Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

LV ths pháp luật về trợ giúp xã hội và thực tiễn thi hành tại huyện kim bôi, tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.1 KB, 68 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI VÀ PHÁP LUẬT VỀ
TRỢ GIÚP XÃ HỘI

10

1.1. Khái niệm trợ giúp xã hội

10

1.2. Khái niệm pháp luật trợ giúp xã hội

14

1.3. Nội dung pháp luật trợ giúp xã hội

19

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực hiện pháp luật về trợ giúp
xã hội
Chương 2:

21
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI VÀ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI HUYỆN KIM BƠI, TỈNH
HỊA BÌNH



25

2.1. Thực trạng pháp luật về trợ giúp xã hội

25

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội tại huyện Kim
Bơi, tỉnh Hịa Bình
Chương 3:

39

KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP
XÃ HỘI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI TỪ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI HUYỆN KIM BƠI, TỈNH
HỊA BÌNH

62

3.1. Định hướng hồn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội

46

3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội

52

3.3. Một số giải pháp với huyện Kim Bôi, tỉnh Hịa Bình


58

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

60


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ASXH

: An sinh xã hội

TGXH

: Trợ giúp xã hội


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là một đất nước trải qua nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, lại bị
ảnh hưởng của thiên tai và biến đổi khí hậu; đang trong q trình cơng nghiệp
hóa, đơ thị hóa nhanh nên hiện nay số người cần trợ giúp xã hội (TGXH) của
Việt Nam rất lớn, chiếm hơn 20% dân số cả nước. Trong đó có khoảng 9,2
triệu người cao tuổi, 7,2 triệu người khuyết tật, 1,5 triệu trẻ em có hồn cảnh
đặc biệt, gần 5% hộ nghèo, 1,8 triệu hộ gia đình cần được trợ giúp đột xuất
hàng năm do thiên tai, hỏa hoạn, mất mùa, 234 nghìn người nhiễm HIV được

phát hiện, 204 nghìn người nghiện ma tuý, khoảng 30 nghìn nạn nhân bị bạo
lực, bạo hành trong gia đình; ngồi ra, cịn nhiều phụ nữ, trẻ em bị ngược đãi,
bị buôn bán, bị xâm hại hoặc lang thang kiếm sống trên đường phố.
Giai đoạn 2011-2015, kinh tế đất nước có khó khăn, thách thức, song
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều giải pháp để bảo đảm an sinh xã hội
(ASXH), trong đó có lĩnh vực TGXH tiếp tục là điểm sáng. Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI xác định: "Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo, cải
thiện điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân".
Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung
ương khóa XI về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 cũng
nhấn mạnh: "Nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội, tiếp tục mở rộng đối
tượng thụ hưởng với hình thức hỗ trợ thích hợp; nâng dần mức trợ cấp xã hội
thường xuyên phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước. Xây dựng mức sống
tối thiểu phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội làm căn cứ xác định người
thuộc diện được hưởng trợ giúp xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách trợ
giúp xã hội. Củng cố, nâng cấp hệ thống cơ sở trợ giúp xã hội, phát triển mơ
hình chăm sóc người có hồn cảnh đặc biệt tại cộng đồng, khuyến khích sự


2

tham gia của khu vực tư nhân vào triển khai các mơ hình chăm sóc người cao
tuổi, trẻ em mồ cơi, người khuyết tật, nhất là mơ hình nhà dưỡng lão".
Nhà nước ta đã xây dựng được hệ thống văn bản pháp luật, chính sách
tạo cơ sở pháp lý cho thực hiện tốt chính sách TGXH. Đến nay, đã có trên
10 Bộ luật, luật; 7 Pháp lệnh và hơn 30 Nghị định, Quyết định của Chính phủ;
hơn 40 Thơng tư, thơng tư liên tịch và nhiều văn bản có nội dung liên quan
quy định khn khổ pháp luật, chính sách TGXH. Trong đó có những văn bản
quan trọng như Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật, Luật Trẻ em, Luật

Phịng chống bạo lực gia đình, Luật Phịng chống bn bán người, Luật Bảo
hiểm xã hội, Nghị định số 67/2007/NĐ-CP, Nghị định số 13/2010/NĐ-CP,
Nghị định số 136/2013/NĐ-CP quy định chính sách TGXH đối với đối tượng
bảo trợ xã hội…
Điều 25 Hiến chương Liên hợp quốc năm 1948 chỉ rõ: "Mọi người
dân và hộ gia đình đều có quyền có một mức tối thiểu về sức khỏe và các
phúc lợi xã hội bao gồm: ăn, mặc, chăm sóc y tế (gồm cả thai sản), dịch vụ xã
hội thiết yếu và có quyền được an sinh khi có các biến cố về việc làm, ốm
đau, tàn tật, góa phụ, tuổi già... hoặc các trường hợp bất khả kháng khác".
Như vậy, việc bảo đảm quyền được an sinh xã hội cho người dân là yêu cầu,
điều kiện cần thiết của sự ổn định, phát triển của mọi quốc gia, trong đó có
Việt Nam.
Cùng với những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội, với đặc thù là
một tỉnh miền núi, tỉnh Hịa Bình ln quan tâm và thực hiện tốt các chính
sách về an ASXH, trong đó có chế độ TGXH. Chăm lo ASXH, đầu tư các
nguồn lực nhằm giải quyết các vấn đề ASXH vì sự phát triển của người dân là
chủ trương nhất quán của Đảng bộ tỉnh. Vì vậy, trong suốt những năm qua,
Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể ở tỉnh đã có nhiều nỗ
lực trong việc thực hiện chính sách chăm lo ASXH nói chung và TGXH nói
riêng, chăm lo cải thiện không ngừng cuộc sống của người dân.


3

Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu, song công tác bảo đảm các chính
sách TGXH ở Hịa Bình vẫn cịn những hạn chế, bất cập. Là tỉnh có nhiều
đồng bào dân tộc chung sống, cịn nhiều khó khăn về kinh tế nên số người
hưởng các chính sách xã hội khá lớn, đây thực sự là gánh nặng cho ngân sách.
Chênh lệch giàu - nghèo về thu nhập và tiếp cận các dịch vụ xã hội giữa các
vùng, nhóm dân cư trong tỉnh có xu hướng gia tăng, nhất là giữa khu vực

