vốn sẵn có, tâm thể chúng sanh tự tánh thanh tịnh chiếu sáng chẳng phải
do tu mà thành. Nhưng bởi những tạp nhiễm nên bản giác bị che lấp, co nên Ngài Huệ
Năng khi giác ngộ thốt lên: Đâu ngờ tự tánh vốn thanh tịnh, đâu ngờ tự tánh vốn đầy đủ,

đâu ngờ tự tánh vốn sanh diệt, đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp. Bản giác được hiểu
theo nghĩa trí tịnh tướng(nương vào sự huân tập của pháp lực tu hành) và nghiệp
tướng(tướng nghiệp của bản giác). Thể của bản giác là bản thể vắng lặng, tướng của bản
giác là công đức. Hành giả tu tập cần đạt được cả hai tướng trí tịnh và tướng nghiệp, cả về
bản thể vắng lặng và cơng đức. Vì vậy, hành giả ngồi thì cơng phu cơng quả lao tác Phật
sự, trong thì chánh niệm tỉnh giác khơng làm xao xuyến bản thể thanh tịnh của mình. Đây
chính là con đường tu Bồ Tát Hạnh. Thực hành Bồ Tát Hạnh chúng ta cần mạnh mẽ cắt đi
những ràng buộc, tập khí, tập nghiệp thói quen đã được huân tập sâu dày. Ràng buộc lớn
nhất là tham, sân, si, mạn nghi ái ố…. Những thứ này liên kết nhàu tạo nên một vòng trịn
tương tục khơng rời. Tham là ngun nhân chính khiến tâm sân trỗi dậy, sân là nguyên
nhân sanh ra si mê, do si mê nên lại sanh tham sân, cứ như thế nối tiếp nhau không chỗ
ngừng dứt. Đức Phật dạy chúng sanh nếu muốn dứt trừ tham sân si thì phải tu pháp Lục
Độ Ba La Mật tức bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ Ba La Mật.
Bố thí Ba La Mật diệt được tâm tham; Trì giới Ba La Mật đối trị tâm phóng dật; Nhẫn
nhục Ba La Mật đối trị tâm sân hận; Tinh tấn Ba La Mật đối trị tâm giải đãi; Trí tuệ Ba
La Mật đối trị si mê…v…v. Lục độ Ba La Mật là pháp tu của một vị Bồ tát. Trên đường
đi ấy, hành giả phải phát đại bi tâm trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ tất cả chúng sanh trong
ba cõi sáu đường. Nhờ trì giới, tinh tấn và thiền định, hành giả phát khởi trí huệ, thấu triệt
bình đẳng tánh nơi mn sự mn vật, thấy mình và mọi lồi chúng sanh khơng hai
khơng khác. Nhờ đó, hành giả có khả năng xuất chúng về mọi phương diện, đồng thời
phát khởi lòng từ bi, do vậy có thể nhẫn nhục để hành hạnh bố thí. Do làm tất cả hạnh


nguyện với tinh thần Ba La Mật, nên viên dung giữa mình và người, khơng có tâm mong
cầu sở hữu. Vì nhân vơ vi nên đạt quả cứu cánh, làm lợi ích cho mình và tha nhân.
Chúng ta sanh trong thời đại ngày nay, khi mọi thứ đều đang phát triển thuận lợi cho
cái ta, sự tham muốn trổi dậy, cùng với đó là những tiện nghi về thơng tin đại chúng.
Chúng ta cần phải sáng suốt trước mọi sự việc, những tiện nghi kia là con dao hai lưỡi,
nếu biết vận dụng nó cho đường tu của mình thì lợi ích khơng thể nghĩ bàn, ngược lại nếu
vận dụng khơng khéo thì nguy hại vơ cùng. Vì vậy, chúng ta cần quán chiếu vạn pháp hư

