Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học-pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai và thực tiễn thi hành tại huyện kim bôi, tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.98 KB, 72 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI TRANH CHẤP
ĐẤT ĐAI TẠI VIỆT NAM

7

1.1. Lý luận về tranh chấp đất đai

7

1.2. Lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai

11

1.3. Lý luận về hòa giải tranh chấp đất đai tại chính quyền cấp cơ sở

19

1.4. Lý luận pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai

27

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI TRANH CHẤP
ĐẤT ĐAI VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI HUYỆN KIM
BÔI, TỈNH HỊA BÌNH


2.1. Thực trạng pháp luật hịa giải tranh chấp đất đai

35
35

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về hịa giải tại huyện Kim Bơi, tỉnh
Hịa Bình

47

Chương 3: GIẢI PHÁP HỒN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỊA GIẢI
TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI
HÀNH TẠI HUYỆN KIM BƠI, TỈNH HỊA BÌNH

56

3.1. Định hướng hồn thiện pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai và
nâng cao hiệu quả thi hành tại huyện Kim Bơi, tỉnh Hịa Bình

56

3.2. Giải pháp hồn thiện pháp luật về hịa giải tranh chấp đất đai và
nâng cao hiệu quả thi hành tại huyện Kim Bơi, tỉnh Hịa Bình

62

KẾT LUẬN

66


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÀO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước thực
hiện đổi mới cơ chế quản lý đất đai bằng việc trả lại đất đai những giá trị vốn có thì
tranh chấp đất đai có xu hướng ngày càng tăng cả về số lượng cũng như tính chất
phức tạp về mặt nội dung. Theo Báo cáo số 48/TANDTC-TK ngày 17/03/2010 của
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về việc trả lời chất vấn Đại biểu Quốc hội tại
Phiên họp thứ 29 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XII: "Trong thời gian gần
đây, các tranh chấp đất đai do Tòa án giải quyết tăng về số lượng và phức tạp hơn
về tính chất. Chỉ tính riêng tranh chấp về quyền sử dụng đất (khơng tính tranh chấp
về tài sản gắn liền với đất) thì năm 2007, Tòa án nhân dân thụ lý 19.564 vụ; năm
2008, thụ lý 19.730 vụ; năm 2009, thụ lý 20.080 vụ. Trong đó, tranh chấp về đất
cho mượn, lấn đất, chiếm đất chiếm khoảng 50% trên tổng số các vụ án tranh chấp
đất đai; tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chiếm trên 27%;
còn lại là tranh chấp khác về đất đai". Như vậy, tranh chấp đất đai nếu khơng được
giải quyết kịp thời dễ trở thành "điểm nóng" gây mất ổn định chính trị, trật tự an
tồn xã hội. Số lượng các vụ tranh chấp đất đai ngày càng tăng gây áp lực rất lớn
đối với các cơ quan nhà nước. Mặt khác, do số lượng có hạn của đội ngũ cán bộ,
công chức nhà nước lên không thể giải quyết kịp thời, dứt điểm các tranh chấp đất
đai phát sinh. Vì vậy, việc hịa giải tranh chấp đất đai là một giải pháp nhằm giảm bớt
áp lực đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp đất
đai. Hơn nữa, hòa giải tranh chấp đất đai phù hợp với tâm lý của người dân trong việc
hóa giải bất đồng, mâu thuẫn và duy trì sự đồn kết trong nội bộ nhân dân; nên được đa
số người dân lựa chọn. Luật đất đai năm 1993 và Luật đất đai năm 2003 có các quy
định về hòa giải tranh chấp đất đai. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Luật đất đai năm 2003

cho thấy còn thiếu một số quy định liên quan đến hòa giải tranh chấp đất đai mà điểm
dễ nhận thấy nhất là sau khi hòa giải thành mà một trong các bên đương sự thay đổi ý
kiến và có đơn đề nghị Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (gọi chung là Ủy ban


2
nhân dân cấp xã) hịa giải lại thì trong trường hợp này có tiến hành hịa giải lại
khơng?. Hoặc trong trường hợp một bên đương sự cố tình vắng mặt thì có coi là hịa
giải khơng thành khơng v.v... Khắc phục khiếm khuyết này, Luật đất đai năm 2013
ra đời đã sửa đổi, bổ sung quy định về hòa giải tranh chấp đất đai. Điều này đặt ra
yêu cầu cần nghiên cứu, tìm hiểu các quy định về hịa giải tranh chấp đất đai của
Luật đất đai năm 2013 nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thi hành đạo Luật này.
Kim Bơi là một huyện miền núi của tỉnh Hịa Bình. Kể từ khi thực hiện đổi
mới, đất đai được trả lại các giá trị ban đầu vốn có của nó. Việc đưa đất đai vận
động trên thị trường thơng qua việc chuyển quyền sử dụng đất đã khiến đất đai ngày
càng trở lên có giá. Mặt khác, sự phát triển năng động trong những năm gần đây
làm cho người dân thấy được vị trí và giá trị của đất đai. Điều này vơ hình chung
làm cho tranh chấp đất đai có xu hướng gia tăng. Tranh chấp đất đai khơng chỉ làm
mất ổn định chính trị, trật tự an tồn xã hội mà cịn phá vỡ tình đồn kết trong nội
bộ Nhân dân, trong gia đình và khiến sản xuất bị ngưng trệ v.v... Để giải quyết tình
trạng này, các cấp ủy, chính quyền của huyện Kim Bơi đã có nhiều giải pháp thực
hiện mà một trong những giải pháp này là tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai. Tỷ
lệ % số vụ hòa giải thành ngày càng tăng đã góp phần duy trì sự ổn định chính trị xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh Luật đất đai năm 2013 được ban hành với những
sửa đổi, bổ sung về hịa giải tranh chấp đất đai thì việc tìm hiểu, nghiên cứu là cần
thiết đặt trong mối quan hệ tham chiếu với thực tiễn hòa giải tại huyện Kim Bơi.
Đây là việc làm thiết thực góp phần đưa Luật đất đai năm 2013 nhanh chóng đi vào
cuộc sống và phát huy tác dụng tích cực.
Với các lý do cơ bản trên, tôi lựa chọn đề tài "Pháp luật về hòa giải tranh
chấp đất đai và thực tiễn thi hành tại huyện Kim Bơi, tỉnh Hịa Bình" làm luận
văn thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu
Pháp luật hịa giải về hòa giải tranh chấp đất đai là đề tài nhận được sự quan
tâm nghiên cứu của giới luật học nước ta, thời gian qua đã có nhiều cơng trình khoa
học về vấn đề này được cơng bố mà tiêu biểu là một số cơng trình cụ thể sau đây:


