Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

những “câu nói thời danh” của các triết gia hy lạp cổ đại trình bày những điểm tương đồng với triết học phật giáo (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.24 KB, 18 trang )

DDttt

Tiểu luận học kỳ III : Môn Dẫn Nhập Triết Học Phương Tây
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH

-----------------------------------------------------

TIỂU LUẬN MƠN TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY

ĐỀ TÀI
những “câu nói thời danh” của các triết gia Hy lạp Cổ đại. Trình
bày những điểm tương đồng với triết học Phật giáo

Người hướng dẫn khoa học: NS.TS.TN. Hương Nhũ

TP.Hồ Chí Minh ,Năm 2022.


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC
VIỆN
PHẬT
GIÁOVIỆT
VIỆT NAM
NAM TẠI
CHÍCHÍ
MINH
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO
TẠITP.HỒ
TP. HỒ


MINH

-----------------------------------------------------

TÊN TÁC GIẢ:
PHÁP DANH:
LỚP ĐTTX: KHÓA VI
MSSV: TX

ĐỀ TÀI
những “câu nói thời danh” của các triết gia Hy lạp Cổ đại. Trình bày những điểm
tương đồng với triết học Phật giáo

Tiểu luận học kỳ III : Môn Dẫn Nhập Triết Học Phương Tây

Người hướng dẫn khoa học: NS.TS.TN. Hương Nhũ

TP.Hồ Chí Minh , Năm 2022.


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Phạm vi đề tài
3. Cơ sở dữ liệu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Bố cục tiểu luậu
B. NỘI DUNG
C. KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



A.MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Ở phương Tây, triết học phát triển vào khoảng thế kỷ thứ VI Tr.CN, bắt đầu từ Hy Lạp
cổ đại. Từ triết học Hy Lạp cổ đại đến triết học cổ điển Đức là khoảng thời gian kéo
dài trên hai ngàn năm. Các trào lưu triết học tiêu biểu trong khoảng thời gian này được
chia thành các giai đoạn phát triển với những đặc điểm riêng. Triết học Hy Lạp cổ đại
là nguồn gốc của triết học phương Tây được chia thành: thời kỳ trước Socrates, thời
kỳ hoàng kim; thời kỳ sau Socrates, thời kỳ Hy Lạp hóa. Thời kỳ trung cổ ở phương
Tây kéo dài hơn mười thế kỷ (từ thế kỷ IV đến thế kỷ XIV) là thời gian triết học bị
thống trị bởi thần học. Thời kỳ phục hưng trong các thế kỷ XV, XVI là giai đoạn phục
hồi của triết học. Triết học phương Tây tiếp tục phát triển rực rỡ trong thời cận đại bắt
đầu từ thế kỷ XVII, được gọi là thời kỳ lý tính, sau đó sự phát triển của triết học mang
một số đặc điểm riêng của mỗi dân tộc, như chủ nghĩa kinh nghiệm Anh, triết học khai
sáng Pháp ở thế kỷ XVIII, triết học cổ điển Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.
Đỉnh cao của nền văn minh cổ đại đó chính là triết học Hy Lạp cổ đại, và cũng là điểm
xuất phát của lịch sử thế giới. Nhìn chung triết học Hy Lạp có những đặc trưng sau:
+Thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nơ thống trị.
+Có sự phân chia và các sự đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái, duy vật duy tâm, biện chứng - siêu hình, vơ thần - hữu thần.
+Gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực
khác nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể
thống nhất mọi sự vật, hiện lại xảy ra trong nó.
Đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác, hoang sơ.
+Coi trọng vấn đề về con người.
Triết học cổ Hy Lạp mang tính duy vật tự phát và biện chứng sơ khai. Tách ra khỏi
yếu tố thần linh thống trị con người từ xưa, đỉnh cao của triết học cổ Hy Lạp là triết
gia Socrate. Ông đã đề cập đến thân phận con người. Đa phần các triết gia có xu
hướng hướng ngoại thì Socrate quay về hướng nội, ơng đã đề cập đến đạo đức con
người. Do vậy học viên chọ đề tài Phân tích và bình luận những “câu nói thời danh”

của các triết gia Hy lạp Cổ đại. Trình bày những điểm tương đồng với triết học Phật
giáo làm đề tài nghiên cứu.
2. Phạm vi đề tài, Phương pháp nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong giai đoạn triết học Hy lạp cổ đại. Với
phương pháp nghiên cứu là phương pháp lịch sử và đối chiếu. Bài nghiên cứu quy mô
như một bài thu hoạch nên các vấn đề được đề cập mang tính khái quát.
Học viên dựa vào bài giảng của giáo thọ trên lớp và tham khảo một số tài liệu liên
quan làm tư liệu
3. Bố cục tiểu luận:gồm 03 chương

B. NỘI DUNG


CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1.1.Chủ nghĩa duy vật
Chủ nghĩa duy vật được hình thành từ trường phái Milet- trường phái Heraclite,
trường phái Đa nguyên và đạt được đỉnh cao như trong trường phái Nguyên tử luận.
1.1.1-Trường phái Milet
Trường phái triết học Milet là trường phái của các nhà triết học đầu tiên xứ Lonie, một
vùng đất nổi tiếng của Hy Lạp. Nằm chạy dài trên miền duyên hải Tiểu Á, nằm giữ
huyết mạch giao thông, là cửa mở đi về phương Đông, và là trung tâm kinh tế, văn
hóa của thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Nơi đây được xem là quê hương của nhiều trường
phái triết học của triết gia nổi tiếng.Trường phái này do ba nhà triết học lập nên như:
Thales, Anaxi-mène và Anaximandes. Đóng góp quan trọng nhất của trường phái này
là đã đặc nền móng do sự hình thành các khái niệm triết học để các triết gia sau này
tiếp tục bổ xung và làm phong phú thêm những khái niệm đó như khái niệm chất,
khơng gian, sự đấu tranh của các mặt đối lập v.v… Một điều đáng quý nữa là các triết
gia đã xuất phát từ thế giới để giải thích thế giới, khẳng định thế giới xuất phát từ một
thời nguyên vật chất duy nhất.

1.1.2-Trường phái Héraclite : (540 – 575 BC)
Do nhà ẩn dật Héraclite sáng lập. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình q tộc
chủ nơ ở thành phố Ephetdơ. Ơng sớm trở thành một nhà triết học duy vật thể hiện rõ
các tư tưởng biện chứng chất phát từ thời cổ Hy Lạp. Ông coi bản nguyên của thế giới
là lửa. Vũ trụ không phải do Thượng Đế hay một lực lượng siêu nhiên nào đó tạo ra,
mà nó “đã” và “đang” sẽ mãi mãi là ngọn lửa vĩnh hằng không ngừng bùng cháy và
lụi tàn. Tàn lụi và bùng cháy theo cái logos tức là “quy luật, trật tự” nội tại của chính
mình. Ơng xem thế giới “vừa tồn tại vừa không tồn tại”, “không ai tắm hai lần trong
một dịng sơng”. Thế giới vật chất “vừa đa dạng vừa thống nhất, vừa mang tính hài
hịa vừa xung đột”.Như vậy, Héraclite là nhà triết học đã nêu lên các phỏng đoán thiên
tài về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, mà sau này Marx đã đề
cập và đi sâu. Phép biện chứng duy vật chất phát là đóng góp của triết học Héraclite
vào kho tàng tư tưởng của nhân loại. “Thế giới chỉ là ngọn lửa đang bập bùng cháy
suốt ngày đêm”.
1.1.3-Trường phái đa nguyên
Để giải thích tính đa dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật
Empedocles ( 490 – 430 TCN ) và Anaxagoras ( 500 – 428 TCN ) cố vượt qua quan
niệm đơn nguyên sự khai minh của các trường phái như Milet - trường phái Héraclite
xây dựng quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới vật chất đa dạng. Empedocles
thừa nhận khởi nguyên của thế giới là bốn yếu tố : đất, nước, lửa và khơng khí.
Anaxagorax cho rằng cơ sở đầu tiên của tất cả mọi sự vật là “những hạt giống”.
Anaxagorax xem “ mọi cái được trộn lẫn trong mọi cái”.Tuy nhiên, quan điểm của họ
cũng cịn mang tính sơ khai, nghĩa là còn hạn chế. Những hạn chế này được thuyết
phục bởi thuyết nguyên tử luận. Nhưng thuyết này vẫn còn sơ khai và nhận định bằng
cảm tính.
1.1.4-Trường phái nguyên tử luận
Trường phái này là đỉnh cao của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại được thể hiện trong
trường phái nguyên tử luận thế kỷ V – III BC. Leucippe là người sáng lập và



