Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Nghiên cứu tác động của lạm phát đến hoạt động đầu tư của hộ kinh doanh-nghiên cứu trên địa bàn phường Đồng Tâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.65 KB, 58 trang )

MỤC LỤC
PHỤ LỤC 1 PHIẾU KHẢO SÁT 53
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012
DANH MỤC BẢNG BIỂU
PHỤ LỤC 1 PHIẾU KHẢO SÁT 53
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012
LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nhằm phát triển kinh tế - xã hội, đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, từng bước bắt kịp với xu thế
phát triển mới. Đại hội Đảng lần thứ XI đã nêu định hướng phát triển trong
giai đoạn 2011-2015 “ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển kinh tế nhanh bền
vững, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân”. Trong bối cảnh tình
hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, lạm phát tăng, giá dầu thô, giá các
loại nguyên vật liệu cơ bản đầu vào tăng, giá lương thực thực phẩm tăng.
Trong nước, giá cả tăng cao làm tăng nguy cơ mất ổn định về nền kinh tế. Vì
vậy kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô , đảm bảo an sinh xã hội là
nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hiện nay. Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 09-01-
2011 ban hành những biện pháp nhằm thực hiện nhiệm vụ trọng tâm và cấp
bách này.
Lạm phát ảnh hưởng đến ổn định nền kinh tế trực tiếp và rõ nét nhất
thông qua sự ảnh hưởng của nó đến đầu tư như lạm phát tác động đến chi phí
đầu vào, sức mua, lợi nhuận, tiền gốc và kết quả hoạt động đầu tư.Trong những
năm gần đây đầu tư của các hộ gia đình góp phần rất quan trọng vào đầu tư của
nền kinh tế, nó phản ánh một phần nào đó sự ổn định của nền kinh tế.
Xuất phát từ thực tiễn đó nhóm tác giả đã chọn đề tài: “Nghiên cứu tác
động của lạm phát đến hoạt động đầu tư của hộ kinh doanh-nghiên cứu
trên địa bàn phường Đồng Tâm” làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình
với mục đích đưa ra cái nhìn tổng quan nhất về lạm phát tác động đến đầu tư
nói chung và ảnh hưởng của lạm phát đến đầu tư của hộ gia đình kinh doanh
nói riêng ở phường Đồng Tâm- thực trạng và chính sách khuyến khích đầu tư


của hộ kinh doanh. Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục của đề tài được
chia thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về lạm phát và đầu tư của hộ gia đình
Chương 2: Kiểm chứng tác động của lạm phát đến hoạt động đầu tư
của các hộ kinh doanh tại địa bàn phường Đồng Tâm
Chương 3: Một số kết luận và chính sách khuyến khích hoạt động đầu
tư hộ kinh doanh
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012
1
Đề tài cũng đưa ra đánh giá và nhận định lạm phát ảnh hưởng đến đầu
tư như thế nào. Để đưa ra được những nhận định ấy, nhóm tác giả đã cố gắng:
-Nghiên cứu lý thuyết về lạm phát,đầu tư và lạm phát ảnh hưởng đến
đầu tư nhất là đầu tư kinh doanh của hộ gia đình ở địa bàn phường Đồng
Tâm.
-Tổ chức cuộc điều tra bằng bảng hỏi trong phạm vi các hộ gia đình
kinh doanh ở địa bàn phường Đồng Tâm - quận Hai Bà Trưng- thành phố HN
Bài nghiên cứu sử dụng những vấn đề lý luận của kinh tế học hiện đại
làm cơ sở để phân tích số liệu thực tiễn. Số liệu phân tích được tổng hợp từ
các nguồn có sẵn và do nhóm tác giả tự điều tra tổng hợp. Phương pháp phân
tích số liệu được sử dụng là đánh giá tác động qua tỷ trọng đóng góp của các
nhân tố và hồi quy số liệu bằng mô hình Eviews 4.
Mặc dù đã dành rất nhiều thời gian và công sức để thực hiện đề tài này,
nhưng chắc rằng đề tài vẫn còn nhiều hạn chế và thiếu sót. Rất mong nhận
được ý kiến đóng góp trao đổi của các thầy cô và các bạn để đề tài có thể
hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2012
Nhóm tác giả
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012
2