3
i) Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật đất đai, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội; ii) Nguyễn Quang Tuyến và Nguyễn Vình Diện (2014), Những điểm
mới trong nội dung các quy định về hòa giải tranh chấp đất đai của Luật đất đai
năm 2013, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 11; iii) Nguyễn Quỳnh Trang (2013),
Hịa giải tranh chấp đất đai tại cấp chính quyền cơ sở, Luận văn thạc sĩ luật học Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội; iv) Bùi Hoàng Nguyên (2016), Thực tiễn thi
hành pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai trên địa bàn Phường 9, Quận 10,
Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
v) Tưởng Duy Lượng (2007), Hịa giải ở cơ sở khi có tranh chấp về quyền sử dụng
đất, Tạp chí tịa án nhân dân, số 4; vi) Quỹ Châu Á và Cơ quan Phát triển quốc tế
Australia (Aus Aid) - Viện Nghiên cứu Chính sách, Pháp luật và Phát triển (PLD)
(2013), Hòa giải tranh chấp đất đai tại Việt Nam - Phân tích pháp luật hiện hành,
các thực tiễn và khuyến nghị cho cải cách, Hà nội - tháng 10 v.v... Các cơng trình
này đã giải quyết được một số vấn đề lý luận và thực tiễn chủ yếu sau đây: Một là,
phân tích lý giải khái niệm, đặc điểm của tranh chấp đất đai và hịa giải tranh chấp
đất đai; mục đích và ý nghĩa của hòa giải tranh chấp đất đai; cơ sở ra đời phương
thức hòa giải tranh chấp đất đai…; Hai là, lý giải cơ sở hình thành chế định pháp
luật về hịa giải tranh chấp đất đai; phân tích khái niệm và đặc điểm của pháp luật
về hòa giải tranh chấp đất đai, đánh giá lịch sử hình thành và phát triển của pháp
luật về hòa giải tranh chấp đất đai; Ba là, bình luận nội dung pháp luật về hòa giải
tranh chấp đất đai và đánh giá thực tiễn thi hành trong phạm vi cả nước nói chung
và ở một số địa phương cụ thể nói riêng; Bốn là, đưa ra định hướng và giải pháp
hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai qua
thực tiễn của một số địa phương cụ thể… Tuy nhiên, xem xét, đánh giá pháp luật về

hòa giải tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng tại huyện Kim Bơi, tỉnh Hịa Bình
một cách có hệ thống, tồn diện và đầy đủ thì vẫn cịn thiếu một cơng trình như vậy.
Trên cơ sở kế thừa những kết quả của các cơng trình khoa học về vấn đề này đã
công bố, luận văn đi sâu nghiên cứu pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai và thực
tiễn thi hành tại huyện Kim Bôi, tỉnh Hịa Bình.


4

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là đề xuất các giải pháp góp phần nâng
cao hiệu quả thực thi các quy định về hòa giải tranh chấp đất đai của Luật đất đai
năm 2013 qua thực tiễn áp dụng tại huyện Kim Bơi, tỉnh Hịa Bình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên
cứu cơ bản như sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai
bao gồm: i) Khái niệm, đặc điểm của hòa giải tranh chấp đất đai; ii) Mục đích, ý
nghĩa của hịa giải tranh chấp đất đai; iii) Các nguyên tắc hòa giải tranh chấp đất đai…
- Nghiên cứu nội dung của pháp luật về về hòa giải tranh chấp đất đai và
đánh giá thực tiễn áp dụng chế định pháp luật này tại huyện Kim Bơi, tỉnh Hịa Bình.
- Đưa ra giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hòa
giải tranh chấp đất từ thực tiễn áp dụng tại huyện Kim Bơi, tỉnh Hịa Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào một số nội dung chủ yếu
sau đây:
- Các quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng, hồn thiện pháp luật đất
đai nói chung và pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai nói riêng trong nền kinh tế

thị trường ở nước ta hiện nay;
- Các quy định của Luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi
hành về hòa giải tranh chấp đất đai;
- Hệ thống lý thuyết, trường phái học thuật về hòa giải tranh chấp đất đai và
pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai.
- Thực tiễn thi hành pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại huyện Kim
Bơi, tỉnh Hịa Bình v.v...


5
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai là một đề tài có phạm vi nghiên cứu
rộng và liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Tuy nhiên trong khuôn
khổ của một bản luận văn thạc sĩ luật học, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu ở
những nội dung cụ thể sau:
- Nghiên cứu, tìm hiểu các quy định về hịa giải tranh chấp đất đai của Luật
Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành;
Tuy nhiên, Luật đất đai năm 2013 quy định có 02 phương thức hịa giải
tranh chấp đất đai bao gồm hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở và hòa giải tranh
chấp đất đai do Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất thực hiện (sau đây
gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất thực hiện). Trong luận văn này, tác
giả giới hạn chỉ đi sâu, nghiên cứu các quy định của Luật đất đai năm 2013 về hòa
giải tranh chấp đất đai do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất thực hiện. Hơn nữa,
luận văn cũng khơng nghiên cứu về hịa giải giải tranh chấp đất đai tiền tố tụng tại
Tòa án nhân dân.
- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về hịa giải tranh chấp đất đai tại
huyện Kim Bơi, tỉnh Hịa Bình.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện nghiên cứu này, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ
bản sau đây:

- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
i) Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp đối chiếu …
được sử dụng tại Chương 1 khi nghiên cứu một số vấn đề lý luận pháp luật về hòa
giải tranh chấp đất đai;
ii) Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương
pháp tổng hợp... được sử dụng tại Chương 2 khi nghiên cứu thực trạng pháp luật về
hòa giải tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng tại huyện Kim Bơi, tỉnh Hịa Bình;


6
iii) Phương pháp bình luận, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn giải…
được sử dụng tại Chương 3 khi nghiên cứu giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
thi hành pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai từ thực tiễn áp dụng tại huyện Kim
Bơi, tỉnh Hịa Bình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về mặt lý luận, luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện hệ thống cơ sở lý
luận về pháp luật hòa giải tranh chấp đất đai ở nước ta.
- Về mặt thực tiễn, từ việc nghiên cứu thực trạng pháp luật hòa giải tranh
chấp đất đai và đánh giá thực tiễn áp dụng tại huyện Kim Bơi, tỉnh Hịa Bình, luận
văn đưa ra những phương hướng góp phần hồn thiện chế định pháp luật này và
nâng cao hiệu quả thực thi nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu khoa học pháp luật đất đai.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương
Chương 1. Một số vấn đề lý luận pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai ở
Việt Nam.

Chương 2. Thực trạng pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai và thực tiễn
thi hành tại huyện Kim Bơi, tỉnh Hịa Bình.
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hòa giải tranh
chấp đất đai từ thực tiễn thi hành tại huyện Kim Bôi, tỉnh Hịa Bình.