Démocrite là người kế thừa và phát triển.Leucippe (500 – 440 BC), ông cho rằng, mọi
sự vật được cấu thành từ những nguyên tử. Đó là những hạt vật chất tuyệt đối khơng
thể phân chia được, nó vơ hạn về số lượng và vơ hạn về hình thức, nó vơ cùng nhỏ bé,
không thể thẩm thấu được. Tư tưởng của ông không được hiểu một cách đầy đủ,
nhưng ông đã để lại qua những trang viết của các học trò ông tổng hợp. Démocrite
(460 – 370 BC) là học trò của Leucippe đã kế thừa và phát triển thuyết nguyên tử luận
trên một phương diện mới. Theo ông vũ trụ được cấu thành bởi hai thực thể đầu tiên là
nguyên tử và chân không. Hai thực thể này là căn nguyên của các sự vật hiện tượng.
1.2.Chủ nghĩa duy tâm
Giai đoạn Hy Lap cổ đại, chủ nghĩa duy tâm được hình thành trong trường phái triết
học Pythagore, trải qua trường phái duy lý Elee và đạt được đỉnh cao trong trường
phái duy tâm khách quan của Platon, tức thế giới ý niệm.
1..2.1-Trường phái Pythagore
Pytagore (Pythagore, 571 – 497 TCN) là nhà triết học, toán học uyên bác. Sinh ra và
lớn lên ở vùng Tiểu Á. Do ảnh hưởng của toán học ông cho rằng “con số” là bản
nguyên của thế giới, là bản chất của vạn vật. Một vật tương ứng với một con số nhất
định, con số có trước vạn vật. Và tư tưởng Pythagore cũng thừa nhận sự bất tử và luân
hồi của linh hồn. Ông cũng bàn đến các mặt đối lập vơn có của mọi sự vật hiện tượng,
ông quy về mười cặp đối lập hữu hạn và vô hạn, chẳn và lẻ, đơn và đa, phải và trái,
nam và nữ, động và tĩnh, thẳng và công, sáng và tối, tốt và xấu, tứ giác và đa diện.
Mười cặp đối lập này chia làm bốn lĩnh vực là: toan học, vật lý, sinh học và đạo đức.
Đó là những mặt đối lập cơ bản của tự nhiên và xã hội. Chính trường phái Pythagore
đã đặc nền móng ban đầu cho trào lưu duy tâm thời cổ đại của triết học Hy Lạp.
1.2.2-Trường phái Elée
Trường phái Elée (V – IV BC) do Xénophane thành lập theo chủ nghĩa duy vật, nhưng
sau đó Parménide phát triển theo chủ nghĩa duy tâm và được Zeno nhiệt thành bảo vệ
và phát huy.Xénophane (570 – 478 BC) là bạn của Thales nên chịu ảnh hưởng của nhà
triết học này. Ông cho rằng mọi cái đều từ đất mà ra, và cuối cùng trở về đất. Đất là cơ
sở của vạn vật. Cùng với nước, đất tạo nên sự sống của muôn loài. Parménide (500 –
449 BC) xuất thân trong một gia đình trí thức giàu có ở Elée. Ơng cho rằng, “tồn tại”

là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của vạn vật trong thế giới. “Tồn tại” là một
phạm trù triết học mang tính khái quát cao, và nhận thức bởi tư duy, lý tính. Quan
niệm “tồn tại”đánh dấu một giai đoạn mới trong phát triển triết học Hy Lạp cổ
đại.Zeno (490 – 430 BC), là người bảo vệ nhiệt thành trường phái Elée. Ông đưa ra
những Aporic nghĩa là tình trạng khơng có lối thốt hay nghịch lý. Thông qua chúng,
ông chứng minh rằng, “tồn tại là đồng nhất, duy nhất là bất biến”. Cịn tính phức tạp,
đa dạng và vận động của thế giới là không thực.
1..2.3-Trường phái duy tâm khách quan
Thể hiện lập trường chính trị của tầng lớp chủ nô bảo thủ chống lại nền dân chủ Athen
và hệ thống triết học duy vật của trường phái nguyên tử luận. Được xây dựng bởi
Socrate và Platon.Socrate (469 – 399 BC), khác với nhiều nhà bác học khác là không
nghiên cứu về giới tự nhiên, ông dành phần lớn nghiên cứu về con gười, đạo đức.
“Con người hãy nhận thức về chính mình”. Bàn về con người dưới khía cạnh đạo đức.
Platơn (427 – 347 BC), xuất thân trong một gia đình chủ nơ q tộc ở Athen. Ông trở
thành kiệt xuất nhất thời cổ đại Hy Lạp bởi quan niệm triết học duy tâm khách quan.
Ông xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách quan với nội dung chính là “thuyết ý niệm”,


với giá trị bên trong là phép biện chứng của khái niệm và nhiều tư tưởng sâu sắc khác
về đạo đức, chính trị, xã hội.
1.3.Chủ nghĩa nhị nguyên
Triết học Aristote :Aristote (384 – 322 TCN). Ông sinh ra tại miền Bắc Hy Lạp, là học
trò xuất sắc của Platon. Nhưng đặc biệt ông phê phán học thuyết “ý niệm” của Platon.
Vì ý niệm nó thuộc về thế giới bên kia khơng có lợi cho người. Theo Platon, ơng cho
rằng thuộc tính quan trọng của thế giới là “vận động”. Triết học của Platon còn thể
hiện ở quan điểm về thế giới tự nhiên. Tự nhiên là toàn bộ của sự vật có một bản thể
vật chất mãi mãi vận động và biến đổi. Thông qua vận động mà giới tự nhiên được thể
hiện ra. Vận động không tách rời vật thể tự nhiên. Vận động của thế giới tự nhiên có
nhiều hình thức, sự tăng và giảm, sự ra đời và tiêu diệt, sự thay đổi trong không gian,
sự thay đổi về chất … Tuy nhiên, triết học của ông còn hạn chế, dao động giữa chủ

nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, nhưng ông đã mở ra một chân trời mới cho khoa
học Phương Tây phát triển.


