Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học-pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực hiện tại tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.99 KB, 75 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT

6

1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm thất nghiệp

6

1.2. Điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp

11

1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật về bảo
hiểm thất nghiệp
Chương 2:

20

THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO
HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI
TỈNH HỊA BÌNH

2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp


24
24

2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo hiểm tự nguyên tại tỉnh
Hòa Bình
Chương 3:

46
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HỒN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ
BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP TẠI TỈNH HỊA BÌNH

60

3.1. u cầu của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
3.2. Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp

60
62

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm thất
nghiệp ở tỉnh Hịa Bình

65

KẾT LUẬN

68


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÀO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BHTN

: Bảo hiểm thất nghiệp

BHXH

: Bảo hiểm xã hội

BHYT

: Bảo hiểm y tế

HĐLĐ

: Hợp đồng lao động

NLĐ

: Người lao động

NSDLĐ : Sử dụng lao động


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu


Tên bảng

Trang

Số lượng người tham gia BHTN tỉnh hịa bình (năm 2014-

49

bảng
2.1

năm 2018)
2.2

Số lượng các đối tượng hưởng BHTN(năm 2014 - năm 2018)

51

DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hiệu

Tên hình

Trang

hình
2.1

Sơ đồ tổ chức của BHXH tỉnh Hịa Bình


48

2.2

Quy trình xét duyệt đối tượng hưởng BHTN tại tỉnh Hịa Bình

53


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thất nghiệp và giải quyết thất nghiệp đang là vấn đề nan giải đặt ra đối
với các quốc gia, đặc biệt là những nước đang phát triển như Việt Nam. Thất
nghiệp tác động trực tiếp đến sự phát triển, ổn định kinh tế, chính trị, xã hội của
một quốc gia. Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao dẫn đến sự bất ổn của chính trị xã hội,
dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội gia tăng, sự phát triền nền kinh tế bị giảm sút, trì trệ.
Vì vậy, cần hạn chế tỉ lệ thất nghiệp cũng như đưa ra những biện pháp nhằm hỗ
trợ người lao động (NLĐ) đang khơng có việc làm, nhằm ổn định nền kinh tế, xã
hội là mục tiêu đặt ra đối với các quốc gia.
Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, số người thất
nghiệp trong quý 1/2018 tại Việt Nam là 1,1 triệu người, tỷ lệ thất nghiệp chung
của toàn quốc khoảng 2,01%. Cũng theo báo cáo đánh giá của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội thì tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ở Việt Nam trong
năm 2018 có xu hướng giảm dần qua các quý. Số người thất nghiệp trong quý
1/2018 là 1,1 triệu người, tỷ lệ thất nghiệp chung của toàn quốc khoảng 2,01%
(tỷ lệ này của quý 1/2017 là 2,30%). Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên là trên 7%.
Do đó, việc đưa ra những chính sách, quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
của NLĐ khi họ bị thất nghiệp là rất quan trọng.
Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) là một trong những biện pháp nhằm hỗ

trợ NLĐ trong thời gian NLĐ khơng có việc làm, đảm bảo cho họ có một khoản
trợ cấp nhất định trong thời gian khơng có thu nhập đồng thời hỗ trợ để NLĐ
sớm quay lại thị trường lao động.
Việt Nam chính thức thực hiện các chính sách về BHTN từ ngày
01/01/2009. Qua hơn mười năm thực hiện, chính sách BHTN đã đạt được nhiều
kết quả nhất định, tuy nhiên, khi áp dụng thực hiện pháp luật vào từng địa
phương vẫn cịn tồn tại nhiều bất cập và khó khăn trong q trình thực hiện. Hịa
Bình là tỉnh miền núi, ít các khu cơng nghiệp. Song chính vì vậy mà số lao động


2
bị thất nghiệp lại chiếm một tỷ lệ đáng kể so với số lượng lao động của toàn tỉnh
và việc thực hiện BHTN đối với NLĐ ở Hịa Bình là hết sức cần thiết. Chính vì
vậy, em đã lựa chọn đề tài: "Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn
thực hiện tại tỉnh Hịa Bình" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình với mong
muốn góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về BHTN cũng như nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về BHTN tại tỉnh Hịa Bình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bảo hiểm thất nghiệp là chính sách quan trọng đối với NLĐ tham gia
quan hệ lao động. Chính vì vậy trên thực tế cũng đã có một số cơng trình nghiên
cứu về vấn đề này. Có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu sau đây:
* Về đề tài nghiên cứu khoa học:
- Nguyễn Văn Phần (1993), "Một số ý kiến về trợ cấp thất nghiệp và trợ
cấp hưu trí", đề tài nghiên cứu này có trong cuốn "Một số vấn đề về chính sách
bảo hiểm xã hội ở nước ta hiện nay" do Nhà xuất bản Lao động phát hành.
- Nguyễn Văn Định (2000), "Tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam
trong điều kiện kinh tế thị trường", đề tài này do ông Nguyễn Văn Định và các
cộng sự trong tổ bộ môn Kinh tế bảo hiểm của Trường Đại học Kinh tế quốc dân
nghiên cứu.
- Nguyễn Huy Ban (2004), "Nghiên cứu những nội dung cơ bản của bảo

hiểm thất nghiệp hiện đại - vấn đề lựa chọn hình thức trợ cấp thất nghiệp ở Việt Nam".
- Nguyễn Văn Định (2008), "Tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam".
* Về luận văn, luận án:
Về luận án tiến sĩ có luận án: "Chế độ bảo hiểm thất nghiệp trong nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam" (2004), Lê Thị Hoài Thu, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Các luận văn thạc sĩ gồm có:
- Ngơ Thị Thu Hoài (2012), "Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp và thực
tiễn áp dụng ở Nghệ An", Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Ngơ Thị Thủy (2013), "Hồn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
ở Việt Nam hiện nay", Trường Đại học Luật Hà Nội


3
- Lương Thị Hòa (2016), "Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thực
tiễn thực hiện tại tỉnh Thái Bình", Viện Đại học mở Hà Nội
- Hà Thị Thanh Thủy (2017), "Chế độ bảo hiểm thất nghiệp từ thực tiễn
tỉnh Vĩnh Phúc", Viện Đại học Mở Hà Nội.
- Hoảng Thị Hải (2018) "Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn
thực hiện tại tỉnh Lạng Sơn", Trường Đại học Luật Hà Nội...
Có thể thấy cũng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về BHTN nhưng chưa
có cơng trình nào nghiên cứu BHTN và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Hòa Bình. Chính
vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài này nhằm nghiên cứu một cách đầy đủ và mang
tính độc lập về pháp luật bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Hịa
Bình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đây là luận văn định hướng ứng dụng nên mục đích nghiên cứu của đề
tài là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về BHTN. Luận văn sẽ tập trung vào
đánh giá thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về BHTN và
thực tiễn thực hiện tại tỉnh Hịa Bình, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm

hoàn thiện pháp luật về BHTN và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
BHTN tại tỉnh Hòa Bình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã nêu, tác giả cần tập trung giải quyết
một số nhiệm vụ cơ bản sau:
- Phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về BHTN, pháp luật về BHTN.
- Phân tích thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về BHTN.
- Đánh giá việc thực hiện, áp dụng pháp luật về BHTN tại tỉnh Hịa Bình.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
hoạt động áp dụng pháp luật BHTN trên địa bàn tỉnh Hịa Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Về đối tượng nghiên cứu


