Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

TRIẾT học GIAI đoạn đêm TRƯỜNG TRUNG cổ là nô tỳ của THẦN học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.39 KB, 20 trang )

DDttt

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH

-----------------------------------------------------

TIỂU LUẬN MƠN TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY

ĐỀ TÀI
TRIẾT HỌC GIAI ĐOẠN ĐÊM TRƯỜNG TRUNG CỔ LÀ
NÔ TỲ CỦA THẦN HỌC

Người hướng dẫn khoa học: NS.TS.TN. Hương Nhũ

TP.Hồ Chí Minh ,Năm 2022.


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC
VIỆN
PHẬT
GIÁOVIỆT
VIỆT NAM
NAM TẠI
CHÍCHÍ
MINH
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO
TẠITP.HỒ
TP. HỒ
MINH



-----------------------------------------------------

TÊN TÁC GIẢ: NGÔ THỊ KIỀU
PHÁP DANH: TN HẠNH NHÃ
LỚP ĐTTX: KHÓA VI
MSSV: TX 6.192

ĐỀ TÀI
TRIẾT HỌC GIAI ĐOẠN ĐÊM TRƯỜNG TRUNG CỔ LÀ
NÔ TỲ CỦA THẦN HỌC

Tiểu luận học kỳ III : Môn Dẫn Nhập Triết Học Phương Tây

Người hướng dẫn khoa học: NS.TS.TN. Hương Nhũ

TP.Hồ Chí Minh , Năm 2022


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................1
2. Phạm vi đề tài.............................................................................................................1
3. Cơ sở dữ liiệu..............................................................................................................1
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................................1
5. Bố cục tiểu luận........................................................................................................1
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ TRIẾT HỌC
1.1. Triết học và đối tượng của triết học ........................................................................2
1.1.1.Khái niệm triết học. ..............................................................................................2

1.1.2.Đối tượng của triết học..........................................................................................2
1.1.3.Vấn đề cơ bản của triết
học....................................................................................2
CHƯƠNG 2: NHẬN ĐỊNH VỀ HUYỀN THOẠI ĐÊM TRƯỜNG TRUNG CỔ
2.1. Các giai đoạn đêm trường trung cổ..........................................................................3
2.2. Đêm trường đen tối ở châu Âu................................................................................3
2.3. Vai trò của Nhà Thờ và các vị Thánh trong Thời kỳ đen tối, đối với cuộc sống dân
thường.............................................................................................................................5
CHƯƠNG 3: TƯ TƯỞNG CỦA CÁC TRIẾT GIA KINH VIỆN VỀ TƯƠNG QUAN
TRIẾT THẦN
3.1. Scotus Erigène. Triết lý đích thực cũng là tơn giáo đích thực................................7
3.2. Anselm – Đức tin tìm kiếm lý trí ...........................................................................9
3.3. Albert der Gre (Anbêtơ Cả) .............................................................................10
3.4. Bơnaventura..........................................................................................................11
3.5. Thomas Aquinas....................................................................................................12
C. KẾT LUẬN.............................................................................................................14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................15


A.MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Ở phương Tây, triết học phát triển vào khoảng thế kỷ thứ VI Tr.CN, bắt đầu từ Hy Lạp
cổ đại. Từ triết học Hy Lạp cổ đại đến triết học cổ điển Đức là khoảng thời gian kéo
dài trên hai ngàn năm. Các trào lưu triết học tiêu biểu trong khoảng thời gian này được
chia thành các giai đoạn phát triển với những đặc điểm riêng. Triết học Hy Lạp cổ đại
là nguồn gốc của triết học phương Tây được chia thành: thời kỳ trước Socrates, thời
kỳ hoàng kim; thời kỳ sau Socrates, thời kỳ Hy Lạp hóa. Thời kỳ trung cổ ở phương
Tây kéo dài hơn mười thế kỷ (từ thế kỷ IV đến thế kỷ XIV) là thời gian triết học bị
thống trị bởi thần học. Thời kỳ phục hưng trong các thế kỷ XV, XVI là giai đoạn phục
hồi của triết học. Triết học phương Tây tiếp tục phát triển rực rỡ trong thời cận đại bắt

đầu từ thế kỷ XVII, được gọi là thời kỳ lý tính, sau đó sự phát triển của triết học mang
một số đặc điểm riêng của mỗi dân tộc, như chủ nghĩa kinh nghiệm Anh, triết học khai
sáng Pháp ở thế kỷ XVIII, triết học cổ điển Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.Tự
bản chất, Kitô giáo không phải là một hệ thống những triết thuyết được dung hợp từ
sự khôn ngoan thông thái của nhân loại, nhưng là Mặc khải của Đấng Tối Cao. Đường
nét tinh thần căn bản của Kitô giáo khơng hệ tại vào tính vững chắc của những định
chế hay tín điều tơn giáo, mà là thái độ rộng mở trong tương quan yêu thương, thân
thiện và vị tha. Tuy thế, bên cạnh những nét đặc thù, Kitô giáo luôn sẵn sàng đối thoại,
giao lưu và gặp gỡ với các tơn giáo, các nền văn hóa, văn minh của nhân loại.Lịch sử
cho ta thấy văn hóa Kitơ giáo phương Tây đã được hình thành từ những đối chất,
những tiếp thu, những ứng dụng của Kitô giáo đối với triết học Hy Lạp, La mã Cổ đại.
Từ vị thế là một đối thủ, triết học Hy – La đã dần dần trở nên “một người bạn” thân
thiện của niềm tin Kitơ giáo. Tuy rằng, tiến trình này phải trải qua một thời gian dài và
rất cam go, nhưng khi được tư tưởng Kitơ giáo tiếp nhận, ứng dụng, thì nền văn hóa
Hy Lạp, La mã trở nên sinh động và hữu hiệu hơn bao giờ hết; đồng thời, các tư tưởng
triết học Hy - La trở thành một điểm tựa của niềm tin Kitô giáo, đặc biệt là qua những
công trình xán lạn của các nhà triết học Kinh viện thời Trung cổ trong việc cố gắng
tìm kiếm những điểm tương đồng giữa triết học và thần học, giữa triết lý và đức tin.
Do vậy học viên chọ đề tài Vì sao nói triết học là “nơ tỳ của thần học” trong giai
đoạn đêm trường Trung cổ làm đề tài nghiên cứu.
2. Phạm vi đề tài:
Học viên chỉ đi xâu nghiên cứu về triết học kinh viện qua đó đưa ra những nhận
định , về hai trường phái triết học này.
3. Cơ sở dữ liệu:
Học viên dựa vào bài giảng của giáo thọ trên lớp và tham khảo một số tài liệu liên
quan làm tư liệu.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Học viên dùng phương pháp nghiên cứu,tổng hợp &phân tích từ đó đưa ra kết luận
làm sáng tỏ đề tài nghiên của mình.
5. Bố cục tiểu luận:gồm 03 chương,08 mục .



B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ TRIẾT HỌC
1.1.Triết học và đối tượng của triết học:
1.1.1.Khái niệm triết học:
Tư tưởng triết học ra đời từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VII Tr. CN tại Trung Quốc,Ấn độ
và sau đó là Hy Lạp cổ đại.Thuật ngữ triết học xuất phát từ tiếng Hy Lạp philosiphia
(với sự kết hợp phileo)-yêu thích,và sohia –thơng thái,có nghĩa là u thích sự thơng
thái,khát vọng vươn đến sự thông thái. Platon (427 – 347 tr.CN) và Aristoteles (384 –
322 tr. CN là những người đã phân biệt triết học với các lĩnh vực khác,xác định nhiệm
vụ của triết học là nhận thức các chân lý vĩnh cửu và tuyệt đối hay vươn tới cái phổ
quát trong thế giới. Như vậy, dù ở phương Đông hay phương Tây, triết học thời cổ đại
đều có nghĩa là sự hiểu biết, sự nhận thức chung của con người về thế giới.
Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về triết học, song có thể hiểu rằng :
+ Triết học là khoa học bao gồm hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người
về thế giới, về vị trí, vai trị của con người trong thế giới đó.
+ Triết học là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và chịu sự quy định
của tồn tại xã hội.
+ Triết học là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng, là sự phản ánh cơ sở hạ tầng, chịu
sự quy định của cơ sở hạ tầng.
1.1.2. Đối tượng nghiên cứu của triết học:
Triết học Hy Lạp cổ đại được coi là khoa học của mọi khoa học với nghĩa triết học
bao gồm mọi tri thức của con người về thế giới, đặc biệt là giới tự nhiên, do đó cịn
gọi là triết học tự nhiên.
+ Thời phong kiến ở tây Âu, do sự thống trị của thần học Cơ Đốc giáo trong lĩnh vực
tinh thần, nên triết học chỉ là tôi tớ cho thần học và mang tính kinh viện.
+Thời Phục hưng và Cận đại ở tây Âu, triết học không chỉ đề cập tới những vấn đề tự
nhiên, mà còn đề cập tới những vấn đề con người và xã hội. Tính nhân đạo tư sản thể
hiện rõ trong các trường phái triết học ở Anh, Pháp, Hà Lan, Đức, Italia v.v.

+Triết học cổ điển Đức đã đề cập tới mọi vấn đề của thế giới (tự nhiên, xã hội, tư
duy). Hêghen là nhà triết học cuối cùng trong lịch sử triết học có tham vọng coi triết
học là khoa học của mọi khoa học.Triết học có vai trị hết sức to lớn trong đời sống xã
hội, nó cung cấp cho chúng ta hệ thống quan điểm, tư tưởng về thế giới quan; góp
phần giải thích thế giới trong dạng một chỉnh thể gồm nhiều yếu tố tác động qua lại và
chuyển hố lẫn nhau tạo cho chúng ta có nhận thức chung nhất về thế giới. Không
những thế, triết học cịn góp phần hình thành và phát triển nhân sinh quan của con
người (quan điểm, tư tưởng về con người, cuộc sống và hành vi ứng xử của con người
trong cuộc sống).
1.1.3. Vấn đề cơ bản của triết học:
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt.
+ Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi: giữa tư duy với tồn tại, giữa ý thức với vật chất, giữa
tinh thần với tự nhiên thì cái nào có trước cái nào có sau? và cái nào có vai trị quy
định đối với cái nào?