CHƯƠNG 2
TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG VÀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY NHỮNG
ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
2.1.Về hướng tiếp cận của minh triết phương Đông và triết học phương Tây
Nếu như triết học phương Tây thường đi từ trừu tượng đến cụ thể; từ rộng đến hẹp, từ
thế giới quan, vũ trụ quan đến nhân sinh quan; từ bản thể luận đến nhận thức luận, từ
đó tạo nên một hệ thống tương đối hồn chỉnh, chặt chẽ; thì minh triết phương Đông
thường đi ngược lại, tức từ cụ thể đến trừu tượng, từ hẹp đến rộng, từ nhân sinh quan
đến thế giới quan. Cụ thể, nếu như các nhà triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại thường đi
tìm những yếu tố đầu tiên hình thành nên thế giới như nước, lửa, khơng khí, ngun
tử, thì ở phương Đơng, hai nhà tư tưởng lớn, tiêu biểu là Khổng Tử và Đức Phật lại
không làm như vậy. Đứng trước xã hội loạn lạc thời Xuân Thu, Khổng Tử đã đưa ra
học thuyết chính danh, đường lối đức trị nhằm ổn định trật tự xã hội lúc bấy giờ. Bởi
vậy, có người xếp học thuyết Khổng Tử vào học thuyết đạo đức, chính trị - xã hội, chứ
khơng phải triết học, bởi lẽ nó hầu như khơng có phần hình nhi thượng, tức bản thể
luận hay vũ trụ quan. Không phải ngẫu nhiên mà trong học thuyết Khổng Tử chữ
“Nhân” đóng vai trò trụ cột, nền tảng. Đến Mạnh Tử thời Chiến Quốc, tình hình này
hầu như vẫn chưa có gì thay đổi. Mãi đến thời Tống sau này, khiếm khuyết đó mới
được bổ sung bằng cách lấy những yếu tố thế giới quan, vũ trụ quan của Phật và Lão
trong học thuyết của mình.Đức Phật cũng vậy. Đầu tiên, Ngài khơng phải đi xây dựng
vũ trụ quan hay bản thể luận. Đối với Ngài, vấn đề cấp bách trước tiên là cứu khổ. Bởi
vậy, trước hết Ngài đưa ra những phương pháp, biện pháp cụ thể để cứu khổ, chứ
không phải là những vấn đề triết học siêu hình trừu tượng. Có một mơn đồ đến hỏi
Ngài về những vấn đề siêu hình trừu tượng, Ngài im lặng. Điều này cũng giống như
người đi đường bị bắn bởi một mũi tên thuốc độc, vấn đề cấp bách là rút mũi tên
thuốc độc ra để chữa vết thương, chứ không phải đứng đấy hỏi bản thể mũi tên là gì.

Việc cứu khổ, cứu nạn đối với đức Phật cũng cấp bách như việc rút mũi tên thuốc độc
đang cắm trên người ở đây vậy, chứ không phải đứng hỏi những vấn đề triết học siêu
hình mà hết ngày này qua ngày khác, hết đời này qua đời khác cũng không giải quyết
nổi. Như vậy, Đức Phật, ban đầu chủ yếu chỉ đưa ra học thuyết Tứ diệu đế, Bát chính
đạo,... nhằm đưa con người thốt khổ. Hình nhi thượng của Phật giáo mãi sau này mới
được đặt cơ sở bởi các luận sư như Mã Minh, Long Thọ, Vơ Trước, Thế Thân,...Tóm
lại, hai học thuyết tiêu biểu của phương Đông như Nho, Phật đều bắt đầu từ con
người, nhân sinh quan rồi mới đến thế giới quan, từ quan niệm sống, cách sống, cách
xử thế, đạo làm người, sau đó mới đi tìm cơ sở lý luận chứng minh cho những quan
niệm đó (Nho giáo đi từ tu thân đến tề gia, rồi mới đến trị quốc, bình thiên hạ); ngược
lại, do nhu cầu sản xuất, chinh phục, cải tạo giới tự nhiên, nhu cầu hướng ra thế giới
bên ngồi, nên hình như triết học phương Tây bắt đầu từ thế giới quan rồi mới đến
nhân sinh quan, từ học thuyết về thế giới, vũ trụ, sau đó cụ thể hóa vào xã hội, con
người. Như vậy, nếu triết học phương Tây chủ yếu đi từ thế giới quan đến nhân sinh
quan, từ rộng đến hẹp, từ chung đến riêng, từ trừu tượng đến cụ thể, thì minh triết
phương Đơng hầu như lại đi từ hẹp đến rộng, từ riêng đến chung, từ cụ thể đến trừu
tượng. Từ rộng đến hẹp, từ lớn đến nhỏ thì cái hẹp, cái nhỏ có cơ sở vững chắc; trong
khi đó, đi từ hẹp đến rộng, từ nhỏ đến lớn thì trong cái lớn, cái rộng đó có những yếu


tố phải suy luận, thiếu cơ sở chắc chắn. Điều này làm cho tính lơgíc chặt chẽ trong
minh triết phương Đông không bằng triết học phương Tây. Dĩ nhiên, đây chỉ là hai
khuynh hướng trội của hai nền triết học và suy cho cùng là do tồn tại xã hội ở hai
phương trời qui định.
2.2.Về đối tượng của triết học phương Đông và triết học phương Tây
Đối tượng của triết học phương Đông chủ yếu là xã hội, cá nhân con người, cái tâm,
và nhìn chung nó lấy con người làm gốc. Điều đó qui định tri thức của triết học
phương Đông chủ yếu là tri thức về xã hội, chính trị, đạo đức, tâm linh và nhìn chung
nó hơi nghiêng về hướng nội. Trong khi đó, đối tượng của triết học phương Tây rất
rộng, nó bao gồm tồn bộ mọi lĩnh vực như tự nhiên, xã hội, tư duy, đặc biệt triết học

của thế giới Anh ngữ, chủ yếu nó lấy tự nhiên làm gốc, làm cơ sở. Chính vì đối tượng
rộng như vậy, nên phạm vi tri thức cũng rất rộng, bao gồm mọi lĩnh vực. Như vậy, một
bên lấy con người làm cơ sở, một bên lại lấy tự nhiên làm cơ sở. Đây quả là hai
phương thức tư duy ở hai phương trời. Chính vì lấy tự nhiên làm gốc, nên triết học của
thế giới Anh ngữ hơi ngả sang hướng ngoại, lấy bên ngoài giải thích bên trong. Điều
đó qui định tính chất của triết học này là hơi ngả về duy vật. Như vậy, nếu triết học
phương Tây hơi nghiêng về hướng ngoại, đặc biệt là triết học của thế giới Anh ngữ,
thì triết học phương Đông lại hơi ngả về hướng nội. Điều này cịn được lý giải bởi
việc minh triết phương Đơng đề cao quan điểm vạn vật đồng nhất thể, nghĩa là trong
con người có bản thể vũ trụ, chỉ cần đi vào bên trong con người là có thể hiểu biết
toàn bộ vũ trụ. Nếu triết học phương Tây, đặc biệt là triết học của thế giới Anh ngữ,
lấy ngoài giải thích trong thì minh triết phương Đơng lại lấy trong giải thích ngồi
(theo kiểu của cụ Nguyễn Du: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”). Nếu triết học
phương Tây, đặc biệt là triết học của thế giới Anh ngữ, hơi ngả về duy vật, thì minh
triết phương Đơng hơi ngả về duy tâm. Điều này cũng phần nào lý giải tại sao phương
Tây lại phát triển hơn phương Đông, đặc biệt về cơ sở vật chất, khoa học cơng nghệ.
Ở Ân Độ cổ đại, có chín trường phái thì tám trường phái ngả về duy tâm, chỉ cịn lại
một trường phái duy vật (Lokayata hay một cái tên khác khá tục tĩu, mỉa mai
Charvaka- những kẻ tham ăn tục uống). Tơi nói hơi ngả về hướng nội, duy tâm, điều
đó khơng có nghĩa là triết học phương Đơng khơng có hướng ngoại, khơng có duy vật,
mà ở đây chỉ muốn nói khuynh hướng hướng nội, duy tâm là khuynh hướng hơi nổi
trội trong triết học phương Đơng. Cịn triết học phương Tây, đặc biệt là triết học trong
thế giới Anh ngữ, thì ngược lại. Triết học phương Tây có khởi nguồn từ triết học Hy
Lạp - La Mã cổ đại, mà trong bảy trường phái triết học thời Hy Lạp, La Mã cổ đại thì
có đến năm trường phái ít nhiều ngả về duy vật, chỉ có hai trường phái ngả sang duy
tâm (Pitago và Platon ).
2.3. Về phép biện chứng trong minh triết phương Đông và trong triết học phương
Tây
Tư duy phương Đông và tư duy phương Tây đều khẳng định rằng, chân lý chỉ có một,
cịn sai lầm thì phong phú vơ cùng. Nhưng phép biện chứng trong triết học phương