7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI VIỆT NAM
1.1. Lý luận về tranh chấp đất đai
1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai là hiện tượng xã hội xảy ra ở bất cứ hình thái kinh tế - xã
hội nào trong lịch sử. Tranh chấp đất đai phát sinh manh nha từ những bất đồng,
mâu thuẫn giữa những người sử dụng đất với nhau hoặc giữa họ với tổ chức, cá
nhân khác về quyền và nghĩa vụ hay lợi ích trong quá trình quản lý và sử dụng đất.
Trong xã hội tồn tại mâu thuẫn giai cấp đối kháng không thể điều hịa được thì tranh
chấp đất đai mang "màu sắc" chính trị thể hiện thành cuộc đấu tranh giai cấp giữa
giai cấp sở hữu đất đai và các tư liệu sản xuất chủ yếu khác của xã hội (giai cấp
thống trị) với những người lao động khơng có tư liệu sản xuất phải đi làm thuê (giai
cấp bị thống trị). Việc giải quyết triệt để các tranh chấp đất đai được thực hiện bởi
những cuộc cách mạng xã hội. Trong xã hội không tồn tại mâu thuẫn giai cấp đối
kháng khơng thể điều hịa được, tranh chấp đất đai chỉ là những bất đồng, mâu
thuẫn về quyền và nghĩa vụ hay lợi ích giữa những người sử dụng đất với nhau hoặc
giữa họ với tổ chức, cá nhân khác. Thuật ngữ tranh chấp đất đai được sử dụng phổ
biến trong đời sống xã hội để chỉ những bất đồng, mâu thuẫn trong quản lý và sử
dụng đất. Tuy nhiên, xét dưới góc độ học thuật thì tranh chấp đất đai là gì?.
Theo Từ điển tiếng Việt thơng dụng: "Tranh chấp: Bất đồng, trái ngược nhau"1.
Như vậy, theo ngôn ngữ học thì tranh chấp được hiểu là những bất đồng, trái ngược
nhau giữa hai hoặc nhiều người (hoặc nhiều bên) trong quan hệ xã hội. Trên thực tế

tranh chấp xảy ra ở nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội với những loại hình phong phú,
đa dạng. Ví dụ: Tranh chấp, bất đồng về quan điểm sống; tranh chấp về bản quyền
tác giả, tác phẩm; tranh chấp về địa giới hành chính; tranh chấp về kiểu dáng cơng
nghiệp, mẫu mã hàng hóa; tranh chấp về lối đi; tranh chấp về thừa kế tài sản v.v...
1. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2001), Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.808.


8

Theo Từ điển Giải thích Thuật ngữ Luật học: "Tranh chấp đất đai: Tranh
chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền và
nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất"2.
Theo Luật đất đai năm 2013: "Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền,
nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai"3.
Theo Giáo trình Luật đất đai của Trường Đại học Luật Hà Nội: "Tranh chấp
đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ
giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai"4.
Theo Sổ tay Thuật ngữ Pháp lý thông dụng: "Tranh chấp đất đai: Tranh
chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền và
nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai"5.
Như vậy, xét về học thuật, các nhà nghiên cứu, giới học thuật nước ta quan
niệm tranh chấp đất đai là những bất đồng, mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ về sử
dụng đất giữa những người sử dụng đất với nhau hoặc giữa họ với tổ chức, cá nhân
khác; ví dụ: Tranh chấp về thừa kế tài sản là nhà đất do cha mẹ để lại giữa 05 người
con; tranh chấp về lối đi chung giữa hai hộ gia đình ơng A và bà B v.v...
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp đất đai
Tìm hiểu về tranh chấp đất đai, tác giả nhận thấy loại tranh chấp này mang
một số đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, chủ thể của tranh chấp đất đai khơng phải là chủ sở hữu đất đai.
Do tính đặc thù của chế độ sở hữu đất đai ở nước ta: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân

do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Nhà nước giao đất, cho thuê đất cho tổ chức, hộ
gia đình, cá nhân (gọi chung là người sử dụng đất) sử dụng ổn định lâu dài; công
nhận quyền sử dụng đất ổn định lâu dài của người đang sử dụng đất. Do vậy, người
sử dụng đất chỉ có thể là chủ thể quản lý đất đai hoặc chủ thể sử dụng đất.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học (Phần Luật đất đai, Luật lao
động và Tư pháp quốc tế), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 74.
3. Điều 3 khoản 24 Luật đất đai năm 2013.
4. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật Đất đai, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 455.
5. Nguyễn Duy Lãm (chủ biên) (1996), Sổ tay Thuật ngữ pháp lý thông dụng, NXb Giáo dục, Hà Nội, tr.383


9
Thứ hai, do tính đặc thù của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở nước ta
nên đối tượng của tranh chấp đất đai chỉ giới hạn trong phạm vi tranh chấp về quyền
và nghĩa vụ liên quan đến quản lý, sử dụng đất. Điều này có nghĩa là pháp luật chỉ
thừa nhận và giải quyết các tranh chấp về quản lý đất đai hoặc tranh chấp về sử
dụng đất đai. Các tranh chấp về quyền sở hữu đất đai như tranh chấp về đòi lại đất
trước đây đã hiến, tặng cho Nhà nước; tranh chấp về đòi lại đất mà Nhà nước đã
chia cấp cho người nông dân trong cải cách ruộng đất; tranh chấp về đòi lại đất
trước đây đã góp vào hợp tác xã, tập đoàn sản xuất để làm ăn tập thể nay hợp tác xã,
tập đoàn sản xuất bị giải thể v.v... sẽ không được thừa nhận và xem xét giải quyết.
Thứ ba, theo quy định của pháp luật hiện hành, tranh chấp đất đai bao gồm:
i) Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi là
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) hoặc người sử dụng đất tuy chưa có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng có một trong các loại giấy tờ về quyền sử
dụng đất quy định tại Điều 100 Luật đất đai năm 2013; ii) Tranh chấp về quyền sử
dụng đất mà người sử dụng đất khơng có giấy tờ về quyền sử dụng đất.
Xét về bản chất pháp lý, tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng
đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc người sử dụng đất tuy khơng có

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng có một trong các loại giấy tờ về quyền
sử dụng đất quy định tại Điều 100 Luật đất đai năm 2013 là một dạng tranh chấp
dân sự. Bởi lẽ, khoa học pháp lý nước ta quan niệm quyền sử dụng đất là một loại
quyền về tài sản 6 - một loại quyền năng dân sự. Do đó, loại tranh chấp này thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân.
Đối với tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất khơng có
giấy tờ về đất đai thì Luật đất đai năm 1993, năm 2003 quy định thuc thm quyn
6. Quyền sử dụng đất là một loại quyền dân sự vì: (i) Hộ gia đình, cá nhân sử dụng
đất là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự; (ii) Quan hệ đất đai là quan hệ tài
sản thuộc đối tợng điều chỉnh của pháp luật dân sự; (iii) Ngời sử dụng đất có một số
quyền năng có tính chất định đoạt đối với quyền sử dụng ®Êt nh qun chun nhỵng qun sư dơng ®Êt, qun cho thuê quyền sử dụng đất, quyền để thừa kế
quyền sử dụng đất, quyền tặng cho quyền sử dụng đất …