trung tâm và vùng sâu, xa.
Huyện Kim Bôi đã thực hiện chủ trương gắn phát triển kinh tế với giải
quyết các vấn đề xã hội, chính sách ASXH, quan tâm nhân tố con người và đã
đạt được những kết quả tích cực: Trên lĩnh vực kinh tế: Tốc độ tăng trưởng
kinh tế bình qn của huyện Kim Bơi từ 2012 - 2016 đạt 12,5%. Đời sống của
nhân dân khơng ngừng được nâng lên, thu nhập bình qn đầu người của năm
2016 đạt: 16,551 triệuđồng/người, năm 2017: đạt 18,433 triệu đồng/người,
năm2018: đạt 22,495 triệu đồng/người. Tăng trưởng kinh tế có tầm quan
trọng hàng đầu, khơng chỉ để sớm đưa huyện Kim Bôi trở thành một trong
những huyện miền núi phát triển của tỉnh; mà còn làm tiền đề để thực hiện
nhiều mục tiêu xã hội. Trên lĩnh vực xã hội: Song song với những thành tựu
trên lĩnh vực kinh tế; tiến bộ và công bằng xã hội luôn được chú trọng trong
mối quan hệ với phát triển kinh tế, nhiều chính sách ASXH đậm tính nhân văn
được triển khai thực hiện và đạt kết quả tốt.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả khả quan nói trên, lĩnh vực kinh tế,
ASXH nói chung và TGXH nói riêng vẫn cịn những hạn chế, bất cập: dưới
tác động của q trình đơ thị hóa, các đối tượng dân cư bị thu hồi đất, phải
chuyển đổi nghề nghiệp, phải tái định cư do quá trình mở rộng và phát triển
kinh tế rất lớn, gây áp lực cho việc giải quyết việc làm, ổn định cuộc sống,
gây khó khăn cho cơng tác TGXH. Bên cạnh đó, vấn đề giáo dục, khám chữa
bệnh, chăm sóc y tế và các vấn đề xã hội khác cũng luôn gây áp lực.


4

Với quan điểm phát triển bền vững: "Kết hợp phát triển kinh tế với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên
nhiên, nâng cao chất lượng cuộc sống, giải quyết tốt các vấn đề ASXH", phấn
đấu xây dựng huyện Kim Bôi trở thành huyện thực hiện tốt chính sách ASXH;
việc khảo sát một cách khách quan thực trạng thực thi pháp luật về TGXH ở

huyện Kim Bôi hiện nay, trên cơ sở đó đưa ra những luận cứ khoa học nhằm
thực thi pháp luật về TGXH một cách có hiệu quả hơn là rất cần thiết.
Với thực tiễn nêu trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu: "Pháp luật về trợ
giúp xã hội và thực tiễn thi hành tại huyện Kim Bôi, tỉnh Hịa Bình" làm
luận văn thạc sỹ chun ngành Luật Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hoạt động TGXH có ý nghĩa thực tiễn vơ cùng to lớn đối với công
cuộc xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nhằm giải quyết mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, cơng bằng xã hội. Vì vậy, vấn đề này đã được
nhiều người quan tâm nghiên cứu. Trong số các cơng trình đã được cơng bố,
có thể kể tên một số cơng trình liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn là:
"Pháp luật an sinh xã hội - kinh nghiệm một số nước đối với Việt
Nam" của Trần Hoàng Hải, Lê Thị Thúy Hương đã làm rõ quan niệm và vai
trò của pháp luật ASXH của một số nước như Đức, Nga, Hoa Kỳ cũng như
khái quát khá đầy đủ hệ thống pháp luật ASXH của Việt Nam. Trên cơ sở đó,
các tác giả đã nhấn mạnh để hoàn thiện pháp luật ASXH của Việt Nam trong
tình hình mới cần phải xúc tiến xây dựng Bộ Luật ASXH và cải cách các Luật
Bảo hiểm xã hội và Luật Bảo hiểm y tế.
"Hệ thống an sinh xã hội của EU và bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam" của Đinh Cơng Tuấn đã phân tích tổng quan về hệ thống ASXH của
châu Âu cũng như làm rõ nhu cầu, thách thức trong việc cải cách hệ thống
ASXH của châu Âu, đồng thời, chỉ ra những thành công, hạn chế, những kinh
nghiệm trong đảm bảo ASXH thông qua: Hệ thống ASXH theo mơ hình "thị


5

trường xã hội" của Đức; hệ thống ASXH theo mô hình "xã hội dân chủ" của
Thuỵ Điển; hệ thống ASXH theo mơ hình "thị trường tự do" của Anh. Từ đó,
cung cấp nhiều luận cứ khoa học cho xây dựng và thực hiện chính sách

ASXH phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay.
"Chính sách và vai trị của nhà nước trong việc thực hiện chính sách
an sinh xã hội ở Việt Nam" của Nguyễn Văn Chiểu đã đề cập đến một số vấn
đề lý luận cơ bản chính sách ASXH và kinh nghiệm một số nước, thực trạng
thực thi chính sách ASXH ở Việt Nam trong gần 30 năm thực hiện đường lối
đổi mới, vai trò của nhà nước trong việc thực hiện chính sách ASXH ở Việt
Nam hiện nay, phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao vai trò
của nhà nước trong việc thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam. Với tư liệu
này, luận án đã kế thừa nội dung tính tất yếu, vai trò và yêu cầu đặt ra đối với
nhà nước trong việc thực hiện chính sách ASXH (tính tất yếu được thể hiện ở
các nội dung: bản chất, chức năng xã hội của nhà nước, khắc phục những hạn
chế của nền kinh tế thị trường, đảm bảo quyền cơ bản của con người, đáp ứng
yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế).
"Xây dựng và hồn thiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam" của
Mai Ngọc Cường Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009; Giáo trình
Luật Người khuyết tật năm 2011 của Trường đại học Luật Hà Nội do Nguyễn
Hữu Chí chủ biên: đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của chính sách ASXH
trong nền kinh tế thị trường; thực trạng hệ thống chính sách ASXH ở Việt
Nam hiện nay; phương hướng, giải pháp xây dựng và hồn thiện hệ thống
chính sách ASXH ở Việt Nam đến năm 2015. Cuốn sách đã chỉ rõ tác động
mặt trái của kinh tế thị trường: tình trạng phân hóa giàu nghèo, sự bất bình
đẳng trong thu nhập, nguy cơ thất nghiệp và bệnh tật, đói nghèo. Đồng thời
cũng nhấn mạnh vai trò của Đảng, Nhà nước trong việc ban hành và tổ chức
thực hiện các chủ trương, chính sách nhằm giải quyết các vấn đề xã hội nói
chung, ASXH nói riêng.