Tây và trong minh triết phương Đơng cũng có điểm khác nhau ở chỗ, nếu như cái thứ
nhất nghiêng về động, đấu tranh, thì cái thứ hai ngả về tĩnh, thống nhất, cân bằng; nếu
như cái thứ nhất nghiêng về vận động phát triển theo hướng đi lên, thì cái thứ hai ngả
về vận động vịng trịn, tuần hồn. Điều này cũng phần nào lý giải quan điểm của Hồ
Chí Minh cho rằng, đấu tranh giai cấp ở phương Đông không quyết liệt như ở phương
Tây.Triết học nghiêng về biết, tri, phân tích, chủ biệt, hữu vi, tìm và phát hiện chân lý,


thích nói, hay nói, lắm lời, hướng ngoại; trong khi đó, minh triết ngả về đạo, ngộ, ít
nói, im lặng, tổng thể, tổng hợp, điều hịa, nhạy cảm, chủ tồn, hướng nội, vô vi.Ngày
nay, một số học giả cho rằng, khuynh hướng trội của phương Tây là hướng ngoại, chủ
động, tư duy lý luận, đấu tranh sống còn, hiếu chiến, cá thể, phân tích, tri thức suy
luận, khoa học, cạnh tranh, bành trướng, tư duy cơ giới, chú ý nhiều đến thực thể,...;
cịn khuynh hướng trội của phương Đơng là hướng nội, bị động, trực giác huyền bí,
hịa hợp, qn bình, thống nhất, tâm lý, tâm linh, tập thể, tổng hợp, minh triết, trực
giác, tơn giáo, hợp tác, giữ gìn, tư duy hữu cơ, chú ý nhiều tới quan hệ,... Thiết nghĩ
đây là một vấn đề lớn, mà ở đây bước đầu chúng tôi mới chỉ phác họa một vài nét cơ
bản trong sự khác biệt giữa minh triết phương Đơng và triết học phương Tây.

CHƯƠNG 3
KHƠNG AI TẮM HAI LẦN TRÊN CÙNG MỘT DỊNG SƠNG VÀ GIÁO LÝ
VƠ THƯỜNG TRONG PHẬT GIÁO
3.1. Không ai tắm hai lần trên cùng một dịng sơng
Triết học cổ đại là một trong những mơn học có tính nghiên cứu về thế giới tự nhiên,
con người và những thay đổi của vạn vật và các quy luật tất yếu của nó. Đã có rất
nhiều triết gia cổ đại lừng danh như: Thales, Empedocles, Pythagoras, Parmenides…
trong nền triết học cổ đại phương tây. Triết gia Heraclitus là một trong số những nhà
triết học cổ đại phương Tây đó. Ơng đã rất thành cơng trong việc nghiên cứu triết học
trong phạm vi vũ trụ. Trong bài viết này, tác giả bài viết xin được bình giải về một
trong số những câu nói nổi tiếng của Heraclitus: “Khơng ai tắm hai lần trên cùng một

dịng sơng.” Câu nói ngắn ngủi này nhưng ẩn chứa biết bao tư tưởng sâu sắc đã khiến
nhiều nhà bình luận tốn khơng biết bao nhiêu thời gian, sức lực, giấy mực để suy tư và
bình phẩm.Triết gia thời cổ đại Heraclitus sinh ra vào khoảng năm 535, mất vào
khoảng năm 475 trước Cơng ngun. Ơng là một trong số những triết gia nổi tiếng
thuộc trường phái tiền Socratic. Trường phái triết học này nghiên cứu những yếu tố và
những biến chuyển của chúng về tự nhiên, con người và vạn vật. Heraclitus cho rằng
việc tích lũy kiến thức là việc dựa vào sự kết hiệp của nhiều yếu tố thông tin nhờ vào
các giác quan của con người. Không như Thales cho rằng nước là hình thái chính cấu
tạo nên thế giới, Heraclitus đã cho rằng lửa mới chính là hình thái quan trọng để tạo
nên thế giới. Ông cho rằng mọi sự đều thay đổi liên tục. Đối với lửa, tuy nó chuyển
động nhưng nó vẫn giữ đặc tính và hình thái của chính nó. Logos, ở đây được
Heraclitus gọi là thực tại bên trong của sự vật, cũng hoàn toàn không thay đổi.
Heraclitus cho rằng bản chất của vạn vật được tạo nên bởi các mâu thuẫn. Chúng chất
chứa trong chính chúng những tương phản để hợp nhất với nhau. Bởi đó, chúng ln
ln thay đổi.[1] Sự thay đổi này được Heraclitus cảm nhận qua trực giác bằng việc
cho rằng q trình thay đổi liên tục này ln được bảo trì cách trường tồn chứ khơng
thay đổi cách vơ trật tự. “Trong con người chúng ta sống và chết, tỉnh và mộng, trẻ và
già, trước và sau cũng đều là một, cái trước biến hóa trở thành cái sau.”[2]Heraclitus
cho rằng mọi thứ luôn ở trong trạng thái biến động, luôn thay đổi. Ơng cho rằng “sự
vận động liên tục chính là bản chất của thiên nhiên. Mọi vật đều vận động trong mọi


lúc, mọi nơi ngay cả trong bản thân sự vật và không bao giờ tồn tại vĩnh viễn.”[3]
Chúng thay đổi cả đặc tính và hình thức. Câu nói: “Khơng ai tắm hai lần trên một
dịng sơng.” được Heraclitus đưa ra bởi lập luận đó. Xét trên câu nói này, chúng ta
nhận ra có ba yếu tố được nhắc đến. Thứ nhất là yếu tố con người. Tiếp đó, yếu tố
dịng sông được diễn đạt cụ thể. Cuối cùng, một yếu tố tuy không được nhắc đến cách
rõ ràng, nhưng ta vẫn ngầm hiểu rằng nó vẫn có: yếu tố thời gian. Tư tưởng của
Heraclitus thuyết phục mọi người rằng tất cả vạn vật đều biến động và thay đổi. Vì
thế, ở đây các yếu tố con người, dịng sơng đều thay đổi, thậm chí kể cả yếu tố thời