10
giải quyết của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Ủy ban nhân dân cấp huyện. Luật đất
đai năm 2013 ra đời đã sửa đổi, bổ sung quy định này như sau: Tranh chấp đất đai
trong trường hợp khơng có giấy tờ về quyền sử dụng đất thì đương sự có quyền lựa
chọn Ủy ban nhân dân cấp huyện để giải quyết hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân.
Thứ tư, trên thực tế, đất đai được sử dụng vào các mục đích khác nhau.
Quan hệ đất đai liên quan đến lợi ích của nhiều đối tượng trong xã hội gồm Nhà
nước, cộng đồng dân cư, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cơ sở tơn giáo; tổ chức, cá
nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất tại Việt Nam.
Do đó, tranh chấp đất đai phát sinh khơng chỉ liên quan đến lợi ích của một bên mà
cịn ảnh hưởng đến lợi ích của nhiều bên. Vì vậy, tranh chấp đất đai nếu khơng giải
quyết nhanh chóng, dứt điểm, kịp thời thì sẽ gia tăng sự phức tạp. Trong vài năm trở
lại đây xuất hiện ngày càng nhiều các vụ tranh chấp đất đai đơng người, có tổ chức,
kéo dài và nếu bị kẻ xấu lợi dụng lơi kéo, kích động, xúi giục thì dễ trở thành "điểm
nóng" tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị, trật tự an tồn xã hội. Hơn nữa, do
tính chất phức tạp của nguồn gốc sử dụng đất cũng như sự xáo trộn của quan hệ đất

đai qua các thời kỳ nên tranh chấp đất đai là một loại tranh chấp có tính chất gay
gắt, phức tạp nhất. Trên thực tế, việc giải quyết tranh chấp đất đai gặp rất nhiều khó
khăn, phức tạp; đặc biệt là các tranh chấp đất tôn giáo, tranh chấp về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất v.v...
Thứ năm, quan hệ đất đai có liên quan đến nhiều quan hệ xã hội khác thuộc
đối tượng, phạm vi điều chỉnh của một số đạo luật như Bộ luật dân sự, Luật xây
dựng, Luật nhà ở, Luật kinh doanh bất động sản v.v... Trên thực tế tranh chấp đất đai
xảy ra liên quan đến nhà ở, công trình xây dựng, cây cối và vật kiến trúc khác v.v...
Nên khi giải quyết tranh chấp đất đai, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khơng chỉ áp
dụng Luật đất đai mà cịn áp dụng các đạo luật khác có liên quan để xem xét, giải quyết.
1.1.3. Hậu quả của tranh chấp đất đai
Trên thực tế tranh chấp đất đai để lại những hậu quả rất nặng nề và được
biểu hiện trên các khía cạnh cơ bản sau đây:


11
Thứ nhất, tranh chấp đất đai phá vỡ sự vận hành của trật tự quản lý và sử
dụng đất đai đã được xác lập. Tranh chấp đất đai xảy ra làm gián đoạn hoạt động sử
dụng đất; do người sử dụng đất phải giành thời gian, công sức vào việc giải quyết
những bất đồng mâu thuẫn về đất đai nên việc sử dụng đất bị ngừng trệ.
Thứ hai, tranh chấp đất đai gây tổn hại đến tình đồn kết trong nội bộ nhân
dân, phá vỡ sự gắn kết chặt chẽ giữa các thành viên trong gia đình, họ hàng hoặc
giữa các thành viên trong cộng đồng dân cư. Do bất đồng, mâu thuẫn trong sử dụng
đất mà các bên đương sự trở thành các bên đối địch nhau. Tâm lý sĩ diện, ăn - thua,
tính cố chấp, vị kỷ… đã làm cho các bên tranh chấp có thái độ thù ghét nhau, tư thù
và bất hợp tác với nhau trong cuộc sống.
Thứ ba, tranh chấp đất đai gây ra sự tốn kém về thời gian, tiền bạc và công
sức… của các bên trong việc giải quyết, theo đuổi vụ việc kiện cáo những bất đồng,
mâu thuẫn trong quản lý và sử dụng đất. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng
mất nhiều thời gian, cơng sức vào việc tìm hiểu và giải quyết tranh chấp đất đai.

Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về đất đai.
Thứ tư, tranh chấp đất đai kéo dài, lôi kéo đông người tham gia gây mất an
ninh, trật tự và tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính trị. Hơn nữa, nó là ngun nhân
để các thế lực thù địch lợi dụng tuyên truyền, kích động và gây chia rẽ khối đại
đồn kết tồn dân vì mưu đồ chính trị đen tối v.v...
1.2. Lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của giải quyết tranh chấp đất đai
Trong đời sống hàng ngày, con người khơng tránh khỏi những xích mích,
bất đồng, mâu thuẫn xảy ra. Khi nảy sinh những xung đột, bất đồng mâu thuẫn thì
cần thiết phải được giải quyết ổn thỏa nhằm duy trì sự gắn kết của quan hệ xã hội;
bởi lẽ, xung đột, mâu thuẫn không được giải quyết nhanh chóng, kịp thời và dứt
điểm sẽ làm cho xung đột ngày thêm trầm trọng, bất đồng giữa các bên ngày thêm
sâu sắc. Hậu quả là tiềm ẩn nguy cơ phá vỡ kết cấu, trật tự của các quan hệ xã hội
đã được hình thành; gây ảnh hưởng xấu tới sự đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Như


12

vậy, hiểu theo nghĩa thông thường giải quyết tranh chấp là một phương thức của con
người nhằm tìm ra một giải pháp để xóa bỏ các bất đồng, mâu thuẫn, xung đột giữa
hai hoặc nhiều thành viên trong xã hội đảm bảo duy trì sự đồn kết, ổn định trong
nội bộ nhân dân.
Giải quyết tranh chấp được nhận diện thông qua một số đặc điểm cơ bản
sau đây:
Thứ nhất, giải quyết tranh chấp luôn gắn liền với việc phát sinh tranh chấp
trong xã hội. Điều này có nghĩa là tranh chấp, xung đột xã hội bao giờ cũng là hiện
tượng phát sinh trước. Sau đó, giải quyết tranh chấp mới ra đời nhằm giải quyết các
bất đồng, mâu thuẫn giữa con người với con người trong xã hội.
Thứ hai, giải quyết tranh chấp phát sinh trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội - nơi mà ở đó phát sinh tranh chấp. Trên thực tế, tranh chấp có thể xuất hiện ở

mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nên việc giải quyết tranh chấp cũng tồn tại ở các
khía cạnh khác nhau của cuộc sống. Điều này có nghĩa là trong thực tiễn phong phú
của đời sống xã hội có thể có việc giải quyết tranh chấp về kinh tế, giải quyết tranh
chấp về lao động, giải quyết tranh chấp về dân sự, giải quyết tranh chấp về quản lý
hành chính, giải quyết tranh chấp về mơi trường, giải quyết tranh chấp về tài chính,
giải quyết tranh chấp về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, giải quyết tranh chấp về
hàng hải, giải quyết tranh chấp về bảo hiểm và giải quyết tranh chấp về chứng
khoán v.v...
Thứ ba, giải quyết tranh chấp là hoạt động do con người thực hiện nhằm
giải quyết ổn thỏa các bất đồng, mâu thuẫn trong xã hội.
Xét dưới góc độ xã hội, giải quyết tranh chấp có thể do các bên tranh chấp
tự thương lượng giải quyết hoặc thơng qua một người có uy tín và địa vị trong xã
hội giải quyết hoặc thơng qua cộng đồng xã hội mà các bên tranh chấp là thành viên
giải quyết.
Xét dưới góc độ quản lý, giải quyết tranh chấp do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền hoặc cán bộ, công chức nhà nước được giao nhiệm vụ giải quyết những