vọng, vô thường biến dị mạnh mẽ bỏ đi cái ngã ái chấp thủ. Quan trọng nhất trong công
cuộc tu hành là điều chỉnh tâm. Khi tâm mê, qn bổn tánh thì nó trở thành vọng tâm, và
vọng tâm tạo ra bản ngã, và ngã tiếp tục tạo ra phiền não, sanh tử. Khi tâm ngộ, tỉnh giác,
phiền não khơng cịn, tìm về bổn tánh thì tâm trở thành chân tâm. Hiểu rõ bản chất của
tâm, chúng ta có thể lập ra phương châm tu hành như sau:
Quán biết :
- Chân tâm vốn tự thanh tịnh, nên không ái luyến, nếu ái là ngã ái;
- Chân tâm vốn không sanh diệt, nên không cần sợ hãi, nếu sợ là ngã sợ.
- Chân tâm vốn tự đầy đủ, nên không ham muốn, nếu muốn là ngã muốn.
- Chân tâm vốn không dao động, nên thường vắng lặng, nếu khởi niệm là ngã khởi.
Chúng ta chỉ vì quên mất bổn tánh chân tâm nên lang thang trong sinh tử luân hồi.
Nay nhờ chư Phật, chư tổ chỉ dạy nguồn gốc của chúng ta chính là chân tâm thanh tịnh,
tánh thật của chúng ta không phải là những tánh ái luyến, sợ hãi, ham muốn, dao động
vọng tưởng lăng xăng. Đó là nguyên nhân tác thành nên phiền não của chúng sanh. Ngay
bây giờ, hãy mạnh mẽ phá tan đám may u tối để vâng trăng tâm thanh khiết hiển lộ. Con
đường đi Đức Phật đã chỉ cho chúng ta, cái chúng ta cần làm là dõng mãnh từ bỏ tập khí
huân tập đeo bám chúng ta từ xưa nay. Là những người tu hành thật thanh khiết trong
sáng, chân thật giản dị. Một cuộc sống chân thật với chân tâm của mình, khơng chạy theo
thế tục để tô vẽ cho bản ngã làm nhân đi vào luân hồi lục đạo. Khi tham muốn khởi lên thì
hãy nhớ lại bổn tánh của mình thanh tịnh đầy đủ, muốn trở về chân tâm thì đừng hành
động theo vọng tâm, vọng tưởng, để những thói quen, tập khí đó nó dẫn dắt mình. Càng
tập nhớ bổn tánh, nhớ những đức tính của chân tâm và áp dụng ngay trong cuộc sống
hàng ngày thì chắc chắn sẽ loại trừ được phiền não. Luôn nhớ chân tâm bổn tánh tức là có
chánh niệm, là sống với ơng chủ, với chân tâm, với Phật tánh, và cùng lúc diệt trừ bản ngã
của mình.
A. KẾT LUẬN.
Đại thừa khởi tín luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao
quát về triết học đại thừa. Với mục đích làm khơi dậy niềm tin về đại thừa một cách chân
chánh. Niềm tin về đại thừa tức tin vào giáo pháp cao siêu, có khả năng chuyển hố nhiều
người đạt ngộ, giải thốt khổ đau. Đó là niềm tin vào thể tướng dụng của tâm, một cái tâm

rất đổi bình thường; tin Phật, một người đã tự mình khai ngộ tâm; tin Pháp là những giáo
lý mà Đức Phật đã giáo hóa chúng sanh; tin tất cả giáo nghĩa, học thuyết và sự hành trì đại
thừa, được giới thiệu trong các kinh luật đại thừa.
Học Phật, tu Phật là học cách làm chủ cái tâm. Chư Phật, Bồ Tát sống với chân tâm,
phàm phu sống với vọng tâm. Sống với vọng tâm là chưa làm chủ được tâm, nên mới gọi
là phàm phu hay chúng sanh. Người biết sống với chân tâm thì gọi là Phật, Bồ Tát. Thật


ra Phật, Bồ Tát và phàm phu chẳng khác nhau, không hai, không khác. Đầu tiên, chúng ta
cần làm là nhận thức được chân tâm,, nhận biết rồi mới lại tu tâm. Phải rèn luyện để khi
sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng… đều như như
bất động, khơng bám víu, chấp thủ. Tâm càng thanh tịnh ít vọng niệm thì càng có thể khai
ngộ. Phiền não và vọng tưởng đều là giả, chân tâm khơng có phiền não, chẳng có vọng
niệm.
Tâm Phật là tâm chân như. Đạo Phật là con đường đi đến tâm chân như. Phật độ
chúng sanh là chỉ tâm chân như cho mọi người, dìu dắt tâm người đến chân như, khuyên
mọi người lấy chân như làm tâm, và chân như mới thật là tâm của tất cả chúng ta. Vậy thì
sau khi giác ngộ tâm Chân Như, chúng ta phải nổ lực tu tập hơn nữa để giữ gìn và sống
với Chân Như ấy. Muốn Chân Như hiển lộ trước phải đoạn diệt các sự chấp lầm của
pháp bên ngoài, quán biết rằng các pháp ấy chỉ là phương đưa ta tới bến bờ Chân Như
thôi, vậy không nên chấp pháp. Ngay cả pháp tu Lục độ Ba La mật, 37 phẩm trợ đạo…
đều chỉ là phương tiền để ta đến với chân như, giác ngộ, tu tập, hằng sống với nó. Vì vậy,
hành giả cần phải có chánh tri kiến, đủ trí tuệ để đoạn diệt lầm mê cám dỗ che đậy. Như
vậy trước tiên hành giả cần hiểu rõ về thân ngũ uẩn, không chạy theo ngũ dục, lục trần.
Dũng mãnh trước mọi cám dỗ. Thực tu tập thân khẩu ý, làm lợi ích cho mình và người.
B. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN, Bồ-tát Mã Minh, Chân Hiền Tâm dịch và giải.
2. Luận Đại Thừa Khởi Tín, Bồ-tát Mã Minh, HT. Thích Thiện Hoa lược dịch và lược
giải.
3. Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám dịch, Nhà xuất bản Tôn

Giáo Hà Nội 2000
4. Chứng đạo ca, thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác
5. Kinh Trung Bộ, HT Thích Minh Châu.



×