gian cũng thay đổi.Thứ nhất, con người luôn luôn thay đổi từ thể lý, tâm lý, tình cảm
và ý thức hệ. Con người cũng được thụ hưởng nhiều yếu tố khác của xã hội để hồn
thiện mình. Do đó, con người được lớn lên từng ngày. Con người được sinh ra, được
nuôi dưỡng, được tiếp thu kiến thức, được hồn thiện mình trong từng ngày sống. Con
người được thay đổi từng ngày nhờ các nhu cầu của cuộc sống, từ việc ăn uống, học
tập, trao đổi kiến thức, cho đến sự thay đổi của tinh thần từ căng thẳng sang thoải mái
hoặc ngược lại. Mỗi giây phút, mỗi ngày sống, con người đều thay đổi. Có người thay
đổi theo hướng tích cực, có người thay đổi theo hướng tiêu cực. Có người từ yếu đuối
trở nên mạnh mẽ. Có người từ lạc quan trở nên bi quan. Con người chúng ta hoàn
thiện hơn nhờ vào cách chúng ta được trao dồi kiến thức học tập, học thêm ngoại ngữ,
đi đến nhiều vùng đất mới, mở mang tâm trí đầu óc, tiếp thu nhiều tinh hoa văn hóa
của nhân loại. Chính những kinh nghiệm ấy đã thay đổi chúng ta bằng cách này hay
cách khác. Mặc dù con người chúng ta thay đổi, từ xấu thành tốt, từ xấu xí trở nên đẹp
đẽ hay ngược lại thì chúng ta vẫn ln ln là chính chúng ta.Kế đến, dịng sơng cũng
ln tn chảy khơng ngừng. Đã được gọi là dịng sơng thì nó ln ln chảy. Nó
khơng bị hạn chế chỉ để đọng lại một chỗ. Một dòng chảy từ thượng nguồn đem theo
nhiều phù sa màu mỡ để bồi đắp cho biết bao nhiêu vùng đất chúng chảy qua. Bên
cạnh đó, chúng cũng đem theo biết bao ơ nhiễm cho hạ nguồn. Có ưu điểm thì cũng có
nhược điểm. Dịng sơng ở đây được xem như xã hội vậy. Dòng chảy của xã hội qua
mọi thời đại đều có những ưu điểm cần được giữ gìn, tiếp thu và phát huy, cũng có
đâu đó những điều nhuốm bẩn (nhược điểm) cần được gạn bỏ để dịng nước được trở
nên sạch trong mà ni dưỡng, bồi đắp phù sa cho vùng hạ nguồn. Cho dù dịng chảy
có liên tục chảy và mang theo nhiều điều mới mẻ hay nhuốm bẩn cho dịng sơng đi
chăng nữa thì con sơng vẫn là chính nó. Tư tưởng của Heraclitus được nhắc đến một
lần nữa ở đây để chứng tỏ rằng cho dù con sông hay vạn vật có thay đổi liên tục
nhưng nó vẫn ln ln là chính nó.Ngồi ra, thời gian cũng là một phạm trù cần đề
cập đến trong câu nói của Heraclitus. Cho dù một giây có trơi qua cách vơ ích, ta cũng
sẽ khơng bao giờ lấy lại được nó một lần nữa để làm cho nó trở nên có ích. Thời gian
một khi đã trơi qua thì sẽ khơng bao giờ trở lại được. Nó cũng là một yếu tố ln biến
đổi. Thời gian có thể được hiểu là thời đại, thế giới hiện tại hay xu hướng thế giới.

Thời gian đưa con người và xã hội vào vịng xoay của nó. Tại đó, thời gian đem đến
cho chúng ta tất cả những biến chuyển của thời đại. Mỗi giây phút trôi qua, vạn vật sẽ
hoàn toàn thay đổi. Xu hướng và xã hội thay đổi, con người cũng bị cuốn theo những
thay đổi đó, những cách sống, văn hóa, cách suy nghĩ, cách đối nhân xử thế cũng bị
thay đổi. Những thay đổi của thời đại dù tốt hay xấu thì đều ảnh hưởng đến chúng
ta.Như vậy, cả ba yếu tố con người, dịng sơng và thời gian đều thay đổi liên tục. Do
đó, một con người khơng thể tắm hai lần trong cùng một dịng sơng với cùng một thời
điểm được. Bởi chưng, con người và dịng sơng ở mỗi thời điểm đều khác nhau và


biến chuyển luôn luôn. Tại mỗi thời điểm, con người cũng liên tục thay đổi, dịng
sơng cũng hồn tồn thay đổi bởi dịng chảy của nó ln chuyển động.Thế nhưng,
điều này chỉ hợp lý khi đem nó phân tích dưới cái nhìn của triết học. Mặt khác, điều
này khơng đúng dưới cái nhìn về Thiên Chúa bởi Thiên Chúa hồn tồn khơng thay
đổi. Người là Alpha và Omega. Người vẫn mãi là một và hồn tồn khơng thay đổi.
“Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn
đời.”[4] (cf. Dt 13,8) Thánh nữ Têrêsa Chúa Giêsu, một nhà thần bí Dịng Cát Minh
cũng đã cảm nhận được điều đó: “Đừng để lịng bối rối, đừng sự hãi lo âu, phù vân sẽ
qua mau. Thiên Chúa không bao giờ thay đổi.”[5] Lời Chúa cũng vậy. Lời Chúa luôn
sống động trong từng thời điểm, bởi Lời Chúa luôn đánh động từng tâm tư mỗi người,
từng khía cạnh khác biệt của cuộc sống trong từng thời điểm khác nhau. Lời Chúa ta
suy niệm hôm nay thì sẽ ln ln khác biệt so với những ngày khác. Lời Chúa đánh
động và ghi vào trái tim ta mỗi giây phút mỗi khác, thế nhưng Lời Chúa vẫn luôn là
một, là Lời Hằng Sống để nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của ta.Sau khi bình luận
câu nói trên của Heraclitus, tơi tự thấy mình với tư cách là một Tu sĩ Dịng Cát Minh
cũng phải tự mình biến đổi để được kết hiệp mật thiết với Đức Kitô. Tôi cũng được
mời gọi để thay đổi từng ngày sống, thay đổi những điều chưa tốt, chưa đẹp để đời
sống được trở nên hồn thiện hơn. Hành trình đào tạo trong Dịng Cát Minh là tiến
trình của sự biến đổi từng ngày trong cuộc sống để bước theo Đức Kitô với một con
tim tinh tuyền và một lương tâm ngay thẳng.[6] Bên cạnh đó, cuộc sống với nhiều ảnh

hưởng bởi yếu tố của môi trường và xã hội, tôi cũng được mời gọi chắt lọc những biến
chuyển hay, phù hợp và có ích với tơi để giúp tơi hồn thiện mình trong từng ngày
sống. Bởi cuộc sống là chuỗi những ngày tháng trôi đi, tôi cũng từng ngày biến đổi,
lớn lên không chỉ nhờ các yếu tố vật chất nhưng đời sống tinh thần cũng phải được
lớn lên và thăng tiến.Nói tóm lại, triết gia Heraclitus đã trao tặng cho chúng ta một tư
tưởng triết học mà trong tư tưởng triết học đó mỗi người chúng ta có cảm nhận hồn
tồn khác nhau khi đặt mình vào nhiều phương diện khác nhau. Tính am tường các
triết lý về vũ trụ và vạn vật làm cho ta được trở nên nhạy bén hơn với cách thức suy
nghĩ cũng như giúp chúng ta gần gũi với thiên nhiên và hiểu về nó nhiều hơn. Hiểu về
thiên nhiên tức là hiểu về vũ trụ và các yếu tố của chúng. Hiểu am tường về quy luật
của tự nhiên là hiểu về nơi mà ta được sinh ra và nơi ta sống để trí khơn ta được tỏ
tường hơn những điều kỳ bí khó giải thích được bằng ngơn từ.
3.2.Giáo lý vơ thường
Ngun lý có cùng nguồn gốc của Heraclitus “tất cả là một dòng chảy mạnh” (IIanta
Pei) nghĩa là tất cả sự vật đều thay đổi trong trạng thái tương xứng, lời phát biểu này
liên quan đến thế giới hiện tượng, thừa nhận sự chứng thực phong phú từ các nhà
nghiên cứu khoa học hiện đại. Lời bình luận sắc bén về nguyên lý này do Giáo sư
Rhys Davids trình bày, một trong những tác phẩm nổi tiếng được xuất bản gần đây
của ông.Theo Phật giáo, những học giả kỳ cựu cho rằng “Khơng có sự tồn tại mà chỉ
có sự xứng hợp duy nhất, mỗi trạng thái riêng biệt của chúng sinh không xảy ra cùng
một lúc mà sinh diệt tương tục”.
a.Sát-na vơ thường :Trong thời đại hiện nay khơng có nhà khoa học nào nghi ngờ về
phép tắc của những vấn đề không thể phá hủy được để bảo tồn năng lượng trong thế
giới vật chất. Đạo Phật thừa nhận rằng, tác dụng của những quy luật này trong thế giới
thực thể như những bản kinh của Sarvāstivavādins, vì nó duy trì tính bất diệt trong
trạng thái bản thể của các pháp suốt ba thời kỳ: Quá khứ, hiện tại và vị lai. Trong kinh