6

"Chính sách an sinh xã hội - thực trạng và giải pháp" của Lê Quốc Lý

đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về những trở ngại trong thực thi chính
sách ASXH; những trở ngại trong thực thi chính sách ASXH ở Việt nam gần
đây thơng qua việc đánh giá nhóm cán bộ thực thi và đối tượng thụ hưởng
chính sách; trên cơ sở mục tiêu, quan điểm thực thi chính sách ASXH ở Việt
Nam đến năm 2020 cuốn sách đã nêu lên 5 nhóm giải pháp khắc phục những
trở ngại trong thực thi chính sách ASXH ở nước ta (thiết kế và thực thi chính
sách ASXH, xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, hoàn thiện bộ máy
thực thi chính sách ASXH, nâng cao nhận thức của đối tượng thụ hưởng về
chính sách ASXH).
- Luận án tiến sĩ Luật học "Hoàn thiện pháp luật về quyền của người
khuyết tật ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Nguyễn Thị Báo năm 2008;
- Luận văn thạc sỹ Luật học "Pháp luật về việc làm cho người khuyết
tật" của Hồ Thị Trâm năm 2013;
- Bài viết "Thực trạng an sinh xã hội ở Việt Nam và phương hướng
hoàn thiện" của Lê Thị Hồi Thu trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1
năm 2014;
- Bài viết "Một số bất cập trong áp dụng pháp luật về bảo trợ xã hội
đối với người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay" của Hoàng Kim Khuyên số 10
năm 2015. Những cơng trình nghiên cứu trên nhìn chung đã nghiên cứu cơ sở
lý luận và thực tiễn về hoạt động TGXH đối với người khuyết tật trên từng
khía cạnh và mức độ khác nhau.
- Bài viết: Chính sách trợ giúp xã hội cho người nghèo ở Việt Nam:
Thực trạng và giải pháp, ThS Nguyễn Văn Tuân, Tạp chí Khoa học xã hội
Việt Nam, số 7(92) - 2015. Bài viết đã trình bày, phân tích chính sách TGXH
cho người nghèo và đưa ra một số kiến nghị hồn thiện pháp luật, chính sách
TGXH với người nghèo.


7


Nhìn chung, những cơng trình nói trên thể hiện tính nghiêm túc trong
học thuật, đồng thời chỉ ra một cái nhìn tổng quan về chính quyền địa phương
nói chung và chính quyền cấp xã nói riêng. Tuy vậy, cơng trình nghiên cứu về
vấn đề TGXH một cách hệ thống và tồn diện thì vẫn cịn ít, nhất là thực tiễn
thực hiện trên địa bàn tỉnh Hịa Bình. Vì vậy, tác giả tiếp tục nghiên cứu đề tài
này, nhằm cung cấp một cái nhìn tồn diện hơn về TGXH và thực tiễn tại huyện
Kim Bơi, tỉnh Hịa Bình và đưa ra một số giải pháp hoàn thiện về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là xây dựng cơ sở lý luận về pháp
luật TGXH, dựa trên cơ sở lý luận đó để đánh giá về thực trạng các quy định
pháp luật hiện hành, thực tiễn thực hiện trên địa bàn huyện Kim Bôi, tỉnh Hịa
Bình và đưa ra được những giải pháp hồn thiện pháp luật về TGXH nhằm
đáp ứng được yêu cầu cấp thiết của thực tiễn về vấn đề bảo vệ, hỗ trợ và thực
hiện hóa quyền con người.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích như trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
- Đánh giá về những quan điểm hiện hành và từ đó xây dựng nội dung
khái quát về pháp luật TGXH.
- Đánh giá nội dung pháp luật về TGXH bao gồm những ưu nhược
điểm và hạn chế của các quy định của pháp luật hiện hành.
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật nhằm phát hiện những bất
cập, hạn chế cơ bản của các quy định pháp luật hiện hành.
- Đánh giá thực tiễn thực hiện và áp dụng pháp luật về TGXH trên địa
bàn huyện Kim Bơi, tỉnh Hịa Bình.
- Xây dựng các giải pháp hồn thiện các quy định pháp luật hiện hành
về TGXH. Những phương hướng này cần bám sát và thể hiện đúng chủ
trương chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật của Nhà nước
nhằm đảm bảo và hỗ trợ xã hội.



8

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống các quy định của pháp luật về vấn đề TGXH.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn được xác định giới hạn nghiên cứu như sau: Nghiên cứu các
hệ thống quy định pháp luật về TGXH ở Việt Nam và có so sánh với các quy
định pháp luật trước đó. Những nghiên cứu của luận văn hướng tới hệ thống
các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động TGXH.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được những nhiệm vụ nghiên cứu và mục đích nghiên
cứu, luận văn được tiếp cận theo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin trong việc giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu. Đối với từng nội dung cụ
thể, đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp thống kê,
phương pháp so sánh luật học và phương pháp lịch sử.
Các phương pháp cụ thể mà tác giả sử dụng để nghiên cứu đề tài bao
gồm: phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, so sánh, thống kê...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là cơng trình nghiên cứu có tính khái qt về nhận thức lý
luận về TGXH cũng như đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về trợ giúp
xã. Do đó luận văn sẽ góp phần bổ sung một số vấn đề khái quát về TGXH.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Một là, luận văn đóng góp những căn cứ khoa học cho việc tiếp tục
hoàn thiện pháp luật về TGXH ở Việt Nam.
Hai là, luận văn sẽ góp phần đóng góp vào hệ thống kiến thức pháp lý
để các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức công tác xã hội và người dân áp
dụng các quy định của pháp luật một cách hiệu quả.
Ba là, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu sau này.



9

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về trợ giúp xã hội và pháp luật về trợ giúp xã hội.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về trợ giúp xã hội và thực tiễn thực
hiện tại huyện Kim Bôi, tỉnh Hịa Bình.
Chương 3: Kiến nghị hồn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội và nâng
cao hiệu quả thực thi từ thực tiễn thực hiện tại huyện Kim Bôi, tỉnh Hịa Bình.


10

Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI
VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI
1.1. Khái niệm trợ giúp xã hội
Hiện nay, trong hệ thống pháp luật quốc tế vẫn chưa có một khái niệm
chuẩn về TGXH mà chỉ đề cập bằng cách tiếp cận thông qua những quyền cơ
bản của con người như trong Tuyên ngôn nhân quyền 1948, khuyến nghị 67
của tổ chức lao động quốc tế ILO năm 1944 về đảm bảo phương tiện sinh
sống, khuyến nghị 69 của tổ chức lao động quốc tế ILO năm 1944 về chăm
sóc y tế và cơng ước 102-1952 về quy phạm tối thiểu ASXH. Theo đó TGXH
được tiếp cận với các quyền tối thiểu của con người, đó là các quyền về ăn,
mặc, ở, về giáo dục, chăm sóc y tế, đảm bảo nhu cầu thiết yếu khi bị rủi ro, tai
nạn, tuổi già…Cho đến nay hầu hết các nước đều thống nhất cho rằng TGXH
là hình thức tương trợ cộng đồng đơn giản, phổ biến nhất và được thực hiện

