*F45.3.Rối loạn chức năng thần kinh thực vật dạng cơ thể:
Các triệu chứng bệnh nhân phàn nàn như các rối loạn của một hệ thống hay cơ quan mà phần lớn
hoặc hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của hệ thống thần kinh thực vật. Ví dụ nổi bật và phổ biến
nhất là của hệ tim mạch, hệ thống dạ dày ruột (bệnh tâm căn tim, bệnh tâm căn dạ dày, ỉa chảy tâm
căn).
Các triệu chứng thường là của hai loại:
- Loại 1: Chẩn đoán dựa vào chủ yếu là các triệu chứng khách quan của trạng thái cường giao cảm
như: đánh trống ngực, ra mồ hôi, đỏ mặt và run.
- Loại 2: Các triệu chứng chủ quan có tính chất riêng với bệnh nhân, không đặc hiệu như cảm giác
đau thoáng qua, cảm giác cháy bỏng, nặng nề, bị bó chặt, bị sưng phù hay căng da.
Chẩn đoán xác định F45.3: Phải có tất cả những tiêu chuẩn sau:
1, Triệu chứng cường giao cảm dai dẳng và khó chịu.
2, Các triệu chứng cơ thể chủ quan của người bệnh, được quy cho một cơ quan hoặc hệ thống nào
đó.
3, Bận tâm dai dẳng và đau khổ về khả năng có một bệnh cơ thể trầm trọng nào đó, nhưng không
chấp nhận sự giải thích và chấn an của BS.
4, Không có bằng chứng rối loạn đáng kể về cấu trúc hoặc chức năng của cơ quan hoặc hệ thống nào
đó.
Chẩn đoán phân biệt:
1, Với rối loạn lo âu lan toả:
- Sợ hãi và lo âu đi trước các rối loạn thần kinh thực vật.
- Các triệu chứng thường không khu trú vào cơ quan, bộ phận nào.
2, Với rối loạn cơ thể hoá:
- Rối loạn thần kinh thực vật có thể có nhưng không trội lên, không dai dẳng.
- Thái độ bệnh nhân cũng không dai dẳng coi các triệu chứng ấy là của một cơ quan hay hệ thống
nào đó.
*F45.3.Rối loạn chức năng thần kinh thực vật dạng cơ thể:
Các triệu chứng bệnh nhân phàn nàn như các rối loạn của một hệ thống hay cơ quan mà phần lớn
hoặc hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của hệ thống thần kinh thực vật. Ví dụ nổi bật và phổ biến
nhất là của hệ tim mạch, hệ thống dạ dày ruột (bệnh tâm căn tim, bệnh tâm căn dạ dày, ỉa chảy tâm
căn).
Các triệu chứng thường là của hai loại:
- Loại 1: Chẩn đoán dựa vào chủ yếu là các triệu chứng khách quan của trạng thái cường giao cảm
như: đánh trống ngực, ra mồ hôi, đỏ mặt và run.
- Loại 2: Các triệu chứng chủ quan có tính chất riêng với bệnh nhân, không đặc hiệu như cảm giác
đau thoáng qua, cảm giác cháy bỏng, nặng nề, bị bó chặt, bị sưng phù hay căng da.
Chẩn đoán xác định F45.3: Phải có tất cả những tiêu chuẩn sau:
1, Triệu chứng cường giao cảm dai dẳng và khó chịu.
2, Các triệu chứng cơ thể chủ quan của người bệnh, được quy cho một cơ quan hoặc hệ thống nào
đó.
3, Bận tâm dai dẳng và đau khổ về khả năng có một bệnh cơ thể trầm trọng nào đó, nhưng không
chấp nhận sự giải thích và chấn an của BS.
4, Không có bằng chứng rối loạn đáng kể về cấu trúc hoặc chức năng của cơ quan hoặc hệ thống nào
đó.
Chẩn đoán phân biệt:
1, Với rối loạn lo âu lan toả:
- Sợ hãi và lo âu đi trước các rối loạn thần kinh thực vật.
- Các triệu chứng thường không khu trú vào cơ quan, bộ phận nào.
2, Với rối loạn cơ thể hoá:
- Rối loạn thần kinh thực vật có thể có nhưng không trội lên, không dai dẳng.
- Thái độ bệnh nhân cũng không dai dẳng coi các triệu chứng ấy là của một cơ quan hay hệ thống
nào đó.
F45.3 Loạn chức năng thần kinh tự trị dạng cơ thể.