13
bất đồng, mâu thuẫn phát sinh trong lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý giữa các đối
tượng chịu sự quản lý nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của cộng đồng hoặc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng chịu sự quản lý nhà nước.
Thứ tư, mục đích của giải quyết tranh chấp là phá vỡ, triệt tiêu các bất
đồng, mâu thuẫn, xung đột giữa các bên thơng qua việc dàn xếp, thương lượng, hịa
giải, đàm phán, trọng tài v.v... nhằm khơi phục lại tính ổn định của các quan hệ xã
hội đã được xác lập hoặc tăng cường, củng cố và duy trì sự tồn tại ổn định của các
mối quan hệ xã hội, góp phần vào việc bảo vệ sự bền vững của trật tự xã hội hoặc
của các thiết chế xã hội.
1.2.2. Các hình thức giải quyết tranh chấp
Thực tế hiện nay, việc giải quyết tranh chấp được thực hiện thơng qua các

hình thức giải quyết chủ yếu sau đây.
1.2.2.1. Thương lượng
Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp khơng cần đến vai trò của
người thứ ba. Đặc điểm cơ bản của thương lượng là các bên cùng nhau trình bày
quan điểm, tìm ra các biện pháp thích hợp, trên cơ sở đó đi đến thống nhất để giải
quyết các bất đồng. Thương lượng là một biện pháp khá phổ biến và thích hợp để
giải quyết tranh chấp do nó mang tính chất đơn giản và không bị ràng buộc bởi các
thủ tục pháp lý phiền phức kéo dài, chi phí lại ít tốn kém. Cách thức giải quyết này
đòi hỏi các bên phải có thiện chí, trung thực và hợp tác, phải có đầy đủ những am
hiểu những kiến thức cần thiết về chuyên môn và về pháp lý. Đối với các tranh chấp
phức tạp, mỗi bên có thể chỉ định những chun gia có trình độ chun mơn và kinh
nghiệm thay mặt mình để tiến hành thương lượng. Thương lượng thật sự đã trở
thành quá trình trao đổi ý kiến, bày tỏ ý chí, nguyện vọng giữa các bên nhằm tìm giải
pháp tháo gỡ bất đồng, mâu thuẫn. Kết quả của thương lượng thường là những cam
kết, thỏa thuận về những giải pháp cụ thể và có giá trị ràng buộc đối với các bên.
1.2.2.2. Hòa giải
Hòa giải là cách thức giải quyết tranh chấp có nhiều ưu điểm hiện nay. Khi
đã có trung gian hịa giải thì mối quan hệ giữa các bên sẽ có sự thân thiện. Hình


14

thức của hòa giải cũng linh hoạt và mềm dẻo. Cách giải quyết của nó sẽ khiến các
bên gần gũi nên dễ trình bày quan điểm. Hịa giải nếu được thực hiện tốt thì sẽ tiết
kiệm được thời gian và chi phí cho các bên. Hịa giải là một biện pháp giải quyết
tranh chấp mang tính tự nguyện, tùy thuộc vào sự lựa chọn của các bên. Bên thứ ba
với vai trị trung gian hịa giải phải có vị trí độc lập với các bên đương sự. Điều này
có nghĩa là bên thứ ba khơng ở vị trí xung đột về lợi ích với các bên tranh chấp,
khơng có lợi ích gắn liền với lợi ích của các bên tranh chấp mà họ chỉ tham gia với
vai trò là người trung gian hịa giải. Hịa giải bao gồm hai hình thức chủ yếu là hịa

giải ngồi tố tụng và hịa giải trong tố tụng.
- Hịa giải ngồi tố tụng: Là hình thức hịa giải qua trung gian được các bên
tiến hành trước khi đưa vụ việc tranh chấp ra khởi kiện tại tòa án nhân dân hay
trọng tài. Người làm trung gian hòa giải thường là cá nhân hay tổ chức có uy tín,
kinh nghiệm về việc giải quyết tranh chấp.
- Hịa giải trong tố tụng: Là hình thức hịa giải được tiến hành tại tòa án
nhân dân hay trọng tài khi các cơ quan này giải quyết tranh chấp theo yêu cầu của
các bên. Người làm trung gian hòa giải là tòa án nhân dân hoặc trọng tài (cụ thể là
Thẩm phán hoặc Trojng tài viên thụ lý vụ việc).
1.2.2.3. Trọng tài
Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của các
trọng tài viên, với tư cách là bên thứ ba độc lập, nhằm chấm dứt mâu thuẫn, xung
đột bằng việc đưa ra phán quyết buộc các bên tranh chấp phải thi hành. Các tranh
chấp thương mại thường được lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng phương thức
trọng tài.
1.2.2.4. Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân là hình thức giải quyết tranh chấp phổ biến nhất và lâu đời
nhất. Nó đã có lịch sử hàng nghìn năm tồn tại. Đây là hình thức giải quyết tranh
chấp thơng qua cơ quan quyền lực cơng có chức năng xét xử. Bằng việc đưa ra phán
quyết dưới hình thức là một bản án, Tòa án nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước


15

phán xét, giải quyết tranh chấp buộc các bên tranh chấp phải thi hành. Để đảm bảo
sự công bằng, khách quan và công minh, pháp luật quy định cơ cấu tổ chức và cơ
chế hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của cơ quan tòa án.
1.2.3. Mục đích và ý nghĩa của giải quyết tranh chấp đất đai
Nghiên cứu, tìm hiểu về giải quyết tranh chấp đất đai cho thấy hoạt động
này mang mục đích và ý nghĩa cơ bản sau đây:

- Giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nhằm thực hiện một trong những nội dung quản lý nhà nước về đất đai được
ghi nhận trong Luật Đất đai năm 2013.
- Giải quyết tranh chấp đất đai góp phần vào việc duy trì sự ổn định chính
trị, trật tự an toàn xã hội và đảm bảo sự đoàn kết trong nội bộ nhân dân.
- Giải quyết tranh chấp đất đai góp phần vào việc nâng cao ý thức pháp luật
đất đai cho người dân nói chung và của người sử dụng đất nói riêng.
- Giải quyết tranh chấp đất đai góp phần vào việc củng cố chế độ sở hữu
tồn dân về đất đai; đồng thời, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người sử dụng đất. Mặt khác, thông qua hoạt động này góp phần vào việc tăng
cường pháp chế; đấu tranh ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật đất đai v.v...
1.2.4. Các hình thức giải quyết tranh chấp đất đai
Tìm hiểu vấn đề giải quyết tranh chấp đất đai, tác giả thấy rằng có các hình
thức giải quyết tranh chấp cơ bản sau đây.
1.2.4.1. Giải quyết tranh chấp đất đai thơng qua hịa giải
Theo pháp luật hiện hành, có hai hình thức hịa giải tranh chấp đất đai, bao gồm:
- Hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở: Đây là hình thức hịa giải tranh chấp
đất đai do cộng đồng dân cư ở cơ sở - nơi phát sinh tranh chấp đất đai - thực hiện.
Hịa giải theo hình thức này sử dụng áp lực dư luận của cộng đồng xã hội để khiến
các bên tranh chấp tự thương lượng giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn về đất
đai. Hình thức hịa giải này do tổ viên tổ hịa giải ở cơ sở (thơn, xóm, làng, bản,
bn, ấp, tổ dân phố, phum, sóc) thực hiện theo quy định của Luật về hòa giải ở cơ


16
sở. Hơn nữa, tổ hòa giải cơ sở còn dựa vào quy tắc đạo đức, hương ước, quy ước
của cộng đồng dân cư; phong tục, tập quán, truyền thống đạo đức tốt đẹp của người
Việt để vận động, thuyết phục, tác động vào lòng "trắc ẩn" để các bên tranh chấp
suy nghĩ và cùng nhau thương lượng tìm ra giải pháp giải quyết tranh chấp.
- Hòa giải tranh chấp đất đai do Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau

đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) nơi có đất tranh chấp thực hiện: Theo
pháp luật đất đai hiện hành tranh chấp đất đai đã qua hòa giải ở cơ sở mà khơng
thành thì một trong các bên tranh chấp gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có
đất tranh chấp đề nghị hịa giải. Xét về bản chất, đây là hình thức hịa giải tranh
chấp đất đai do chính quyền cơ sở thực hiện dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước. Với
tư cách là cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp về đất đai ở cơ sở, Ủy ban nhân dân
cấp xã là người hiểu được nguồn gốc, thực trạng và các tài liệu, chứng cứ pháp lý
của mảnh đất tranh chấp; nên hòa giải do cơ quan này tiến hành dường như dễ
thuyết phục được các bên tranh chấp trong việc hóa giải mâu thuẫn, bất đồng. Hịa
giải tranh chấp đất đai do Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện mang tính bắt buộc và
kết quả hịa giải thành có giá trị pháp lý trong việc thuyết phục cơ quan nhà nước có
thẩm quyền chỉnh lý hiện trạng sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
1.2.4.2. Giải quyết tranh chấp đất đai bằng con đường hành chính (do cơ
quan quản lý nhà nước về đất đai thực hiện
Theo pháp luật đất đai hiện hành, tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy
ban nhân dân cấp xã mà không thành đối với trường hợp đương sự khơng có giấy
chứng nhận hoặc khơng có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật
đất đai năm 2013 và đương sự nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban
nhân dân cấp có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp được thực hiện như sau:
Một là, trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư
với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu khơng đồng ý với
quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.


17

Hai là, trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn
giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngồi, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với

quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài ngun và Mơi
trường hoặc khởi kiện tại Tịa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng
hành chính 7.
1.2.4.3. Giải quyết tranh chấp đất đai bằng con đường tố tụng (do Tòa án
nhân dân thực hiện)
Tranh chấp về tài sản gắn liền với đất đai và tranh chấp đất đai mà đương sự
có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định
tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 thì do Tồ án nhân dân giải quyết.
1.2.5. Ngun tắc giải quyết tranh chấp đất đai
Như phần trên đã đề cập, tranh chấp đất đai thường mang tính chất gay gắt
và phức tạp, do đó, việc giải quyết tranh chấp không hề đơn giản. Pháp luật đất đai
quy định các nguyên tắc cơ bản về giải quyết tranh chấp đất đai nhằm đảm bảo cho
công tác này thực hiện công bằng, khách quan và đúng pháp luật. Những nguyên tắc
này bao gồm:
- Giải quyết tranh chấp đất đai cần quán triệt nguyên tắc đất đai thuộc sở
hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý.
- Kiên quyết bảo vệ những thành quả cách mạng về ruộng đất; đồng thời,
xem xét việc giải quyết các tranh chấp đất đai chưa đúng pháp luật và chưa phù hợp
với thực tế sử dụng đất ở từng địa phương.
- Bảo đảm cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng
thủy sản và làm muối có đất để sản xuất.
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất; khuyến khích
các bên tranh chấp tự thương lượng, hòa giải tranh chấp đất đai.

7. Khoản 2 Điều 203 Luật đất đai năm 2013.


18

- Đề cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức xã hội khác tham gia giải quyết tranh
chấp đất đai.
- Gắn việc giải quyết tranh chấp đất đai với bố trí lại cơ cấu sản xuất, phân
công lại lao động ở nông thôn theo chủ trương của Đảng "ai giỏi nghề gì làm nghề
đó", mở mang, phát triển ngành nghề, tăng thu nhập, cải thiện, nâng cao đời sống
của người nông dân; đảm bảo ổn định, đoàn kết trong nội bộ nhân dân...
1.2.6. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Pháp luật đất đai căn cứ vào việc người sử dụng đất có hay khơng có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có hay khơng có giấy tờ hợp lệ về đất đai để
phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai; cụ thể:
Thứ nhất, đối với các tranh chấp đất đai mang tính chất dân sự thì thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân. Theo khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai
năm 2013 thì tranh chấp đất đai mà đương sự có giấy chứng nhận hoặc có một trong
các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai năm 2013 và tranh chấp về
tài sản gắn liền với đất thì do Tịa án nhân dân giải quyết.
Thứ hai, tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà
không thành đối với trường hợp đương sự khơng có giấy chứng nhận hoặc khơng có
một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật đất đai năm 2013 và
đương sự nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm
quyền thì việc giải quyết tranh chấp được thực hiện như sau:
Một là, trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư
với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với
quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.
Hai là, trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tơn
giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngồi, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với