bởi nhà nước, cộng đồng nhằm đảm bảo cuộc sống cho mọi thành viên trong
xã hội khi họ lâm vào tình trạng khó khăn, bất hạnh vì nhiều ngun nhân
khác nhau.
Ở Việt Nam, mặc dù TGXH đã được thực hiện từ rất lâu nhưng cho
đến nay vẫn chưa có một định nghĩa chính thức về TGXH trong các văn bản
pháp luật. Theo cách hiểu thông thường, cứu trợ là "giúp cho qua khỏi cơn
nguy khốn"1 hoặc "giúp cho khỏi cơn nghèo ngặt"2. TGXH gồm hai nhóm từ
ghép là "cứu tế xã hội" và "trợ giúp xã hội". Để hiểu rõ bản chất của TGXH
chúng ta bắt đầu đi từ khái niệm "cứu tế xã hội". Theo từ điển bách khoa toàn
thư Việt Nam, cụm từ "cứu tế xã hội" được định nghĩa là "sự trợ giúp bằng
tiền hoặc hiện vật có tính cấp thiết, "cấp cứu" ở mức độ cần thiết cho những
1

. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội.
. Nguyễn Như Ý, Sđd.

2


11

người lâm vào hồn cảnh bần cùng khơng có khả năng tự lo liệu cuộc sống
hàng ngày của bản thân và gia đình" 3. Cứu tế xã hội mang tính tức thời, tính
cấp cứu nhằm giúp cho đối tượng tạm thời thốt khỏi tình cảnh hiểm nghèo.
Đối tượng của cứu tế xã hội chủ yếu là những người với những nguyên nhân
rủi ro, bất hạnh khác nhau dẫn đến cuộc sống bị đe dọa nghiêm trọng, khơng
có sự cứu tế thì bản thân và gia đình có thể bị nguy hại đến cuộc sống, thậm
chí có thể dẫn đến cái chết (chết đói, chết rét…). Hình thức thực hiện cứu tế
xã hội rất phong phú và linh hoạt. Cứu tế có thể bằng tiền hoặc bằng hiện vật.
Trên thực tế, cứu tế xã hội thường được áp dụng đối với đối tượng bị thiệt hại

do thiên tai, hoặc tai họa bất thường khác, hoặc là những người cần được trợ
giúp trong một khoảng thời gian ngắn, giúp họ vượt qua tình trạng khó khăn
nguy kịch của cuộc sống.
Khác với cứu tế xã hội, TGXH vừa có tính tức thời, vừa có tính lâu
dài trong đó tính lâu dài là chủ yếu. TGXH là "giúp đỡ thêm bằng tiền hoặc
các điều kiện sinh sống thích hợp để đối tượng được trợ giúp có thể phát huy
khả năng tự lo liệu cuộc sống cho mình và gia đình sớm hịa nhập vào cộng
đồng"4. Hay trong một số cơng trình nghiên cứu, cho rằng TGXH là sự bảo
đảm và giúp đỡ của Nhà nước, sự hỗ trợ của nhân dân và cộng đồng quốc tế
về thu nhập và các điều kiện sinh sống bằng các biện pháp và hình thức khác
nhau đối với các đối tượng bị lâm vào cảnh rủi ro, bất hạnh, nghèo đói, thiệt
thịi, yếu thế hoặc hụt hẫng trong cuộc sống khi họ không đủ khả năng tự lo
được cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình"5. TGXH khơng có tính
"tức thời" "cấp cứu" bằng cứu tế xã hội. TGXH thường ổn định lâu dài và có
tính đến việc phát huy nội lực của bản thân đối tượng để vươn lên vượt hồn
cảnh, hịa nhập với cộng đồng.
3

. Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, Tập 1.
. Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, Tập 1.
5
. Mai Ngọc Cường (2009), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam, Nxb
chính trị quốc gia, Hà Nội.
4


12

Như vậy, dựa trên quan điểm của quốc tế nói chung và Việt Nam nói
riêng, TGXH có thể hiểu: Trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước, xã hội

và cộng đồng bằng những biện pháp và các hình thức khác nhau đối với các
đối tượng bị lâm vào hồn cảnh rủi ro, bất hạnh, nghèo đói…vì những
ngun nhân khác nhau dẫn đến không đủ khả năng tự lo liệu cuộc sống tối
thiểu của bản thân và gia đình nhằm giúp họ tránh được mối đe dọa của cuộc
sống thường nhật hoặc giúp họ vượt qua những khó khăn, ổn định cuộc sống
và hịa nhập cộng đồng.
Dưới góc độ kinh tế, TGXH là đảm bảo nguồn thu nhập tối thiểu cho
cuộc sống của một bộ phận dân cư trong xã hội khi họ bị rơi vào tình trạng
khó khăn, bất hạnh, hiểm nghèo…nên có mức sống thấp hơn mức sống tối
thiểu của xã hội. Họ khơng có khả năng tự đảm bảo nhu cầu sống tối thiểu của
bản thân và gia đình mà tự mình khơng thể khắc phục được và cần có sự nâng
đỡ về vật chất để vượt qua khó khăn đó. TGXH là hoạt động khơng nhằm
mục đích kinh doanh, lợi nhuận nhưng lại có ý nghĩa là công cụ phân phối lại
tiền bạc, của cải, dịch vụ cho các thành viên xã hội gặp bất hạnh, thu hẹp dần
sự chênh lệch mức sống, giảm bớt bần cùng, nghèo đói.
Dưới góc độ xã hội, có thể hiểu TGXH là sự tương trợ cộng đồng có
tính xã hội sâu sắc. TGXH là biện pháp hỗ trợ của Nhà nước, cộng đồng và xã
hội cho các thành viên của mình khi họ gặp khó khăn, rủi ro nhằm giảm thiểu
những bất ổn xã hội, duy trì ổn định xã hội. Theo đó, những khó khăn bất
hạnh của mỗi cá nhân được cả xã hội chia sẻ, gánh vác mà khơng địi hỏi một
nghĩa vụ trực tiếp nào về tài chính. Ở đây khơng có sự phân biệt về đối tượng
hưởng cũng như chủ thể thực hiện, hơn thế nữa lại là yếu tố tạo nên sự hòa
đồng giữa các thành viên trong xã hội. Cũng vì những ý nghĩa xã hội của
mình mà TGXH được coi là hình thức tương trợ cộng đồng phổ biến nhất, thể
hiện tính nhân văn sâu sắc của mỗi cá nhân và có sức hút hấp dẫn trước
những giá trị nhân bản của con người.