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT VÀ
ĐẦU TƯ CỦA HỘ GIA ĐÌNH
1.1. Lạm phát
1.1.1. Khái niệm và nguồn gốc của lạm phát
Theo Các Mác trong bộ phận tư bản: lạm phát là việc làm tràn đầy các
kênh, các luồng lưu thông bằng những tờ giấy bạc thừa dẫn đến giá cả tăng
vọt.
Nhà kinh tế học Samuelson thì cho rằng: lạm phát là biểu thị sự tăng
lên của mức giá chung. Theo ông “lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả
và chi phí tăng lên”. Ví dụ: giá bánh mì tăng, giá xăng dầu, ô tô, tư liệu sản
xuất tăng.
Milton Friedman thì quan niệm rằng: “lạm phát là việc giá cả tăng
nhanh và kéo dài”. Ông cho rằng:” lạm phát ở đâu và bao giờ cũng là một
hiện tượng tiền tệ…và nó chỉ có thể xuất hiện khi cung tiền tăng nhanh hơn
sản lượng”. ý kiến này đã được đa số các nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ và
phái Keynes tán thành.
1.1.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát
Có nhiều lí thuyết giải thích nguyên nhân gây ra lạm phát. Một số lí
thuyết chính như sau:
Lạm phát do cầu kéo: Là loại lạm phát xảy ra do tổng cầu tăng lên, đặc
biệt khi sản lượng đã đạt đến mức sản lượng tiềm năng.
Lạm phát do chi phí đẩy: là loại lạm phát xảy ra khi một số loại chi phí
đồng loạt tăng lên. Nguyên nhân do cú sốc cung bất lợi, điều này làm mọi
biến số trong nền kinh tế đều biến động theo chiều hướng bất lợi: sản lượng
giảm, cả thất nghiệp và lạm phát đều tăng. Chính vì vậy loại lạm phát này
được gọi là lạm phát do chi phí đẩy hay lạm phát kèm suy thoái.
Lạm phát dự kiến hay lạm phát ỳ: đây là loại lạm phát hoàn toàn được
dự tính trước. Mọi người đã biết trước và tính đến khi thỏa thuận về các biến
danh nghĩa được thanh toán trong tương lai. Chúng ta có thể coi đó là tỷ lệ
lạm phát cân bằng trong ngắn hạn và nó sẽ được duy trì cho đến khi có các cú

sốc tác động đến nền kinh tế.
Trong dài hạn lạm phát về cơ bản là hiện tượng tiền tệ. Lạm phát chỉ
xảy ra khi lượng tiền cung ứng tăng nhanh hơn sản lượng thực tế. Lạm phát
gây ra do sức ép từ phía cầu chứ không phải từ phía cung.
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012
3
 Các lý thuyết giải thích lạm phát tại các nước đang phát triển:
Đối với các nước đang phát triển, người ta xem xét trên hai hướng chủ
yếu: một là tiếp cận lí thuyết trọng tiền và hai là tiếp cận lí thuyết trọng cơ cấu.
Điểm khác nhau cơ bản giữa hai cách tiếp cận này là các nhân tố xác định lạm
phát.
a) Thuyết trọng tiền đối với nhóm các nước đang phát triển đặc biệt
nhấn mạnh tới ba nguyên nhân chính làm các nước đang phát triển phải phát
hành tiền tệ nhanh hơn tăng trưởng sản xuất:
Một là, chính phủ các nước này có nhu cầu chi tiêu rất lớn nhưng
không thể tăng được nguồn thu từ thuế, do đó buộc phải in tiền để chi tiêu,
kéo theo lạm phát; như vậy, lạm phát cao tại các nước đang phát triển hầu như
bao giờ cũng có nguồn gốc từ thâm hụt ngân sách.
Hai là sức ép của mục tiêu tăng trưởng nhanh và tạo thêm nhiều việc làm.
Sức ép này càng đặc biệt nghiêm trọng trong giai đoạn kinh tế tăng trưởng quá
chậm hoặc suy thoái, dù là tạm thời. Trong bối cảnh như vậy, Chính phủ với sự
hỗ trợ của Ngân hàng Trung ương thường trực thuộc Chính phủ, sẽ sử dụng phát
hành tiền như là một công cụ tạo ra tăng trưởng và việc làm.
Ba là lỗi của các ngân hàng trung ương trong việc điều hành chính sách
tiền tệ.Các nhà lãnh đạo của ngân hàng trung ương có thể đưa ra các chính
sách dựa trên học thuyết không phù hợp với tình hình đất nước; ví dụ coi lãi
suất là mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ thay vì tập trung kiểm soát
tổng cung tiền tệ. Bằng việc duy trì dài hạn một lãi suất thấp để hỗ trợ tăng
trưởng và tạo việc làm, họ sẽ để cho tổng cung tiền tệ và tín dụng tăng lên
ngày càng nhanh, dẫn tới lạm phát ngày càng gia tăng. Hậu quả là không