Pháp Hoa nói, “các pháp vốn như vậy”.[7] Thật vậy, theo Phật giáo, tất cả sự vật
khơng có điểm khởi đầu cũng khơng có điểm kết thúc. Chúng ta khó nhận biết được:

“Một vật phát xuất từ cái không hoặc cái khơng phát xuất từ một vật nào đó và điều
khơng thể xảy ra nếu có một vật tồn tại thì khơng thay đổi”. Trong kinh Pháp Cú (bản
kinh Pāli) nói: “Trong bầu trời khơng có biển cả mênh mơng, khơng có hang động núi
lớn, một nơi như thế khơng thể có sự sống, nơi mà con người có thể trú ẩn và khơng ai
có thể vượt qua sự chế ngự bởi cái chết”. Bởi vì sinh và tử là hai phạm trù đối lập
hoàn toàn, tử là sự thay đổi đột ngột và thậm chí làm xáo động tinh thần của người
chết cũng như những người đang hiện hữu trong cuộc sống hiện tại, sự thay đổi này
tùy thuộc vào sinh, lão, bệnh… Theo Phật giáo, đây là một trong những nỗi thống khổ
nhất của con người mà trong kinh điển thường đề cập đến. Bằng ngôn ngữ chuyên
môn trong Triết lý Phật giáo, đó là sự thay đổi liên quan đến cái chết ngụ ý sự vô
thường của vạn vật. Mặc khác, ý nghĩa về sát-na vô thường biểu thị sự khác nhau giữa
trạng thái sinh và trạng thái tử, giữa sự vật vô tri và vô giác… Trong Luận giải
Madhyātānugam [8] về giáo lý Duy Thức, ngài Vơ Trước (Asaṅga) đã nói: “Tất cả
vạn vật được phát sinh ra do nhiều nguyên nhân hợp lại thành, không có vật nào mà tự
nó tạo nên, khi sự kết hợp bị tan rã thì sự hủy diệt theo sau”. Như cơ thể con người
bao gồm bốn yếu tố (tứ đại): đất, nước, gió, lửa; khi tứ đại hợp thành thì ngấm ngầm
sự hủy diệt bên trong. Đó gọi là sự vô thường của một thực thể sinh diệt.
b.Sinh diệt vơ thường:Là sự vơ thường nhanh chóng trong từng ý niệm, nó thay đổi
hồn tồn, cái mà xảy ra bên trong bất cứ một chúng sinh nào hay một sự vật nào,
ngồi sự tập hợp của các pháp thì xuất hiện sự sinh diệt ngay lúc đó. Như vậy, mỗi
người, mỗi vật luôn luôn thay đổi và không bao giờ giống nhau, vì hai sự kiện hoạt
động tiếp nối nhau. Trong Triết học Phật giáo gọi là “sinh diệt vô thường”, nguyên lý
này được giải thích theo quan điểm Phật giáo là bất cứ sự thay đổi nào của vạn vật đều
sinh diệt không ngừng trong từng khoảnh khắc.Theo Bách khoa Triết học của Phật
giáo Tiểu thừa mang tựa đề A-tỳ-đạt-ma Đại Tỳ-bà sa Luận”
(Abhidharmamahāvibhāṣāśāstra) bản gốc Sanskrit bị thất lạc, chỉ còn bản dịch tiếng
Hán của ngài Huyền Trang, trong đó nói rằng: một ngày 24 giờ có
6.499.99.980.000.000 sát-na (kṣaṇas); tập hợp năm uẩn (skandhas) sinh diệt trong
từng sát-na. Ngài Phật Âm (Buddhaghaṣa)[9], người khuếch trương một luận điểm nổi
tiếng về Phật giáo Sri Lanka vào đầu thế kỷ thứ V sau CN, đó là tác phẩm Thanh Tịnh

Đạo (p: visuddhi-magga). Quả thật, sự sống của một chúng sinh vô cùng ngắn ngủi
tương ứng với con người trong giai đoạn cuối cùng của một cuộc đời, ví như bánh xe
ngựa đang quay vòng tại một điểm của lốp xe và chỉ một điểm mà thôi. Ngay cả cuộc
sống của một chúng sinh cũng vậy chỉ kéo dài trong giai đoạn rất ngắn trong một ý
niệm và khi ý niệm đó dừng lại thì sự sống cũng dừng lại. Như vậy, chúng sinh trong
quá khứ đã sống mà không sống.Năng lượng chuyển động của các sự vật do yếu tố
nào mà thay đổi? Chúng ta thấy xe ngựa có khả năng di chuyển, nhưng nó khơng di
chuyển nếu khơng có chủ ý trong sự chuyển động bởi năng lượng bên ngồi nào đó.
Giống như cối xay nước quay được là nhờ năng lượng của nước, và quạt gió tùy thuộc
vào sức đẩy của gió mới có thể quay được. Trái đất cũng vậy, cần phải có sức hút của
mặt trời để quay quanh trục của nó. Quả thật, tất cả vạn vật cần phải có một loại năng
lượng chuyển động nào đó, để thay đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác. Chúng
ta biết rằng, vũ khí khơng thể hoại diệt chính nó và ngón tay khơng thể chỉ ra chính
nó. Rồi chúng ta có thể hỏi cái gì là năng lượng làm cho tất cả sự vật thay đổi? Khi trả


lời câu hỏi này, ngài đã đề cập đến sinh, trụ, dị, diệt (utpāda, sthiti, janā, nirodha).
Ngài nói, đây là bốn đặc tính hợp thành các sự vật; và ngài đã thêm vào quyền sở hữu
của bốn đặc tính này thì tất cả vạn vật trải qua sự biến cải và lệ thuộc vào sự lập lại
chính nó trong sự xoay vịng khơng có điểm dừng lại.
c. Tự tánh vơ thường (tánh không):Tự tánh vô thường là sự thay đổi tương tục của các
hiện tượng trong vũ trụ, bao hàm sự sinh diệt vô thường. Đây là một khấu trừ hợp lý
đơn giản, một sự phân tích kỹ lưỡng về học thuyết vô thường, sự tồn tại của các hiện
tượng trong việc phối hợp thời gian tạo nên bề rộng về học thuyết Tánh không
(Śūnyatā) đã đưa ra một cách không tương xứng. Nhận biết rằng, mỗi chúng sinh sẽ
chết đi là một quy luật tất yếu, nhưng không dễ để cảm nhận rằng tất cả chúng sinh
đang kề cận cái chết như ngày và đêm trôi qua hoặc là nó đang biến chuyển liên tục
trong từng sátna. Đối với tâm uế trược, đó là một vấn đề hết sức phức tạp để nắm giữ
trạng thái của con người hay bất cứ sự vật nào mà chính nó là vơ thường. Theo ngôn
ngữ chuyên môn của Triết học Phật giáo, đối với ý niệm bên ngồi thì tự tánh dun