4
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định của pháp luật về
BHTN mà cụ thể là Luật Việc làm và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đồng
thời luận văn cũng nghiên cứu thực tiễn thực thi pháp luật về BHTN tại tỉnh Hịa
Bình, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về BHTN tại tỉnh Hịa Bình. Pháp luật quốc tế về BHTN
chỉ được nghiên cứu ở mức độ nhất định trong luận văn
4.2. Về phạm vi nghiên cứu
Bảo hiểm thất nghiệp có phạm vi rất rộng, thuộc đối tượng nghiên cứu
của nhiều ngành và liên ngành khoa học khác nhau, ảnh hưởng đến nhiều khía
cạnh của đời sống. Tuy nhiên, trong phạm vi của luận văn, tác giả chỉ nghiên
cứu BHTN dưới góc độ luật học và ở các nội dung chính như đối tượng tham
gia, điều kiện hưởng BHTN, các chế độ và thủ tục hưởng BHTN, tổ chức thực hiện
và xử lý vi phạm. Luận văn không nghiên cứu giải quyết tranh chấp về BHTN.
Về không gian, luận văn chỉ nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về
BHTN tại tỉnh Hòa Bình

Về thời gian, luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về
BHTN tại tỉnh Hịa Bình từ năm 2014-2018
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó, tác
giả cịn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích,
phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương
pháp hệ thống hóa, lịch sử, nghiên cứu lý thuyết và tổng kết thực tiễn… Tùy
theo từng nội dung mà tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu cho phù hợp.
Chương 1, để phân tích những vấn đề lý luận về pháp luật BHTN tác giả
sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh.
Chương 2 để đánh giá thực trạng quy định về BHTN và thực tiễn thực
hiện pháp luật về BHTN tại tỉnh Hịa Bình, tác giả đã sử dụng phương pháp chủ
yếu là phương pháp tổng hợp, so sánh luật học và phân tích.


5
Chương 3, khi xem xét, đánh giá đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp
luật, các biện pháp nhằm thực thi có hiệu quả quy định pháp luật về BHTN ở
tỉnh Hịa Bình tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa ý luận của đề tài
Luận văn góp phần làm sáng tỏ và hồn thiện thêm những vấn đề lý luận
và thực tiễn về BHTN. Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của
pháp luật về BHTN và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về BHTN
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và học tập của
sinh viên, học viên chun ngành luật. Ngồi ra, luận văn cịn có thể cung cấp
kiến thức cho các cán bộ làm công tác lao động - xã hội nói chung, những người
làm công tác bảo hiểm xã hội (BHXH), đặc biệt là cơng tác BHTN nói riêng,

giúp họ thực thi chính sách và pháp luật về BHTN hiệu quả.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm thất nghiệp và sự điều
chỉnh của pháp luật
Chương 2: Thực trạng quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và
thực tiễn thực hiện tại tỉnh Hịa Bình
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại tỉnh Hịa Bình.


6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT
1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm thất nghiệp
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp
Trên thực tế hiện nay, có rất nhiều khái niệm về thất nghiệp được đưa ra
bởi các tổ chức, nhà khoa học khác nhau. Ở một số các quốc gia phát triển khái
niệm về thất nghiệp cũng được đưa ra. Chẳng hạn như ở Cộng hòa Liên bang
Đức, thất nghiệp được xem là NLĐ tạm thời khơng có quan hệ lao động hoặc
chỉ thực hiện cơng việc ngắn hạn. Hay ở Pháp, thất nghiệp được hiểu là tình
trạng khơng có việc làm, đang đi tìm việc làm. Còn tại Trung Quốc, thất nghiệp
lại được định nghĩa là người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, chưa
có việc làm, đang đi tìm việc làm và đăng ký tại cơ quan giải quyết việc làm.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), thất nghiệp được định nghĩa là
tình trạng tồn tại một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng
khơng thể tìm được việc làm ở mức tiền lương thịnh hành.
Như vậy, với cách hiểu chung nhất, ta có thể hiểu thất nghiệp là tình

trạng NLĐ muốn có việc làm mà khơng tìm được việc làm.
Thất nghiệp có ảnh hưởng lớn khơng chỉ với chính người đang thất
nghiệp mà cịn đối với sự phát triển của kinh tế - xã hội của nước. Tình trạng
thất nghiệp sẽ tác động đến tăng trường kinh tế và lạm phát. Theo đó, tỷ lệ thất
nghiệp tăng cao đồng nghĩa với việc tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thấp, các
nguồn lực từ con người sẽ không được sử dụng hết, bỏ phí cơ hội sản xuất thêm
sản phẩm và dịch vụ. Bên cạnh đó, việc thất nghiệp dẫn đến số lượng sản phẩm
sản xuất ra ít hơn, làm giảm tính hiệu quả của sản xuất theo quy mơ. Ngồi ra,
thất nghiệp cịn làm giảm nhu cầu xã hội. Hàng hóa và dịch vụ làm ra có mức
tiêu thụ thấp, khơng có người tiêu dùng. Việc nhu cầu tiêu dùng ít đi so với việc
làm ra, dẫn đến cơ hội đầu tư cũng ít hơn.


7
Thất nghiệp còn làm ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của NLĐ. Thất
nghiệp lâu ngày, NLĐ sẽ không có khoản thu nhập ổn định, từ đó ảnh hưởng
nghiêm trọng không những đến chất lượng cuộc sống cá nhân họ mà cịn ảnh
hưởng đến tồn xã hội và nền kinh tế.Thất nghiệp còn gây ảnh hưởng đến trật tự
xã hội, an tồn xã hội. Các cá nhân khơng có việc làm sẽ gây ra tình trạng chán
nản, bất lực, có những người vì như vậy mà tự tử. Thất nghiệp khiến NLĐ
khơng có tiền, khơng có khả năng chi trả những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống,
từ đó gây ra tình trạng trộm cắp và các tệ nạn xã hội khác.
Có thể nói, tình trạng thất nghiệp là một trong những vấn đề nan giải,
cần có những biện pháp và chính sách giải quyết thích hợp để giúp cải thiện, cân
bằng đời sống xã hội. BHTN đã ra đời xuất phát từ nhu cầu đó. NLĐ tham gia
BHTN sẽ được đảm bảo thu nhập trong thời gian họ bị mất việc làm, đảm bảo
cho họ có được cuộc sống ổn định trong thời gian không được làm việc, khơng
có thu nhập. Rất nhiều quốc gia đã xây dựng và thực hiện chế độ BHTN. Cho
đến nay đã có khoảng 70 quốc gia thực hiện chế độ BHTN như Anh (bắt đầu
thực hiện năm 1911), Mỹ (1935), Italia (1937), Pháp (1958), Trung Quốc (1986)