+ Mặt thứ hai trả lời câu hỏi: con người có khả năng nhận thức được thế giới hay
khơng?
CHƯƠNG 2:
NHẬN ĐỊNH VỀ HUYỀN THOẠI ĐÊM TRƯỜNG TRUNG CỔ
2.1.Các giai đoạn đêm trường trung cổ
a.Sơ kỳ Trung cổ
Đây là thời kỳ mà xã hội có sự thay đổi ngay rõ nét. Sự sụp đổ của đế chế Tây La Mã
khiến cho những cuộc xâm lược vào lãnh thổ đế quốc này trở nên ồ ạt và khả năng
xem đây như những cuộc di cư lớn làm thay đổi ngay bộ mặt xã hội lúc bấy giờ.
Những cuộc xâm lược, di cư dẫn tới những cuộc chiến đẫm máu làm các đô thị suy sút
và nhường chỗ cho nơng thơn hóa. Điều đó cũng kéo theongơn ngữ văn hóa, phong
tục,… của nhiều dân tộc khác nhau được du nhập vào châu Âu. Mặc dù ở phía Đơng,
đế chế Đơng La Mã vẫn khá yên bình và ổn định.Trong bối cảnh mà Ki – tơ giáo
khơng cịn sức tác động thống trị như thời kỳ Tây La Mã, Hồi giáo của người Ba tư

trỗi dậy mạnh mẽ và vươn tới bầu trời châu Âu vào giữa thế kỷ 8.Không những thế Ki
– tô giáo còn bị chia rẽ sâu sắc khi đây vốn là sợi dây kết nối giữa miền Đông và Tây
châu Âu thì nay lại chia thành 2 nhánh mới do sự xung đột quyền lực của các giáo
hồng.Sự khơi phục của đế chế Tây La Mã là một bước ngoặt khi Charlemagne Đại đế
thống nhất phần lớn lãnh thổ của đế chế Tây La Mã trước kia thành đế quốc
Carolingien.Thời kỳ không những hồi phục đế chế Tây La Mã, mà còn phát triển
mạnh mẽ với phong trào “Phục hưng Carolingien”. Làm gia tăng tỉ lệ biết chữ, phát
triển của mỹ thuật, kiến trúc và luật học.Thế nhưng Tây La Mã hồi phục chưa lâu thì
đã sụp đổ một lần nữa khi các con trai và thành viên hoàng tộc tranh giành quyền lực
sau khi Charlemagne Đại đế băng hà khiến đế quốc rơi vào cảnh rối ren.Những cuộc
nội chiến liên miên chỉ kết thúc sau Hiệp ước Verdun (843).
b.Thời kỳ trung kỳ Trung cổ
Đây là thời kỳ giữa của thời Trung cổ với sự gia tăng dân số mạnh mẽ do điều kiện
khí hậu thuận lợi, đất đai khai hoang từ rừng tăng mạnh.Sự bùng nổ dân số thời kỳ
này cũng khiến cho đây là thời kỳ ra đời nhiều nhà nước phương Tây hiện đại sau
này .Những cường quốc này tổ chức các cuộc Thập tự chinh lên phương Bắc, nhằm
mở rộng lãnh thổ và đồng hóa các dân tộc khác và dành lại phần đất Thánh từ tay
người Ba Tư mặc khác, đây cũng là thời kỳ đỉnh cao của đế chế Mông Cổ, khi thế lực
hùng mạnh này tiến hành xâm lược Đông Âu (các năm 1241, 1259, 1287). và khiến
những cuộc Thập Tự Chinh gặp khơng ít điều kiện.
c.Hậu kỳ Trung cổ
Nếu như thời kỳ Trung kỳ, dân số châu Âu đạt tới đỉnh điểm thì ở thời kỳ này, nạn đói
(1315 – 1317) và đại dịch “Cái chết đen” đã bao trùm toàn bộ trời Âu, mà tác nhân
cũng chính do khí hậu chuyển từ thời kỳ ấm Trung cổ sang Tiểu băng hà.Những thảm
họa liên tục giáng xuống châu Âu, khiến nơi đây mất đi 1/3 dân số, điều này dẫn tới
mâu thuẫn xã hội lên cao và sự xáo trộn, hỗn loạn gieo rắc khắp châu Âu.Đây khả
năng là thời kỳ đen tối nhất của loài người khi mà niềm tin về phù thủy, ma thuât, cái
chết,… thường nhật khắp mọi nơi.Những cuộc chiến kéo dài dẫn tới sự sụp đổ hoàn
toàn của đế chế Byzantine khi đế chế Ottoman tấn công kết liễu thành Constantinople.
2.2. Đêm trường đen tối ở châu Âu



Sự sụp đổ không thể cứu vãn của đế chế La Mã Phương Tây xảy ra ở TK thứ năm
(476) dưới sức ép các bộ lạc man rợ đến từ Phổ (Frank). Ba TK sau, Giáng sinh năm
800, một người Frank lên ngơi ở La Mã, đồng thời là hồng đế cả Phương Tây.
Charles, vua Vương quốc Frank, Charles Đại Đế hay Charlemagne. Triều đại vinh
quang của ông, là mẫu mực của sự vững chắc. Khoảng giữa 300 năm từ lúc La Mã sụp
đổ đến lúc đăng quang của Charles, được biết như “Thời kỳ tăm tối”, vì chúng ta
khơng biết nhiều về thời gian đó, một phần vì do thời đại đó tăm tối và đẫm máu, kinh
tế lụn bại, xã hội bị chia rẽ bởi nguyên nhân từ bên trong cũng như tấn cơng bên
ngồi. Văn hóa vật thể suy đồi, như chúng ta có thể thấy qua sự định cư mới, với hàng
loạt nông trại và làng mạc ở những vùng đất tốt nhất, bỏ đi tới vùng đất cao, cổ xưa
khơng có người ở từ thời kỳ đồ đá, vì trốn ở đó, mới sống sót. Đó là tình trạng chung,
hoặc ít ra là đốn như vậy. Ở mức độ chính trị, Đế chế Tây La Mã đã bị thay thế các
tộc dã man rợ nhỏ: Visigoths ở TBN, bị Arab thơn tính vào khoảng 700;Lombard ở
Ý;Frank và Burgundians ở Gaul;Angle và Saxon ở Anh;Những tiểu quốc này là hiện
thân của bất cứ cái gì tạo nên quyền lực chính trị ở khắp châu Âu. Mọi thứ đều thuộc
về Nhà Thờ La Mã: quyền lực đạo đức, học tập, uy thế của cái tên đế chế La Mã và sự
quan tâm của nhân dân. Chính Đức Giám mục là ngừơi mà dân thường tìm kiếm cho
cương vị lãnh đạo trong xã hội của người Thiên Chúa giáo. Trong suốt thời gian này,
q trình đồng hóa xảy ra liên tục. Các cộng đồng man rợ dần cải đạo theo Ki tô giáo,
ở TK 5 và 6 và có được cái mã bên ngồi của người La Mã. Song khi những bộ lạc
hoang dã theo Ki tô giáo, nhà thờ nhanh chóng bị dã man hóa. Bạn có thể thấy điều
này trong đoạn mô tả mà Gregory thành Tours ghi chép về những gì đã diễn ra trong
VQ Frank suốt nữa sau trong TK 6. Gregory, như được mơ tả trong bản chép tay có từ
TK 10 là người của dòng Gallic quý tộc, hậu duệ của những quan lại La Mã, là 1
thành viên kế vị chức Giám mục.Lịch sử triều đại Frank, ít nhất là với những hiểu biết
của chúng ta từ Gregory, là 1 câu chuyện dài về đốt phá, cướp đoạt, giết chóc và man
trá. Con trai bóp cổ mẹ. Mẹ ném con trai xuống giếng sâu. Người dân bị đánh đập
hoặc thiêu sống trong những bữa tiệc xa hoa. Những người vợ giúp sức tình nhân giết

chồng. Và sau đó, như là hệ quả, đến lượt giết chết con gái của họ. Vì họ lo lắng
chúng quyến rủ tình nhân của họ. Tình trạng loạn luân hành hoành và dẫn dắt cho tội
ác. Đầy tớ và bạn hữu phản bội hoặc đầu độc chủ nhân và bạn bè của họ. Những tội ác
này tăng lên – hay đúng ra là giảm xuống cùng với cái chết của Nữ hoàng Brunhildis,
người bị kẻ thù bắt giữ cùng 3 con trai, bị tra tấn trong 3 ngày, vào ngày thứ tư bị thị
diễu quanh trại, trên lưng 1 con lạc đà. Trong tình trạng chắc bạn có thể tưởng tượng
được, và sau đó bà bị trói chặt bằng chính tóc của mình, một tay và 1 chân, buột vào
đuôi những con ngựa hoang, rồi bị từ từ xé xác. Nhưng số phận của 1 đứa con bà lại
đặc biệt thú vị. Bởi vì mặc dù 2 trong số chúng đã bị giết, nhưng đứa còn lại lại là con
đỡ đầu của kẻ đã bắt mẹ chúng, cho nên nó đã được tha và phải sống cả đời trong tu
viện. Đó là 1 dẫn chứng điển hình cho sức mạnh của những sự ràng buột tơn giáo,
thậm chí là trong 1 thế giới tàn ác và mê tín. Chính là những bộ lạc tàn ác, hoang dại
này, là người Giáo hội nhanh chóng bị phụ thuộc vào. Do đó, sự suy tàn bên ngồi,
trong điều kiện văn hóa đi cùng với sự sa đọa của các chuẩn mực đạo đức trong giới
tăng lữ. Chúng ta phải nhớ rằng các chuẩn mực này, ít nhất ở các tầng lớp cao hơn
phải có. Là những điều duy nhất mà chúng ta thấy vẫn còn thuộc về thế giới La Mã.
Vì vậy chúng ta khơng nên ngạc nhiên, rằng các đức Giám mục cũng có nơ lệ và nàng
hầu như bất kỳ q ơng nào. Các Giám mục có thể mang áo giáp và gươm sau bộ áo