19

quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi
trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng
hành chính
Thứ ba, bên cạnh việc quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai,
pháp luật đất đai còn đề cập đến căn cứ để giải quyết tranh chấp đất đai trong
trường hợp các bên tranh chấp khơng có giấy tờ về quyền sử dụng đất.
Theo Điều 91 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, tranh chấp đất đai trong
trường hợp các bên tranh chấp khơng có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc
khơng có một trong các loại giấy tờ quy định tại các Điều 18 và Điều 100 Luật Đất
đai năm 2013 thì việc giải quyết tranh chấp được thực hiện dựa theo các căn cứ sau:
1. Chứng cứ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất do các bên tranh chấp đưa ra;
2.Thực tế diện tích đất mà các bên tranh chấp đất đang sử dụng ngồi diện tích đất
đang có tranh chấp và bình qn diện tích đất cho một nhân khẩu tại địa phương;
3.Sự phù hợp của hiện trạng sử dụng thửa đất đang có tranh chấp với quy hoạch sử
dụng đất chi tiết đã được xét duyệt; 4. Chính sách ưu đãi người có cơng của Nhà
nước; 5. Quy định của pháp luật về giao đất, cho thuê đất.
1.3. Lý luận về hịa giải tranh chấp đất đai tại chính quyền cấp cơ sở
1.3.1. Khái niệm chính quyền cấp cơ sở
Trong khoa học quản lý hành chính, khái niệm chính quyền nói chung và
chính quyền cấp cơ sở nói riêng được sử dụng phổ biến để chỉ các cơ quan thực
hiện chức năng quản lý dựa trên cơ sở quyền lực công (quyền lực nhà nước). Thuật
ngữ này được giải mã trong các cơng trình nghiên cứu ở nước ta như sau:
- Theo Từ điển tiếng Việt thơng dụng: "Chính quyền: Bộ máy điều hành,
quản lý công việc nhà nước ở các cấp, chính quyền địa phương"8.
- Theo Từ điển Luật học: "Chính quyền: Bộ máy điều hành, quản lý cơng
việc của Nhà nước. Chính quyền được phân thành chính quyền trung ương và các
cấp chính quyền địa phương.
Chính quyền trung ương là tập hợp tất cả các cơ quan nhà nước trung
ương. Chính quyền địa phương là tập hợp tất cả các cơ quan nhà nước địa phương.
8. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2001), Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 155.



20
Chính quyền địa phương gồm có chính quyền cấp tỉnh, chính quyền cấp huyện và
chính quyền cấp xã"9.
- Theo nghĩa rộng: Chính quyền cơ sở là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương có vai trị điều hành tồn bộ các hoạt động kinh tế-xã hội trên phạm vi địa
bàn theo hiến pháp và pháp luật.
Như vậy theo khái niệm này thì chính quyền cơ sở gồm có Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân và bộ máy các cơ quan tham mưu giúp việc.
- Theo nghĩa hẹp: Chính quyền cơ sở là cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan
hành chính nhà nước có chức năng quản lý mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế, văn
hóa và xã hội ở địa phương, đó chính là Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (gọi
chung là Ủy ban nhân dân cấp xã).
Trong phạm vi luận văn này, thuật ngữ "chính quyền cơ sở" được sử dụng
theo nghĩa hẹp; đó là cơ quan hành chính nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà
nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng …
trên phạm vi xã, phường, thị trấn, bao gồm Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
Từ các khái niệm trên đây, chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản
của chính quyền cơ sở; đó là:
Một là, chính quyền cơ sở là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính
quyền nhà nước. Đây là cấp chính quyền thấp nhất trong hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước có thẩm quyền chung: Cấp cơ sở xã, phường, thị trấn.
Hai là, chính quyền cơ sở tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương,
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ở cơ sở. Hoạt động của
chính quyền cơ sở là giải quyết, xử lý những công việc cụ thể liên quan đến lợi ích
trực tiếp của người dân dựa trên việc áp dụng chính sách, pháp luật.
Ba là, hoạt động của chính quyền cơ sở là hoạt động quản lý hành chính
mang tính chấp hành và điều hành. Tính chấp hành thể hiện ở phương diện chính
quyền cấp xã chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quyết định của cấp

trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã. Tính điều hành thể hiện trong
9. Bộ Tư pháp - Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa và Nxb Tư pháp,
Hà Nội, tr. 138.


21
hoạt động quản lý, chính quyền cấp cơ sở có quyền ra quyết định, chỉ thị yêu cầu
các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tại địa bàn xã (thuộc đối tượng quản lý hành chính
của Ủy ban nhân dân cấp xã) phải tuân thủ chính sách, pháp luật của Nhà nước, các
quyết định của cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã.
Bốn là, là cấp chính quyền gần dân nhất trong hệ thống chính quyền, nên
hoạt động của chính quyền cơ sở chủ yếu tập trung vào thực hiện giải quyết, xử lý
các công việc hàng ngày liên quan đến lợi ích trực tiếp của người dân chứ không
hướng tới việc xây dựng, hoạch định, chỉ đạo, điều hành các nội dung quản lý hành
chính mang tính vĩ mơ. Hoạt động của chính quyền cơ sở vừa mang tính hành chính
nhà nước vừa mang tính chất phục vụ.
1.3.2. Khái niệm hòa giải tranh chấp đất đai tại chính quyền cấp cơ sở
1.3.2.1. Khái niệm về hòa giải
Hòa giải là khái niệm được sử dụng phổ biến trong các sách, báo pháp luật
ở nước ta. Khái niệm này đã nhận được sự quan tâm tìm hiểu của giới nghiên cứu
luật học nước ta; cụ thể:
- Theo Từ điển Luật học: "Hòa giải là tự chấm dứt việc xích mích, tranh
chấp giữa các bên bằng sự thương lượng với nhau hoặc qua sự trung gian của một
người khác. Hịa giải thành thì giữ gìn được sự đồn kết giữa các bên, tránh được
việc kiện tụng kéo dài, tốn kém và những trường hợp chỉ vì mâu thuẫn nhỏ mà biến
thành việc hình sự"10.
- Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý (Bộ Tư pháp): "Hòa
giải: Thuyết phục các bên tranh chấp tự giải quyết tranh chấp của mình một cách
ổn thỏa. Thơng thường, việc hòa giải được tiến hành sau khi thương lượng (khiếu
nại) giữa các bên đã không đạt được kết quả"11.

- Theo Giáo trình Luật Tố tụng dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội:
"Hòa giải vụ án dân sự là hoạt động tố tụng do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các
đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án dân sự".
10. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr. 208-209.
11. Bộ Tư pháp - Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa và Nxb Tư pháp,
Hà Nội, tr. 365.


22
Như phần trên đã trình bày, theo pháp luật Việt Nam, hịa giải có hai hình
thức: Hịa giải trong tố tụng và hịa giải ngồi tố tụng. Mặc dù vậy, từ các quan niệm
trên chúng ta có thể rút ra một số đặc trưng cơ bản của hòa giải bao gồm:
Thứ nhất, hòa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp, bất đồng mâu
thuẫn do các bên tranh chấp tiến hành dựa trên việc tự thương lượng, thỏa thuận
mang tính chất tự nguyện, tự giác thực hiện.
Thứ hai, chủ thể trung tâm của hòa giải là bên trung gian giúp cho các bên
tranh chấp thỏa thuận với nhau về giải quyết tranh chấp. Điều này làm cho hịa giải
có sự khác biệt với thương lượng. Người trung gian có thể là cá nhân, tổ chức luật
sư, tư vấn hoặc các tổ chức khác do các bên thỏa thuận lựa chọn. Người này phải có
vị trí độc lập với các bên và khơng có lợi ích liên quan đến tranh chấp. Bên thứ ba
làm trung gian không đại diện cho quyền lợi của bất cứ bên nào và khơng có quyền
đưa ra phán quyết.
Thứ ba, hòa giải là một trong những hình thức thể hiện quyền tự định đoạt
của các bên đương sự. Điều này có nghĩa là các bên đương sự tự thỏa thuận, điều
đình với nhau về việc hóa giải bất đồng, mâu thuẫn mà khơng hề chịu áp lực hoặc
sự ép buộc của bất kỳ người nào khác. Bên thứ ba đóng vai trị trung gian, giúp đỡ
các bên đương sự bằng việc đưa ra những tư vấn, phân tích để các bên tranh chấp
nhận biết được sự thiệt hơn, ưu điểm và nhược điểm của việc hịa giải thành hoặc
khơng thành. Dựa trên cơ sở đó, các bên đương sự suy nghĩ, xem xét và tự quyết
định về việc thương lượng, điều đình để giải quyết bất đồng, xích mích.