…BHTN cũng được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau
Dưới góc độ kinh tế - xã hội, BHTN được hiểu là giải pháp nhằm khắc
phục hậu quả của tình trạng thất nghiệp, giúp người thất nghiệp tạm thời đảm
bảo cuộc sống và tìm kiếm việc làm thông qua việc tạo lập và sử dụng một quỹ
tiền tệ tập trung. Quỹ này được hình thành do sự đóng góp của NLĐ và người sử
dụng lao động (NSDLĐ), có sự hỗ trợ của Nhà nước, được sử dụng để trả trợ
cấp cho người thất nghiệp, cũng như tiến hành các biện pháp nhằm nhanh chóng
giúp người thất nghiệp có được việc làm mới. Khoản tiền trợ giúp trích từ quỹ
BHTN nhằm đảm bảo cuộc sống cho NLĐ trong thời gian mất việc làm được
gọi là trợ cấp thất nghiệp. Về mặt bản chất, tiền trợ cấp thất nghiệp được coi là
hình thức bù đắp một phần sự mất mát thu nhập do hậu quả của tình trạng thất
nghiệp và giúp người thất nghiệp học nghề, tìm kiếm việc làm mới.


8
Dưới góc độ pháp lý, chế độ BHTN là tổng thể các quy phạm pháp luật
quy định việc đóng góp và sử dụng quỹ BHTN, chi trả trợ cấp thất nghiệp để bù
đắp thu nhập cho NLĐ bị mất việc làm và thực hiện các biện pháp đưa người
thất nghiệp trở lại làm việc. Như vậy, có thể hiểu trợ cấp thất nghiệp là một
trong các chế độ của BHTN nhằm hỗ trợ NLĐ khi bị mất việc làm trên cơ sở
đóng góp trước đó của NLĐ vào quỹ BHTN. Bên cạnh đó, BHTN cịn thực hiện
các biện pháp khác để hỗ trợ NLĐ tìm kiếm các cơ hội việc làm mới để tiếp tục
tham gia thị trường lao động1.
Khoản 4, điều 3 Luật Việc làm năm 2013 của Việt Nam có quy định:
"Bảo hiểm thất nghiệp là chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao
động khi bị mất việc làm, hỗ trợ người lao động học nghề, duy trì việc làm, tìm
việc làm trên cơ sở đóng vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp."
Như vậy, BHTN là một trong những biện pháp hỗ trợ NLĐ, khi NLĐ bị
mất việc làm. Tuy nhiên, việc hỗ trợ này dựa trên cơ sở NLĐ đã đóng vào Quỹ
BHTN trước đó. Việc hỗ trợ này khơng chỉ là một khoản thu nhập giúp ổn định

cuộc sống của NLĐ trong thời gian thất nghiệp, mà còn hỗ trợ NLĐ học nghề, tìm
kiếm việc làm, nhằm sớm đưa những người này tìm được cơng việc mới ổn định.
Có thể thấy, BHTN là một loại hình bảo hiểm tiến bộ, khơng chỉ có ý
nghĩa hỗ trợ NLĐ khi mất việc làm mà còn giúp ổn định nền kinh tế - xã hội, an
ninh trật tự của một quốc gia. Chính vì vậy, trên thế giới BHTN thường được áp
dụng đối với những nước có nền kinh tế thị trường.
1.1.2. Đặc điểm bảo hiểm thất nghiệp
Bảo hiểm thất nghiệp là một loại bảo hiểm đặc biệt, nó khơng mang tính
bắt buộc cụ thể nhưng cũng không phải là một loại bảo hiểm thương mại. BHTN
có những đặc điểm khác với BHXH hay các loại bảo hiểm thương mại khác,
những đặc điểm này được thể hiện thơng qua đối tượng, mục đích, cơ chế quản
lý… Cụ thể:
1

. Xem Giáo trình Luật an sinh xã hội, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2013.


9
Về đối tượng: Đối tượng của BHTN không được xác định cụ thể hay dự
tính chính xác như các loại BHXH khác. Đối tượng của BHTN chủ yếu là những
NLĐ đang bị mất việc làm, có nhu cầu tìm việc làm và còn khả năng lao động.
NLĐ bị mất việc có nhiều ngun nhân nên khơng thể dự tính trước được về số
lượng này. Chính vì vậy, đối tượng được thụ hưởng loại bảo hiểm này thường ít
hơn so với đối tượng phải nộp loại bảo hiểm này, đặc biệt là khi thị trường lao
động ổn định.
Về mục đích: Cũng giống như các chế độ bảo hiểm khác, BHTN cũng
hướng tới việc bù đắp một phần nào đó về lợi ích cho đối tượng được bảo
hiểm. Tuy nhiên, BHTN ngoài việc giúp hỗ trợ về kinh tế đối với NLĐ bị mất
việc còn giúp họ giới thiệu việc làm, đào tạo lại nghề để họ có thể quay trở lại
và tham gia vào thị trường lao động. Với mục đích này, BHTN giúp đảm bảo

lợi ích về an sinh xã hội, giúp phát triển nền kinh tế của đất nước. BHTN cũng
khác với các loại bảo hiểm khác (như bảo hiểm thương mại) ở chỗ nó khơng
nhằm mục đích lợi nhuận, sinh lời mà chỉ mang mục đích bù đắp một phần về
lợi ích đối với đối tượng người được thụ hưởng. Và đây cũng là một chế độ
bảo hiểm ngắn hạn.
Về cơ chế quản lý và tổ chức thực hiện của BHTN: Thực hiện quản lý
BHTN khác hẳn với các loại bảo hiểm khác. Trong thực tế, việc thực hiện đăng
ký, thống kê và phân loại người thất nghiệp để rồi đưa ra những biện pháp hỗ trợ
phù hợp với từng đối tượng NLĐ bị thất nghiệp là khá khó khăn. Chưa kể, việc
hình thành quỹ BHTN cũng khác với các loại hình bảo hiểm khác. Khơng phải
NLĐ nào muốn đóng BHTN cũng có thể đóng, nếu khơng có việc làm, ký hợp
đồng lao động với các cơ sở kinh tế đáp ứng được điều kiện tham gia BHTN thì
NLĐ cũng khơng thể đóng BHTN. Khơng như quỹ hưu trí hay quỹ bảo hiểm y
tế (BHYT), chỉ cần NLĐ góp một phần quỹ sau một thời gian hoặc một trường
hợp nhất định sẽ được hưởng. BHTN chỉ xuất hiện khi NLĐ thất nghiệp. BHTN
không chi trả dài hạn như bảo hiểm hưu trí mà chỉ trả trong một thời hạn nhất
định. Bên cạnh hỗ trợ về vật chất, BHTN còn giúp NLĐ tham gia đào tạo, học