13


Trên thực tế hiện nay, chúng ta bắt gặp các cách sử dụng khác nhau về
thuật ngữ "cứu trợ xã hội" hay "bảo trợ xã hội", "trợ giúp xã hội" trong các
văn bản pháp luật, tài liệu tham khảo, công trình nghiên cứu….Vậy có sự
khác nhau cơ bản nào trong các cách sử dụng thuật ngữ hiện nay? Như trên,
tác giả trình bày trong nhiều trường hợp khái niệm TGXH và cứu trợ xã hội
được hiểu đồng nghĩa với nhau, còn bảo trợ xã hội theo nghĩa truyền thống là
hệ thống cơ chế, chính sách và các giải pháp của Nhà nước và cộng đồng xã
hội nhằm trợ giúp và bảo vệ những đối tượng yếu thế, thiệt thòi trong cuộc
sống ổn định cuộc sống và hòa nhập cộng đồng như người già, người tàn tật,
trẻ em có hồn cảnh đặc biệt…và những người có hồn cảnh đặc biệt khác"6.
Dù được sử dụng dưới bất kỳ thuật ngữ nào, chúng ta đều nhận thấy
đặc trưng chung của TGXH, bảo trợ xã hội và cứu trợ xã hội là:
- Đối tượng được hưởng chế độ, bao gồm mọi người dân không có sự
phân biệt khi gặp phải những rủi ro, bất hạnh, khó khăn… trong cuộc sống.
- Nghĩa vụ đóng góp không đặt ra như một yêu cầu đối với người
được hưởng có tính đến tình trạng kinh tế (thu nhập và tài sản) của họ.
- Mức trợ cấp được xác định dựa trên nhu cầu thực sự và thiết yếu của
người hưởng.
- Mục đích trợ cấp nhằm duy trì cuộc sống của người thụ hưởng và
gia đình họ chứ khơng nhằm khôi phục lại mức sống của họ như trước khi gặp
rủi ro bất hạnh.
Chính vì sự tương đồng, khơng có sự phân biệt đáng kể như trên nên
trong thời gian dài chúng ta sử dụng thuật ngữ "cứu trợ xã hội" trong các văn
bản pháp luật của Nhà nước như Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày
09.03.2000 của chính phủ; Thơng tư số 18/2000/TT-BLDDTBXH ngày
28/07/2000 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội… hay các giáo trình
"an sinh xã hội" của trường Đại học Luật Hà Nội; giáo trình "cứu trợ xã hội"
6

. Trường Đại học Lao động - xã hội (2007), Giáo trình Nhập mơn an sinh xã hội, Nxb Lao động- xã hội.



14

của Đại học Lao động - Xã hội. Với sự ra đời của Nghị định số 67/2007/NĐCP ngày 13.04.2007 của Chính phủ và hiện là Nghị định số 136/2013/NĐ-CP
ngày 21/10/201 Quy định chính sách TGXH đối với đối tượng bảo trợ xã hội
thuật ngữ "bảo trợ xã hội" lại được sử dụng nhiều. Gần đây, trong các đề tài
nghiên cứu khoa học khái niệm "trợ giúp xã hội" cũng được sử dụng phổ biến
rộng rãi. Như vậy, theo quan điểm của tác giả sử dụng thuật ngữ "cứu trợ xã
hội", "bảo trợ xã hội" hay "trợ giúp xã hội" sẽ khơng có sự khác nhau về nội
dung cấu thành của nó trong giai đoạn nghiên cứu hiện nay.
1.2. Khái niệm pháp luật trợ giúp xã hội
1.2.1. Định nghĩa pháp luật trợ giúp xã hội
Trợ giúp xã hội là một bộ phận cấu thành của hệ thống ASXH. Hiểu
theo một cách đơn giản nhất, TGXH là sự giúp đỡ (trợ giúp) của Nhà nước và
xã hội về thu nhập và các điều kiện sinh sống thiết yếu đối với mọi thành viên
của xã hội trong những trường hợp bất hạnh, rủi ro, nghèo đói…mà họ khơng
có đủ khả năng tự lo được để đảm bảo cuộc sống tối thiểu của họ.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, "trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ
bằng tiền mặt hoặc hiện vật, có tính chất khẩn thiết, "cấp cứu" ở mức độ cần
thiết cho những người bị lâm vào cảnh bần cùng không có khả năng tự lo liệu
cuộc sống thường ngày của bản thân và gia đình, là sự giúp thêm bằng tiền
mặt hoặc điều kiện và phương tiện sinh sống thích hợp để đối tượng được
giúp đỡ và có thể phát huy khả năng, tự lo liệu cuộc sống của mình và gia
đình, sớm hồ nhập với cộng đồng"7. Theo đó, TGXH là sự đảm bảo và giúp
đỡ của Nhà nước, sự hỗ trợ của nhân dân và cộng đồng về thu nhập và các
điều kiện sinh sống bằng các hình thức và biện pháp khác nhau đối với các
đối tượng bị lâm vào cảnh rủi ro, bất hạnh, nghèo đói, thiệt thịi, yếu thế,
khơng đủ khả năng tự lo được cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình.
7


. Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 1, Nxb Từ điển bách khoa, 2007


15

Nếu TGXH đột xuất diễn ra một lần thì ngược lại TGXH thường xuyên được
tiến hành đều đặn hàng tháng kéo dài trong nhiều năm.
Chính sách TGXH khơng phải cố định, mà thường xuyên thay đổi cho
phù hợp với điều kiện cụ thể về phát triển kinh tế, thu nhập và mức sống của
xã hội.
Như vậy, TGXH là sự giúp đỡ của Nhà nước và cộng đồng xã hội cho
các đối tượng bị lâm vào cảnh rủi ro, bất hạnh, nghèo đói, thiệt thịi, yếu thế,
khơng đủ khả năng tự lo được cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình.
TGXH có thể bằng tiền, cũng có thể là các điều kiện và phương tiện thích hợp
để đối tượng có thể phát huy những khả năng tự lo liệu của họ nhằm sớm hòa
nhập trở lại với cộng đồng.
Trợ giúp xã hội là một chính sách xã hội quan trọng của mỗi quốc gia,
là biện pháp bảo vệ của xã hội đối với các thành viên "yếu thế" của mình, góp
phần củng cố an tồn xã hội, ổn định chính trị, tạo điều kiện phát triển kinh tế,
thể hiện sự công bằng, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nhận thức được ý nghĩa và
tầm quan trọng của TGXH, hều hết các nước đều thực hiện nó bằng cách xây
dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật TGXH. Theo tổng kết của tổ
chức lao động quốc tế ILO thì trong số 172 nước thành lập hệ thống ASXH
thì chế độ TGXH đều được quan tâm thực hiện ngay từ đầu. Ở Mỹ sự ra đời
của đạo luật ASXH năm 1935 cũng gắn liền với áp lực của nhu cầu TGXH
với thực trạng đói nghèo trong đời sống của nhóm người yếu thế như phụ nữ,
trẻ em, người già… Một số nước như Pháp, Thụy Điển, Đức còn xác định
TGXH cho những người nghèo nhất chính là trọng tâm và mục tiêu chủ đạo
của ASXH8.