những không kiểm soát được lạm phát mà còn làm tăng nhanh lãi suất danh
nghĩa và lãi suất thực; và lãi suất sẽ cao hơn nhiều so với mức có được nếu
như theo đuổi một chính sách tiền tệ phù hợp.
b) Trái với thuyết trọng tiền, thuyết trọng cơ cấu cho rằng lạm phát tại
các nước đang phát triển là hiện tượng cơ cấu và nó thường xuất hiện khi
nước đó phát động các chương trình phát triển nhiều tham vọng trong khi
thiếu những chuẩn bị cần thiết về cơ sở vật chất kỹ thuật, về vốn, về lao động
và về các cơ cấu kinh tế khác. Điểm then chốt của thuyết này là nhấn mạnh sự
tồn tại của những khâu hẹp, điểm thắt nút, điểm cổ chai về cơ cấu trong nền
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012
4
kinh tế. Thuyết trọng cơ cấu thường nhấn mạnh đến ba loại thắt nút sau:
Một là sự kém co dãn của cung. Đây thường được coi là nguyên nhân
cơ bản của các áp lực lạm phát tại các nước đang phát triển; đặc biệt là sự
kém co dãn của sản xuất nông nghiệp, nhất là lương thực thực phẩm, hệ thống
giao thông và các cơ sở hạ tầng khác Quá trình lạm phát tại các nước đang
phát triển được mô tả như sau: khi phát động các chương trình phát triển
nhiều tham vọng, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế sẽ tăng lên, làm cho cầu về lương
thực tăng nhanh. Nhưng do những khó khăn về cơ sở hạ tầng, cung nông sản
không tăng kịp so với tăng nhanh của cầu, dẫn tới giá lương thực tăng lên. Sự
tăng lên của giá lương thực sẽ kéo theo sự tăng giá của các mặt hàng khác vì
đây là mặt hàng thiết yếu đối với toàn xã hội. Kết quả là mặt bằng giá chung
liên tục tăng lên; tức là xuất hiện lạm phát.
Như vậy, nguyên nhân đầu tiên của lạm phát theo thuyết trọng cơ cấu
là thiếu những chính sách kinh tế phù hợp để tháo gỡ những khó khăn về tăng
cung khi phát động những chương trình phát triển nhiều tham vọng.
Hai là sự khan hiếm các nguồn ngoại tệ; đặc biệt là sự yếu kém của xuất
khẩu, vai trò của nông nghiệp trong xuất khẩu, việc làm và tiêu thụ, sự yếu kém
của năng suất lao động trong khu vực này. Theo thuyết trọng cơ cấu, đây là
nguyên nhân quan trọng thứ hai, theo đó sự mất cân bằng giữa cung và cầu ngoại

