TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
----------
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH CƠNG
Đề tài:
Nghiên cứu tác động của nợ cơng đến tăng trưởng
kinh tế tại Việt Nam
Hà Nội, tháng 10 năm 2017
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT..........................................................................4
DANH MỤC BẢNG BIỂU..........................................................................................5
DANH MỤC BIỂU ĐỒ...............................................................................................5
DANH MỤC ĐỒ THỊ..................................................................................................5
Lời mở đầu...................................................................................................................6
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu. . .7
1.1. Tổng quan nghiên cứu.......................................................................................7
1.2. Cơ sở lý thuyết.................................................................................................13
1.2.1. Các khái niệm............................................................................................13
a. Nợ công............................................................................................................13
b. Tăng trưởng kinh tế........................................................................................14
1.2.2. Lý thuyết nợ công......................................................................................14
Nguyên nhân nợ công...................................................................................14
Bản chất của nợ công...................................................................................15
Tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế..........................................16
1.2.3 Lý thuyết tăng trưởng kinh tế...................................................................19
Đo lường tăng trưởng kinh tế......................................................................19
Một số lý thuyết liên quan đến tăng trưởng kinh tế...................................21
1.2.4. Mối liên hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế....................................23
1.3. Phương pháp nghiên cứu................................................................................26
Chương 2: Thực trạng nợ công Việt Nam và tác động của nợ công đến tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam........................................................................................28
2.1. Thực trạng nợ công ở Việt Nam.....................................................................28
2.1.1. Nợ công từ 2010 - 2016..............................................................................28
Về quy mô nợ cơng.......................................................................................28
Cơ cấu và kì hạn nợ cơng.............................................................................31
Về sử dụng nợ công:.....................................................................................32
Về trả nợ công,..............................................................................................33
2.1.2. Nợ công cuối 2016 – đầu 2017.................................................................33
2.2. Nguyên nhân khiến nợ công tăng...................................................................34
2.3. Việc quản lí nợ cơng của chính phủ................................................................37
Văn bản và chính sách.................................................................................37
Thành cơng trong cơng tác quản lí nợ cơng................................................41
Những hạn chế cịn tồn tại trong cơng tác quản lí nợ cơng.......................42
Ngun nhân của những hạn chế................................................................42
2.4. Sự tác động của nợ công đến nền kinh tế.......................................................44
2.4.1. Những tác động tích cực...........................................................................45
2.4.2. Những tác động tiêu cực...........................................................................46
2.4.3. Quy mô và tốc độ tăng của nợ công Việt Nam gây rủi ro cho tăng
trưởng kinh tế.....................................................................................................50
Chương 3: Kết luận và khuyến nghị chính sách......................................................53
3.1 Kết luận.............................................................................................................53
3.2 Gợi ý chính sách...............................................................................................54
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................60
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu
Tên tiếng anh
Tên tiếng việt
ADB
Asian Development Bank
Ngân hàng phát triển châu Á
AEC
ASEAN Economic Community
Cộng đồng kinh tế ASEAN
EUR
Euro
Đồng Euro
FED
Federal Reserve System
Hệ thống dự trữ liên bang
GDP
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
GNI
Gross National Income
Tổng thu nhập quốc dân
GNP
Gross National Product
Tổng sản lượng quốc gia
ICOR
Incremental Capital – Output rate
Hệ số sử dụng vốn
IMF
International Monetary Fund
Quỹ tiền tệ quốc tế
JPY
Japanese yen
Đồng yên nhật
NSNN
Government budgetary
Ngân sách nhà nước
ODA
Official Development Assistance
Hỗ trợ phát triển chính thức
TPCP
Government Bond
Trái phiếu chính phủ
TPP
Trans-Pacific Strategic Economic
Partnership Agreement
Hiệp định đối tác kinh tế
xuyên Thái Bình Dương
USD
US Dollar
Đơ la Mỹ
WB
World bank
Ngân hàng thế giới
WTO
World Trade Organization
Tổ chức mậu dịch quốc tế
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Gánh nặng nợ công Việt Nam giai đoạn 2010-2015
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Nợ cơng bình qn đầu người của Việt Nam giai đoạn 2006-2015
Biểu đồ 2.2: Nợ cơng bình qn đầu người một số nước Đông Nam Á giai đoạn 2011
-2015
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu nợ công Việt Nam năm 2015
DANH MỤC ĐỒ THỊ
Đồ thị 2.1: Tác động của nợ công đến lãi suất
Lời mở đầu
Nợ công là một bộ phận không thể thiếu trong cấu trúc tài chính của một quốc
gia vì bất cứ nền kinh tế nào muốn tăng trưởng đều cần đến nguồn vốn tài trợ cho các
dự án đầu tư cũng như các khoản chi tiêu thường xuyên để duy trì hoạt động của chính
quốc. Mặt khác, nợ cơng cịn là điển hình của an ninh tài chính, là chìa khóa của một
nền kinh tế hùng mạnh.
Trong những năm gần đây, khi mà tình trạng nợ cơng chồng chất không chỉ là
hiện tượng đơn lẻ diễn ra ở Hy Lạp hay Băng Đảo và Đu-bai mà nó đã trở thành hiện
tượng khá phổ biến trên thế giới, mang tính tồn cầu thì nợ cơng đã thật sự trở thành
điều đáng lo ngại với những câu hỏi được đặt ra như: sự gia tăng trong nợ cơng có ảnh
hưởng đến tăng trưởng kinh tế của một quốc gia? Cơ chế tác động của nó ra sao?
Những kênh truyền dẫn trung gian nào khiến cho tăng trưởng kinh tế bị tác động bởi
nợ cơng? Đã có những minh chứng cụ thể nào từ nghiên cứu của các nhà kinh tế học
nổi tiếng trên thế giới là cơ sở để xác định sự tác động đó?
Để có được câu trả lời cho những vấn đề nêu trên, bài viết đã tiến hành tìm hiểu
sự tác động của nợ cơng đến tăng trưởng kinh tế trên cơ sở của những bài nghiên cứu
của các tác giả lớn trên thế giới để từ đó đứa ra một số khuyến nghị điều chỉnh thích
hợp giúp cho nền kinh tế Việt Nam được phát triển ổn định bền vững trong cả ngắn
hạn và dài hạn. Đây cũng chính là lý do tác giả mạnh dạn thực hiện đề tài :” Tác động
của nợ công đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam”.
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và
phương pháp nghiên cứu
1.1. Tổng quan nghiên cứu
Theo quan điểm của Folorunso S.Ayadi và Felix O.Ayadi (2008)1, nợ công là
một trong những nguồn thuộc cấu trúc vốn tài chính của bất kỳ một nền kinh tế nào,
đặc biệt là đối với những đất nước đang phát triển thuộc Châu Phi, Châu Á, Châu Mỹ
La Tinh. Đặc trưng bởi một cấu trúc vốn nội bộ khơng thỏa đáng, do đó nền kinh tế
quốc gia ln loay hoay trong vịng quay lẩn quẩn như thiếu nguồn vốn đầu tư để nâng
cấp, xây dựng cơ sở hạ tầng và cập nhật công nghệ kỹ thuật nên năng suất sản xuất
thấp dẫn đến thu nhập thấp, kéo theo là tiết kiệm cũng thấp và tiếp tục quay lại với cấu
trúc vốn nội bộ thiếu thốn. Vì vậy, việc thu hút những kiến thức chuyên mơn trong
cơng tác quản lý tài chính quốc gia cũng như sự hỗ trợ tài chính từ những nước
phương tây để khắc phục sự khó khan về nguồn lực này là điều cần thiết.