tế, có lẽ để dễ dàng sử dụng. Các giám mục cũng cướp ruộng đất và đôi khi cả vợ của
nơng dân nghèo. Có cảnh mơ tả bàn ăn của vua người Frank, 2 vị giám mục buột tội
nhau dâm loạn, nhiều cảnh các giám mục uống say, đến mức không nhận ra các vị
khách khứa. Gregory mô tả Thế giới của bạo lực và mục nát, trong đó kẻ thống trị
thiết lập sự bất công, bất chấp luật pháp. Ngay cả các đức tính tốt của bộ tộc dã man
như lịng trung thành và lịng hiệp nghĩa cũng khơng được duy trì. Trong 1 thế giới
như vậy, tơn giáo có thể củng cố sức mạnh của nó chỉ bằng sự kinh hồng và nỗi
khiếp sợ mà đơi khi đấng siêu nhiên gây ra và bằng sự đe dọa bạo lực tinh thần, được
sử dụng để bảo vệ tôn giáo chống lại sự bạo tàn của tộc người dã man. Nỗi khiếp sợ
sự nỗi giận của Chúa, khiếp sợ sự trả thù của các thánh. Duy chỉ những điều này có

thể dọa dẫm những cơn đồ sống ngồi vịng pháp luật, những kẻ trở nên quá phổ biến,
trong tầng lớp mới lên cầm quyền.
2.3. Vai trò của Nhà Thờ và các vị Thánh trong Thời kỳ đen tối, đối với cuộc sống
dân thường
Đây là thời kỳ mà các Thánh đóng vai trò quan trọng nhất, chẳng hạn Thánh Cuthbert,
người đã từng cứu sống 1 đứa bé đã chết bằng 1 nụ hôn. Trong thời kỳ đen tối, các
Thánh không chỉ là hình mẫu lý tưởng của đạo đức hồn hảo, những lời cầu nguyện
của Thánh được Nhà Thờ sử dụng. Các Thánh có nhiều quyền lực thực sự, có vai trò
nhất định trong cuộc sống hàng ngày, can thiệp vào cuộc sống bằng nhiều con đường
thực tế. Vì vậy ngư dân ở Tp Napoli trừng phạt các vị Thánh của họ khi họ không bắt
được cá. Các Thánh, thực ra, là những thế lực siêu nhiên và người ta cho rằng họ sống
những nơi uy nghiêm từ đó họ có thể bao quát phúc lợi trên vùng đất và thần dân của
họ.Vị Thánh quan trọng nhất đối với Gregory là Martin. Lăng mộ ông được xem như
cội nguồn của vẻ đẹp và việc chữa bệnh thần kỳ cho người ốm khắp xứ Gaul. Thánh
Martin được xem đặc biệt giỏi trong chữa bệnh động kinh và bệnh bại liệt. Điện thờ
thánh ở Tours bị phá hủy năm 853, được xây dựng lại vài lần. Điện thờ ban đầu là nơi
trú ẩn của nô lệ bỏ trốn, tù vượt ngục, người bị nhà vua trừng phạt, và tìm kiếm sự che
chở của đấng siêu nhiên. Kết quả điện thờ đầy ắp kẻ tị nạn. Về mặt nguyên tắc, nhà
thờ nào cũng được coi là nơi trú ẩn, nhưng nó phải được gắn với 1 vị Thánh quan
trọng nào đó, người có thể thực sự làm các vị vua chúa kinh sợ mà không dám đụng
đến tài sản của Thánh hoặc gây đổ máu trong Nhà Thờ của Thánh. Các nhà thờ giàu
có nhờ phần lớn vào sức mạnh của vị Thánh bảo trợ. Và những TK đầu thời kỳ Trung
cổ chứng kiến sự phổ biến những câu chuyện thần thoại Ki – tô phương Tây, huyền
thoại về những vị Thánh, như Thánh Yrieix đã cho thấy 1 bộ mặt khác của bức tranh
đen tối về xã hội man rợ. Một mặt chúng ta thấy thế giới bạo lực và bất công đang tự
hủy hoại, mặt khác có 1 thế giới của sức mạnh thần thánh huyền bí. Mà ở đó con
người được giải thoát khỏi cảnh nghèo túng khắc nghiệt đời thường. Ở đó khơng gì là
khơng thể, vì Thánh có thể cứu sống những đứa trẻ hoặc cung cấp thức ăn và nước
uống; nơi mà mọi sự đau đớn có thể chữa lành, vì Thánh có thể chữa bệnh; cho những
người nghèo khổ ăn, cũng như có thể rửa sạch tội lỗi. Những người truyền đạo Thiên

Chúa tự do là những người có tính cách mạnh mẽ: dũng cảm, táo bạo, cuốn hút, nhiệt
tình và trung thực. Và cũng có các vị Thánh là phụ nữ:
+Walburga, người kê đơn bốc thuốc trong cộng đồng người Saxon, người được tưởng
niệm vào đêm ngày 1/5 ở Walpurgisnacht;


+Thánh Audrey, Trưởng Tu viện Ely, tưởng niệm ngày 23/6 phổ biến tới mức, nổi
tiếng vì hội chợ được tổ chức hàng năm. Những đồ hàng rẻ tiền và chuổi hạt được bán
ở đó được đặt tên Tawdry

CHƯƠNG 3
TƯ TƯỞNG CỦA CÁC TRIẾT GIA KINH VIỆN VỀ TƯƠNG QUAN
TRIẾT THẦN
3.1. Scotus Erigène. Triết lý đích thực cũng là tơn giáo đích thực
Johannes Scotus Erigène (810 – 877) là người Ireland, được giáo dục ở Ireland. Nhờ
đó ơng thơng thạo tiếng Hy Lạp và là một người chú giải nổi tiếng tư tưởng Hy Lạp
cho châu Âu theo ảnh hưởng La tinh. Ông chuyển đến Pháp (khoảng 845) và giảng
dạy trong cung điện theo lời mời của Vua Charles le Chauve. Ông đã thành công với
tư cách là người đứng đầu Cung điện. Danh tiếng của trường này dường như đã tăng
lên rất nhiều dưới sự lãnh đạo của Erigène. Ông ở lại Pháp ít nhất ba mươi năm và
trong giai đoạn này ông đã viết nhiều tác phẩm khác nhau.Đối với Erigène, những yếu
tố triết học và thần học, lý trí và đức tin đều hịa lẫn mật thiết với nhau và không thể ly
tán. Tuy nhiên, tinh thần duy lý của ơng xem ra khơng thích hợp với các học thuyết
chính thống của Giáo hội, chẳng hạn, trong cuộc tranh luận về “Tiền định” và “Tự
do”. Vấn đề của ông không phải ở chỗ ông muốn biến đổi mọi sự đã được chấp nhận
thành thần học, mà là ở chỗ ơng đã muốn duy trì ưu thế cho triết học theo lý trí hoặc là
ngang hàng hoặc là vượt lên trên mặc khải theo đức tin. Hơn nữa, ông cịn cho rằng lý
trí và mặc khải đều là hai nguồn suối chân lý như nhau cả, do đó cả hai bên không thể
giao tranh với nhau được, nhưng nếu khi nào xem ra có sự giao tranh thì bao giờ lý trí
cũng đáng được ưu thế. Ơng cịn thêm: tơn giáo đích thực phải là triết học đích thực

và ngược lại, triết lý đích thực phải là tơn giáo đích thực.Là người vốn chủ trương triết
lý đích thực cũng là tơn giáo đích thực, Erigène khơng phải là một kẻ chấp nhận thế
giá của bất cứ ai một cách dễ dàng, mù quáng và chấp nhận tất cả những gì đã một lần
được thiết định võ đốn là xong; ngược lại với phần đông những người đồng thời, ông
đã biết tự mình suy tư. Ơng đã đề cao lý trí q mức, có lẽ một cách khơng hợp thời
bấy giờ, nhưng ông đã tin tưởng chắc chắn rằng những thế hệ tương lai sẽ chấp nhận
ông. Đối với các Giáo phụ cũng vậy, tuy mọi người phải chấp nhận thế giá của họ một
cách tuyệt đối không được tranh luận, nhưng Erigène cũng chỉ công nhận họ là những
thế giá trong những trường hợp các sáng tác của họ hàm chứa những kho tàng của lý
trí con người mà thơi.Những điều nói trên cho thấy rõ ràng Erigène muốn chủ trương
rằng, những chân lý do Thiên Chúa mạc khải và những kết luận của lý trí siêu hình, kỳ
cùng có một giá trị như nhau. Chủ trương ấy cũng đứng trong đường hướng nói chung
của ơng là: “triết lý đích thực phải là tơn giáo đích thực”.Một chủ trương như vậy
đương nhiên đã là một đe dọa đối với lập trường của Giáo hội Công giáo.Mặt khác,
nếu như điều xem ra Erigène muốn chủ trương thì trong tồn bộ, lập trường Kitơ giáo
có thể được trình bày như là một cơ cấu liên hệ với nhau đúng như những định luật
luận lý; nghĩa là trong đó mỗi thành phần đều có thể chứng minh một cách hợp lý theo