Các triệu chứng được bệnh nhân trình bày như thể chúng do một rối loạn cơ thể của một
hệ thống hay cơ quan phần lớn hoặc hoàn toàn đặt dưới sự phân bố và kiểm soát của thần
kinh tự trị, như hệ tim mạch, hệ thống dạ dày - ruột hoặc hệ thống hô hấp. (Một số mặt
của hệ thống tiết niệu sinh dục cũng đưa vào đây). Các ví dụ nổi bật và phổ biến nhất là
ảnh hưỏng tới hệ tim mạch ("bệnh tâm căn tim"), hệ thống hô hấp (tăng không khí và nấc
tâm sinh) và hệ thống dạ dày ruột ("bệnh tâm căn dạ dày" và "ỉa chảy tâm căn"). Các triệu
chứng thường là của hai loại, nhưng không có cái nào cho thấy một rối loạn cơ thể của cơ
quan hoặc hệ thống có liên quan. Loại thứ nhất, mà chẩn đoán phần lớn phụ thuộc vào,
được đặc trưng bằng các phàn nàn dựa trên các dấu hiệu khách quan của hưng phấn thần
kinh tự trị, như đánh trống ngực, ra mồ hôi, đỏ mặt và run. Loại thứ hai, được đặc trưng
bằng các triệu chứng có tính chất riêng biệt, chủ quan, và không đặc hiệu hơn, như cảm
giác đau thoáng qua, cháy bỏng, nặng nề, bị bó chặt hoặc cảm giác sưng phù hay căng da;
những cái đó được bệnh nhân quy vào một cơ quan hoặc hệ thống đặc hiệu (cũng như các
triệu chứng thần kinh tự trị có thể có). Sự kết hợp các triệu chứng thần kinh tự trị rõ rệt,
các phàn nàn chủ quan không đặc hiệu phụ thêm vào và dai dẳng coi một cơ quan hoặc hệ
thống đặc biệt như là nguyên nhân của rối loạn ấy và đưa đến một bệnh cảnh lâm sàng
đặc trưng.
ở nhiều bệnh nhân có rối loạn này cũng có bằng chứng là có stress tâm lý, hoặc những khó
khăn hay những vấn đề hiện hành tỏ ra có liên quan với rối loạn đó; tuy nhiên, một tỷ lệ
quan trọng bệnh nhân không có như vậy, tuy rằng họ rõ ràng có đầy đủ tiêu chuẩn của
trạng thái này.
Trong một số các rối loạn trên, một số rối loạn nhẹ của chức năng sinh lý cũng có thể có
như là nấc, đầy bụng, và tăng không khí, nhưng những rối loạn đó, bản thân chúng không
làm rối loạn chức năng sinh lý chủ yếu của cơ quan hay hệ thống tương ứng.
Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán.
Chẩn đoán quyết định đòi hỏi tất cả những điều sau:
(a) Triệu chứng hưng phấn thần kinh tự trị, như đánh trống ngực, ra mồ hôi, run, đỏ
mặt dai dẳng và khó chịu;
(b) Các triệu chứng chủ quan thêm vào được quy cho một cơ quan hoặc hệ thống đặc
hiệu;
(c) Bận tâm dai dẳng và đau khổ về khả năng có một rối loạn trầm trọng (nhưng thường
không biệt định) của một cơ quan hoặc hệ thống được nêu ra, nhưng không đáp ứng sự
giải thích và sự trấn an nhiều lần của các bác sĩ;
(d) Không có bằng chứng là có rối loạn đáng kể về cấu trúc hoặc chức năng của hệ thống
hay cơ quan được nêu.
Chẩn đoán phân biệt.
Phân biệt với rối loạn lo âu lan tỏa dựa trên sự ưu thế của các thành phần tâm lý trong
hưng phấn thần kinh tự trị, như sợ hãi và lo âu báo trước trong rối loạn lo âu lan tỏa, và
thiếu khu trú thực thể dai dẳng đối với các triệu chứng khác.
Trong các rối loạn cơ thể hóa, các triệu chứng thần kinh tự trị có thể xảy ra nhưng không
trội lên, cũng không dai dẳng so với nhiều cảm giác khác, và bệnh nhân cũng không dai
dẳng coi các triệu chứng ấy là của một cơ quan hoặc hệ thống đã nêu.
Loại trừ: các nhân tố tâm lý và hành vi kết hợp với các rối loạn hoặc các bệnh phân loại
nơi khác (F54).
Chữ số thứ năm có thể dùng để phân loại các rối loạn cá thể trong nhóm này, chỉ ra một
cơ quan hoặc hệ thống mà bệnh nhân cho là nguồn gốc của các triệu chứng.
F45.30 Tim và hệ thống tim mạch.
Bao gồm: bệnh tâm căn tim
hội chứng Da Costa
bệnh suy nhược thần kinh tuần hoàn.
F45.31 Đường dạ dày ruột phía trên
Bao gồm: bệnh tâm căn dạ dày
nuốt hơi, nấc, khó tiêu và co thắt môn vị tâm sinh.
F45.32 Đường dạ dày ruột phía dư ới.
Bao gồm: đầy hơi, hội chứng ruột dễ bị kích thích, và hội chứng ỉa chảy hơi tâm sinh.
F45.33 Hệ thống hô hấp
Bao gồm: các thể tâm sinh của ho và tăng thông khí.
F45.34 Hệ thống tiết niệu sinh dục.
Bao gồm: tăng số lần đái và đái khó tâm sinh.
F45.38 Hệ thống hoặc cơ quan khác.
S