khởi của các pháp là Tánh không (Śūnyatā). Quả thật, đây là sự kết thúc cuối cùng, là
kết luận chính đáng và phải lẽ được rút từ nguyên lý đầu tiên của đạo Phật, đó là “Tất
cả là vơ thường”. Khi nhận thức đúng đắn về kết luận này thì dễ dàng thực hiện quan
niệm về ý nghĩa chân thật của Tánh khơng (Śūnyatā) có thể mang nhiều ý nghĩa khác
nhau trong triết lý Phật giáo. Nó đã tỏ ra như mộtcạm bẫy thực sự đối với các nhà phê
bình Phật giáo Châu Âu và Châu Á. Hầu như các cây bút Phật giáo phương Tây cho
rằng Tánh không (Śūnyatā) đồng nghĩa với hư vô hay là sự hủy diệt. Nhưng đối với
Phật giáo, ý nghĩa về Tánh không mang bản chất khác xa với sự nhận thức. Tác giả
hiểu về nó với ý nghĩa “mọi vật xuất hiện đều thay đổi liên tục từng bước trong thế
giới hiện tượng”. Theo sự lý giải của Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva) qua bản dịch
Trung luận[10] của Bồ-tát Long Thọ nói: “Tầm quan trọng của tánh không (śūnyatā)
là mọi vật trở nên hợp lý, nếu không có nó thì vạn vật trong vũ trụ sẽ rỗng khơng”.
[8]8 Hơn nữa, đó là chân lý vơ thường mà tính chất của tất cả sự vật tùy thuộc vào khả
năng của nó. Nếu mọi vật khơng lệ thuộc vào sự thay đổi liên tục mà là thường hằng
và nếu khơng thể thay đổi thì tức khắc phát sinh ra dòng chảy con người và sự phát
triển sinh vật sống sẽ dẫn đến ngừng hoạt động. Nếu con người không bao giờ chết mà
luôn tiếp tục trong cùng trạng thái như vậy, kết quả sẽ được gì?Tiến trình về dịng
chảy con người sẽ ngừng mãi mãi. Bài bình luận “Nét phát họa về Phật giáo Đại thừa”
là tài liệu mà mỗi nghiên cứu sinh Triết học nên có trong tay, Giáo sư Tiến sĩ Suzuki,
một Triết gia uyên bác, người đồng hương với tơi trình bày chi tiết về ý niệm Tánh
không-Śūnyatā trong phong cách của một bậc Thầy lỗi lạc. Tánh không mang nghĩa
hạn chế về sự tồn tại của mọi hiện tượng, nó đồng nghĩa với vơ ngã (anitya) hay
dun (pratīya). Vì thế, Tánh khơng có nghĩa là phủ định, sự khiếm diện của tính cá
biệt, sự khơng tồn tại của những cá nhân như là trạng thái đang thay đổi một cách xác
thực của thế giới hiện tượng, một dòng chảy liên tục, một mạch nối tiếp diễn của
ngun nhân và kết quả. Nó khơng bao giờ được hiểu trong ý thức của sự hủy diệt hay
hư vô tuyệt đối.
d. Nhận thức về luật vô thường của vũ trụ :Thực tế, nguyên lý vô thường trong vũ trụ
không đề cập đến thế giới thực thể mà chỉ đề cập đến thế giới hiện tượng. Sự giải
thích về nguyên lý này đã được trích dẫn ở trên, giải thích có khuynh hướng phủ định

hay hủy diệt hơn là hướng đến giải thích tuyệt đối. Đây là điểm quan trọng, khơng nên
để mất tầm nhìn của các nhà nghiên cứu kinh điển Phật giáo. Nhưng tại sao nó được


phép thỉnh mời ngay chính đức Phật xác định thế giới hiện tượng một cách tiêu cực?
Câu trả lời trở nên dễ dàng khi chúng ta nói đến sự phản chiếu, vì mục tiêu của đức
Phật khơng dựa trên trường phái Triết học mà vạch ra con đường chứng đắc và cứu
vớt chúng sinh. Thật vậy, nỗ lực tinh tấn là điều kiện cẩn thiết của các vị đệ tử vào
thời đức Phật còn tại thế. Thế giới hiện tượng luôn đè nặng lên họ với sức áp bức của
cơn ác mộng khủng khiếp và khó khăn về sự tranh đấu vì cuộc sống trong ngọn lửa
thiêu đốt. Vì thế, bằng sự giải thích tiêu cực về thế giới hiện tượng, mục đích chính
của đức Phật dường như để dẫn đạo sinh linh từ những cơn bão tố và những cơn sóng
dữ của đại dương để duy trì yếu tính bản thể, Niết-bàn tịch tịnh. Mặc dù như vậy,
nhưng bài bình luận tiêu cực về ngun lý vơ thường thì khơng thể khơng có thuận lợi
riêng của nó, “nó như vậy, nhưng không phải như vậy”, sự phủ định ấy đáp ứng như
một sự chỉ dẫn tuyệt đối.Như vậy, từ ngun lý vơ thường có thể tạo ra ngun lý
thường hằng là niết-bàn tịch tịnh. Hơn nữa, trước khi ứng dụng ba nguyên lý này,
chúng ta đã diễn bày như một nền tảng căn bản của đạo Phật đối với hiện tượng và thế
giới bản thể một cách tương ứng. Chúng ta xác minh rằng nguyên lý vô thường liên
quan đến thế giới hiện tượng một cách riêng biệt; còn ngun lý vơ ngã thì có mối
quan hệ cả ngun lý vô thường lẫn thế giới hiện tượng; và nguyên lý Niếtbàn tịch
tịnh chỉ tùy thuộc vào thế giới bản thể.

C. KẾT LUẬN


“Khơng ai tắm hai lần trên một dịng sơng” là câu nói của triết gia Hy Lạp cổ đại
Heraclitus với hàm ý rằng vạn vật trên thế giới luôn luôn vận động và khơng ngừng
thay đổi, khơng có thứ gì tồn tại lâu hơn một khoảnh khắc.Tư tưởng này có vẻ dễ hiểu.
Giả sử, ở lần tắm thứ nhất, có một đám bèo lục bình nổi trên mặt nước ở vị trí A, thì