lý trí. Nếu vậy sẽ khơng cịn dành một lĩnh vực nào đặc biệt cho những khẳng định
thuộc tín lý được mặc khải nữa, như thế giá tuyệt đối của Kinh Thánh hay thế giá của
thần học Augustin đối với các công cuộc tạo dựng và cứu độ của Thiên Chúa, vì
những khẳng định thần học ấy chỉ muốn nói rằng công cuộc tạo dựng vũ trụ và cứu
chuộc thế gian do Thiên Chúa thực hiện không phải và không thể chứng minh theo
những lý lẽ của trí khơn con người như Erigène chủ trương mà thực sự chỉ do “ý
muốn tự do của Thiên Chúa” mà thôi.Như vậy, nếu xem xét một cách nghiêm túc thì
nguyên tác phương pháp luận thiết yếu của Erigène đã thực sự nêu ra những nghi vấn
nền tảng đối với đức tin cố hữu của Giáo hội Cơng giáo về một Thiên Chúa hồn toàn
siêu việt hay hoàn toàn biệt lập với vũ trụ, công cuộc tạo dựng của Ngài.Một cách rõ
ràng hơn, chủ trương của Erigène còn gây thêm nhiều nghi vấn khác đối với truyền

thống của Giáo hội, nhất là về vấn đề siêu việt (transcendance) hay nội tại
(immanence) của Thiên Chúa.
3.2. Anselm – Đức tin tìm kiếm lý trí
Anselm (1033 – 1109) sinh tại Aoste, một thành phố nhỏ nằm trên ranh giới xứ
Piémont và Thụy Sĩ. Ngài xuất thân trong một gia đình q tộc, danh tiếng và giàu có.
Mẹ của thánh nhân là một người rất đạo đức, giầu lòng nhân ái và quảng đại. Cha của
ngài xem ra khô khan, nhưng vào thời gian cuối đời ông đã hiến mình trong một tu
viện. Sớm nhận ra ý Chúa trong cuộc đời và thấy sự dối trá, gian manh của thế gian
muôn mặt, muôn màu, thánh Anselm đã quyết định dấn thân dâng hiến cuộc đời mình
cho Thiên Chúa trong một tu viện, nhưng ngài đã gặp rất nhiều trở ngại lúc ban đầu,
mãi sau này thánh nhân mới được toại nguyện. Vào năm 27 tuổi, thánh Anselm xin gia
nhập Dòng Biển Đức. Với ơn Chúa, với sự nỗ lực và tính hăng say của tuổi trẻ, thánh
nhân đã ra công tập luyện nhân đức. Sự thánh thiện và gương lành của ngài đã mau
chóng được đồn thổi khắp nơi. Thánh nhân được bầu làm bề trên tu viện. Rất nhiều
người đã tới để nghe ngài giảng dạy và hướng dẫn trên đường nhân đức. Vua nước
Anh băng hà, Hồng đế nối ngơi ra sức áp chế hàng giáo sĩ, chiếm đoạt tài sản của
Giáo hội, thánh nhân lên đường sang Anh quốc để can thiệp với Hoàng đế. Nhờ ơn
Chúa giúp với tài lợi khẩu cộng với sự tác động của Chúa Thánh Thần, thánh Anselm
đã thuyết phục được vị Hồng đế kiêu căng đó. Việc gì Thiên Chúa muốn, ngài đã
thực hiện: số là vào năm 1093, Đức Tổng Giám Mục Cantorbéry Lafranc và là Thầy
dạy cũ của thánh nhân tạ thế, thánh Anselm được chọn lên thay thế làm Tổng Giám
mục Cantorbéry. Thánh nhân đã hăng say phục vụ, lãnh đạo, lèo lái Tổng Giáo khu
Cantorbéry càng lúc càng thăng tiến. Tuy nhiên vì ham lợi lộc trần gian và vì keo kiệt,
hà tiện, tham lam, vị vua nước Anh lúc đó và các nịnh thần của vua ra tay lăng mạ, vu
khống Hội thánh Chúa Kitô. Thánh nhân đã nỗ lực hết sức để cản ngăn vị vua tham
lam và bọn nịnh thần, xu thời của vua, nhưng vua không nghe. Thánh nhân trở về
Roma, tham dự Công Đồng Bari chống lại lạc thuyết của những người Hy Lạp. Trong
Công đồng Bari, thánh nhân đã minh chứng cách hùng hồn về tín điều Chúa Thánh
Thần do Chúa Cha và Chúa Con nhiệm sinh.Trước khi triết học Kinh viện đặt đến
đỉnh cao ở thế kỷ XIII, thánh Anselm được coi là người đề cao lý trí và sử dụng suy tư

triết học vào thần học một cách hài hòa hơn cả. Thánh nhân khẳng định rằng lý trí và
đức tin dẫn tới cùng một kết luận. Ngài đi theo truyền thống Augustin vốn chủ trương
dung hòa lý trí để hiểu nội dung của đức tin. Với cơng thức: “đức tin tìm kiếm lý trí”
(Fides quoerens intellectum), thánh nhân đã nhìn thấy một sự hịa điệu căn bản giữa
nhận thức do đức tin và nhận thức do lý trí. Lý trí giúp đức tin thêm sáng tỏ, đức tin


khơng những khơng hạ giá lý trí mà cịn hướng dẫn và cung cấp cho nó chất liệu để
suy tư, giúp lý trí được mở rộng và kiện tồn hơn “tôi tin để được am hiểu” (Credo ut
intelligam). Điều này khơng đối lập với quan điểm của Augustin, nhưng có phần khác.
“Tôi tin để được am hiểu” và “Đức tin tìm kiếm lý trí” có nghĩa là khơng phải để đi
tới đức tin bằng suy nghĩ mà là phải tin rồi mới suy nghĩ để am hiểu điều mình tin.
Ngài khơng tìm cách khám phá chân lý về Thiên Chúa chỉ bằng lý trí mà thơi, nhưng
muốn sử dụng lý trí để hiểu điều mình tin. Thật vậy, trí khơn con người không thể
thâm nhập vào sự sâu thẳm của Thiên Chúa mà đức tin lãnh hội, nhưng đức tin tìm
kiếm lý trí để “lý giải” những điều sâu thẳm.Thánh nhân cho rằng: nếu đức tin là một
thái độ, một sự xác tín, một sự “hiểu biết” Thiên Chúa - Đấng là bất biến, là vơ hạn,
thì hẳn đức tin ấy không bao giờ là một hằng số (2 + 2 = 4); ngược lại, nó ln chuyển
mình, tiến triển và lãnh hội bao nhiêu có thể với huyền nhiệm vô biên. Thật vậy, Hội
Thánh cũng không bao giờ coi đức tin như điều đương nhiên, mà biết rằng hồng ân
này của Thiên Chúa cần phải được nuôi dưỡng và củng cố để nó có thể tiếp tục hướng
dẫn cuộc hành trình của mình. Theo quan điểm của thánh Anselm trên đây, thì thần
học phải nỗ lực tìm kiếm lẽ huyền vi vô biên của Thiên Chúa, một công việc khơng
bao giờ lấy làm đủ. Nó trước hết cho thấy khát vọng vươn mình ln mãi của đức tin
và của thần học. Bên cạnh đó, quan điểm của ngài cũng nói lên tính năng động của
thần học. Thần học khơng cho mình là đã sở hữu mọi hiểu biết, nhưng nó là một tiến
trình ln ln đi tìm sự hiểu biết nơi mầu nhiệm Thiên Chúa. Một nền thần học mà
khơng dấn thân tìm kiếm để hiểu biết, thì chỉ là một dạng khảo cổ học về tri thức, đào
sâu vào quá khứ để phục hồi những ý tưởng cổ xưa. Một đàng, thần học mang tính
“tạm thời” vì tùy thuộc vào những gì nó “đang” nghiên cứu (cũng như “hôm nay” của

Thánh Kinh là một thực tại kéo dài và mang tính thời sự), cịn các mầu nhiệm mặc
khải luôn luôn mở ra cho những hiểu biết cao sâu hơn. Đàng khác, thần học cũng phát
sinh từ bản chất “tạm thời” của chính sự hiểu biết. Khi nền văn hóa thay đổi, có thể
nói, sự hiểu biết cũng đổi thay.Ngồi ra, quan điểm thánh Anselm cịn cho thấy rằng,
đức tin khơng phủ nhận lý trí, để xét xem đức tin có hợp lý hay khơng và hợp lý theo
nghĩa nào; và thần học bao hàm việc dùng trí năng và lý luận, tra vấn và trả lời: “Tôi
biết tôi tin vào ai” (2Tm 1,12). Theo ngài, thần học là một hoạt động khác với lịng
đạo đức, tính độc đốn, tính giáo điều và duy tín (đức tin bác bỏ lý lẽ). Thần học là
điểm gặp gỡ giữa đức tin và lý trí, nơi mà mỗi bên phải được biện minh bởi sự phán
quyết của bên kia. Dĩ nhiên sự hiểu biết và lý trí có những ngun tắc và chuẩn mực
riêng, không thể dùng đức tin mà áp đặt một cách độc đốn. Lý trí địi hỏi các dữ kiện
được xác định rõ ràng, minh bạch, một sự sắp xếp hệ thống các vấn đề một cách khoa
học và các phán đoán phải dựa trên sự hiển minh. Một khi thần học bỏ những nguyên
tắc và chuẩn mực này, nó chỉ cịn là chủ trương duy tín mà cuối cùng sẽ đi đến chỗ là
đức tin chẳng cần lý lẽ nữa.Tuy vậy, chúng ta cũng không ngây ngô và ngạo mạn đi
tìm một sự hiểu biết cách thấu tỏ bằng trí hiểu tất cả các chân lý đức tin; bởi lẽ, lý trí
dù cao siêu đến đâu cũng có giới hạn của nó. Trong nỗ lực đi tìm hiểu biết của đức tin,
thần học phải khởi đi từ thái độ đón nhận của niềm tin. Anselm quả quyết rằng: “Tơi
khơng tìm sự hiểu biết để tin nhưng tơi tin để nhờ đó mà hiểu. Vì tơi tin cả điều này
nữa: đó là tơi sẽ khơng hiểu được, trừ khi tơi tin”.Hơn nữa, sự hiểu biết của đức tin
khơng hồn tồn chỉ là nỗ lực của lý trí, nhưng cịn là của tâm trí, của tình u nữa.
Một cụ già ít học cũng có thể hiểu biết về Thiên Chúa nếu cụ có lịng tin và u mến
Người. Đức Giáo hồng Phanxicơ nói, đức tin biết theo mức độ mà nó gắn liền với