Tuy nhiên, sử dụng nợ nước ngoài cũng cịn nhiều trăn trở, dù khơng xét về yếu
tố chính trị thì nợ nước ngồi vẫn là sự rang buộc chính yếu đến cấu trúc vốn của
những quốc gia đang phát triển. Bởi sự dồn tích khi đến hạn phải thanh tốn cả vốn
gốc và lãi của nó. Do đó, nợ dần trở nên khơng góp phần một cách đáng kể cho sự phát
triển tại những đất nước đang phát triển trong dài hạn.
Chính vì lí do đó mà trong bài nghiên cứu của mình, hai tác giả Folorunso
S.Ayadi và Felix O.Ayadi đã chọn nợ nước ngoài để thay thế cho nợ cơng trong mơ
hình thực nghiệm đo lường sự tác động của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế theo
số liệu của Nigeria và Nam Phi bên cạnh những ký do khách quan khác như: vấn đề
công bố nợ cơng có thể ảnh hưởng đến tình hình chính trị quốc gia, do đó nếu có
những dữ liệu về nợ cơng được cơng bố thì những dữ liệu đó sẽ khơng có cơ sở chắc
chắn; nợ cơng gồm có nợ cơng nước ngồi và nợ cơng trong nước, trong đó nợ cơng
nước ngồi chiếm tỷ trọng lớn và có xu hướng biến động cùng tổng nợ cơng; bản thân
nợ nước ngồi ẩn chứa nhiều rủi ro, do đó số liệu nợ nước ngoài cần phải được quan
tâm hơn nợ trong nước.
1 Folorunso S. Ayadi, Felix O. Ayadi (2008), The impact of external debt on economic growth: christmas
comparative study of Negeria and South Africa, Texas Southern University.
Phát triển những ý tưởng trên, theo Elendorf và Mankiw (1999)2, nợ cơng có
ảnh hưởng quan trọng đến nền kinh tế cả trong ngắn hạn và dài hạn. Các khoản nợ
(phản ánh tài trợ thâm hụt) có thể kích thích tổng cầu và sản lượng trong ngắn hạn do
lượng vốn cung cấp cho nền kinh tế tăng cao, đáp ứng nhu cầu huy động vốn của
những cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế, nhưng chèn lấn vốn đầu tư và làm giảm
sản lượng trong dài hạn. Nợ công cao có thể ảnh hưởng bất lợi đến tích lũy vốn và
tăng trưởng thông qua lãi suất dài hạn cao hơn, bóp méo hệ thống thuế trong tương lai
cao hơn, lạm phát và sự không chắc chắn cao hơn về các triển vọng và chính sách.
Có thể nói rằng trong ngắn hạn, nợ cơng tác động tích cực lên tăng trưởng kinh
tế bởi cung cấp một lượng vốn thiết yếu đối với chi tiêu cho đầu tư phát triển của quốc
gia, nâng cao năng suất nhưng kèm theo đó là những nghĩa vụ nợ phải thực hiện trong
tương lai, dẫn đến những ảnh hưởng bất lợi đến tích lũy vốn và tăng trưởng kinh tế dài
hạn nếu khơng có một chính sách quản lý nợ cơng phù hợp và hữu hiệu.
Vì vậy, dù trong cấu trúc vốn tài chính của các quốc gia, đặc biệt là những quốc
gia đang phát triển thì nợ cơng được đánh giá là một nguồn rất cần thiết trong sự phát
triển kinh tế đất nước trong ngắn hạn. Nhưng trong dài hạn nợ công sẽ có nguy cơ gây
tổn hại cho nền kinh tế bởi những yêu cầu thanh toán cả vốn gốc và lãi của nó.
Theo M.Reinhart và S.Rogoff3, hai nhà kinh tế học nổi tiếng về nghiên cứu lĩnh
vực nợ công, đã xem xét mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế với các mức
độ khác nhau của nợ công ở những nền kinh tế tiên tiến và mới nổi, dựa trên chuỗi số
liệu quá khứ dài hạn và mô tả thực nghiệm đã đưa ra kết quả tác động phi tuyến của nợ
công đối với tăng trưởng kinh tế.
Trong nghiên cứu gần đây (2010) được thực hiện bởi hai tác giả này, thôgn qua
thống kê tương quan đơn giản về những mức khác nhau của nợ công và tốc độ tăng
trưởng GDP thực dài hạn trong mẫu 20 quốc gia phát triển 4 trải dài khoảng hai thế kỉ
2 Manmohan S. Kumar và Jaejoon Woo (2010), Public Debt and Growth, IMF Working Paper Fiscal Affairs
Department.
3 Carmen M. Reinhart và Kenneth S. Rogoff, A growth in time of debt, Working Paper 15639;
/>4 20 quốc gia phát triển: Úc, Áo, Bỉ, Canada, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ireland, Nhật Bản, Hà Lan,
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Thụy Điển, Anh, Mỹ, Nauy, New Zealand, Ý.
(1790 – 2009), và mẫu 24 nền kinh tế thị trường kinh tế mới nổi 5 giai đoạn 1946 –
2009 nhận thấy rằng:
Tỉ số nợ/GDP dưới ngưỡng 90%/GDP: Thể hiện mối tương quan ngược chiều
giữa nợ công và tăng trưởng dài hạn ở mức độ yếu.
Tỉ số nợ/GDP trên ngưỡng 90%/GDP: Thể hiện mối tương quan ngược chiều
giữa nợ công và tăng trưởng dài hạn ở mức độ mạnh.
Như vậy, dựa vào ngưỡng nợ cảnh báo trong việc đề ra những chính sách quản lý
nợ cơng và trần nợ công phù hợp cho mỗi quốc gia là điều hết sức cần thiết, có như thế
mới tránh được tình trạng vay nợ quá đà hạn chế được trạng thái sử dụng nợ không
hiệu quả dẫn đến mất khả năng chi trả và làm ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh
tế. Vì đối với những quốc gia phát triển và những nền kinh tế thị trường mới nổi, mối
quan hệ giữa nợ công và sự tăng trưởng kinh tế biểu hiện rõ nhất khi nợ vượt mức 90 –
100% GDP; lúc này, nợ càng tăng, tăng trưởng kinh tế giảm đáng kể.
Theo một số nghiên cứu của Krugman (1988) và Sachs (1989)6 đã xem xét tác
động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế ở những quốc gia có nền kinh tế đang phát
triển thông qua sự tác động của nợ nước ngoài, một yếu tố được xem là có vai trị quan
trọng trong cấu trúc nợ cơng. Phần lớn vấn đề mà các nghiên cứu này đặt ra đều là giả
thuyết “số dư nợ quá mức” – đề cập đến tình trạng khi nghĩa vụ nợ là gánh nặng của
một quốc gia. Gánh nặng này đã làm cho một phần lớn sản lượng tạo ra phải tích lũy
cho các chủ nợ nước ngồi từ đó dẫn đến sự khơng khuyến khích trong đầu tư.