đến lần tắm thứ 2, đám bèo đó có thể trơi đến vị trí B. Đó là chưa kể đến khả năng,
giữa hai lần tắm, bờ sông có thể bị sạc lở hoặc bồi đắp thêm do tác động của nước. Và
hàm ý của Heraclitus là, dòng sơng ở lần tắm thứ nhất và dịng sơng ở lần tắm thứ hai
là hai dịng sơng khác nhau. Theo Phật giáo, những học giả kỳ cựu cho rằng “Khơng
có sự tồn tại mà chỉ có sự xứng hợp duy nhất, mỗi trạng thái riêng biệt của chúng sinh
không xảy ra cùng một lúc mà sinh diệt tương tục”. Tất cả các pháp bao gồm con
người, sự vật… chúng ta tìm thấy hình thái và đặc tính riêng biệt của chúng để cấu
thành một vật thể. Hơn nữa, trong mỗi cá nhân khơng có sự tương phản về mối liên
quan của vạn vật, các yếu tố hợp thành nó là sự thay đổi thường hằng và không bao
giờ giống nhau, vì hai sự vật sinh diệt tiếp liền nhau. Sự sắp xếp các yếu tố tương
xứng nhau, nghĩa là tương xứng mà khác biệt và khác biệt tương xứng có thể xảy ra
mà khơng có sự hủy diệt, sự xa lìa, điều mà khơng thể tránh được ở vài thời điểm hoặc
một lúc nào đó có thể hồn thành được. Vì sự vật biến chuyển khơng ngừng cho nên
sự vật khơng duy trì được tính cách đồng nhất tuyệt đối của nó. Vơ thường vì vậy là
một tên khác của vô ngã. Đứng về mặt thời gian, sự vật là vô thường, đứng về mặt
không gian, sự vật là vô ngã. Vơ thường cũng có nghĩa là vơ tướng (cịn gọi là Khơng)
vì thực tại của vạn hữu thốt ra ngồi mọi khái niệm và ngơn từ. Vơ thường cũng là
Duyên khởi, vạn vật do nhân duyên nương vào nhau mà sinh khởi và tồn tại. Kinh Tạp
A-hàm ghi: “Sắc là vô thường. Nhân và duyên sinh ra các sắc cũng vô thường. Vậy,
các sắc được sinh từ nhân và dun vơ thường, làm sao có thể là thường được?”. Hơn
nữa, “Sắc không phải là ngã. Nếu sắc là ngã, không nên ở nơi sắc mà bệnh, khổ sinh
và cũng khơng thể có ước muốn khiến như vậy hay khơng như vậy đối với sắc. Vì sắc
là vơ ngã cho nên ở nơi sắc có bệnh, khổ sinh và nó cũng có ước muốn khiến như vậy,
hay khơng như vậy đối với sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy”.Hiểu thấu
vơ thường là có trí tuệ biết tới chỗ cốt lõi bên trong của vạn hữu, gọi là vô ngã trí. Nói
vơ ngã là nói về khơng gian của một hiện tượng, nói vơ thường là nói về thời gian của
một hiện tượng. Hiểu thấu tính vơ thường biến động trong vạn vật thì ta hết u mê bám
víu. Ta đạt được đức Thường của Niết-bàn (Thường, Lạc, Ngã, Tịnh) thì ta có phân
biệt tốt xấu ngon dở nhưng khơng bị dính mắc vào cảm giác, vì ta có trí tuệ biết rằng
nó là vơ thường biến đổi, khơng nắm giữ bởi thói quen một chiều tham đắm, địi

hỏi.Qn chiếu về thực tướng vô thường của cuộc đời để nhận thức được rằng tất cả
mọi sự vật đều có ngày phải tàn hoại, tan rã. Do đó giúp cho ta biết quý trọng từng giờ
phút của sự sống, biết sống trong tỉnh thức, chính niệm.Như đã nói, ngun nhân của
khổ là sự vật vô thường mà chúng ta tưởng là thường. Trong kinh Đại bảo tích có kể
câu chuyện con chó bị ném cục đá, nó chạy theo cục đá mà sủa, vì tưởng cục đá là
nguyên do làm nó đau. Con chó đâu biết rằng nguyên nhân làm nó đau là người ném
cục đá. Cũng vậy, vơ thường khơng gây ra khổ, mà chính vì nhận thức sai lầm cho
những gì vơ thường là thường tại cho nên ta khổ.Quán vô thường là một việc làm vô
cùng quan trọng. Bởi vì, thứ nhất, nó cho chúng ta biết những gì đang có trong giờ
phút hiện tại là vơ cùng quý giá và đẹp đẽ, chúng ta phải trân trọng, giữ gìn cho ta và
cho những người xung quanh ta. Thứ hai, khi thấy tình trạng hiện tại khơng được như
ý thì chúng ta cũng khơng chán nản. Sự vật vô thường, nên cho ta niềm tin mọi việc


đều có thể thay đổi. Nếu chúng ta biết cách chuyển hóa thì ngày mai tình trạng sẽ thay
đổi. Một em học sinh ngang ngạnh, ta tin rằng có thể giáo dục em trở thành người tốt.
Nhưng một em học sinh ngoan, nếu khơng thường xun chăm sóc, giữ gìn thì cái dễ
thương của em sẽ mất. Đó là bài học vơ cùng giá trị từ vơ thường.

CHÚ THÍCH
[1] John Shand, Philosophy and Philosophers – An Introduction to the Western
Philosophy (London: UCL Press, 1993), 9-10.
[2] Hà Thúc Minh, dịch, Triết Học Cổ Đại Hy Lạp La Mã (Việt Nam: Nhà xuất bản
Mũi Cà Mau, 1998), 137.
[3] Trần Nhu, chủ biên, Từ Các Triết Gia Tự Nhiên Đến Karl Marx (Việt Nam: Nhà
xuất bản Đại Học Quốc Gia Tp. HCM, 1995), 20.
[4] cf. Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Lời Chúa Cho Mọi Người (Việt
Nam: Nhà xuất bản Tôn giáo, 2012), 2124.
[5] Teresa Avila, Nada te turbe (Tây Ban Nha: Thế kỷ 16).
[6] cf. Ratio Institutionis Vitae Carmelitae (RIVC), Carmelite Formation – A Journey

of Transformation (Rome: The Order of the Brothers of the Blessed Virgin Mary of
Mount Carmel, 1995).
[7 Tam pháp ấn; s: tri-dharma-mudrā; e: three seals of the dharma.
[8] Heraclitus (Ἡράκλειτος – Herákleitos (544 TCN – 483 TCN): là nhà triết học duy
vật và được coi là ông tổ của phép biện chứng. Những tư tưởng biện chứng của ông
rất sâu sắc. Cách thức thể hiện lại rất phức tạp và khó hiểu, vì vậy ơng thường được
gọi là nhà triết học tối nghĩa. Hiện nay, tài liệu của ơng chỉ cịn khoảng 130 đoạn bàn
về tự nhiên.
[9] Giả danh, danh ngơn tập khí (s: upacāra).
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1-Nguyễn Hữu Trọng, Các Vấn Đề Triết Học, Viện ĐH Huế, 1962.
2-Nguyễn Tiến Dũng, Lịch Sử Triết Học Phương Tây, nxb, Tổng Hợp TP.HCM, 2006.
3-Hà Thúc Minh-Minh Chi. Đại Cương Triết Học Phương Đông. Trường
ĐHTHTPHCM. 1994.
4-Nguyễn Ngọc Thu – Bùi Văn Mưa, Giáo Trình Đại Cương Lịch Sử Triết Học, nxb,
Tổng Hợp TP.HCM, 2002.
5-Bộ GD – ĐT, Triết Học, nxb, CTQG, 1999.
6-Phạm Minh Lăng, Mấy Trào Lưu Triết Học Phương Tây, nxb, ĐH và TH Công
Nghệ, 1984.
7-Hà Thiên Sơn, Lịch Sử Triết Học, nxb, Trẻ, 2004.
8-Trần Thái Định, Triết Học Descartes, nxb VH, 2005.
9-SC. TN Hương Nhũ, Tài Liệu Tham Khảo tai HV TP. HCM, 2008.
10-Platon. Biện minh cho Socrate, Tuyển tập, t.1. M.1982
11- William S.Sahakan, MabelL, Sahakan, Lâm Thiện Thanh, Lâm Duy Châu


biên dịch, Triết Gia Vĩ Đại, nxb Tp. HCM
13-Phạm Kim Khánh dịch, Đức Phật và Phật Pháp, nxb. Tôn Giáo, 1998.
14- Will Durant, Câu chuyện Triết Học, nxb. QNĐN, 1994.




×