tình u, theo mức độ mà tình u tự nó mang một ánh sáng. Sự hiểu biết về đức tin là
điều phát sinh khi chúng ta nhận được tình yêu cao cả của Thiên Chúa là Đấng biến
đổi chúng ta từ bên trong và ban cho chúng ta đôi mắt mới để nhìn thực tại. Tình u
tự nó là kiến thức (thánh Grêgơriơ Cả), mang trong nó một luận lý mới.Tóm lại, theo
quan điểm của thánh Anselm, đức tin đi tìm kiếm sự hiểu biết, thần học thực sự là một

cuộc dấn thân không ngưng nghỉ, để khám phá kho tàng đức tin, khám phá huyền
nhiệm của Thiên Chúa trong từng biến cố lịch sử, làm tròn đầy niềm tin và diễn tả nó
theo ngơn ngữ mới –ngơn ngữ của thời đại mình. Quan điểm của thánh Anselm:
“Thần học là đức tin đi tìm hiểu biết” cho ta thấy được bản chất, “ơn gọi” và sứ vụ của
thần học; đồng thời cho thấy một sự đan quyện hài hoà giữa lý trí và đức tin, mà nói
như thánh Giáo hồng Gioan Phaolô II trong lời mở đầu thông điệp Fides et Ratio là
“được ví như đơi cánh giúp tâm trí con người vươn cao lên trong sự chiêm nghiệm
chân lý”.
3.3. Albert der Gre (Anbêtơ Cả)
Albert der Gre (1193 – 1280), tu sĩ Dòng Đa Minh, người Đức, được mệnh danh là
“Tiến sĩ uyên bác” (der universalise Doctor), không chỉ là nhà triết học, nhà thần học,
mà còn là nhà khoa học. Năm 1260 ngài được phong làm Giám mục, nhưng hai năm
sau, ngài từ chức và chú tâm vào việc nghiên cứu, giảng dạy tại Köln (Cologne) cho
đến cuối đời.Các sáng tác của thánh nhân được chia làm ba nhóm: nhóm thứ nhất là
các tác phẩm về logic học, được gọi là triết học duy lý; nhóm thứ hai gồm vật lý, tốn
học, siêu hình học, được gọi là triết học thực tại và nhóm thứ ba là triết học đạo đức.
Các nghiên cứu về tự nhiên của thánh Albert chịu ảnh hưởng của vật lý học Aristote,
nhưng khơng trình bày theo những đề mục, mà thường xuyên nêu vấn đề và tranh luận
để làm sáng tỏ những điều cần quan tâm. Trong những sáng tác về thực vật học và
động vật học, thánh Albert nhấn mạnh “thí nghiệm” như một tiêu chuẩn của chân lý
và như môi trường dành cho sự thẩm định tri thức khoa học, mà mục tiêu của nó là
làm bộc lộ các tiềm năng vơ tận ẩn chứa trong tự nhiên, vũ trụ. Trong quan niệm về
các hành chất vũ trụ, ngoài bốn hành chất truyền thống thánh Albert bổ sung thêm
hành chất thứ năm, hiểu như hành chất đặc biệt, kết nối các tầng trời và các tinh tú
trên mỗi tầng trời. Ý tưởng hợp nhất tri thức khoa học từ các cách tiếp cận khác nhau
khiến thánh Albert được xem như nhà thần học đầy thiện chí và khao khát làm việc vì
mục đích khai sáng xã hội. Sự hiểu biết sâu rộng về triết học, khoa học, thần học
khiến thánh nhân không chỉ được thừa nhận như “tiến sĩ uyên bác”, mà cịn được gọi
là Albert vĩ đại (Albert der Gre). Mặc dù vậy vẫn có một vài nhà tư tưởng khơng
dành cho ngài sự kính trọng, vì nhận thấy ở các cơng trình về khoa học tự nhiên thiếu

những khám phá mới, mà chỉ đơn thuần triển khai quan điểm của Aristote. Đúng là
những sáng tác của thánh nhân về khoa học và triết học tự nhiên, tức thiên nhiên học
đều theo chương trình của những yếu luận Aristote, trình bày từng địa hạt một trong
việc nghiên cứu thiên nhiên như vật lý học, tâm lý học, thiên văn học, thực vật học,
kim khí học, gồm cả những tranh luận về vũ trụ và cả q trình của sự sống nói chung.
Nhưng thánh Albert không theo phương thức thông thường của một nhà chú giải
Aristote là bình giảng bản văn theo từng đoạn, từng câu, mà là trình bày theo hình
thức tranh luận liên tục.Thánh Albert đòi hỏi phân biệt chân lý của khoa học và chân
lý của thần học, cũng như đối tượng của khoa học và đối tượng của triết học. Khác với
tư tưởng Kitơ giáo chính thống, thánh Albert đưa ra quan điểm dung hòa các học
thuyết triết học phương Tây với Hy Lạp và thế giới Ả rập, cũng như dung hợp Platon


và Aristote nhằm hoàn thiện hơn nữa tri thức triết học của nhân loại. Tuy nhiên cũng
như học trị mình sau này là Thomas Aquinas, thánh Albert tiến hành tranh luận quyết
liệt với phái Averroès tại trường đại học Paris, góp phần loại trừ phái này. Trong quan
niệm về tồn tại, thánh Albert xem Thiên Chúa như Ánh sáng tự thân, thể hiện mình
như lý trí tồn năng. Tồn thể vũ trụ, theo ngài, là sự triển khai theo trật tự và đẳng
cấp từ Thiên Chúa. Kế thừa học thuyết về các nguyên nhân của Aristote, Albert nhấn
mạnh nguyên nhân hình thức trong chuỗi các nguyên nhân vũ trụ. Về quan hệ giữa các
sự vật đơn nhất và cái phổ quát, thánh nhân cho rằng các vật thể đơn nhất ra đời là do
sự kết hợp giữa vật chất và hình thức, trong đó hình thức (mơ thức) là cái chung, vật
chất là cái đơn nhất. Ban đầu hình thức tồn tại trong ý thức của Thiên Chúa, sau đó nó
đem đến cho vật chất một diện mạo, nghĩa là hiện thực hóa vật chất như tồn tại “hiện
có”. Là một người am tường về y học, ngài cho rằng: cơ thể con người, cũng như các
sinh thể khác, được tạo ra từ những nguyên nhân vũ trụ năng động. Tuy nhiên linh hồn
lại được sáng tạo trực tiếp từ Thiên Chúa. Dung hịa Aristote với Platon, thánh Albert
mơ tả linh hồn như một bản thể phi thể xác, nhưng với bản chất của mình, nó hoạt
động như hình thức của thể xác linh hoạt và có tính năng động.Như vậy, với tư cách là
một nhà thần học, triết học và nhất là nhà khoa học, thánh Albert Cả đã thể hiện là một

nhà tư tưởng rất uyên bác, tư tưởng của ngài ảnh hưởng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực
khác nhau của thế giới Âu châu thời bấy giờ. Chính thánh nhân là người mở đường
cho “tính uyên bác Kinh viện” vào thời kỳ cực thịnh của nó. Thừa hưởng di sản tinh
thần ấy một cách sâu rộng nhất là thánh Thomas Aquinas - đại diện tiêu biểu nhất của
cả triết học và thần học Kinh viện. Nhưng trước khi bàn đến triết gia này, chúng ta tìm
hiểu quan điểm của thánh Bônaventura.
3.4. Bônaventura
Thánh Bônaventura sinh năm 1221 tại Tuscany, nước Ý, và nhận thánh bổn mạng là
Gioan. Năm 1238, ngài gia nhập Dịng Phanxicơ, lúc ấy mới được thành lập. Là tu sĩ
trẻ, Bônaventura sớm rời bỏ quê hương để du học tại trường đại học Paris ở Pháp.
Bônaventura là một tác giả danh tiếng chuyên nghiên cứu về những vấn đề liên quan
tới Thiên Chúa. Ngài rất yêu mến Thiên Chúa đến nỗi được tôn tặng danh hiệu là
“Tiến sĩ Đệ Nhất Phẩm Thiên Thần” hay gọi tắt là “Tiến sĩ Luyến Thần.”Thánh
Bônaventura được mệnh danh là nhà thần bí hơn là nhà triết học, vì các tác phẩm của
ngài thiên về những cảm nghiệm thiêng liêng “thần bí” hơn là những triết lý suy tư.
Nhưng theo nhận định của một số học giả thì ngài cũng là một bậc thầy lỗi lạc trong
lãnh vực triết học. Bởi vì bên cạnh những chân lý đức tin đã được Thiên Chúa mặc
khải, thánh nhân còn vận dụng lý trí trong việc tìm kiếm và hiểu biết Thiên Chúa qua
cơng trình sáng tạo. Đồng thời ngài cũng vận dụng những tư tưởng triết lý của nhân
loại trong việc tìm kiếm chân lý. Tác giả Gilson nhận xét: “Bônaventura đã vận dụng
tới những nguồn mạch triết học đúng nghĩa để xây dựng tổng hợp lý thuyết của ngài…
Tính thống nhất trong học thuyết của thánh nhân là tính thống nhất của một trí khơn
lơi kéo về mình những luận đề thuộc những nguồn gốc đôi khi khác nhau song nối kết
với nhau bởi những mối liên hệ họ hàng sâu xa chứ khơng phải là tính thống nhất của
một hệ thống được xây dựng một cách biện chứng từ những nguyên lý đã được đặt
làm nền tảng”[2]. Bên cạnh đó, Bônaventura cũng vận dụng các tư tưởng của các triết
gia như: Platon, Aristote, Augustin, phái Tân Platon… vào trong các tác phẩm thần
học của mình. Vì thế, ngài xứng danh là người có cơng đầu tiên trong việc đặt nền
móng cho sự hình thành và phát triển trường phái triết - thần Phan sinh. Đây là một