tệ cần thiết để nhập khẩu các đầu vào và công nghệ cần thiết và không thể thiếu
được đối với các nước đang phát triển sẽ làm tăng giá các tư liệu sản xuất nhập
khẩu, từ đó phát động các vòng xoáy lạm phát do chi phí thông qua phá giá hoặc
tăng hàng rào thuế quan hoặc sử dụng quôta nhập khẩu.
Ba là thâm hụt ngân sách chính phủ. Thực tế, thu ngân sách chính phủ
tại các nước đang phát triển thường rất kém và không ổn định do thu nhập đầu
người của dân cư quá thấp trong khi chi ngân sách có xu hướng liên tục tăng
lên và cơ cấu thường xuyên biến động; đặc biệt là những khó khăn khi tìm
kiếm nguồn thu đáp ứng các khoản chi để khởi động các chương trình đầu tư
công cộng nhiều tham vọng. Hậu quả là không có nước đang phát triển nào
không rơi vào tình trạng thâm hụt ngân sách triền miên và buộc phải tài trợ
cho thâm hụt này bằng phát hành tiền tệ hoặc các phương tiện khác có thể gây
ra lạm phát.Như vậy, phương thức tài trợ cho thâm hụt ngân sách cũng là một
nguyên nhân quan trọng của lạm phát tại các nước đang phát triển.
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012
5
Ngoài ba nguyên nhân chính trên, các nhà trọng cơ cấu còn thường đề cập
đến yếu tố cơ cấu ngành của nền kinh tế, đến những điểm nhạy cảm có thể tăng
giá kép theo phản ứng dây chuyền trong tổng thể nền kinh tế và phát sinh lạm
phát. Do vậy, các nhà trọng cơ cấu cho rằng nguyên nhân tiền tệ chỉ là một khía
cạnh của hiện tượng lạm phát. Những phi cân bằng trong sản xuất và phân phối
luôn luôn tồn tại tại các nền kinh tế đang phát triển; chúng gây ra sự phát triển
chậm trễ của nông nghiệp so với sự phát triển chung của toàn nền kinh tế và trở
thành một nguyên nhân chính của lạm phát tại những nước này.
Khác với các nước phát triển, ở đó chính sách tiền tệ và chính sách
ngân sách thường độc lập nhau, Ngân hàng trung ương tại các nước đang phát
triển thường trực thuộc Chính phủ và không có tính độc lập cao, do vậy, chính
sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương tại đây gắn liền với chính sách ngân
sách của chính phủ và thường bị ép phải đáp ứng đủ tiền để bù đắp thâm hụt
ngân sách của chính phủ. Do vậy, lạm phát tiền tệ kiểu như tại các nước công

nghiệp ít xẩy ra; ngược lại, lạm phát ở đây có nguồn gốc từ bù đắp thâm hụt
ngân sách. Chính vì vậy mà đa số các nhà nghiên cứu về lạm phát tại các
nước đang phát triển đều nhấn mạnh đến nguyên nhân cơ cấu.
c) Trào lưu hỗn hợp tuy trở thành một học thuyết tổng hợp giải thích
lạm phát nhưng đã phát triển mạnh trong nghiên cứu thực nghiệm. Đa số các
nghiên cứu áp dụng để phân tích lạm phát tại các nước đang phát triển đã cho
thấy nguyên nhân lạm phát tại các nước này mang tính hỗn hợp, tức là vừa
mang tính tiền tệ, vừa mang tính cơ cấu.Đây cũng là kết luận đối với trường
hợp lạm phát ở Việt Nam.
1.1.3 Lạm phát tác động đến đầu tư trên góc độ của hộ gia đình:
1.1.3.1 Khái niệm về đầu tư:
+ Theo quan niệm của doanh nghiệp:
Đầu tư là hoạt động bỏ vốn kinh doanh với mục tiêu thu được số vốn
lớn hơn so với số vốn đã bỏ ra thong qua lợi nhuận.
+ Theo quan điểm của nhà nước:
Đầu tư là hoạt động bỏ vốn phát triển, để từ đó thu được các hiệu quả
kinh tế xã hội, mang lại lợ ích cho quốc gia.
1.1.3.2 Tác động của lạm phát đến đầu tư :
-Lạm phát ảnh hưởng đến lãi suất và tác động đến đầu tư:
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012
6
Lạm phát thực tế thường ít thay đổi và ở mức mà cả người cho vay và
người đi vay đền có thể chấp nhận được. Nhưng lãi suất danh nghĩa lại thay
đổi theo tỷ lệ lạm phát.Khi lạm phát thay đổi lãi suất danh nghĩa sẽ thay đổi
để mức lãi suất thực tế luôn dương, ta có :
Lãi suất danh nghĩa (i) = lãi suất thực tế ( r) + tỷ lệ lạm phát (π)
Khi lãi suất tăng một mặt làm giảm sức hấp dẫn trong việc chi tiêu hiện
tại, giảm quy mô của hãng sản xuất dẫn đến giảm doanh thu cho hãng ở hiện
tại. Mặt khác, lạm phát tăng làm tăng chi phí vốn vay của doanh nghiệp và
người kinh doanh. Điều này đỏi hỏi dự án đầu tư sử dụng vốn vay ngân hàng