10
tập và tìm cơ hội việc làm mới tốt hơn nên thực hiện BHTN cần có sự tham gia
của nhiều chủ thể như cơ quan BHXH, trung tâm dịch vụ việc làm…
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của bảo hiểm thất nghiệp
- Đối với người lao động:
Bảo hiểm thất nghiệp giúp NLĐ và gia đình họ ổn định thu nhập, trang
trải một phần chi tiêu đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của NLĐ cùng gia đình.
Bên cạnh đó, BHTN cịn giúp NLĐ có cơ hội được học nghề, tìm kiếm những
cơng việc mới phù hợp với họ, để họ có nền tảng phát triển, phấn đấu vươn lên.
Bảo hiểm thất nghiệp được thực hiện sẽ bảo vệ NLĐ, tạo ra chỗ dựa về
vật chất và tinh thần cho NLĐ khi lâm vào tình trạng mất việc làm. Việc thừa

nhận sức lao động là hàng hóa trong nền kinh tế thị trường một mặt thúc đẩy sự
phát triển năng động của thị trường lao động, mặt khác cũng tạo ra hậu quả là tỷ
lệ thất nghiệp gia tăng, giá cả sức lao động bị hạ thấp do ảnh hưởng của cung,
cầu trên thị trường lao động. Trong điều kiện cạnh tranh khắc nghiệt, số lượng
các doanh nghiệp bị giải thể hoặc phá sản cũng tăng lên, kéo theo là tình trạng
mất việc làm của hàng loạt NLĐ. Do đó, chế độ BHTN được coi là "lưới an
toàn" để bảo vệ NLĐ trong cơ chế thị trường, hạn chế những tác động tiêu cực
của kinh tế thị trường đến đời sống của NLĐ và góp phần bảo vệ NLĐ một cách
tồn diện. BHTN chính là cơ sở để thực hiện chính sách việc làm linh hoạt trong
nền kinh tế thị trường.
- Đối với người sử dụng lao động:
Bảo hiểm thất nghiệp cũng có ý nghĩa đối với NSDLĐ. Nhờ có chế độ
BHTN nên khi những NLĐ tại doanh nghiệp bị mất việc làm, NSDLĐ sẽ không
phải bỏ ra một khoản lớn để chi trả quyền lợi cho NLĐ. Vì vậy, gánh nặng tài
chính của doanh nghiệp được san sẻ, đặc biệt trong những thời kỳ khó khăn,
buộc phải thu hẹp sản xuất, nhiều NLĐ thất nghiệp. Hơn nữa, khi đã tham gia
BHTN và biết rõ quyền được trợ cấp thất nghiệp, NLĐ sẽ yên tâm làm việc, tạo
ra năng suất và chất lượng cao trong q trình sản xuất. Điều này góp phần tăng
lợi nhuận và hiệu quả sử dụng sức lao động.


11
- Đối với Nhà nước và xã hội.
Bảo hiểm thất nghiệp giúp ổn định nền kinh tế, an sinh xã hội trong một
đất nước, giúp kiềm chế lạm phát kinh tế, đảm bảo được trật tự an toàn xã hội.
BHXH cịn góp phần duy trì sức tiêu dùng của người tiêu dùng, tạo sự cân bằng
trong hoạt động cung cầu của hàng hóa, từ đó giúp phát triển, mở rộng thị
trường lao động, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước và doanh nghiệp.
Chế độ BHTN được thực hiện, quan hệ giữa NLĐ với doanh nghiệp và
Nhà nước bớt căng thẳng, các cuộc bãi cơng, biểu tình cũng được hạn chế. Nhà

nước nhờ đó giảm bớt các mối lo đối phó với sự bất ổn gia tăng về chính trị, xã
hội. Các tệ nạn xã hội và tình trạng phạm tội do thất nghiệp cũng được hạn chế ở
một mức độ nhất định.
1.2. Điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
1.2.1. Khái niệm và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật bảo hiểm
thất nghiệp
* Khái niệm pháp luật bảo hiểm thất nghiệp
Pháp luật theo nghĩa chung nhất được hiểu là hệ thống các quy tắc xử sự
do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm, thể hiện ý chí của giai cấp thống
trị nhằm điều chỉnh quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp mình. Pháp
luật là hệ thống các quy tắc mang tính chuẩn mực, ảnh hưởng lớn đến đời sống
xã hội, đến cách ứng xử của con người trong xã hội. BHTN có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong việc đảm bảo thu nhập cho NLĐ bị mất việc làm. Đây được
xem là chính sách quan trọng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, là một
bộ phận cấu thành của An sinh xã hội nên được ghi nhận trong các văn bản pháp
luật. Pháp luật của nhiều nước cũng đã ghi nhận vấn đề này và điều chỉnh ở
nhiều nội dung khác nhau như đối tượng tham gia, điều kiện hưởng, chế độ
hưởng, quỹ BHTN…Tuy nhiên do điều kiện kinh tế xã hội của các nước khác
nhau mà pháp luật cũng có sự quy định khác nhau về BHTN.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm pháp luật về BHTN như
sau: Pháp luật về BHTN được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do cơ


12
quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực BHTN.
Quan hệ phát sinh trong lĩnh vực BHTN thường bao gồm: quan hệ trong
việc hình thành quỹ BHTN (quan hệ giữa người tham gia BHTN với cơ quan
BHXH trong việc đóng góp hình thành quỹ BHTN) và quan hệ chi trả các chế
độ BHTN (quan hệ giữa cơ quan BHXH và người được hưởng BHTN). Bởi vậy,

những vấn đề phát sinh trong lĩnh vực BHTN được các quy phạm pháp luật điều
chỉnh thường là: đối tượng tham gia BHTN, các chế độ BHTN, thủ tục hưởng
BHTN, quỹ BHTN…
* Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật bảo hiểm thất nghiệp
- Bảo hiểm thất nghiệp sẽ bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người
tham gia BHTN.
Theo đó, BHTN dựa trên sự tương trợ giữa các cá nhân trong xã hội,
nhằm lấy số đơng bù số ít. Trong thực tế, khơng phải NLĐ nào tham gia bảo
hiểm thật nghiệp đều được hưởng trợ cấp thất nghiệp, có những người trong suốt
quá trình cơng tác khơng bị mất việc, nghỉ việc cho đến khi họ nghỉ hưu, chính vì
vậy, họ khơng được hưởng khoản trợ cấp thất nghiệp này. Chỉ khi rủi ro xảy ra,
NLĐ bị mất việc làm, bị mất một khoản thu nhập, NLĐ đáp ứng được đầy đủ yêu
cầu theo quy định của pháp luật thì họ mới được hưởng trợ cấp thất nghiệp. Chính
vì vậy BHTN trước hết chính là sự chia sẻ rủi ro giữa những NLĐ với nhau.
Ngồi ra, ở một góc độ nào đó NSDLĐ tuy không phải là đối tượng
được hưởng trợ cấp thất nghiệp, tuy nhiên nhằm chia sẻ rủi ro đối với NLĐ,
NSDLĐ cũng tham gia đóng BHTN cho NLĐ của mình.
Chính vì vậy, nguyên tắc bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham
gia BHTN là một trong những nguyên tắc quan trọng bảo BHTN, nếu khơng có
ngun tắc này BHTN sẽ không mang ý nghĩ xã hội thiết yếu của nó nữa.
- Mức đóng BHTN được tính trên cơ sở tiền lương của NLĐ.
Nguyên tắc này cũng giống như nguyên tắc đặc thù của BHXH. Mức
hưởng của BHXH cũng được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH
và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH.