Cũng theo đánh giá của Ayadi (1999) và Ayadi et. al. (2003)7, gánh nặng nợ nước
ngoài đã giới hạn sự tham gia của những quốc gia đang phát triển với nền kinh tế toàn
cầu và kèm theo đó là những nghĩa vụ nợ đã gây trở ngại đến tăng trưởng và phát triển
kinh tế. Vì khi vay nợ của một quốc gia tăng lên quá cao, những e ngại về vấn đề mất
khả năng chi trả được đặt nặng, và các quốc gia khác tiến hành thẩm định môi trường
đầu tư kỹ càng hơn và từ đó họ đưa ra những điều khoản khắt khe hơn gây ảnh hưởng
đến hội nhập kinh tế của nền kinh tế chính quốc. Ngồi ra, gánh nặng nợ quốc gia cịn
gây trở ngại trong chi tiêu cơng cho đầu tư phát triển, hạn chế việc tích lũy nguồn vốn
5 24 thị trường kinh tế mỡi nổi: Argentina, Bolivia, Brazil, Chile, Trung quốc, Colombia, Ai cập, Ấn Độ, Indonesia,
Hàn Quốc, Malaysia, Mexico, Nigeria, Peru, Philippines, Nam Phi, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Uruguay, Venezuela.
6 Manmohan S. Kumar và Jaejoon Woo (2010), Public Debt and Growth, IMF Working Paper Fiscal Affairs
Department.
7 Folorunso S. Ayadi, Felix O. Ayadi (2008), The impact of external debt on economic growth: christmas
comparative study of Negeria and South Africa, Texas Southern University.
tạo nên sự trống rỗng trong dự trữ và có khuynh hướng cản trở áp dụng những chính
sách tiên tệ linh hoạt để củng cố những doanh nghiệp vừa và nhỏ do nguồn thu được
phải đáp ứng phần lớn nghĩa vụ nợ cả gốc và lãi. Điều này đã ảnh hưởng một cách
gián tiếp đến việc làm, học vấn và năng lực tài chính của người dân trong một quốc
gia.
Vì vậy, cần phải xem xét sự tác động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế thông qua
dữ liệu nợ nước ngoài cùng với những rủi ro và hệ lụy mà nó mang lại: sự khơng
khuyến khích đầu tư, giới hạn sự tham gia của các quốc gia đang phát triển với nền
kinh tế toàn cầu, sự trống rỗng trong dự trữ ngoại hối quốc gia, cứng nhắc trong chính
sách tiền tệ và chính sách tài khóa.
Theo Hunt (2007)8 sự gia tăng trong tiết kiệm và đầu tư của nền kinh tế dẫn đến
tăng trưởng kinh tế. Sachs (2002) cho rằng sự tăng trưởng kinh tế sẽ không tăng cho
đến khi tổng lượng vốn tăng đạt đến một ngưỡng nhất định. Khi lượng vốn tăng thì
đầu tư và sản lượng đầu ra cũng tăng, trong vòng xoắn tiến lên, tiết kiệm sẽ tiếp tục
tăng. Sau khi đạt được một mức độ, sự tăng lên trong cả vốn và tiết kiệm sẽ kích thích
sự tăng lên trong tăng trưởng một cách tự lực. Lý thuyết “dual – gap” nói rằng đầu tư
là một hàm của tiết kiệm, và trong những quốc gia đang phát triển, khi mức độ tiết
kiệm nội địa không đủ để tài trợ cho đầu tư cần thiết để đảm bảo phát triển kinh tế, thì
việc tìm kiếm và sử dụng các sản phẩm và dịch vụ từ bên ngồi là điều tất yếu. Colaco
(1985) đã giải thích tính chất nhạy cảm của việc thanh tốn nợ đối với những nước
đang phát triển thông qua sử dụng ba kịch bản:
(i). Quy mơ của nợ nước ngồi đạt đến một mức độ lớn hơn so với vốn tự có, sẽ
dẫn đến sự không cân bằng giữa nợ và vốn tự có;
(ii). Khi tỷ lệ nợ với lãi suất thả nổi tăng đột ngột, thì những người vay mượn phải
đối mặt trực tiếp với việc lãi suất tăng cao;
(iii). Thời hạn vay rút ngắn đáng kể, một phần là do sự giảm đi của những nguồn
chính thức.
Bên cạnh đó, Mehran (1986) cho rằng quản lý nợ tương xứng là thiết yếu trong
mơi trường tài chính ngày càng phức tạp. Mehran cũng xác định môi trường quản lý
8 Folorunso S. Ayadi, Felix O. Ayadi (2008), The impact of external debt on economic growth: christmas
comparative study of Negeria and South Africa, Texas Southern University.
nợ là sự kết hợp giữa chính sách, mơi trường kiểm sốt, kế tốn, phân tích thống kê và
những yếu tố khác như chính sách minh bạch và chống tham nhũng, sự cải tiến của
cấu trúc quản lý nợ và quá trình đưa ra quyết định, cũng như vấn đề tiếp theo là quyết
định quy mô nợ thực tế trong việc nhận và quản lý nợ. Vay mượn nước ngoài trong
thực tế được đo lường bởi những tỷ số riêng như nợ trên xuất khẩu, thanh toán nợ trên
xuất khẩu, nợ trên GDP (hoặc GNP), và nợ nước ngoài so với tổng thu nhập quốc dân
(GNI). Tuy nhiên, quyết định mức phù hợp của những chỉ số này khó xác định và việc
hữu ích bây giờ là giảm thiểu nguy cơ bùng nổ trong tăng trưởng nợ nước ngoài. Cụ
thể, nếu nợ nước ngồi tăng cao, thanh tốn gánh nặng nợ sẽ cao hơn so với khả năng
chịu đựng gánh nặng nợ của quốc gia, dẫn đến việc nhận nợ sẽ trở nên rắc rối và tình
huống này phải được đảo ngược thơng qua mở rộng xuất khẩu; vì nếu xuất khẩu không
được mở rộng, vay mượn sẽ nhiều hơn để thanh tốn nợ, và cứ thế nợ nước ngồi sẽ
chồng chất vượt quá khả năng chịu đựng của một quốc gia.
Như vậy, điều cần giải quyết chính là xác định đúng những yếu tố thuộc môi
trường quản lý nợ cơng của mỗi quốc gia, đặc trưng vốn có của chúng để có thể đề ra
được chính sách quản lý phù hợp: mơi trường kiểm sốt, hệ thống kế tốn nợ công,
vấn đề thực hiện minh bạch và chống tham nhũng, quy trình ra quyết định khi vay nợ
và xét duyệt dự án.
Từ những vấn đề nêu trên, ta có thể thấy tăng trưởng kinh tế, tiết kiệm và đầu tư có
mối quan hệ với nhau: Khi vốn nội địa không đủ để tài trợ cho chi tiêu đầu tư trong
nước để phục vụ phát triển kinh tế thì vay nợ là điều tất yếu. Tuy nhiên, vay nợ luôn
kèm theo những rủi ro về lãi suất, thời hạn, cơ cấu vay mượn. Vì vậy việc quản lý nợ
hiểu quả luôn cần thiết để tránh những ảnh hưởng tiêu cực tác động lên tăng trưởng
kinh tế.