phải có tỷ suất lợi nhuận lớn hơn, một số dự án qua đó mà bị sàng lọc. Vì vậy,
đầu tư cố định giảm. Lãi suất cao cũng làm tăng chi phí lưu giữ vốn lưu động
(hàng tồn kho) tạo sức ép cho các doanh nghiệp buộc phải giảm đầu tư dưới
dạng vốn lưu động.
-Lạm phát tác động đến tiến độ thực hiện dự án:
Khi lạm phát xảy ra, lãi suất tăng, ngân hàng khắt khe hơn trong việc
cho vay, việc vay vốn của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa,
giá cả của nguyên vật liệu, các yếu tố đầu vào đều tăng lên theo phản ứng dây
chuyền, nhiều doanh nghiệp không thể vay được, nếu có cũng chỉ là số lượng
ít, chia cắt làm nhiều giai đoạn. Qua đó, không những làm chậm tiến độ thực
hiện dự án và vận hành các kết quả đầu tư mà còn gia tăng vốn đầu tư ban đầu
của dự án.
-Lạm phát làm thay đổi tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến đầu tư.
Khi một nước có lạm phát, sức mua đồng nội tệ giảm, với tỷ giá hối
đoái không đổi, hàng hóa dịch vị trong nước đắt hơn trên thị trường nước
ngoài trong khi hàng hóa dịch vị nước ngoài rẻ hơn trên thị trường trong
nước. Theo quy luật cung cầu, cư dân trong nước sẽ chuyển sang dùng hàng
ngoại nhiều hơn vì giá rẻ hơn, nhập khẩu tăng. Tương tự vì tăng giá, cư dân
nước ngoài sẽ dùng ít hàng nhập khẩu hơn làm cho hoạt động xuất khẩu giảm
sút, cung ngoại tệ giảm và làm tăng tỷ giá.
Khi lạm phát tăng, đồng Việt Nam trở nên yếu tương đối, tỷ giá đồng
nội tệ so với đồng ngoại tệ giảm. Giá nguyên vật liệu nhập khẩu như xăng
dầu, công nghệ, chi phí sản xuất tăng ảnh hưởng đến hoạt động và nhu cầu
mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi đồng nội tệ mất giá sẽ
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012
7
kích thích gia tăng xuất khẩu từ đó thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển và
tạo việc làm ổn định cho người lao động. Tuy nhiên đồng nội tệ mất giá sẽ
làm cho giá cả hàng hóa tư liệu sản xuất tăng cao từ đó giá thành sản phẩm
trong nước cũng tăng theo. Điều này làm cho mặt bằng giá cả trong nước tăng