trường phái có chỗ đứng hết sức quan trọng trong Giáo hội và cả thế giới, song song
với trường phái Thomas, Dòng Đa Minh trong thời kỳ Kinh viện và trong lịch sử
Giáo hội về sau.Trong vấn đề Tri thức luận, thánh Bônaventura cho rằng: con người
đến từ thực tại và luôn khao khát trở về với Thực Tại vĩnh cửu, đó cũng là nguồn
Hạnh Phúc tối hậu và Thiện Hảo tối hậu. Trong tác phẩm “Hành trình của con người
lên tới Thiên Chúa”, thánh nhân vạch ra năm bước đi như là “các bậc thang” và là
“kim chỉ nam”, giúp con người vươn lên tới Thực Tại siêu việt và vĩnh cửu đó.Con
người khao khát, khắc khoải tìm kiếm Thiên Chúa, lòng khao khát này “vượt trên mọi
hiểu biết”, thúc đẩy con người vượt ra khỏi chính mình để tìm kiếm Thiên Chúa. Đây
cũng là kinh nghiệm của thánh Bônaventura: “Được thúc đẩy bởi gương sáng của tổ
phụ Phanxicô, tơi đã hằng ao ước sự bình an này”[3].Trong bước khởi đầu này, thánh
Bônaventura cho rằng việc cầu nguyện sẽ giúp con người hướng tâm hồn mình lên, để
tìm kiếm Hạnh Phúc vĩnh cửu. Ngài nói: “Cầu nguyện là người mẹ và là nguồn mạch
phát xuất động tác đi lên của tâm hồn hướng thượng”[4]. Ở bậc này, thụ tạo xung
quanh trở thành tấm gương phản ánh những điều chúng ta tìm kiếm.Vũ trụ, con người
và vạn vật trở nên tấm gương của lòng khao khát và ước muốn Thiên Chúa. Khi nhìn
vào tấm gương này, chúng ta thấy chính mình, và qua đó chúng ta thấy thế giới khác
với chính mình: “Thật thế, trí năng phải cậy tới nhận thức khả giác để biết tất cả
những gì xa lạ với nó, nghĩa là biết tất cả những gì khơng phải là nó”[5]. Ở đây, thánh
Bơnaventura sử dụng thuyết Lan tỏa để giải thích dấu tích của Thiên Chúa trong vũ
trụ. Theo đó, thế giới thụ tạo như tấm gương phản ánh dấu tích của Thiên Chúa ở khắp
mọi nơi, chỉ đường cho chúng ta tìm kiếm Ngài.Để nhìn thấy các dấu tích của Thiên
Chúa, chúng ta dùng đến các giác quan thể lý của mình. Ngài nói: “Hãy nhìn cho kỹ,
bạn sẽ thấy Thiên Chúa gần bạn biết bao”. Nhờ các giác quan thể lý, qua các hoạt
động “phát sinh”, “khoái cảm” và “phán đoán”, các dấu vết của Thiên Chúa trong vũ
trụ đi vào trong ý thức của chúng ta, theo cách đó “tồn bộ thế giới khả giác đi vào
trong tâm linh con người”[6].Ở đây, Bônaventura trở về với tri thức luận của Platon
bằng cách vượt qua thế giới khả giác đưa con người đến chân lý khả niện: “Chúng ta
nhờ tới một ánh sáng nội tâm, ánh sáng này tự biểu lộ ra trong các nguyên lý của các

khoa học và của chân lý tự nhiên, vốn là bẩm sinh đối với con người. Các thứ đó đều
thuộc về một bậc nhận thức cao hơn, ở đó cảm năng khơng cịn chỗ nữa”[7]. Tuy
nhiên, do hậu quả của tội lỗi, tâm trí con người trở nên u mê và đầy dục vọng, nên
thực tại và dấu vết của Thiên Chúa bị lu mờ. Con người cần thiết phải trải qua việc
thanh luyện. Trong khi thanh luyện, nhờ ánh sáng vĩnh cửu soi sáng, các giác quan thể
lý biến đổi thành các giác quan tinh thần và “chúng ta được đưa dẫn tới tấm gương
của tâm hồn, trong đó các thực tại thần linh sáng ngời”[8].Kết hợp với ân sủng của
Thiên Chúa và bằng con mắt đã thanh tẩy qua các nhân đức Tin-Cậy-Mến, chúng ta
suy niệm về Thiên Chúa. Khi suy niệm bằng các giác quan của tinh thần, “linh hồn ta
có thể thấy, nghe, ngửi, nếm và ơm lấy Đức Lang qn”[9]. Và khi đó linh hồn được
chuẩn bị để đạt tới những trạng thái xuất thần.Trong giai đoạn này, con người có thể
chiêm ngưỡng tính duy nhất thần linh qua Danh Thánh nguyên thủy là Hữu Thể và
chiêm ngắm danh hiệu Thiện Hảo trong Ba Ngơi diễm phúc.Đến đây lý trí của chúng
ta phải nhường chỗ cho ý chí lên ngơi. Chính nhờ lịng khao cháy bỏng, linh hồn con
người được sắp xếp từng cấp bậc để tiến đến sự kết hợp hài hòa với Thiên Chúa,
“nghĩa là được thanh tẩy, được soi sáng và trở nên tồn thiện”. Thánh Bơnaventura
quan niệm rằng: Sự Thiện thông chuyển viên mãn làm phát sinh Chúa Con và Chúa


Thánh Thần. Trong các Ngôi vị, sự Thiện cao nhất địi hỏi một tình u hiến thần vơ
biên; sự Thiện vô biên tạo nên sự đồng bản thể thuyệt đối dẫn đến có sự tương đồng
sâu xa và sự bình đẳng giữa Ba Ngơi Thiên Chúa. Vì vậy khi linh hồn ta chiêm ngắm
sự Thiện Hảo chính là Ngơi Con, nhờ Người chúng ta mới có thể đi vào sự kết hợp
với Ba Ngơi trong xuất thần.Tóm tại, qua tìm hiểu, chúng ta nhận thấy tri thức luận
của Bônaventura là một một sự tổng hợp tinh tế và sáng tạo. Ngài chọn Augustin, vì
chính vị thánh Giáo phụ này đã tổng hợp Platon và Aristote: “Aristote đã biết sử dụng
ngôn ngữ của khoa học và ơng đã có lý khi đề nghị ngược với Platon rằng không phải
tất cả nhận thức đều được soạn thảo trong thế giới các ý tưởng, Platon thì nói ngơn
ngữ của sự khơn ngoan khi khẳng định các nguyên nhân mô thể vĩnh cửu và các ý
tưởng, còn Augustin được Chúa Thánh Thần soi sáng, đã biết nói cả hai ngơn

ngữ.”[10]Song song và đồng thời với thánh Bônaventura, triết học Kinh viện nổi lên
một tư tưởng lỗi lạc khác là thánh Thomas, người đạt mối tương quan giữa đức tin và
lý trí sâu sắc hơn tất cả.
3.5. Thomas Aquinas
Thomas Aquinas sinh năm 1225 tại Rocca Secca, gần Naples, thuộc dòng tộc bá tước
Aquinas. Sau khi vào Dòng Đa Minh, ngài đã được học với thánh Albert. Từ năm
1252, ngài bắt đầu khởi sự cuộc đời vẻ vang của một nhà giáo cho đến lúc mất năm
1274.Nếu như thánh Augustin lấy triết học của Platon làm nguồn suối nền tảng, thì
triết lý thánh Thomas là một cơng trình suy tư từ học thuyết triết học Aristote. Bên
cạnh đó, thánh nhân cịn tổng hợp từ nhiều triết thuyết khác nhau, như trường phái
Khắc kỷ, thuyết Platon mới, Augustin và Boece, cộng với sự phản chiếu từ một số ý
tưởng của những nhà giải thích Hy Lạp về Aristote và của Cicéron, Avicenne,
Averroès…
Tổng hợp từng ấy yếu tố, người ta khơng khỏi nghĩ rằng đó là một thứ triết lý hỗn tạp,
nhưng nó đã thực sự được nhào nặn qua thực hành triết lý và thực tiễn lý thuyết của
những tiền bối thành một triết lý hệ thống. Chính hệ thống ấy đã để lộ ra ấn tích trí
khơn và tầm ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống Kitô giáo của ngài.Khác với thánh
Augustin vốn chịu ảnh hưởng bởi triết học Platon, thánh Thomas kế thừa từ triết học
Aristote. Ngài lấy những tinh hoa của triết học làm nền tảng cho sự phát triển và khám
phá mới, hầu làm cho sự dung hòa này đạt đến đỉnh điểm của nó. Đối với thánh nhân,
cả lý trí và đức tin đều là quà tặng của Thiên Chúa cho nhân loại. Ngài chủ trương đề
cao lý trí trong việc nhận thức thực tại. Thánh nhân cho rằng: lý trí là khả năng Thiên
Chúa ban cho con người để khám phá những chân lý Người đặt để trong cơng trình
tạo dựng và cứu chuộc. Thánh Thomas không soi sáng những huyền bí của đức tin
bằng lý trí như quan điểm của Augustin mà phân biệt rõ ràng ranh giới giữa đức tin và
lý trí. Chân lý thuộc lý trí là tất cả những chân lý đã biết được, hay có thể biết được
cách hiển nhiên bằng kinh nghiệm. Trái lại, chân lý thuộc lãnh vực đức tin là tất cả
mọi chân lý biết được bằng con đường mặc khải của Thiên Chúa.Thánh nhân đã đưa
ra năm cách chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa bằng con đường của lý trí. Ngài
cho rằng mọi nhận thức phải bắt đầu từ kinh nghiệm về các đối tượng khả giác thay vì