Theo Cohen (1993) và Clements et al. (2003) cho thấy tác động tiêu cực của nợ
lên tăng trưởng không chỉ thông qua sự tồn đọng của nợ mà cịn thơng qua dịng chi trả
nợ, điều này giống như giảm bớt chi tiêu cho đầu tư của Chính phủ. Trong khi chi tiêu
cho đầu tư của Chính phủ được xem là yếu tố quyết định chủ yếu của các hoạt động
kinh tế, nên việc đánh giá, xem xét thận trọng trong kiểu soát vay nợ là điều rất cần
thiết. Ngồi ra, nợ tích lũy cũng làm giảm sức mạnh của nền kinh tế thông qua tác
động “nợ tăng thêm” với trở ngại thuế khóa và bất ổn định vĩ mơ. Trở ngại thuế khóa
nghĩa là tồn nợ lớn khơng khuyến khích đầu tư vì những người đầu tư tiểm năng nhận
thấy rằng sẽ có thuế cao hơn trên thu nhập tương lai để tạo nên khoản hồn trả nợ. Bất
ổn vĩ mơ có liên quan đến việc gia tăng thiếu hụt tài chính, không chắc chắn do sự huy
động vốn bất thường, sự suy giảm giá trị đồng nội tệ, mở rộng tiền tệ và làm phát dự
đốn.
Như vậy, khi nợ tích lũy theo thời gian và dòng chi trả nợ gây cản trở lớn đến tăng
trưởng kinh tế do những trở ngại thuế khóa, bất ổn vĩ mơ và sự giảm bớt chi tiêu cho
đầu tư của Chính phủ.
Nhận xét chung về các quan điểm:
Từ những quan điểm của các nhà kinh tế về tác động của nợ công đối với tăng
trưởng kinh tế, ta có thể thấy điểm tương đồng của các quan điểm là nợ cơng thật sự có
tác động đối với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, sự tác động của nợ công đối với tăng
trưởng kinh tế thông qua những kênh truyền dẫn được đưa ra trong mỗi quan điểm là
khác nhau và đó cũng chính là sự không tương đồng của các quan điểm nêu trên.
Nếu ở quan điểm thứ nhất cho rằng nợ cơng góp phần vào sự phát triển kinh tế
đất nước trong ngắn hạn có thể hiểu là do chính phủ của quốc gia đó đã sử dụng biện
pháp cắt giảm thuế và bù đắp bằng nợ cơng. Điều này đã kích thích tiêu dùng dẫn đến
gia tăng tiêu dùng làm tăng tổng cầu và thu nhập quốc dân trong ngắn hạn. Ngược lại,
khi tiết kiệm quốc dân giảm sẽ dẫn đến khối lượng tư bản ít hơn (do đầu tư giảm) và
thu nhập quốc dân thấp hơn trong dài hạn, như vậy khi đến hạn thanh toán quốc gia
phải đối mặt với áp lực thanh toán nợ gốc và lãi bởi sự dồn tích.
Thì tại quan điểm thứ hai về áp dụng ngưỡng nợ công trong công tác quản lý nợ
công cho thấy khi nợ dưới ngưỡng tức mức nợ hợp lý thì có tác động tích cực đến tăng
trưởng kinh tế nhưng khi vượt ngưỡng thì nợ sẽ tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh
tế, vì khi đó nợ càng tăng thì tốc độ tăng trưởng kinh tế càng giảm.
Và trong quan điểm thứ ba thì tác động của nợ được nghiên cứu trên yếu tố vay
nợ nước ngoài để từ đó đưa ra kết luận khi nợ nước ngồi q nhiều sẽ làm cản trở
tăng trưởng kinh tế bởi sự khơng khuyến khích đầu tư, hạn chế cơ hội hịa nhập với
nền kinh tế thế giới.
Còn quan điểm thứ tư cho thấy tăng trưởng kinh tế, tiết kiệm và đầu tư là có
mối quan hệ với nhau vì khi lượng vốn tăng thì đầu tư và sản lượng đầu ra cũng tăng,
trong vòng xoắn tiến lên, tiết kiệm sẽ tiếp tục tăng. Sau khi đạt được một mức độ, sự
tăng lên trong cả vốn và tiết kiệm sẽ kích thích sự tăng lên trong tăng trưởng một cách
tự lực.
Và quan điểm thứ năm đã nêu ra những trở ngại thuế khóa, bất ổn vĩ mơ và sự
giảm bớt chi tiêu cho đầu tư phát triển của Chính phủ đã cản trở lớn đến tăng trưởng
kinh tế khi nợ tích lũy theo thời gian và dịng chi trả nợ.
1.2. Cơ sở lý thuyết
1.2.1. Các khái niệm
a. Nợ công
Theo Quỹ tiền tệ thế giới IMF (2010), nợ công là nghĩa vụ trả nợ của khu vực
công, bao gồm 4 nhóm chủ thể:
- Nợ của Chính phủ Trung ương và các bộ, ban ngành trung ương.
- Nợ của các cấp chính quyền địa phương.
- Nợ của ngân hàng Trung ương.
- Nợ của các tổ chức độc lập mà Chính phủ sở hữu trên 50% vốn, hoặc việc
thiết lập ngân sách phải được sự phê duyệt của Chính phủ, hoặc Chính phủ là người trả
nợ trong trường hợp tổ chức đó vỡ nợ.
Theo Ngân hàng thế giới WB (2015), nợ công được đo bằng tỷ lệ phần trăm của
tổng giá trị các khoản tiền nợ của các tổ chức trong khu vực chính phủ thuộc mọi cấp
từ trung ương đến địa phương so với GDP.
Năm 2009, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật quản lý nợ công. Theo Bộ
Luật này thì nợ cơng bao gồm nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ của
chính quyền địa phương.
- Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài
được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản
vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát hành theo quy định của
pháp luật. Nợ chính phủ khơng bao gồm các khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
- Nợ được chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính,
tín dụng vay trong nước, nước ngồi được chính phủ bảo lãnh - Nợ chính quyền địa
phương là khoản nợ do Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ký
kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành.
b. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng phần trăm hàng năm của GDP thực hay GDP
thực trên đầu người trong dài hạn Begg (2001).
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập/sản phẩm bình quân đầu người hoặc
thu nhập/sản phẩm quốc dân. Nếu việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia
tăng lên theo bất cứ cách nào, cùng với đó là thu nhập bình qn tăng lên, thì quốc gia
đó đã đạt được “tăng trưởng kinh tế” theo Perkins và ctg (2006).
Tăng trưởng là sự gia tăng một cách bền vững về sản lượng bình quân đầu
người hay sản lượng trên mỗi công nhân theo Nguyễn Trọng Hoài (2010). Tăng trưởng
kinh tế là sự gia tăng về sản lượng hay thu nhập trong nền kinh tế trong một thời gian
nhất định, thường là năm (Nguyễn Văn Phúc, 2014).
1.2.2. Lý thuyết nợ công
Nguyên nhân nợ cơng
Theo Ocampo (2009), nợ cơng là tổng vay mượn rịng trong nền kinh tế được tính
như sau:
(Đầu tư – Tiết kiệm) + (Chi tiêu công – Thuế) + (Xuất khẩu – Nhập khẩu) = 0 (2.1)
Phương trình (2.1) chỉ ra 3 nguyên nhân dẫn đến vay nợ của chính phủ:
- Đầu tư cao hơn tiết kiệm: vay mượn ròng tư nhân
- Chi tiêu chính phủ cao hơn thu ngân sách: vay mượn rịng chính phủ
- Nhập khẩu cao hơn xuất khẩu: vay mượn rịng nước ngồi
Trong tư liệu nghiên cứu chính thống về các nước đang phát triển, hiện tượng
“kép” được nhấn mạnh nhiều nhất là sự biến thiên đồng thời của thâm hụt ngân sách
và thâm hụt tài khoản vãng lai (thâm hụt kép ngân sách bên trong/bên ngoài). Một hiện
tượng kép khác thâm hụt tư nhân/bên ngồi cịn phổ biến nhiều hơn đặc biệt ở các
quốc gia đang phát triển trong đó có khu vực kinh tế Đông Nam Á trong thập niên 80
và 90. Vay mượn rịng tư nhân có xu hướng tăng lên trong những thời kỳ đi lên trong
chu kỳ kinh tế và điều này có thể chạm phải giới hạn nguồn lực, kích thích lạm phát
hay khủng hoảng bên ngồi cịn gọi là khủng hoảng cán cân thanh tốn theo Ocampo
(2009).