cao và sức ép lạm phát trong nước trở nên mạnh mẽ hơn.
-Lạm phát ảnh hưởng đến tâm lý của nhà đầu tư: tâm lý nhà đầu tư là
yếu tố khó đo lường và dự báo nhất, nhưng lại là yếu tố tác động mạnh nhất
đến quyết định của nhà đầu tư. Nếu các doanh nghiệp hay người kinh doanh
dự báo rằng tình hình kinh tế tương lai sẽ xấu đi thì họ tỏ ra ngần ngại khi đầu
tư vào đây. Ngược lại khi các doanh nghiệp tin rằng công cuộc doanh nghiệp
sẽ phục hồi nhanh chóng thì họ sẽ có kế hoạch mở rộng quy mô nhà xưởng
dẫn đến đầu tư tăng.
Khi tỷ lệ tăng lãi suất danh nghĩa thấp hơn tỷ lệ lạm phát rất nhiều,
thậm chí có lúc lãi suất thực âm. Điều này khiến cho người gửi tiền bị thiệt,
tiền của họ bị hao mòn một cách vô hình. Vì vậy họ sẽ lựa chọn mua vàng,
hàng hóa có giá khác, đầu tư chứng khoán hay ngoại tệ mạnh để tránh sự
mất giá của đồng nội tệ. Lượng tiền gửi tại ngân hàng giảm .
Lạm phát cao kéo theo mức lãi suất cao sẽ gắn liền với dòng vốn từ
Ngân hàng sẽ chảy chậm chạp cho các nhà đầu tư và nền kinh tế khó hấp thụ
hơn từ đó làm nhà đầu tư sẽ e dè hơn khi đưa ra quyết định đầu tư.
- Lạm phát ảnh hưởng tới kết quả đầu tư.
Công cuộc đầu tư của doanh nghiệp hay hộ gia đình có thể coi là có kết
quả hay không điều này phụ thuộc vào chất lượng của dự án và được đánh giá
thông qua hiệu quả kinh doanh. Sau đây kết quả đầu tư của doanh nghiệp
được thể hiện thông qua hiệu quả kinh doanh của nó.
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử
dụng các nguồn lực, vật lực, tài lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao
nhất trong quá trình SXKD với tổng chi phí thấp nhất. Không ngừng nâng cao
hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ nền sản xuất nào nói
chung và mối quan tâm của DN hay hộ gia đình nói riêng, đặc biệt nó đang là
vấn đề cấp bách mang tính thời sự đối với các DN nhà nước Việt nam hiện
nay. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vừa là câu hỏi, vừa là thách thức đối với
các DN hiện nay.Sản xuất kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp SXKD
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012

8
nào cũng có thể hiển thị bằng hàm số thể hiện mối quan hệ giữa kết quả sản
xuất với vốn và lao động
Q = f (K, L) trong đó:
K: là vốn.
L: là lao động.
Vì vậy, kết quả SXKD của các DN có quan hệ hàm với các yếu tố tài
nguyên, vốn, công nghệ Xét trong tầm vi mô, với một DN trong ngắn hạn
thì các nguồn lực đầu vào này bị giới hạn. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp
phải tìm biện pháp nhằm khai thác và sử dụng vốn, sử dụng tối đa các nguồn
lực sẵn có của mình, trên cơ sở đó so sánh và lựa chọn phương án SXKD tốt
nhất cho doanh nghiệp mình.
Việc đánh giá một công cuộc đầu tư là có hiệu quả hay không được
đánh giá thông qua một số chỉ tiêu sau đây:
- Hệ số ICOR:
Hệ số ICOR (hay tỷ số gia tăng của vốn so với sản lượng) là tỷ số giữa
qui mô đầu tư tăng thếm với mức gia tăng sản lượng, hay suất đầu tư cần thiết
để tạo ra một đơn vị sản lượng tăng thêm.
Xét trên qui mô kinh tế là một doanh nghiệp hay một hộ kinh doanh thì
vẫn có thể sử dụng công thức tính hệ số ICOR như sau:
ICOR= Vốn đầu tư tăng thêm/ sản lượng tăng thêm
Hoặc ICOR= tỷ lệ (vốn đầu tư/ sản lượng)/ tốc độ tăng trưởng kinh
doanh.
Nếu ICOR không đổi thì mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn
đầu tư.
- Tỷ suất lợi nhuận
Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp . Tuy nhiên, để phản ánh chính xác hơn ta cần xem
xét đến cả số tuyệt đối và số tương đối thông qua việc so sánh giữa tổng số
vốn bỏ ra với số lợi nhuận thu được trong kỳ.