bằng các ý niệm bẩm sinh về sự hoàn hảo, dựa trên các ý niệm phát xuất từ sự hiểu
biết của lý trí về đối tượng thơng thường qua kinh nghiệm giác quan. Đặc tính chính
của đối tượng khả giác là sự tồn tại của chúng địi hỏi phải có ngun nhân của nó.
Dưới ánh sáng tự nhiên của lý trí, trí khôn biết được khi kinh nghiệm các biến cố, hậu
quả phải có ngun nhân, vì khơng có gì đến từ hư vơ. Dựa trên phân tích các sự vật


khả giác và trên tương quan sự tồn tại của chúng, địi buộc phải có một chuỗi các
ngun nhân. Cuối cùng chắc chắn phải có một nguyên nhân đầu tiên hay nguyên
nhân tối hậu chính là Thiên Chúa. Theo thánh Thomas, đức tin ln cần được lý trí
khám phá, làm cho đức tin thêm vững chắc. Tất nhiên, lý trí có giới hạn của nó. Có
những vấn đề của đức tin mà lý trí buộc phải chấp nhận, trước huyền nhiệm của các
mặc khải khác, lý trí phải cúi đầu bởi sự giới hạn của mình. Thánh Thomas là người
theo lối duy thực ơn hịa, ln đề cao vai trị lý trí. Điều này cũng đã ảnh hưởng đến
Giáo hội khi tiếp nhận quan điểm triết học của ngài. Lý trí được xem như là quà tặng
mà Thiên Chúa đã ban cho con người để nhờ đó mà tìm về với Ngài là cùng đích mọi
sự.Tuy vậy, trong kho tàng chân lý mặc khải Thiên Chúa có những điều chỉ dùng đến
đức tin mới cảm thấu được. Lý trí theo khả năng tự nhiên không thể nào hiểu cách
thấu đáo về Thiên Chúa và bản chất của Ngài. Lý trí có thể sai lầm, vì thế Thiên Chúa
nhân từ đã muốn mạc khải những chân lý tự bản chất không vượt q lý trí, để con
người có thể thơng phần vào sự sống tri thức của Ngài. Hơn nữa, con người được tạo
dựng để hướng về Thiên Chúa, được mời gọi vượt lên trên chính mình, vượt qua
những gì là khả giác để vươn tới Thiên Chúa bằng lý trí tự nhiên mà Chúa đã ban
tặng. Thomas cho rằng: đức tin và lý trí là hai lãnh vực riêng biệt, cũng như ở chỗ
khác ngài đã phân biệt rõ ràng trật tự tự nhiên và trật tự ân sủng. Đức tin bao gồm tất
cả những chân lý được biết nhờ ánh sáng mặc khải mà ta không thể biết được sự hiển
nhiên nội tại của nó. Cịn lý trí gồm tất cả những gì lý trí biết được hay có thể biết
được một cách hiển nhiên nội tại bằng kinh nghiệm hoặc bằng chứng minh. Như thế,
đức tin dựa trên nền tảng mặc khải cịn lý trí dựa trên khả năng suy luận tự nhiên.
Thánh Thomas cho rằng, đức tin vượt quá lý trí trong khả năng đạt tới những đối

tượng siêu việt mà một lý trí tự nhiên sâu sắc nhất cũng không thể vươn tới được.
Ngài viết: Đức tin là sự nếm trước của tri thức sẽ làm cho chúng ta được diễm phúc ở
đời sau. Đức tin vượt trên cả lý trí về khả năng đạt tới đối tượng siêu việt mà lý trí tự
nhiên khơng thể nào vươn tới. Tuy nhiên đức tin không vượt quá lý trí về phương diện
nhận thức. Có thể hiểu rằng đức tin là một loại kiến thức mờ tối. Thomas cũng trình
bày sự khác biệt giữa đức tin và lý trí qua sự phân biệt giữa thần học và triết học:
Thần học là một môn học thuộc về lý thuyết thánh nên nó khác biệt theo chủng loại
với thứ thần học có một phần của triết học tham gia. Tuy nhiên, giữa những chân lý
của đức tin và những chân lý của lý trí khơng hề mâu thuẫn hay tranh chấp. Triết học
rút ra các kết luận từ sự mô tả duy lý của mình về bản chất sự vật. Thần học chứng
minh kết luận của mình dựa trên thẩm quyền nơi tri thức mặc khải. Triết học và thần
học không hề mâu thuẫn nhau, dù không phải mọi điều triết học bàn luận đều có ý
nghĩa cho mục đích tôn giáo. Triết học luận bàn về bản thể luận và nhận thức luận;
thần học đề cập tới những gì con người cần thiết cho sự cứu rỗi của mình. Điều mà lý
trí tự nó có thể biết, thì đức tin hiểu theo nghĩa hẹp là khơng cần thiết, cịn điều gì mà
chỉ một mình đức tin có thể biết nhờ mặc khải, thì lý trí tự nhiên khơng thể nào biết
được. Nhưng cả hai đều xuất phát từ Thiên Chúa và quy hướng về Thiên Chúa. Nói
cách khác, cả triết học và thần học đều bàn về Thiên Chúa, nhưng nhà triết học chỉ có
thể suy luận Thiên Chúa hiện hữu chứ không thể suy tư dựa trên các đối tượng của
cảm giác để hiểu bản chất cốt yếu của Ngài. Tuy nhiên, có một sự hợp nhất giữa đối
tượng của triết học và thần học đó là chân lý. Thần học thì dựa trên đức tin, triết học
lại dựa trên lý trí. Đức tin vượt quá lý trí ở đối tượng cịn lý trí vượt q niềm tin ở
phương cách. Đức tin do Thiên Chúa ban tặng, lý trí do con người tìm kiếm (philos).


Mỗi bên có lãnh vực khác biệt và độc lập, nhưng lại ln có sự tương hỗ bổ túc cho
nhau trong việc tìm kiếm chân lý và thực tại tối hậu. giữa đức tin và lý trí có sự hài
hịa tự nhiên hỗ tương lẫn nhau. Giữa thời điểm mà dường như đức tin phải đầu hàng
lý trí, thánh Thomas đã có thể chứng minh được rằng hai phạm trù ấy ln đi đơi với
nhau, dung hịa và bổ túc cho nhau. Bằng đức tin vững vàng, sâu sắc và tài năng xuất

chúng, thánh Thomas đã chứng minh rằng: đức tin Kitơ giáo và lý trí con người khơng
những khơng mâu thuẫn mà lại bổ túc, soi sáng cho nhau. Cả lý trí và đức tin cùng
giúp nhau mở ra những chân trời mới để đạt tới chân lý, mà chân lý tối hậu là Thiên
Chúa. Cả hai hòa hợp với nhau do bởi “Tin là hành vi của trí tuệ gắn bó với chân lý
của Thiên Chúa, dưới sự điều động của ý chí được ân sủng của Thiên Chúa lay
động”[11], vì thế khơng có sự mâu thuẫn nào. Sự kết tinh tài năng với những tinh hoa
trí thức đương thời nơi thánh Thomas diễn tả cách sâu sắc sự hịa hợp lý trí và đức tin,
giữa con người của khoa học và con người của niềm tin tôn giáo. Một trí năng siêu
phàm trong một con người thánh thiện, một tâm hồn thiêng thánh nhưng rất lỗi lạc
uyên thâm. Như vậy, lập trường của thánh Thomas là một bằng chứng cho sự dung
hòa giữa đức tin và lý trí. Cả lý trí và đức tin ấy đã cùng nhau giúp ngài chiêm ngưỡng
huyền nhiệm thánh thiêng nơi chân lý siêu phàm và sâu thẳm là chính Thiên Chúa,
Đấng mà suốt cả cuộc đời ngài gắn bó và tin cậy Như vậy, triết học thời kỳ Kinh viện
đã tiếp bước những bước đi của các Giáo phụ trong vấn đề giải quyết mối tương quan
giữa đức tin và lý trí, dung hồ giữa triết học với thần học. Trong những quan điểm
được phân tích trên đây, quan điểm của Anselm rất gần gũi với thời kỳ các Giáo phụ.
Nhưng quan điểm của thánh Thomas thì khác trong cách nhìn về vai trò và mối tương
quan giữa đức tin và lý trí. Nếu như thánh giáo phụ Augustin đề cao ý chí, thì thánh
Thomas lại đề cao lý trí; thánh Augustin chủ trương dung hòa giữa triết học với thần
học, còn Thomas lại phân định rõ ràng giữa hai lĩnh vực này mặc dù ngài không đối
lập giữa chúng. Như vậy, trong tư tưởng của Thomas, lý trí có “đất sống” của mình.Lý
trí, trong phạm vi hoạt động của nó, phải có tính độc lập với đức tin; triết học là một
khoa học riêng mà đối tượng của nó là tự nhiên, xã hội và tư duy. Lý trí khởi đi từ tạo
vật, từ những điều khả giác để lần bước lên đến Thiên Chúa là nguyên nhân tạo thành.
Sau thời kỳ Kinh viện, thần học vẫn giữ mối liên hệ hữu cơ với triết học, nhưng nhìn
nhận quyền tự quyết cần thiết để triết học và khoa học hoạt động cách hữu hiệu trong
lãnh vực nghiên cứu liên hệ. Tuy nhiên, sự phân biệt chính đáng này đã biến thành sự
chia rẽ tai hại. Từ thời Cận đại đến Hiện đại, vì não trạng quá duy lý của một số nhà tư
tưởng, những lập trường trở thành cấp tiến đến độ đã làm cho triết học ly tán và hoàn
toàn độc lập với nội dung của đức tin. Một trong số những hệ quả của ly tán này có sự