Học thuyết Ricardo (1913) khẳng định, sự thay đổi vay mượn ròng của ngân
sách sẽ được bù trừ bằng sự thay đổi tương đương trong cho vay ròng của tư nhân. Khi
đó, trong bối cảnh nền kinh tế mở, bất kỳ vị thế bên ngoài nào của đất nước cũng sẽ
được xác định bởi sự đánh đổi liên thời gian giữa tiêu dùng và tiết kiệm. Tính nhân
quả có thể theo chiều ngược lại. Chính sách ngân sách nghịch chu kỳ được kêu gọi
nhằm bù đắp cho những dao động trong cán cân khu vực tư nhân đi kèm. Nếu chi tiêu
tư nhân yếu, dẫn đến đầu tư hay tiêu dùng thấp (cho vay tư nhân rịng cao), thì chính
phủ sẽ chủ trương thâm hụt ngân sách để hấp thu thặng dư tư nhân. Nếu cho vay tư
nhân không cao được bù trừ bằng vay mượn tài khóa, thì suy thối sẽ xảy ra sau đó,
làm giảm số thu thuế và tạo ra thâm hụt ngân sách. Các phản ứng này tái tạo các thâm
hụt tư nhân và thâm hụt ngân sách bù trừ lẫn nhau, nhưng với tính nhân quả theo chiều
ngược lại.
Thâm hụt ngân sách dai dẳng và kéo dài. Lý thuyết tăng trưởng tiêu chuẩn dự
đoán rằng sự gia tăng nợ chính phủ (do thâm hụt ngân sách) sẽ dẫn đến chậm hơn và
tạm thời suy giảm trong tăng trưởng trên con đường chuyển đổi sang một trạng thái ổn
định mới trong mơ hình tân cổ điển, như mơ hình Solow và một sự suy giảm lâu dài sự
phát triển trong mơ hình tăng trưởng nội sinh theo Gartner (2009).
Bản chất của nợ công Theo Vũ Minh Long (2012), nợ công xuất phát từ thâm
hụt ngân sách. Xét về bản chất kinh tế, nợ công xuất phát từ thâm hụt ngân sách, hay
tổng chi tiêu của chính phủ nhiều hơn tổng các nguồn thu của mình. Để làm giảm mức
thâm hụt ngày, chính phủ phải tăng nguồn thu ngân sách, hoặc cắt giảm chi tiêu. Cắt
giảm chi
tiêu không phải là một việc dễ dàng trong ngắn hạn, khi những kế hoạch chi tiêu của
chính phủ đã được hoạch định cụ thể. Chính vì thế, chính phủ chỉ có thể tìm cách gia tăng
nguồn thu của mình. Để tăng thu ngân sách chính phủ có thể tăng thuế hoặc vay nợ (vay
trong nước và vay nước ngoài), chính vay nợ nước ngồi làm gia tăng nợ cơng.
Nghiên cứu của Premchand (1984), thâm hụt ngân sách dẫn tới việc chính phủ phải
phát hành trái phiếu để huy động nguồn vốn bù đắp. Để có thể thu hút được vốn, các trái
phiếu của chính phủ phải có lãi suất cao hơn. Điều này sẽ gây khó khăn cho trái phiếu của
doanh nghiệp và do đó sẽ làm suy giảm đầu tư và tiêu dùng tư nhân.
Theo Fleming (1962), thâm hụt ngân sách có thể kéo theo thâm hụt thương mại
theo hai cách. Thứ nhất, thâm hụt ngân sách dẫn đến áp lực tăng lãi suất, do đó thu hút
dịng vốn vào, gây ra áp lực tăng giá nội tệ và vì vậy thúc đẩy nhập khẩu và hạn chế xuất
khẩu. Thứ hai, thâm hụt ngân sách làm tăng tiêu dùng nội địa và do đó gia tăng nhập khẩu
để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, làm tăng thâm hụt cán cân thương mại.
Thâm hụt tài khóa tác động lên tỷ giá theo hai cách trực tiếp và gián tiếp. Một cách
trực tiếp, khi thâm hụt giảm, nhu cầu vốn vay giảm. Điều này khiến cho lãi suất giảm và
dòng vốn chảy ra. Do đó, cầu ngoại tệ tăng và nội tệ mất giá. Một cách gián tiếp, thị
trường kỳ vọng về mức thâm hụt và tỷ giá trong tương lai sẽ dẫn đến những biến động lập
tức của tỷ giá trên thị trường, (Hakkio (1996)).
Friedman (1986), trong trường hợp thâm hụt tài khóa được tài trợ bằng phát hành
trái phiếu thì khả năng tác động của nó lại phụ thuộc vào cách mà các nhà làm chính sách
tiền tệ điều hành. Nếu họ muốn cố định lãi suất thì họ phải cung ứng thêm tiền và do đó,
lạm phát sẽ xảy ra.
Tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế
Theo Lê Thị Minh Ngọc (2013), nợ công tác động làm giảm tích lũy vốn tư nhân dẫn
đến hiện tượng thối lui đầu tư tư nhân. Khi chính phủ tăng vay nợ, đặc biệt là nợ trong
nước thì mức độ tích lũy vốn tư nhân sẽ bị thay thế bởi tích lũy nợ chính phủ. Thay vì sở
hữu cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp hay gửi tiết kiệm ngân hàng, dân chúng lại sở hữu
trái phiếu chính phủ làm cho cung về vốn giảm trong khi cầu tín dụng của chính phủ lại
tăng lên, từ đó đẩy lãi suất tăng, chi phí đầu tư tăng và sẽ dẫn đến hiện tượng “thoái lui
đầu tư” khu vực tư nhân.
Theo Keynes (1936), nợ công làm giảm tiết kiệm quốc gia
Y = C + S + T = C + I + G + NX → T – G = I + NX –S (2.2)
Trong đó:
Y: Thu nhập quốc gia
C: Tiêu dùng tư nhân
S: Tiết kiệm tư nhân
T: Thuế trừ đi các khoản thanh toán
I: Đầu tư nội địa
G: Chi tiêu chính phủ
NK: Xuất khẩu rịng.
Nhìn vào phương trình (2.2) nếu T – G < 0 tức là ngân sách nhà nước bị thâm hụt hay
I + NX < S. Ta thấy có thể có 3 trường hợp xảy ra, tiết kiệm tư nhân tăng; đầu tư nội địa
giảm; xuất khẩu ròng giảm.
- Tiết kiệm tư nhân tăng (S): Trong thực tế, một số nhà kinh tế học lập luận rằng, tiết
kiệm tư nhân sẽ tăng chính xác bằng lượng giảm của tiết kiệm chính phủ. Trong trường
hợp này chúng ta tạm thời giả định tiết kiệm tư nhân tăng ít hơn phần tiết kiệm của chính
phủ giảm, chính vì vậy mà tiết kiệm quốc gia giảm.