Các chỉ tiêu phản ánh tỷ suất lợi nhuận.

Tỷ suất lợi nhuận của toàn bộ vốn kinh doanh.
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012
9
T
LN

Vkd
=


Vkd
LNST
x100
Trong đó:
T
LN

Vkd
- Tỷ suất lợi nhuận tổng vốn kinh doanh.
∑LNST - Tổng lợi nhuận sau thuế trong kỳ.

Vkd
- Tổng vốn kinh doanh bình quân trong kỳ.

Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động:
T
LN VLĐ
=



Vld
LNST
x100
Trong đó:
V

: Tổng vốn lưu động bình quân trong kỳ.
T
LNVLĐ
: Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động

Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định, T
LNVCĐ.
T
LNVCĐ
=
CD
V
LNTS

x100
Trong đó:
V

- Tổng vốn cố địng bình quân trong kỳ.
Các chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng vốn kinh doanh trong kỳ của
doanh nghiệp thì mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Tỉ suất lợi nhuận chịu tác động bởi 2 nhân tố đó là lợi nhuận và vốn

đầu tư. Hai nhân tố cấu thành này lại chịu ảnh hưởng trực tiếp của lạm phát.
Thực vậy với vốn, lạm phát tăng lên làm chi phí đầu vào tăng lên. Giá
cả các mặt hàng chịu tác động tăng lên từ việc lạm phát làm ch giá mua
nguyên vật liệu gia tăng khiến chi phí đầu vào tăng. Như vậy để đảm bảo quy
mô sản suất như trước thì doanh nghiệp bắt buộc phải gia tăng vốn ban đầu.
Lạm phát làm vốn ban đầu gia tăng.
Đối với lợi nhuận, lạm phát làm cho doanh thu giảm. Bởi vì doanh thu
danh nghĩa không đổi thì lạm phát tăng làm cho doanh thu thực tế giảm. Mà
như đã nói ở trên lạm phát khiến cho chi phí gia tăng. Có LN= B-C vậy lạm
phát tăng làm cho lợi nhuận giảm.
Như ta thấy công thức tỉ suất lợi nhuận trên, lạm phát khiến cho lợi
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012
10
nhuận giảm chi phí tăng làm tỉ suất lợi nhuận giảm. Tỉ suất lợi nhuận giảm
làm hay là hiệu quả kinh doanh.
Qua nghiên cứu 2 công thức về hiệu quả kinh doanh trong doanh
nghiệp, ta có thể thấy hiệu quả kinh doanh chịu ảnh hưởng trực tiếp từ lạm
phát. Đây là nhân tố để doanh nghiệp xem xét có nên đầu tư hay không cũng
là nhân tố để doanh nghiệp đánh giá tình hình đầu tư, sản xuất của mình. Ta
có thể nói rằng khi mà lạm phát cao doanh nghiệp thấy rủi ro trong hoạt
động đầu tư của mình do vậy mà hạn chế đầu tư hay là không đầu tư nữa, khi
lạm phát giảm doanh nghiệp thấy hiệu quả trong công cuộc đầu tư và muốn
đầu tư nhiều hơn.
1.2. Cơ sở lí thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và đầu tư
1.2.1. Lạm phát tác động đến chi phí đầu vào và sức mua
Lạm phát là biểu hiện của sự tăng lên và kéo dài của mức giá cả chung
trong nền kinh tế; và một trong những nguyên nhân dẫn tới lạm phát là do chi
phí tăng cao (lạm phát chi phí đẩy). Do vậy, lạm phát tăng thường đồng nghĩa
với việc chi phí đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp tăng lên.