Bốn là, sự điều chỉnh, thỏa thuận về giải quyết các tranh chấp phải do chính
các bên tranh chấp quyết định. Các thỏa thuận, cam kết từ kết quả của q trình hịa
giải khơng có giá trị bắt buộc cưỡng chế thi hành mà phụ thuộc vào thiện chí, sự tự
nguyện của các bên...
1.3.2.2. Định nghĩa hịa giải tranh chấp đất đai tại cấp chính quyền cơ sở
Hòa giải tranh chấp đất đai là một biện pháp mềm dẻo, linh hoạt và hiệu
quả nhằm giúp các bên tranh chấp tìm ra một giải pháp thích hợp để tháo gỡ mâu
thuẫn, bất đồng trong quan hệ pháp luật đất đai trên cơ sở tự nguyện, tự thỏa thuận.


23
Hịa giải tranh chấp đất đai tại cấp chính quyền cơ sở mặc dù được Luật đất đai năm
2013 quy định tại Điều 202 song pháp luật đất đai hiện hành chưa đưa ra giải thích
cụ thể về khái niệm này. Trên cơ sở khái niệm chung về hòa giải tranh chấp đất đai,
chúng ta có thể đưa ra cách hiểu về khái niệm hòa giải tranh chấp đất đai tại cấp
chính quyền cơ sở như sau: Hịa giải tranh chấp đất đai tại cấp chính quyền cơ sở
là một phương thức giải quyết tranh chấp với sự giúp đỡ của bên thứ ba đóng vai
trị trung lập là Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất để các bên tranh
chấp tự nguyện thỏa thuận giải quyết tranh chấp đất đai phù hợp với quy định của
pháp luật và truyền thống đạo đức xã hội.
Bên cạnh các đặc điểm chung của hòa giải tranh chấp, hòa giải tranh chấp
đất đai tại cấp chính quyền cơ sở có một số đặc điểm riêng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, việc hòa giải tranh chấp đất đai do Ủy ban nhân dân cấp xã
(chính quyền cơ sở) thực hiện trên cơ sở phối kết hợp với Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức, cá nhân khác ở cơ sở.
Thứ hai, việc hòa giải tranh chấp đất đai do Ủy ban nhân dân cấp xã thực
hiện dựa trên việc kết hợp giữa các quy định của pháp luật đất đai với truyền thống
đạo đức xã hội để vận động, thuyết phục các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận
giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, việc hòa giải tranh chấp đất đai do Ủy ban nhân dân cấp xã thực

hiện dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước. Hơn nữa, đây là một phương thức giải
quyết tranh chấp do cơ quan quản lý nhà nước về đất đai ở cơ sở thực hiện nên
dường như việc hịa giải tranh chấp đất đai có chất lượng và tính thuyết phục cao
hơn so với việc các bên tranh chấp tự hòa giải.
Thứ tư, hòa giải tranh chấp đất đai do Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện là
phương thức hịa giải ngồi tố tụng. Nó được thực hiện trước khi các bên đương sự
gửi đơn khởi kiện ra Tòa án nhân dân để giải quyết vụ việc tranh chấp. Trường hợp
hòa giải tranh chấp đất đai do Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện thành công không
chỉ giúp giảm tải áp lực, thời gian, công sức cho các cơ quan nhà nước có thẩm


24
quyền mà cịn tiết kiệm thời gian, cơng sức, tiền của… cho các bên tranh chấp trong
việc theo đuổi khiếu kiện về giải quyết tranh chấp đất đai…
1.3.3. Cơ sở xây dựng quy định hòa giải tranh chấp đất đai tại chính
quyền cấp cơ sở
1.3.3.1. Cơ sở pháp lý
Hịa giải tranh chấp đất đai nói chung và hịa giải tranh chấp đất đai tại cấp
chính quyền cơ sở nói riêng lần đầu tiên được quy định trong Luật đất đai năm 1993
và được tiếp tục kế thừa, phát triển trong Luật đất đai năm 2003 và Luật đất đai
năm 2013. Luật đất đai năm 1993 quy định một nguyên tắc cơ bản trong giải quyết
tranh chấp đất đai; đó là: "Nhà nước khuyến khích việc hịa giải các tranh chấp
đất đai trong nhân dân" (Khoản 1 Điều 38). Quy định này phù hợp với một nguyên
tắc được ghi nhận tại Điều 11 Bộ luật dân sự năm 2015: "Trong quan hệ dân sự,
việc hòa giải giữa các bên phù hợp với quy định của pháp luật được khuyến
khích". Tranh chấp đất đai là một dạng tranh chấp dân sự đặc biệt, liên quan đến
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng bất động sản giữa những người sử dụng đất với
nhau. Vì vậy, hòa giải tranh chấp đất đai được coi là một cách thức giải quyết tranh
chấp đạt hiệu quả, phù hợp với tâm lý truyền thống của người Việt Nam. Tuy nhiên,
quy định của Luật đất đai 1993 mới chỉ "dừng lại" ở việc Nhà nước khuyến khích

chứ khơng bắt buộc các bên tranh chấp phải tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai.
Nên thực tế thi hành không phải bất cứ trường hợp tranh chấp đất đai nào, các bên
tranh chấp đều tiến hành hòa giải. Điều này gây áp lực cho các cơ quan nhà nước
trong việc giải quyết tranh chấp đất đai trong điều kiện loại tranh chấp này khơng
chỉ gia tăng về số lượng mà cịn gia tăng sự phức tạp về nội dung. Hơn nữa, thực
tiễn cho thấy có những tranh chấp đất đai phức tạp tưởng chừng không thể giải
quyết được song nếu biết cách hịa giải thì vụ việc được hóa giải một cách êm
thấm, hịa bình. Kế thừa và phát triển quy định hòa giải tranh chấp đất đai, Luật
đất đai năm 2013 đã có một điều (Điều 202) quy định cụ thể về việc hịa giải tranh
chấp đất đai nói chung và hịa giải tranh chấp đất đai ở cấp chính quyền cơ sở nói
riêng; trong đó xác định việc hịa giải tranh chấp đất đai ở cấp chính quyền cơ sở


×