13
Tham gia BHTN là một biện pháp nhằm bảo đảm an toàn cho NLĐ khi
học bị mất việc làm, đây sẽ là khoản thu nhập giúp họ trang trải cuộc sống của
bản thân. Tuy nhiên, mức đóng BHTN cũng cần dựa trên cơ sở tiền lương của

NLĐ, nếu mức đóng quá cao sẽ không thu hút được NLĐ tham gia, dẫn đến việc
quản lý NLĐ sẽ gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, đây cũng là ngun tắc có ý
nghĩa quan trọng của BHTN.
- Mức hưởng BHTN được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHTN.
Mức đóng BHXH bắt buộc, BHTN được tính trên cơ sở tiền lương, tiền
cơng của NLĐ. Mức đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập do
NLĐ lựa chọn nhưng mức thu nhập này không thấp hơn mức lương tối thiểu chung.
Nguyên tắc này thể hiện được sự công bằng của BHXH nói chung. Trợ
cấp thất nghiệp là khoản tiền BHTN chi trả cho NLĐ khi đáp ứng được đầy đủ
các yêu cầu của pháp luật quy định, NLĐ đóng mức BHTN như thế nào thì họ
sẽ được hưởng theo mức họ đóng như vậy, nó thể hiện sự cơng bằng giữa những
người tham gia BHTN và những người hưởng BHTN. Tuy nhiên, mức hưởng
BHTN có một giới hạn nhất định, nên cần tính tốn cho phù hợp về mức đóng
và mức hưởng BHTN hiện nay.
- Việc thực hiện BHTN phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp
thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia.
Bảo hiểm thất nghiệp cần được giải quyết đơn giản, dễ dàng, thuận tiện
nhằm giúp bù đắp, hỗ trợ kịp thời cho NLĐ trong lúc khó khăn. Nếu việc thực
hiện phức tạp, khó khăn, hỗ trợ khơng kịp thời đến NLĐ thì BHTN khơng cịn
mang được ý nghĩa của nó nữa. Chính vì vậy, việc thực hiện BHTN phải được
đơn giản hóa, dễ dàng, thuận tiện để mọi NLĐ có thể được tham gia và không
gặp trở ngại.
- Quỹ BHTN được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch,
bảo đảm an toàn và được Nhà nước bảo hộ.
Quỹ BHTN cần được quản lý tập trung, thống nhất, đảm bảo tính công
khai, minh bạch, đảm bảo phản ánh đúng và đầy đủ các khoản thu, chi của quỹ.


14
Có như vậy, mới đảm bảo kiểm sốt được nguồn thu chi và dự tính được để đưa

ra những phương án dự phịng đảm bảo an tồn duy trì quỹ lâu dài. Bên cạnh đó,
việc cơng khai quỹ giúp hạn chế tình trạng trục lợi bảo hiểm, tham ơ tiền bảo
hiểm của NLĐ.
Như vậy, BHTN đã kết hợp chế độ trợ cấp tạm thời với chế độ giải quyết
việc làm cho người thất nghiệp. Điều này thể hiện tính xã hội vô cùng sâu sắc
phù hợp với đường lối phát triển kinh tế đi liền với hài hịa chính sách về việc
làm cho người ao động. Bên cạnh đó, BHTN vừa bù đắp thu nhập, vừa tạo động
lực tích cực cho người thất nghiệp chủ động tìm cơ hội trở lại làm việc.
1.2.2. Nội dung pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
Bảo hiểm thất nghiệp đã xuất hiện từ rất lâu. Từ thế kỷ thứ XIX, đã có
những hình thức đầu tiên về BHTN được áp dụng đối với những người thợ ở
Bohemia và Basel của Thụy Sĩ. Những hình thức này là tiền đề hình thành nên
quỹ BHTN của các tổ chức cơng đồn ở Châu Âu trong thời kỳ đó, nhằm áp
dụng trả nợ khi NLĐ mất việc làm.
Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) cũng ban hành một số Công ước về
BHTN như: Công ước số 44 của Tổ chức lao động quốc tế (năm 1934); Công
ước số 102 về Quy phạm tối thiểu về an toàn lao động (năm 1952); Công ước số
168 về Xúc tiến việc làm và bảo vệ chống lại thất nghiệp (năm 1988). Nhiều
quốc gia trên thế giới cũng có quy định về BHTN.
Tùy theo điều kiện kinh tế xã hội mà các quốc gia có những quy định
khác nhau về BHTN song nhìn chung đều quy định ở một số nội dung như: đối
tượng tham gia BHTN, chế độ BHTN; quỹ BHTN.
* Về đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) và pháp luật của các nước đều quy định
đối tượng tham gia BHTN là những người làm cơng ăn lương, cịn những NLĐ
độc lập (tự do) thì khơng thuộc đối tượng tham gia BHTN. Tuy nhiên, Điều 2,
Công ước số 44 của Tổ chức lao động quốc tế năm 1934 cũng có có nhắc đến
tùy vào hồn cảnh của mỗi nước mà có thêm các trường hợp ngoại lệ đối với