- Đầu tư nội địa giảm: Lượng vồn ít, lãi suất tăng, chi phí biên của sản phẩm trên mỗi
đồng vốn sẽ cao hơn, năng suất lao động sụt giảm từ đó làm giảm mức sản lượng và thu
nhập trung bình dẫn đến giảm tiết kiệm quốc gia.
- Xuất khẩu rịng giảm: Khi chính phủ tăng vay nợ, lãi suất trong nước tăng tương đối
so với lãi suất nước ngoài, dẫn tới luồng tiền từ nước ngoài vào trong nước tăng khiến tỷ
giá hối đoái tăng làm cho giá của hàng hóa sản xuất trong nước đắt hơn hàng hóa nước
ngoài và kém cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế từ đó giảm xuất khẩu rịng. Xuất
khẩu rịng giảm, đầu tư nước ngồi giảm có nghĩa là người dân nội địa sẽ sở hữu ít vốn
nước ngồi hơn. Thu nhập người dân nội địa giảm, tiết kiệm quốc gia giảm.
Như vậy nợ cơng có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Theo quan điểm của
Folorunso và ctg (2008) nợ là một trong những nguồn thuộc cấu trúc vốn tài chính của bất
kỳ một nền kinh tế nào, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển thuộc Châu Phi,
Châu Á, … Năng suất thấp do thiếu vốn đầu tư nên dẫn đến thu nhập thấp, kéo theo tiết
kiệm thấp và tiếp tục là thiếu vốn. Khi thiếu vốn thì phải đi vay nợ, nợ dồn tích lại vì
những u cầu thanh tốn cả vốn gốc và lãi của nó. Lúc này, nợ chính là gánh nặng cho
tăng trưởng kinh tế tại các nước đang phát triển.
Theo Mankiw và ctg (1992), nợ cơng có ảnh hưởng quan trọng đến nền kinh tế trong
ngắn hạn, dài hạn. Các khoản nợ có thể kích thích tổng cầu và sản lượng trong ngắn hạn
do lượng vốn cung cấp cho nền kinh tế tăng cao. Đáp ứng nhu cầu huy động vốn của cá
nhân hay tổ chức trong nền kinh tế nhưng chèn lấn vốn đầu tư và làm giảm sản lượng
trong dài hạn. Nợ cơng cao có thể ảnh hưởng bất lợi đến tích lũy vốn và tăng trưởng
thơng qua lãi suất dài hạn cao hơn và lạm phát sẽ xảy ra.
Có thể nói rằng trong ngắn hạn nợ cơng tác động tích cực lên tăng trưởng kinh tế bởi
cung cấp một lượng vốn thiết yếu đối với chi tiêu cho đầu tư phát triển quốc gia. Tuy
nhiên trong tương lai thì những nghĩa vụ nợ phải thực hiện gây bất lợi đến tích lũy vốn và
tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.
Các nhà kinh tế cũng lưu ý nhiều tác động tiêu cực của nợ công. Kumar và Woo
(2010) cho rằng nợ cơng có tác động tiêu cực lên tăng trưởng kinh tế ở các khía cạnh sau.
Nợ cơng làm tăng lãi suất theo đó làm giảm đầu tư của khu vực tư nhân. Nợ công làm
tăng khả năng nhà nước tăng thuế trong tương lai. Nợ công làm tăng lạm phát, tăng bất ổn
kinh tế vĩ mô. Reinhart và Rogoff (2009) cho thấy lạm phát cao và siêu lạm phát có
ngun nhân chủ yếu từ việc chính phủ chi tiêu quá mức thông qua việc phát hành tiền ồ
ạt. Tác động tiêu cực nhất của nợ công lên tăng trưởng kinh tế là gánh nặng thuế trong
tương lai và sự bất ổn do gánh nặng này gây ra. Tóm lại về mặt lý thuyết, nợ cơng tác
động cả tích cực và tiêu cực lên tăng trưởng.
1.2.3 Lý thuyết tăng trưởng kinh tế
Đo lường tăng trưởng kinh tế
Vấn đề cốt lõi của việc nghiên cứu tăng trưởng kinh tế là những thay đổi trong thu
nhập quốc dân. Có hai thước đo cơ bản về thu nhập quốc dân được sử dụng phổ biến đó là
tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Theo Perkins và ctg (2006), GNP là tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được
một xã hội tạo ra trong thời gian một năm. GNP loại trừ hàng hóa trung gian, GNP tính
đến sản lượng do công dân của một quốc gia tạo ra, bao gồm cả giá trị hàng hóa và dịch
vụ do cơng dân quốc gia đó sống ở nước ngồi tạo ra.
Tăng trưởng kinh tế (economic growth) được coi là sự tăng lên trong tổng sản phẩm
quốc nội (GDP - Gross Domestic Product), được đo lường bởi sự thay đổi của GDP năm
này so với năm trước đó theo tỉ lệ phần trăm. Có hai cách để định nghĩa về GDP
(Blanchard, 2000): GDP là giá trị hàng hóa và dịch vụ cuối cùng (được tính bởi phần tiêu
dùng cuối cùng) được sản xuất ra trong nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định
hay GDP là tổng giá trị tăng thêm trong nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định.
Theo David Moss (2002), GDP thường được tính bằng ba cách:
- Thứ nhất, phương pháp giá trị gia tăng (phương pháp sản xuất):
GDP = AVA + IVA + SVA (2.3)
Trong đó:
+ AVA: là giá trị gia tăng của ngành nông nghiệp
+ IVA: là giá trị gia tăng của ngành công nghiệp
+ SVA: là giá trị gia tăng của ngành dịch vụ
- Thứ hai, phương pháp chi tiêu: GDP bằng tổng tất cả các khoản chi tiêu hàng hóa và
dịch vụ cuối cùng.
GDP = C + I + G + NX (2.4)
Trong đó:
+ C: là tiêu dùng hộ gia đình
+ I: là đầu tư gồm đầu tư vào tài sản cố định và tài sản lưu động.
+ G: là chi tiêu hàng hố và dịch vụ của Chính phủ.
+ NX: là giá trị của hàng hoá và dịch vụ được xuất khẩu sang các nước khác trừ giá trị
hàng hoá và nhập khẩu từ nước ngoài.
- Thứ ba, phƣơng pháp thu nhập: GDP bằng thu nhập gộp của các yếu tố sản xuất
trong nền kinh tế được huy động cho quá trình sản xuất. Nếu tính theo giá thị trường,
GDP cũng bao gồm thuế gián thu:
GDP = w + i + r + Pr + De + Ti (2.5)
Trong đó:
+ W: là tiền lương và tiền thưởng của người lao động.
+ i: là thu nhập của người cho vay.
+ r: là thu nhập của chủ đất, chủ nhà và chủ các tài sản cho thuê khác.
+ Pr: là lợi nhuận của chủ doanh nghiệp.
+ Ti: là thuế gián thu.
+ De: là khấu hao.
Có thể sử dụng mức giá hiện hành (GDP danh nghĩa) hoặc giá cố định (GDP thực) để
đo lường GDP.