Tuy nhiên, là một nội dung mang nặng tính xã hội nên khái niệm
TGXH phụ thuộc rất nhiều vào quan niệm của từng quốc gia. Dựa trên quan
8

. Pruno Palier Louis- Charles Viossat (2003), Chính sách xã hội và q trình tồn cầu hóa, Nxb. Chính trị
quốc gia.


16

điểm chung của tổ chức lao động quốc tế ILO và kết quả nghiên cứu khoa
học luật trong nước có thể đưa đến khái niệm về pháp luật TGXH như sau:
Pháp luật trợ giúp xã hội là tổng thể các quy định của Nhà
nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong
lĩnh vực trợ giúp giữa Nhà nước, xã hội và cộng đồng bằng
các biện pháp và hình thức khác nhau cho các thành viên xã
hội khi gặp phải những khó khăn, rủi ro, bất hạnh trong
cuộc sống vì những nguyên nhân khác nhau dẫn đến khả năng không đủ lo
liệu được cuộc sống tối thiểu cho bản thân và gia đình nhằm tránh được
những mối đe dọa của cuộc sống thường nhật và ổn định cuộc sống, hòa
nhập cộng đồng.
1.2.2. Phân loại trợ giúp xã hội
Đối tượng của TGXH rất rộng và có hồn cảnh rủi ro khác nhau, để sự
giúp đỡ đạt hiệu quả cao nhất thì với mỗi loại đối tượng sẽ có những giải pháp
khác nhau. Căn cứ vào đối tượng, mức độ và tính chất của sự trợ giúp, TGXH
được chia thành hai loại: TGXH thường xuyên và TGXH đột xuất.
(1) Trợ giúp xã hội thường xuyên là hình thức TGXH đối với những
người hồn tồn khơng thể tự lo được cuộc sống trong một thời gian dài hoặc
trong suốt cả cuộc đời của đối tượng được trợ giúp.
Đối tượng xã hội khó khăn rất nhiều, song khơng phải tất cả đều được

TGXH thường xuyên, mà chỉ có những người rơi vào hồn cảnh đặc biệt khó
khăn nhưng bản thân và gia đình họ khơng thể tự lo liệu được cuộc sống ở
mức tối thiểu hàng ngày, không đảm bảo được nhu cầu cơ bản của con người
mới được hưởng trợ cấp TGXH thường xuyên.
Đối tượng của chính sách TGXH thường xuyên thường gồm: người
già khơng nơi nương tựa, khơng có nguồn thu nhập; Trẻ em mồ cơi khơng có
người ni dưỡng, trẻ em trong gia đình q nghèo bố mẹ khơng thể nuôi


17

sống được; Người tàn tật do nhiều nguyên nhân khác nhau, không thể tự lao
động được để tạo ra thu nhập hoặc khơng có nguồn sinh sống nào khác...
Trong chế độ TGXH thường xuyên có chế độ xóa đói giảm nghèo.
Xóa đóu giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm hỗ
trợ những vùng khó khăn vươn lên XĐGN nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Từ nhiều năm qua, Ðảng và Nhà nước ta
luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội, coi đây
vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị xã
hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. XĐGN là làm cho bộ phận dân cư
đói nghèo nâng cao mức sống, từng bước thốt khỏi tình trạng đói nghèo.
Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng người đói nghèo giảm xuống - nói
một cách khác, XĐGN là một q trình chuyển một bộ phận dân cư đói nghèo
lên một mức sống cao hơn. Ở khía cạnh khác, XĐGN là chuyển từ tình trạng
có ít điều kiện lựa chọn sang tình trạng có đầy đủ điều kiện lựa chọn hơn để
cải thiện đời sống mọi mặt của mỗi người. Giảm nghèo bền vững là quá trình
tạo điều kiện giúp đỡ người nghèo có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự
phát triển một cách nhanh nhất, trên cơ sở đó họ có nhiều lựa chọn hơn, giúp
họ từng bước thốt khỏi tình trạng nghèo. Xóa đói, giảm nghèo ln là mục
tiêu xun suốt q trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chương

trình mục tiêu quốc gia XĐGN với mục tiêu tạo điều kiện cho người nghèo
phát triển sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu, giúp người nghèo tiếp
cận với các dịch vụ y tế, giáo dục… nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và
thốt nghèo bền vững. Các chính sách xóa đói giảm nghèo ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay như sau: Chính sách ưu đãi tín dụng cho người nghèo;
Chính sách hỗ trợ sản xuất, cung cấp dịch vụ khuyến nơng, khuyến lâm,
khuyến ngư; Chính sách dạy nghề, giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động
cho người nghèo; Chính sách hỗ trợ về nhà ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt
cho hộ nghèo. Chính sách hỗ trợ người nghèo về y tế, về giáo dục - đào tạo;


18

Chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo; Chính sách trợ giúp các đối
tượng bảo trợ xã hội; Chính sách hỗ trợ giảm nghèo đặc thù (Nghị quyết
30a/2008/NQ-CP về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối
với 61 huyện nghèo nhất cả nước…).
Như vậy, có thể xem trợ giúp thường xuyên là hình thức TGXH đối
với những người hồn tồn khơng thể lo được cuộc sống trong một thời gian
dài (một hoặc nhiều năm) hoặc trong suốt cả cuộc đời của đối tượng trợ giúp
(ví dụ: trợ cấp một khoản kinh phí hàng tháng; miễn phí thẻ BHYT cho những
đối tượng người cao tuổi, người nghèo, người tàn tật, tâm thần; miễn, giảm
học phí học tập; đưa người già cô đơn, trẻ em mồ côi vào các trung tâm nuôi
dưỡng…).
(2) Trợ giúp xã hội đột xuất là hình thức TGXH do Nhà nước và cộng
đồng giúp đỡ những người không may bị thiên tai, mất mùa hoặc những biến
cố khác mà đời sống của họ bị đe doạ về lương thực, nhà ở, chữa bệnh, chôn
cất và phục hồi sản xuất cần có sự giúp đỡ khẩn cấp. Nếu TGXH thường
xuyên diễn ra trong một thời gian dài, hay người nhận trợ cấp được nhận sự
TGXH đều đặn, liên tục, thì người nhận TGXH đột xuất chỉ được hưởng một

lần khi các biến cố đột ngột xuất hiện trong đời sống của họ.
Đối tượng được TGXH đột xuất là những người hoặc hộ gia đình khó
khăn do hậu quả thiên tai hoặc những lý do bất khả kháng như: hộ gia đình có
người bị chết, mất tích; Hộ gia đình có nhà ở bị đổ, sập, trơi, cháy, hỏng nặng;
Hộ gia đình mất phương tiện sản xuất, lâm vào cảnh bị thiếu đói; Người bị
thương nặng; Người thiếu đói do giáp hạt; Người gặp rủi ro ngoài vùng cư trú
mà bị thương nặng hoặc bị chết, gia đình khơng biết để chăm sóc hoặc mai
táng; Người lang thang xin ăn trong thời gian tập trung chờ đưa về nơi cư trú.
Như vậy, có thể xem trợ giúp đột xuất là hình thức TGXH do nhà
nước và cộng đồng giúp đỡ những người không may bị thiên tai, mất mùa
hoặc gặp những biến cố khác mà đời sống của họ bị đe dọa về tính mạng,