15
một số đối thượng tham gia BHTN như: người giúp việc nhà, NLĐ làm việc tại
nhà, công chức nhà nước có việc làm ổn định, NLĐ có thu nhập cao có thể tham
gia để phịng chống rủi ro, NLĐ làm việc theo mùa vụ, những NLĐ trẻ gần đến
tuổi lao động theo quy định, NLĐ đã vượt quá tuổi quy định… và một số đối
tượng khác. Tuy nhiên, Công ước này không áp dụng cho những đối tượng như
thủy thủ, thủy thủ đánh cá và lao động nông nghiệp 2.
Ở Trung Quốc vào thời kỳ đầu thực hiện (năm 1986), BHTN được áp
dụng cho NLĐ được tuyển dụng vào doanh nghiệp Nhà nước nhưng sau đó (đến
năm 1999) Trung Quốc đã thơng qua Điều lệ BHTN, theo đó BHTN được áp
dụng cho NLĐ làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Ở
Đức BHTN cũng được áp dụng cho các lao động làm việc theo chế độ hợp đồng
lao động.
* Về chế độ bảo hiểm thất nghiệp
Bảo hiểm thất nghiệp được thực hiện nhằm mục đích hỗ trợ thu nhập cho
NLĐ trong thời gian mất việc đồng thời có những biện pháp đưa NLĐ quay trở
lại thị trường lao động. Chính vì vậy khi quy định về chế độ BHTN pháp luật
các nước quy định bao gồm cả chế độ trợ cấp thất nghiệp và các chế độ hỗ trợ
khác như đào tạo nghề, giới thiệu việc làm…
- Trợ cấp thất nghiệp
Trợ cấp thất nghiệp được ILO và pháp luật các nước quy định ở các nội
dung: điều kiện hưởng trợ cấp, mức trợ cấp, thời gian hưởng trợ cấp.
+Về điều kiện hưởng trợ cấp
Theo công ước số 44 của Tổ chức lao động quốc tế thế giới, người thất
nghiệp cần phải có đầy đủ các yếu tố sau mới được hưởng BHTN, cụ thể như:
NLĐ cần có năng lực làm việc và sẵn sàng làm việc nhưng hiện tại khơng có
việc làm; NLĐ có đăng ký tìm việc tại cơ quan có thẩm quyền xác nhận hay tại
một trung tâm đào tạo và giới thiệu việc làm do Nhà nước quản lý; NLĐ có sổ
BHTN để chứng nhận có tham gia đóng BHTN đủ thời hạn quy định của thời kỳ
2


, Xem công ước số 44 năm 1934 của ILO.


16
dự bị; Trước đó khơng tự ý nghỉ việc vơ cớ hoặc khơng phải bị nghỉ việc vì kỷ
luật hay tranh chấp nghề nghiệp; NLĐ có giấy chứng nhận mức lương hay thu
nhập trước khi bị thất nghiệp trong trường hợp trả trợ cấp theo mức lương.
Trong trường hợp NLĐ bị mất việc do lỗi cố ý của mình hoặc do tự ý bỏ
việc khơng có lý do chính đáng, từ chối một việc làm phù hợp do cơ quan giới
thiệu việc làm tìm cho hay có hành vi gian lận để hưởng trợ cấp thì NLĐ có thể
bị mất quyền hưởng trợ cấp BHTN.
Ở các nước tùy theo điều kiện kinh tế xã hội của mỗi quốc gia mà các
nước có sự quy định khác nhau về điều kiện hưởng trợ cấp. Chẳng hạn như ở
Pháp quy định là 3 tháng trong vòng 12 tháng cuối trước khi thất nghiệp. Ở Trung
Quốc NLĐ có tối thiểu 1 năm tham gia BHTN, không tự nguyện thôi việc3
+ Về mức hưởng trợ cấp BHTN
Nhìn chung các quốc gia trên thế giới đều cho rằng: khi mất việc làm,
NLĐ sẽ mất phương tiện mưu sinh do nguồn thu nhập khơng cịn. Chính vì vậy,
cần giúp đỡ họ làm giảm bớt khó khăn trong cuộc sống trong thời gian chờ tìm
được việc làm mới. Trong khoảng thời gian này, BHTN sẽ cung cấp cho họ
khoản trợ cấp tạm thời để ổn định cuộc sống, khoản trợ cấp này được trả hàng
tháng và bằng tiền mặt. Ngoài phần trợ cấp bằng tiền mặt, người thất nghiệp còn
được đào tạo nghề nghiệp mới và giúp tìm việc làm mới phù hợp với khả năng.
Ở một số nước, quỹ BHTN cịn trả chi phí chun chở đồ giúp người
thất nghiệp di chuyển tới nơi làm việc mới. Mọi sự trợ giúp này đều nhằm giúp
NLĐ đang thất nghiệp vượt qua khó khăn, có thể sớm trở lại cuộc sống sinh hoạt
bình thường.
Tuy nhiên, về mức hưởng BHTN hiện nay cịn có hai quan điểm đang
phát sinh. Quan điểm thứ nhất cho rằng mức trợ BHTN phải bảo vệ được lợi ích

tối thiểu cho NLĐ. Ðiều này có nghĩa là mức trợ cấp phải đủ giúp NLĐ giải
quyết các nhu cầu thiết yếu như đồ ăn, nhà ở, nhu cầu sinh hoạt... để sống đến
3

. Lê Thị Hoài Thu, chế độ bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện nề kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận án tiến
sĩ, năm 2005, tr. 57.


17
khi chờ tìm được việc làm mới. Với quan điểm này, thì mức trợ cấp BHTN phải
đồng loạt bằng nhau cho mọi người khi tham gia BHTN. Quan điểm thứ hai lại
cho rằng mức trợ cấp BHTN phải đảm bảo mức sống gần với mức sống trước
khi thất nghiệp của từng loại đối tượng. Hay có thể hiểu mức trợ cấp này phải
tương đối so với mức lương của NLĐ được lĩnh trước khi thất nghiệp.
Từ hai quan điểm về mức hưởng trợ cấp BHTN, dẫn đến mức đóng phí
BHTN là khác nhau. Với quan điểm thứ nhất, NLĐ sẽ đóng một khoản cố định
và hưởng theo một khoản cố định như vậy. Còn với quan điểm thứ hai, sẽ đóng
theo mức lương và được hưởng theo mức lương mà NLĐ đã đóng.
Theo quan điểm của ILO, mức trợ cấp thất nghiệp tối thiểu bằng 45% thu
nhập trước khi thất nghiệp. Cịn thơng thường ở các nước mức trợ cấp trong khoảng
từ 50% - 60% tiền lương trước khi thất nghiệp (như Trung Quốc, Mông Cổ…).
+ Về thời gian hưởng trợ cấp BHTN
Điều 24, Công ước số 102 của Tổ chức lao động quốc tế có quy định:
"Trợ cấp thất nghiệp có thể trả suốt thời gian người lao động bị mất việc làm
ngồi ý muốn, và đơi khi trợ cấp này cũng có thể hạn chế trong nhiều trường
hợp đối với các loại đối tượng hưởng trợ cấp. Riêng đối với đối tượng hưởng
trợ cấp là người làm công ăn lương, thời gian hưởng trợ cấp có thể bị hạn chế
trong khoảng 13 tuần trong từng thời kỳ 12 tháng". Như vậy, tùy vào thời gian
tham gia BHTN của NLĐ dài hay ngắn mà chia ra những thời gian hưởng trợ
cấp thất nghiệp khác nhau. Mỗi quốc gia có những quy định riêng về thời gian

hưởng trợ cấp BHTN. Chẳng hạn như ở Đức là 13 tuần, Anh 24 tuần, Canada 36
tuần. Tuy nhiên cũng có nước quy định thời gian hưởng thất nghiệp tối đa là 1
năm (như Việt Nam), 2 năm (như Trung Quốc)4.
+ Về thủ tục giải quyết trợ cấp BHTN
Pháp luật của đa số các nước đều quy định để được hưởng BHTN, NLĐ
phải thực hiện những thủ tục nhất định. Một trong những thủ tục quan trọng là
4

. Lê Thị Hoài Thu, chế độ bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện nề kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận án tiến
sĩ, năm 2005, tr. tr. 62.