GDP_danh nghĩa = chỉ số giá điều chỉnh GDP * GDP_thực (2.6)
Để đo lường tốc độ tăng trưởng của GDP thực (hay tăng trưởng kinh tế) người ta
thường sử dụng chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng (Gi), phản ánh % thay đổi của GDP thực năm
sau so với năm trước. Tốc độ tăng trưởng GDP thực hàng năm được tính theo công thức:
GDPt *GDP t-1 *100
Gi =
(2.7)
GDP t-1
Trong đó:
+ GDPt : là GDP thực năm thứ t của thời kỳ nghiên cứu.
+ GDPt-1 :là GDP thực năm trước đó của thời kỳ nghiên cứu.
Một số lý thuyết liên quan đến tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là đề tài nhiều nhà kinh tế học nghiên cứu, tuy nhiên Solow
(1994) đã chỉ ra có ba làn sóng về lý thuyết tăng trưởng: thứ nhất là những lý thuyết tăng
trưởng của Harrod và Domar; thứ hai là lý thuyết về tăng trưởng tân cổ điển của Solow;
thứ ba là các lý thuyết về tăng trưởng nội sinh.
Mô hình Harrod Domar giả định một hàm sản xuất có hệ số cố định, giúp đơn giản
hố mơ hình, nhưng đưa ra một sự kết hợp giữa vốn và lao động để sản xuất một mức sản
lượng bất kỳ. Trong mơ hình này, tăng trưởng có quan hệ trực tiếp với tiết kiệm theo một
hệ số bằng nghịch đảo của tỷ số vốn tăng thêm trên sản lượng (ICOR).
Mơ hình Harrod Domar đã được sử dụng rộng rãi tại các nước đang phát triển nhằm
xác định mối quan hệ giữa tăng trưởng và các u cầu vốn. Trong mơ hình, hàm sản xuất
có một dạng rất chính xác, trong đó sản lượng được giả định là hàm tuyến tính theo vốn.
Hàm sản xuất được biểu thị như sau:
Y = K/v (2.8)
Trong đó
v là hằng số
K là trữ lượng vốn
Y là sản lượng
Mơ hình Harrod Domar chú trọng vào vai trị của tiết kiệm, nhưng đồng thời lại chú
trọng vào tầm quan trọng của nó bằng cách ngụ ý rằng tiết kiệm (và đầu tư) là điều kiện
đủ để tăng trưởng bền vững. Đồng thời, mơ hình cũng khơng trực tiếp đề cập đến sự thay
đổi năng suất. Mơ hình Harrod Domar cho ta thấy rõ rằng tiết kiệm là quan trọng để tăng
trưởng thu nhập theo thời gian.
- Lý thuyết tăng trưởng Tân cổ điển
Lý thuyết tăng trưởng Tân cổ điển thì mơ hình Solow là mơ hình đặc trưng nhất, mơ
hình gồm các yếu tố chính đó là vốn, lao động và tiến bộ kỹ thuật theo Gartner (2009)
hàm sản xuất có dạng Cobb-Douglas. Với những tham số cho trước (tiết kiệm, tốc độ tăng
dân số) và khoa học công nghệ, lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển dự báo rằng các quốc
gia sẽ hội tụ tại cùng một mức cân bằng chung của thu nhập bình quân đầu người. Sự hội
tụ dựa trên quy luật lợi tức biên giảm dần của vốn. Vị trí cân bằng ổn định của mỗi nền
kinh tế sẽ khác nhau, phụ thuộc vào những đặc trưng của mỗi quốc gia như tỷ lệ tiết kiệm,
tốc độ tăng dân số, trình độ kỹ thuật,… Mức thu nhập bình quân đầu người càng thấp
tương đối so với vị trí cân bằng ổn định thì tốc độ tăng trưởng càng cao. Hạn chế của mơ
hình tân cổ điển là: nếu tiến bộ kỹ thuật là một nhân tố duy nhất của tăng trưởng dài hạn,
vậy điều gì ảnh hưởng đến tiến bộ kỹ thuật, mơ hình tân cổ điển khơng trả lời câu hỏi này,
điều này được giải quyết trong lý thuyết tăng trưởng nội sinh.
- Lý thuyết tăng trưởng nội sinh
Mơ hình tăng trưởng nội sinh loại giả thuyết của trường phái tân cổ điển về lợi tức
biên giảm dần của vốn, vì vậy vốn được tích lũy từ đó tăng trưởng có thể đạt được ngay
cả trong điều kiện khơng có tiến bộ kỹ thuật. Mơ hình để diễn đạt lý thuyết này gồm 3
nhóm chính là mơ hình AK, mơ hình ngoại tác, mơ hình R&D theo Gartner (2009).
Theo Barro và Martin (1995) xây dựng hàm sản xuất của mô hình AK gồm sản lượng
và vốn. Trong đó vốn có vốn vật chất và vốn con người, do đó tăng trưởng kinh tế có thể
duy trì trong trường hợp khơng có tiến bộ kỹ thuật và sự gia tăng của lực lượng lao động.
Mơ hình ngoại tác thì vốn vẫn tuân theo quy luật lợi tức biên giảm dần đối với từng nhà
đầu tư riêng lẻ, những khoản đầu tư của nhà đầu tư này làm tăng khả năng sinh lợi của
những khoản đầu tư khác. Hiệu ứng này gọi hiệu ứng lan tỏa, do đó nền kinh tế khơng bị
lợi tức biên của vốn giảm dần. Theo Romer (1986) tăng trưởng trong dài hạn chủ yếu
được tạo ra thông qua việc tích lũy kiến thức tiên tiến, những biện pháp tối đa hóa lợi
nhuận,… Mơ hình R&D (nghiên cứu và phát triển) nhấn mạnh tăng trưởng kinh tế dài hạn
được xác định bởi tốc độ của tiến bộ kỹ thuật. Tuy nhiên, tiến bộ kỹ thuật được tạo ra bởi
những khoản đầu tư nhằm tìm kiếm lợi nhuận chứ không phải do yếu tố ngoại sinh. Mức
độ và hiệu quả của những khoản đầu tư này quy định tốc độ của tiến bộ kỹ thuật và tốc độ
tăng trưởng kinh tế. Trong mơ hình, giả định rằng thị trường cạnh tranh khơng hồn hảo,
do đó, những người phát minh có thể duy trì sự độc quyền đối với những sản phẩm do họ
phát minh ra trong một khoản thời gian. Theo Romer (1990) nếu khơng có sự độc quyền
sẽ khơng có động lực để đầu tư và R&D.
Trong mơ hình tăng trưởng nội sinh, việc khơng giả định về lợi tức biên giảm dần của
vốn, các quốc gia khơng có xu hướng hội tụ tại cùng một mức thu nhập như đã dự đốn
trong mơ hình tân cổ điển. Theo Barro và Martin (1995) cho rằng sự hội tụ này có thể xảy
ra theo một trong các cách trong mơ hình tăng trưởng nội sinh. Các mơ hình này kết luận
rằng những nước theo sau có thể đuổi kịp những nước dẫn đầu về công nghệ do việc bắt
chước thì rẻ hơn so với việc tự phát minh. Tuy nhiên, khoảng cách phát triển bị thu hẹp
thì số lượng tiến bộ kỹ thuật có thể bắt chước giảm đi, chi phí tăng lên và tốc độ tăng
trưởng có xu hướng giảm. Đặc điểm của sự hội tụ tương tự mơ hình tân cổ điển về ý
nghĩa vì chi phí biên của việc bắt chước tăng tương tự với tình trạng lợi tức biên của vốn
giảm dần. Nhưng chênh lệch về trình độ cơng nghệ chỉ là một tiềm năng cho tăng trưởng
chứ không phải là điều hiển nhiên giúp các nước đi sau thành công.