thiếu tin tưởng ngày càng gia tăng đối với chính lý trí. Có những người bắt đầu ngờ
vực cả chân lý phổ quát, hoài nghi và bất khả tri, hoặc để dành cho đức tin một lãnh
vực rộng rãi, hoặc để gieo sự thất tín vào mọi cách viện lý cho đức tin. Thời Hiện đại,
phần lớn tư tưởng triết học phát triển bằng cách dần dà xa lìa mặc khải Kitô giáo, đến
độ chống lại mặc khải ấy một cách minh nhiên. Phong trào này đạt đến đỉnh cao từ
giữa thế kỷ XIX đến thế kỷ XX. Một số đại diện của thuyết duy tâm đã tìm những
cách thức khác để biến đổi đức tin và nội dung của nó, kể cả mầu nhiệm Khổ nạn và
Phục sinh của Chúa Giêsu, thành những cơ cấu biện lý và sau cùng coi nó là vơ nghĩa.
Đối lập với các tư tưởng này là những hình thức nhân bản vơ thần, đã coi tôn giáo như
một điều độc hại và tha hố đối với sự phát triển của lý trí. Họ tự khuếch trương mình


như một thứ tôn giáo mới, dùng làm nền tảng cho những ý đồ chính trị và xã hội, nhân
danh giải phóng những người lao khổ.

C. KẾT LUẬN
Thời trung cổ là một giai đoạn lịch sử ở châu Âu, bắt đầu từ thế kỷ 5 kéo dài tới thế kỷ
15. Giai đoạn này thường gắn với cụm từ “đêm trường trung cổ”, bị nhìn nhận như
một khoảng tối xen giữa sự hùng vĩ của đế chế Rome và sự rực rỡ của thời Phục
hưng.Tuy vậy, Davis S. Landes - một trong những sử gia kinh tế của Mỹ thời hậu
chiến - lại cho rằng cách nhìn về thời trung cổ như vậy là “rập khuôn” và không bắt
kịp những vấn đề về cơng nghệ. Ơng phân tích điều đó trong cuốn Sự giàu và nghèo
của các dân tộc. Cuốn sách viết về lịch sử thế giới thông qua tiến bộ kinh tế và hiện
đại hóa.Trong sách, để chứng minh cho nhận định của mình, Davis S. Landes đưa ra 5
ví dụ phát triển công nghệ thời trung cổ.Thời Trung Cổ bị xem là “thời kì của sự ngu
dốt và mê tín” đặt “lời nói của những thế lực tơn giáo lên trên trải nghiệm cá nhân và
vận hành lý trí”, “mông muội”, “tăm tối”, “hố đen của khoa học”… bị các học giả
Phục hưng lên án mạnh mẽ.Thế nhưng các học giả hiện đại lại có cái nhìn khách quan
và chính xác hơn vì cho rằng chính những huyền thoại bị bóp méo và lan truyền đã
làm chúng ta có cái nhìn sai lệch về thời kỳ này.Khơng những thế những thành tựu mà

nó đạt được đã giúp cho thời kỳ Phục hưng phát triển mạnh mẽ phồn thịnh đến như
vậy.Về mặt xã hội, vị thế của phụ nữ được nâng lên một cách đáng kể khi khả năng
tham gia học hành, thương mại, tơn giáo,… có nhiều phụ nữ tác động lớn tới lịch sử
như Nữ hoàng Isabella (Tây Ban Nha), Thánh Joan of Arc, người phụ nữ thống lĩnh
đội quân Pháp,…Những cuộc chiến với người Hồi giáo trong các cuộc Thập tự chinh,
di cư,… đã giúp cho sự giao thoa văn hóa, thương mại, tiền tệ, nghệ thuật, kiến trúc,
âm nhạc… diễn ra mạnh mẽ.Trong thế kỉ 11, triết học và thần học phát triển mạnh mẽ
dẫn tới vận hành trí thức gia tăng, nhiều trường học được mở ra, giáo hội chú ý tới
giáo dục (ra đời các trường ĐH thời Trung Cổ như Oxford, Cambridge… ).Toán học
bước lên một tầng cao mới với sự ra đời của đại số, hệ thống số thập phân thay thế hệ
thống La Mã. Cối xay gió, đồng hồ cơ học, thống kê thiên văn qua kính cầu lõm lần
đầu tiên được phát minh khả năng nói sự truyền bá kiến thức giữa các nền văn hóa,
dân tộc thời kỳ này đã dọn đường cho thời kỳ phát triển thịnh vượng và đẹp đẽ nhất
của loài người: thời kỳ Phục hưng. Nếu như triết học phương Tây thường đi từ trừu
tượng đến cụ thể; từ rộng đến hẹp, từ thế giới quan, vũ trụ quan đến nhân sinh quan;
từ bản thể luận đến nhận thức luận, từ đó tạo nên một hệ thống tương đối hồn chỉnh,
chặt chẽ; thì minh triết phương Đông thường đi ngược lại, tức từ cụ thể đến trừu
tượng, từ hẹp đến rộng, từ nhân sinh quan đến thế giới quan. Cụ thể, nếu như các nhà
triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại thường đi tìm những yếu tố đầu tiên hình thành nên
thế giới như nước, lửa, khơng khí, ngun tử, thì ở phương Đông, hai nhà tư tưởng
lớn, tiêu biểu là Khổng Tử và Đức Phật lại không làm như vậy. Đứng trước xã hội
loạn lạc thời Xuân Thu, Khổng Tử đã đưa ra học thuyết chính danh, đường lối đức trị
nhằm ổn định trật tự xã hội lúc bấy giờ. Bởi vậy, có người xếp học thuyết Khổng Tử
vào học thuyết đạo đức, chính trị - xã hội, chứ khơng phải triết học, bởi lẽ nó hầu như


khơng có phần hình nhi thượng, tức bản thể luận hay vũ trụ quan. Không phải ngẫu
nhiên mà trong học thuyết Khổng Tử chữ “Nhân” đóng vai trị trụ cột, nền tảng. Đến
Mạnh Tử thời Chiến Quốc, tình hình này hầu như vẫn chưa có gì thay đổi. Mãi đến
thời Tống sau này, khiếm khuyết đó mới được bổ sung bằng cách lấy những yếu tố thế

giới quan, vũ trụ quan của Phật và Lão trong học thuyết của mình.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
CHÚ THÍCH
1] Particularly through Pseudo-Dionysius, Augustine, and Boethius, and through the
influence of Plotinus and Proclus on Muslim philosophers. In the case of Aquinas, for
instance, see Jan Aertsen, "Aquinas' philosophy in its historical setting" in The
Cambridge Companion to Aquinas, ed. Norman Kretzmann and Eleonore Stump
(Cambridge: Cambridge University Press, 1993). Jean Leclerq, The Love of Learning
and the Desire for God (New York: Fordham University Press, 1970).
[2] Etienne Gilson, La Philosophie au Moyen – Age, Payot, Paris 1962, Lm. Nguyễn
Hồng Giáo phiên dịch, tr. 2.
[3] Bonaventura, Hành trình của con người lên tới Thiên Chúa, bản dịch của Nguyễn
Đoàn Tân, Học viện Phanxicô 2007, Lời ngỏ.
[4] Bonaventura, Sđd., tr. 15.
[5] Sđd., tr. 15.
[6] Bonaventura, Sđd., tr. 27.
[7] Etienne Gilson, Sđd., tr 5.
[8] Bonaventura, Sđd., tr. 32.
[9] Sđd., tr. 40.
[10] Etienne Gilson, Sđd., tr. 6.
[11] Thomas Aquinas, Tổng luận Thần học, II- II, q.2, a.2
[12] V.I. Lênin. Toàn tập, Tiến Bộ, Mátxcơva, 1981, tr. 389.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS. Phạm Phú Thành, Giáo trình Lịch Sử Triết Hoc Tây Phương, Trường Phật Học
Lâm Đồng, 2014.
2. PGS. Đinh Ngọc Thạch, Lịch sử Triết học Phương Tây, nxb Tổng hợp, 2006.
3. PGS. Nguyễn Tiến Dũng, Lịch sử Triết học Phương Tây, nxb Tổng hợp, 2006.
4. GS. Hà Thúc Minh, Triết học cổ đại Hy Lạp, nxb Mũi Cà Mau, 2000.
5. Dương Ngọc Dũng, Đường vào Triết học, nxb Tổng hợp Tp.HCM, 2006
6.SC. TN Hương Nhũ, Tài Liệu Tham Khảo tai HV TP. HCM, 2008.

7.Nguyễn Hòa, Triết Học Cổ Hy Lạp Giản Yếu, Nxb. Thanh Niên, 2002..




×