18
NLĐ phải đăng ký thất nghiệp, đăng ký tìm việc làm tại cơ quan có thẩm quyền.
Chẳng hạn như ở Nhật phải đăng ký tại cơ quan bảo đảm việc làm quốc gia, ở
Anh phải đăng ký tại văn phòng lao động.
- Các chế độ hỗ trợ khác
Ngoài trợ cấp thất nghiệp, pháp luật các nước còn quy định một số các
chế độ trợ cấp khác nhằm hỗ trợ NLĐ thất nghiệp quay trở lại thị trường lao
động. Các chế độ này thường là chế độ hỗ trợ đào tạo nghề và chế độ giới thiệu
việc làm miễn phí cho NLĐ.
Chẳng hạn như ở Trung Quốc song hành với việc hỗ trợ tiền hàng tháng
cho người thất nghiệp, chế độ BHTN ở Trung Quốc đã chú trọng và yêu cầu tìm
kiếm việc làm của người thất nghiệp là tiêu chí để được hưởng trợ cấp Hay như
ở Đan Mạch, Chính phủ ln quan tâm đến việc phát triển chính sách thị trường
lao động tích cực nhằm góp phần đảm bảo thị trường lao động hoạt động tốt.
Chi tiêu công của Đan Mạch cho chính sách thị trường lao động tích cực là đáng
kể. Theo dữ liệu của Eurostat, tổng chi phí cho chính sách thị trường lao động ở
Đan Mạch năm 2017 lên tới 3,7% GDP. Chi phí của chính sách thị trường lao
động tích cực là 1,5% GDP, trong đó khoảng một phần ba được tài trợ cho các

biện pháp đào tạo. Việc thay đổi các biện pháp giúp đỡ NLĐ thất nghiệp được
khởi xướng thay đổi từ giữa những năm 1990 đã thay đổi hoàn toàn hệ thống từ
việc tập trung thụ động vào duy trì thu nhập sang tập trung tích cực hơn vào việc
tạo ra cơ hội người thất nghiệp có việc làm.
* Về quỹ bảo hiểm thất nghiệp
Nguồn hình thành quỹ BHTN từ nguồn đóng góp của NLĐ, NSDLĐ và
Nhà nước. Đối với những NLĐ độc lập thì có hai nguồn hình thành quỹ BHTN
là: NLĐ và Nhà nước.
Ở các quốc gia trên thế giới, việc đóng góp BHTN do Nhà nước và
NSDLĐ thực hiện, bởi vì trong quan hệ hợp đồng lao động, NSDLĐ phải có
trách nhiệm về các rủi ro (trong đó có rủi ro thất nghiệp) xảy ra cho NLĐ mà họ
đang sử dụng.


19
Sự tham gia của Nhà nước cũng là điều kiện vơ cùng thiết yếu, bởi vì thất
nghiệp là một vấn đề nan giải của xã hội. Do vậy, với các quốc gia chưa thực hiện
BHTN thì Nhà nước thực hiện chính sách trợ giúp xã hội về thất nghiệp (cứu trợ
cho người thất nghiệp). Còn với những quốc gia thực hiện BHTN thì Nhà nước
phải đóng góp thường xun cho quỹ BHTN bằng cách trích một phần tiền thuế
theo một tỷ lệ cố định tính trên khoản đóng góp của NSDLĐ và NLĐ; hoặc Nhà
nước chỉ tham gia với tư cách bảo trợ cho quỹ khi phần đóng góp của NLĐ và
NSDLĐ khơng đủ đáp ứng các chi phí hoặc dự trữ của quỹ bị ảnh hưởng do các
biến động về tiền tệ khi Nhà nước thay đổi các chính sách kinh tế - xã hội.
Ngoài ra, NLĐ cũng cần đóng góp, để cho họ ý thức được ý nghĩa của
việc dự phịng cá nhân.
Về hình thức đóng góp, tùy mỗi quốc gia có quy định về các hình thức
khác nhau, nhưng chủ yếu là hai hình thức: đóng theo một khoản cố định và
hưởng theo một khoản cố định hoặc đóng theo mức lương và hưởng theo mức
lương. Mỗi loại hình thức đều có mục đích và ý nghĩa riêng.

Tùy vào tình hình kinh tế - xã hội, an sinh của từng quốc gia mà quỹ
BHTN có tỷ lệ đóng góp khác nhau, tuy nhiên, chủ yếu tỷ lệ đóng góp vẫn dựa
trên các hình thức:
Thứ nhất, NSDLĐ đóng bằng NLĐ theo tỷ lệ 1:1, phương thức này cả
hai bên cùng chia sẻ gánh nặng về BHTN.
Thứ hai, NSDLĐ sẽ phải đóng gấp đơi NLĐ theo tỉ lệ 2:1, phương thức
này thể hiện sự quan tâm của NSDLĐ đối với NLĐ.
Trong trường hợp cịn thiếu thì nhà nước bù. Những nước theo quan
điểm này có thể kể đến như Đức, Pháp, Trung Quốc
Tuy nhiên cũng có nước Nhà nước chi trả tồn bộ, NLĐ và NSDLĐ
khơng phải đóng như Úc.
* Về tổ chức thực hiện BHTN và xử lý vi phạm pháp luật về BHTN
- Về tổ chức thực hiện BHTN
Bảo hiểm thất nghiệp không chỉ nhằm mục tiêu trợ cấp cho NLĐ trong
thời gian bị mất việc làm mà còn hỗ trợ NLĐ quay lại thị trường lao động. Bởi


20
vậy cơ quan thực hiện BHTN khơng chỉ có cơ quan BHXH mà cịn có các cơ
quan khác. Pháp luật các nước nhìn chung đều quy định tổ chức dịch vụ việc
làm và cơ quan BHXH là những cơ quan có trách nhiệm thực hiện BHTN.
Trung tâm dịch vụ việc làm vừa là nơi NLĐ đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp,
nơi NLĐ đăng ký tìm kiếm việc làm và cũng là nơi tư vấn giới thiệu việc làm
cho NLĐ. Vì vậy trung tâm dịch vụ việc làm (tổ chức dịch vụ việc làm cơng) có
vai trị hết sức quan trọng trong việc thực hiện BHTN. Chẳng hạn như ở Đan
Mạch Dịch vụ việc làm cơng (PES) có trách nhiệm cung cấp dịch vụ cho công
chúng và đảm bảo rằng các doanh nghiệp và tổ chức có thể có được lao động họ
cần. Các chức năng hoạt động khác bao gồm hướng dẫn và đào tạo nghề cho
người tìm việc và một loạt các biện pháp như đào tạo nghề tư nhân và công cộng
để hỗ trợ công dân tham gia lại thị trường lao động.