19

lương thực, nhà ở, chữa bệnh, chôn cất hay phục hồi sản xuất nếu khơng có sự
trợ giúp khẩn cấp.
1.3. Nội dung pháp luật trợ giúp xã hội
Pháp luật TGXH quy định những nội dung cơ bản đó là: đối tượng
TGXH; các chế độ TGXH; tài chính thực hiện TGXH cũng như tổ chức quản
lý thực hiện hoạt động TGXH.
1.3.1. Đối tượng trợ giúp xã hội
Đối tượng TGXH mặc dù là áp dụng cho mọi đối tượng ưu tiên trong
xã hội, tuy nhiên các quốc gia đều lựa chọn đối tượng theo thứ tự ưu tiên
những người bất hạnh, khó khăn, rủi ro nhất. Theo tổ chức lao động quốc tế
ILO, đối tượng của TGXH được đề xuất đầu tiên bao gồm người già, người
cô đơn, trẻ em mồ côi, người khuyết tật…. Khơng có một quy định chuẩn
chung áp dụng cho các quốc gia về đối tượng cứu trợ, song phụ thuộc vào
mức độ quan tâm, tình trạng kinh tế mà các quốc gia có những tiêu chí khác
nhau khi lựa chọn đối tượng TGXH. Chẳng hạn để được hưởng trợ cấp kinh

tế định kỳ đối với người già ở Canada đối tượng phải đạt độ tuổi từ 65 tuổi trở
lên, khơng có nguồn thu nhập, có nơi cư trú hợp pháp trên lãnh thổ Canada từ
10 năm trở lên và đảm bảo các chỉ số suy giảm sức khỏe thông qua kỳ kiểm tra
sức khỏe định kỳ hàng năm. Ở Đan Mạch, người tàn tật được hưởng trợ cấp từ
thu nhập chung quốc gia khi bị suy giảm vĩnh viễn 50% khả năng lao động về
vật chất và tinh thần trở lên, có ít nhất 3 năm cư trú tại Đan Mạch và đảm bảo
điều kiện thẩm tra thu nhập9... Ở Việt Nam cùng với sự thay đổi của đất nước đối
tượng TGXH ngày càng được pháp luật quy định mở rộng, bao gồm: trẻ em mồ
côi và người có hồn cảnh tương tự như trẻ em mồ côi, người cao tuổi, người
khuyết tật, người mắc bệnh tâm thần, người già trên 85 tuổi, người nuôi
dưỡng trẻ em mồ cơi, người nhiễm HIV, AIDS khơng có khả năng lao động,
người gặp khó khăn do thiên tai hoặc những lý do bất khả kháng khác gây ra.
9

. ILO (1999), Social security principles. ISBN 92-2-110738-8.


20

Điểm đặc biệt của điều kiện hưởng TGXH đó là nghĩa vụ tài chính
khơng được đặt ra cho người thụ hưởng. Sở dĩ như vậy bởi các khoản TGXH
được coi như biểu hiện của việc đảm bảo quyền con người trong xã hội, là
trách nhiệm của Nhà nước đối với các cơng dân của mình và mang ý nghĩa
nhân đạo, xã hội cao cả.
1.3.2. Chế độ trợ giúp xã hội
Khi nói đến chế độ cứu trợ chúng ta hiểu đó là các hình thức trợ cấp
cho các đối tượng của TGXH dưới các cách khác nhau như: trợ cấp vật chất,
chăm sóc y tế hoặc bằng tinh thần…Trong đó, trợ cấp vật chất được coi là
quan trọng nhất, được xác định trên cơ sở nhu cầu trợ giúp và khả năng đáp
ứng tài chính của các quốc gia.

Xuất phát từ đối tượng TGXH đa dạng mà các chế độ TGXH cũng
phong phú để đáp ứng mục đích của cơng tác xã hội. Pháp luật về công tác xã
hội Việt Nam quy định hai hình thức TGXH chính đó là: TGXH thường xuyên
và TGXH đột xuất. Chế độ TGXH thường xuyên có tính chất ổn định, lâu dài,
áp dụng cho những đối tượng không thể tự lo cho cuộc sống hàng ngày của
mình. Chế độ TGXH đột xuất có tính tức thời, được thực hiện một lần và các
hình thức đa dạng, phong phú hơn phụ thuộc vào từng tình huống với những nhu
cầu cụ thể. Chế độ này áp dụng đối với đối tượng gặp khó khăn vì lý do bất
khả kháng mà cuộc sống của họ bị đe dọa trong một thời gian ngắn nhất định.
Ngoài ra ở phạm vi rộng hơn, hoạt động TGXH cũng được thực hiện
với các nội dung khác như xóa đói giảm nghèo, nâng đỡ người lầm lỡ, mắc
các tệ nạn xã hội…
1.3.3. Nguồn lực thực hiện trợ giúp xã hội
Tất cả các nội dung cơ bản của pháp luật TGXH đều là lý thuyết,
khơng có khả năng thực thi trên thực tế nếu khơng có nguồn lực thực hiện
TGXH. Pháp luật TGXH quy định rất rõ ràng, cụ thể nguồn lực thực hiện
TGXH. TGXH được thực hiện dựa trên nguồn kinh phí của Nhà nước (chủ