1.2.4. Mối liên hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế
Lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế là một đề tài thu hút
được nhiều tranh luận của các học giả thuộc các trường phái kinh tế khác nhau, cả tân cổ
điển và Keynes. Tuy nhiên, các nghiên cứu của các học giả này không đưa ra một câu trả
lời đồng nhất mà tồn tại 3 luồng quan điểm:
- Thứ nhất, quan điểm tăng trưởng nợ công tỷ lệ nghịch với tăng trưởng kinh tế
quốc gia với đại diện là Friedman (1988).
- Thứ hai, quan điểm nợ cơng ở mức hợp lý có tác động tích cực đến tăng trưởng
kinh tế do tác động đến tổng cầu thuộc về các nhà kinh tế học theo trường phái Keynes.
- Thứ ba, quan điểm nợ cơng có tác động rất nhỏ tới tăng trưởng kinh tế thuộc về
các nhà kinh tế theo trường phái Ricardo với đại diện tiêu biểu là Barro.
Thứ nhất, tăng trưởng nợ công tỷ lệ nghịch với tăng trưởng kinh tế quốc gia theo
Friedman (1988)
Nợ công làm giảm tăng trưởng kinh tế theo quan điểm kinh tế cổ điển cho rằng khi
Chính phủ dùng nợ để trang trải các khoản thâm hụt ngân sách thì sẽ làm giảm tăng
trưởng kinh tế do gánh nặng nợ cho thế hệ tương lai cũng như do việc giảm đầu tư tư
nhân từ áp lực tăng lãi suất. Sự gia tăng của nợ công do thâm hụt ngân sách sẽ gây áp lực
làm tăng lãi suất. Lãi suất tăng đương nhiên sẽ làm giảm đầu tư tư nhân. Nói một cách
khác, Friedman (1988) cho rằng tăng nợ công giống như việc “chi tiêu công chèn ép đầu
tư tư nhân” (crowd out effect). Một khi đầu tư tư nhân giảm thì tăng trưởng kinh tế cũng
giảm
Modigliani (1961) lập luận rằng khi Chính phủ vay tiền thì Chính phủ sẽ phải tăng
thuế để bù đắp lại các khoản lãi phải trả cho các khoản vay đó. Việc tăng thuế trong tương
lai làm giảm thu nhập của dân chúng nên thực chất tổng nguồn vốn đầu tư trong nền kinh
tế không đổi. Thu nhập kỳ vọng giảm do việc tăng thuế cũng khơng kích thích đầu tư để
tăng trưởng kinh tế nghĩa là nếu chính phủ đánh thuế, thì nguời dân cịn ít tiền trong túi
hơn, cho nên mỗi đồng chính phủ chi tiêu sẽ được cân đối bằng một đồng không được chi
ở chỗ khác.
Thứ 2, quan điểm của trường phái kinh tế học Keynes
Giả thuyết cơ bản là tổng cung chịu ảnh hưởng của tổng cầu và giả thiết nền kinh
tế không trong trạng thái toàn dụng. Keynes đề xuất khi nền kinh tế suy thối, thất nghiệp
tăng thì Chính phủ có thể đưa ra các gói kích cầu để tác động vào nền kinh tế. Các gói
kích cầu này có thể thực hiện bằng cách Chính phủ đi vay để tăng chi tiêu cơng. Việc tăng
tổng cầu sẽ có tác động thúc đẩy tổng cung và từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Robert Eisner (1984) cho rằng nếu nợ công ở mức hợp lý sẽ có tác động làm gia
tăng việc tổng cầu, tăng tỷ suất lợi nhuận đầu tư từ đó thúc đẩy đầu tư cho dù lãi suất có
tăng lên. Chính vì thế, ơng đã áp dụng lý thuyết này trong các phân tích thực chứng và chỉ
ra rằng thâm hụt ngân sách (hay nợ cơng) có quan hệ tỷ lệ thuận với tốc độ tăng trưởng
của thu nhập. Ngược lại, Gramlich (1989) cho rằng việc sử dụng nợ công để tài trợ cho
thâm hụt ngân sách không quan trọng trong việc quyết định tính hiệu quả của chính sách
tài khóa. Quan điểm của phái Keynes cũng vấp phải sự phản đối của những người theo
trường phái kinh tế Ricardo khi họ cho rằng rằng chi tiêu tăng thêm của chính phủ sẽ
khơng có tác động lên mức thu nhập vì người dân sẽ lập tức tiết kiệm nhiều hơn để trả
thuế tăng lên trong tương lai hoặc bù lại lạm phát cao hơn do chính phủ tăng chi tiêu
trong hiện tại. Tác động rịng lên tổng cầu sẽ là bằng khơng.
Thứ 3, quan điểm của trường phái Ricardo
Nợ cơng có tác động rất nhỏ tới nền kinh tế vì nợ cơng khơng có tác động gì đến
tổng cầu. Việc gia tăng chi tiêu công ngày hôm nay sẽ làm tăng thuế cả ở hiện tại và
tương lai trong khi người tiêu dùng sẽ định hướng hành vi tiêu dùng của họ dựa trên giá
trị hiện tại của thu nhập của họ trong tương lai. Dù cho việc gia tăng thuế diễn ra ở hiện
tại hay tương lai thì việc tiêu dùng cũng sẽ giảm tương ứng với việc chi tiêu của chính
phủ. Robert Barro (1989) cho rằng khi chính phủ vay nợ thì nhóm người già nhận thấy
rằng con cháu họ sẽ bị thiệt hại hơn (giả sử là người già quan tâm tới phúc lợi của con
cháu họ, do đó họ không muốn mức tiêu dùng của con cháu họ giảm sút). Vậy thì nhóm
người già phản ứng như thế nào? Đơn giản là họ gia tăng thu nhập dưới dạng di sản để lại
cho con cháu với mức bằng khoản tiền đủ để trả phần thuế tăng thêm mà thế hệ tương lai
phải chịu. Kết quả khơng có gì thay đổi thực sự. Các thế hệ sẽ có cùng mức tiêu dùng
chính xác một số tiền giống nhau như trước khi chính phủ vay nợ. Mỗi thế hệ tiêu dùng
chính xác một số tiền giống nhau như trước khi chính phủ vay nợ.
Quan điểm của trường phái Ricardo đã bị phê phán cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Bernheim (1989) cho rằng quan điểm của trường phái này dựa quá nhiều vào các giả
thuyết, trong đó có giả thiết rằng các hộ gia đình là các thực thể độc lập và và khơng có
mối liên hệ với nhau. Giả thiết này chỉ có ở các thị trường hồn hảo trong đó người tiêu
dùng có các quyết định của mình chỉ dựa vào lý trí. Theo Keynes điều này làm tăng cầu
hiệu dụng và thuyết phục được doanh nghiệp và hộ gia đình rằng điều kiện là an tồn cho
đầu tư và tiêu dùng. Nguợc lại, kỳ vọng cho rằng chi tiêu tăng thêm của chính phủ sẽ
khơng có tác động lên mức thu nhập vì nguời dân sẽ lập tức bắt đầu tiết kiệm nhiều hơn
để trả thuế tăng lên trong tương lai hoặc bù lại lạm phát cao hơn do chính phủ tăng chi