- Xử lý vi phạm pháp luật về BHTN
Xử lý vi phạm pháp luật về BHTN cũng là một trong những nội dung mà
pháp luật các nước quan tâm nhằm đảm bảo tăng cường việc thực hiện pháp luật
về BHTN. Các trách nhiệm pháp lý mà các quốc gia áp dụng đối với hành vi vi
phạm pháp luật về BHTN thường là trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình
sự. Tùy theo mức độ vi phạm mà hành vi vi phạm pháp luật về BHTN bị xử phạt
hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật về bảo
hiểm thất nghiệp
- Yếu tố pháp luật
Pháp luật là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thực
thi pháp luật về BHTN. Bởi lẽ pháp luật có đầy đủ, có chặt chẽ mới tạo được
khung pháp lý để điều chỉnh những vấn đề phát sinh trong lĩnh vực BHTN, đảm
bảo cho các chủ thể thực hiện một cách nghiêm minh các quy định của pháp
luật. Trường hợp pháp luật cịn có những bất cập, cịn tồn tại các mâu thuẫn, có
những cách hiểu, cách áp dụng khác nhau thì khó có thể thực thi nghiêm minh
các quy định của pháp luật. BHTN là lĩnh vực phức tạp, dễ dẫn đến sự lạm dụng


21
và trục lợi quỹ BHTN, chính vì vậy hệ thống pháp luật về BHTN phải hết sức
chặt chẽ, rõ ràng nếu khơng sẽ có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động thực hiện
pháp luật về BHTN.
Bởi vậy, "chất lượng" của pháp luật về BHTN là yếu tố đảm bảo đầu tiên
để thực hiện pháp luật, bởi lẽ khơng có pháp luật có chất lượng sẽ rất khó khăn
để đưa pháp luật vào cuộc sống, trở thành hiện thực. Muốn thực hiện pháp luật
tốt, điều quan trọng nhất là phải có được hệ thống pháp luật có chất lượng, nếu
khơng sẽ rất khó khăn trong tổ chức thực hiện. Vì vậy, để thực hiện pháp luật về
BHTN thì hệ thống pháp luật về BHTN phải đầy đủ, toàn diện, thuận tiện cho
mọi chủ thể liên quan trong tiếp cận và sử dụng. Nội dung của pháp luật về

BHTN phải rõ ràng, công khai, minh bạch để các chủ thể dễ dàng tiếp cận, nắm
bắt, hiểu biết và tự giác tổ chức thực hiện trên thực tế. Bên cạnh đó, hệ thống
pháp luật về BHTN phải có đầy đủ điều kiện để bảo đảm tổ chức thực thi trên
thực tế.
1.3.2. Yếu tố kinh tế - xã hội
Yếu tố kinh tế bao gồm tổng thể các điều kiện, hoàn cảnh về kinh tế - xã
hội, hệ thống các chính sách kinh tế, chính sách xã hội và việc triển khai thực
hiện, áp dụng chúng trong thực tế xã hội. Nền kinh tế - xã hội phát triển năng
động, bền vững sẽ là điều kiện thuận lợi cho hoạt động thực hiện pháp luật về
BHTN, tác động tích cực tới việc nâng cao hiểu biết pháp luật về BHTN. Cụ thể
nền kinh tế phát triển thì vấn đề việc làm của NLĐ cũng được giải quyết nên số
lượng NLĐ bị mất việc làm sẽ ít đi, quỹ BHTN không phải chi trả nhiều, đảm
bảo sự ổn định của quỹ. Ngược lại, nền kinh tế - xã hội chậm phát triển, kém
năng động và hiệu quả khiến nhiều NLĐ bị mất việc làm thì số lượng người
hưởng BHTN tăng lên. Điều đó sẽ có thể ảnh hưởng tiêu cực tới việc thực hiện
pháp luật về BHTN bởi nhiều NLĐ sẽ nghĩ đến việc trục lợi quỹ BHTN.
1.3.3. Yếu tố chính trị
Yếu tố chính trị là tồn bộ yếu tố tạo nên đời sống chính trị của xã hội ở
từng giai đoạn lịch sử nhất định, bao gồm mơi trường chính trị, hệ thống các


22
chuẩn mực chính trị, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và quá trình tổ
chức, thực hiện chúng; các quan hệ chính trị và ý thức chính trị, hoạt động của
hệ thống chính trị. Cùng với đó là nền dân chủ xã hội và bầu khơng khí chính trị
- xã hội. Yếu tố chính trị có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hiệu quả của hoạt động thực
hiện pháp luật về BHTN của các chủ thể. Một đất nước có mơi trường chính trị
ổn định là điều kiện thuận lợi đối với hoạt động thực hiện pháp luật về BHTN.
Một đất nước bất ổn về chính trị sẽ dẫn đến việc thực hiện pháp luật về BHTN
không tốt.

1.3.4. Yếu tố ý thức pháp luật của các chủ thể
Ý thức pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ BHTN cũng là một
trong các yếu tố có ảnh hưởng quan trọng trong việc thực thi pháp luật về
BHTN. Ý thức pháp luật của các chủ thể thể hiện ở việc nhận thức và hiểu biết
pháp luật của các chủ thể về BHTN. Để pháp luật BHTN được thực thi pháp luật
một cách thống nhất, hiệu quả, đòi hỏi các chủ thể phải nhận thức đầy đủ về
pháp luật; đặc biệt, phải nâng cao nhận thức pháp luật các chủ thể trực tiếp thực
thi, áp dụng pháp luật về BHTN như NLĐ, NSDLĐ, cơ quan lao động, BHXH...
Nhận thức pháp luật bao gồm hiểu biết kiến thức cơ bản về pháp luật về BHTN.
Việc hình thành kiến thức cơ bản về pháp luật giúp cho các chủ thể đạt được
trình độ hiểu biết nhất định, hình thành lịng tin đối với pháp luật, tự giác điều
chỉnh hành vi xử sự của mình cho phù hợp với quy định của pháp luật. Thực tế
đã chứng minh, một trong những nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong việc
thực thi pháp luật nói chung và pháp luật BHTN nói chung chính là ý thức pháp
luật của các chủ thể không tốt. Bởi vậy một trong những biện pháp nhằm nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật về BHTN chính là nâng cao ý thức pháp luật
của các chủ thể trong lĩnh vực này mà đặc biệt là NLĐ, NSDLĐ và các cán bộ
trong các cơ quan lao động, cơ quan BHXH ….
Kết luận chương 1
Bảo hiểm thất nghiệp là loại hình bảo hiểm hết sức quan trọng trong nền
kinh tế thị trường. Khác với các chế độ BHXH khác, không phải quốc gia nào


×