21

yếu từ các nguồn thuế của quốc gia). Bên cạnh nguồn tài chính được đảm bảo
từ ngân sách nhà nước, nguồn tài chính cịn dựa trên cơ sở tự nguyện của các
tổ chức phi chính phủ (NGO), tổ chức, cá nhân…trong và ngồi nước cũng
giữ vai trị quan trọng trong hoạt động TGXH.
1.3.4. Tổ chức và thực hiện hoạt động trợ giúp xã hội
Theo quy định của Pháp luật, công tác tổ chức và thực hiện các hoạt
động TGXH được thống nhất từ trung ương xuống địa phương. Cơ quan đứng
đầu chịu trách nhiệm chính là Bộ Lao động - Thương Binh và Xã hội với cơ
quan chuyên môn là Cục bảo trợ xã hội. Tương đương với cấp tỉnh, thành phố

là Sở Lao động Thương binh và Xã hội với các cơ quan chun mơn thực
hiện là phịng Lao động Thương binh và xã hội…
Tóm lại, pháp luật TGXH là một bộ phận của hệ thống pháp luật về
các vấn đề xã hội nói chung và pháp luật ASXH nói riêng. Pháp luật TGXH là
cơng cụ để các chủ trương, đường lối về chính sách cơng tác xã hội đi sâu vào
thực tế cuộc sống, nhằm mục đích quản lý, kiểm soát và hướng hoạt động
TGXH theo những mục tiêu nhất định của mỗi quốc gia.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực hiện pháp luật về trợ giúp
xã hội
Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực hiện pháp luật về TGXH:
Tính chất của vấn đề chính sách (đơn giản hay phức tạp, cấp bách, bức xúc
hay bình thường); Mơi trường thực thi chính sách (điều kiện vật chất - kỹ
thuật trong nền kinh tế, bầu không khí chính trị, trật tự xã hội, nhóm lợi ích,
quan hệ quốc tế); Mối quan hệ giữa các đối tượng thực thi chính sách (thống
nhất hay khơng thống nhất về lợi ích của các đối tượng trong q trình thực
hiện mục tiêu chính sách cơng); Tiềm lực của các nhóm đối tượng chính sách
(trên các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội về cả quy mơ và trình độ); Đặc
tính của đối tượng chính sách (tính tự giác, tính kỷ luật, tính sáng tạo, lịng
quyết tâm, tính truyền thống); Năng lực thực thi chính sách của cán bộ, cơng


22

chức (tinh thần trách nhiệm, ý thức kỷ luật, năng lực thực tế, đạo đức công
vụ); Mức độ tuân thủ các bước trong chu trình chính sách; Các điều kiện vật
chất để thực thi chính sách (trang thiết bị kỹ thuật và phương tiện hiện đại hỗ
trợ); sự đồng tình, ủng hộ của người dân (thiết thực với đời sống nhân dân,
phù hợp với điều kiện và trình độ hiện có của nhân dân)10.
Cụ thể, những yếu tố ảnh hưởng đến q trình thực thi chính sách
TGXH có thể kể đến như sau:

(1) Thể chế chính sách về TGXH: Nội dung cơ bản của thể chế chính
sách TGXH là xác định đối tượng tham gia, đối tượng điều chỉnh với những
tiêu chí, điều kiện cụ thể và cơ chế xác định đối tượng theo một quy trình
thống nhất; xác định các chính sách, các chế độ đóng góp, thụ hưởng và
những điều kiện ràng buộc nhất định về trách nhiệm đóng góp, trách nhiệm
của bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện chính sách, chế độ đề ra. Cơ
chế để tham gia các loại hình TGXH mà các quốc gia thường áp dụng là bắt
buộc hoặc tự nguyện những có sự hỗ trợ của nhà nước. Mỗi một cơ chế cụ thể
đều có ưu điểm và nhược điểm riêng, việc vận dụng cơ chế nào là phụ thuộc
vào điều kiện kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa của từng địa phương.
Nếu chính sách TGXH phù hợp với địi hỏi với thực tiễn cuộc sống thì việc
thực thi chính sách TGXH sẽ thuận lợi, khả thi; ngược lại chính sách TGXH
khơng phù hợp với địi hỏi với thực tiễn cuộc sống thì việc thực thi chính sách
TGXH sẽ khó khăn, thậm chí khơng khả thi, thiếu hiệu quả. Biểu hiện của sự
khơng khả thi đó là chính sách xây dựng có mức độ bao phủ hẹp; khơng đáp
ứng địi hỏi ngày càng cao của nhóm các đối tượng yếu thế cần trợ giúp trong
xã hội; không đảm bảo tính hệ thống, tồn diện, cân đối giữa các bộ phận
trong cấu trúc ASXH; không đồng bộ với kế hoạch triển khai và địa bàn áp

10

. Lê Quốc Lý (2014), Chính sách an sinh xã hội - thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr. 137, 145.


23

dụng; thiếu các điều khoản giám sát và chế tài xử phạt; khơng đảm bảo tính
bền vững về tài chính11.
(2) Thể chế tổ chức bộ máy và cán bộ: Nhân tố này có vai trị quyết

định trong việc tổ chức các chính sách TGXH. Cho dù chính sách có tốt đến
mấy đi chăng nữa nhưng tổ chức thực hiện không tốt thì chính sách sẽ khơng
đi vào cuộc sống. Do vậy, việc thiết lập hệ thống tổ chức quản lý với đội ngũ
cán bộ chuyên nghiệp (từ nhận thức, cơ cấu tổ chức, năng lực, phẩm chất,
phương thức phối hợp) để thực hiện có hiệu quả việc thực thi chính sách
TGXH. Về nguyên tắc, có thể thiết lập hệ thống tổ chức độc lập cho từng hợp
phần; nhưng cũng có thể sử dụng bộ máy chính quyền hiện có để thực hiện,
tùy điều kiện cụ thể. Thể chế chính sách mang tính phổ cập thì chi phí quản lý
ít và bộ máy tổ chức quản lý gọn nhẹ và ngược lại, thể chế phức tạp thì chi
phí quản lý tốn kém hơn. Nếu chủ thể thực thi chính sách (tổ chức, cơ quan,
cán bộ) triển khai không đúng kế hoạch, thiếu đồng bộ, không đúng đối tượng
và định mức, vụ lợi...sẽ làm giảm hiệu quả việc thực thi chính sách và giảm
lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
(3) Nhận thức của xã hội và người dân: Sự phát triển của hệ thống
TGXH phụ thuộc vào nhận thức chung về TGXH của xã hội. Khi người lao
động, người sử dụng lao động và nhà nước hiểu được tầm quan trọng của
chính sách TGXH, từ đó tự nguyện và tích cực tham gia, thì hệ thống này mới
có cơ hội phát triển và ngược lại. Người dân là đối tượng thụ hưởng chính
sách TGXH nếu họ tự giác, tích cực, chủ động, tự nguyện tham gia thì việc
thực thi chính sách TGXH sẽ có hiệu quả, bền vững; ngược lại nếu họ thờ ơ,
thụ động, ỷ lại và thậm chí vụ lợi thì việc thực thi chính sách TGXH sẽ khơng
hiệu quả.
(4) Mơi trường thực thi chính sách TGXH: Sự khác biệt về điều kiện
tự nhiên, xã hội của mỗi địa phương, vùng, miền: Những địa phương, vùng,
11

. Nguyễn Hữu Hải (2013), Chính sách cơng - Những vấn đề cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 48-56.



×