Ba loại chi phí có thể gây ra lạm phát là : tiền lương, thuế gián thu, giá
nguyên liệu nhập khẩu. Khi công đoàn thành công trong việc đẩy tiền lương
lên cao,các doanh nghiệp sẽ tìm cách tăng giá. Việc chính phủ tăng những
loại thuế tác động đồng thời đến tất cả các nhà sản xuất cũng có thể gây lạm
phát. Thuế gián thu đóng vai trò rất đặc biệt vì nó tác động trực tiếp đến giá
cả hàng hóa. Đối với lĩnh vực kinh doanh mà sử dụng nhiều loại nguyên liệu
nhập khẩu thì sự thay đổi giá cả của chúng sẽ có tác động rất lớn đến tình
hình lạm phát trong nước. Và thực tế cho thấy rằng khi đồng nội tệ giảm
mạnh trên thị trường quốc tế , kéo theo lạm phát bùng nổ và chi phí đầu vào
cho sản xuất sẽ rất cao.
Việc lạm phát xuất hiện sẽ kéo theo sự tăng lên của mức giá chung, từ
đó ảnh hưởng đến chi phí đầu vào của các nhà sản xuất, chi phí đầu vào sẽ
tăng, làm giảm ý định đầu tư của các doanh nghiệp; hoặc là các doanh nghiệp
sẽ phải tìm kiếm nguyên liệu thay thế, quy trình sản xuất thấp hơn, chất lượng
và hiệu quả đầu tư sẽ giảm sút.
Ví dụ việc tỉ lệ lạm phát của năm 2011 là 18.12%, dẫn đến việc tăng
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012
11
giá của rất nhiều mặt hàng. Trong đó có sự tăng giá điện- nguyên liệu phục vụ
sản xuất của hầu hết các lĩnh vực kinh doanh. Giá điện tăng 5% làm tất cả các
doanh nghiệp lo ngại vì giá thành sản xuất tăng và lợi nhuận giảm. Theo
thống kê của các DN sản xuất xi măng, giá điện tăng 5% sẽ làm cho chi phí
sản xuất xi măng tăng từ 1,5%- 2%. Vào đầu tháng 3/2011 giá điện tăng trên
15% đã làm cho giá thành sản xuất xi măng tăng gần 10%. Bên cạnh đó, lãi
suất vay ngân hàng cũng tăng cao trong khi thị trường bất động sản đang trầm
lắng, đã làm cho ngành xi măng gặp khó khăn, tiêu thụ giảm. Theo Hiệp hội
Phân bón Việt Nam giá điện tăng 5% sẽ làm cho chi phí sản xuất phân bón
tăng từ 1%- 1,5%. Nhưng đó mới chỉ tính được chi phí trực tiếp do giá điện
tăng mà DN phân bón tiêu thụ điện phải trả thêm, còn chưa thể tính được các
tác động gián tiếp như các nhà cung cấp nguyên vật liệu đầu vào có tăng giá

lên không và tăng bao nhiêu. Đây mới là tác động quan trọng và khó lường
làm cho nhiều DN bị động. Việc tăng giá điện đã làm giảm ý định mở rộng
đầu tư sản xuất của các doanh nghiệp, nó cũng làm cho hoạt động sản xuất trở
nên trì trệ hơn, làm giảm khả năng thu hút đầu tư đối với các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, lạm phát khiến chi phí lãi vay của doanh nghiệp đắt đỏ
hơn bởi vì các tổ chức cho vay như ngân hàng thương mại đã phải nâng lãi
suất huy động lên để đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền. Khi chi
phí sản xuất tăng cao, giá thành các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp sẽ
phải tăng theo để đảm bảo sản xuất – kinh doanh hoặc có lợi nhuận. Tuy
nhiên, sức tiêu thụ sản phẩm-dịch vụ của doanh nghiệp sẽ sụt giảm do giá bán
cao, đặc biệt trong ngắn hạn và khi người tiêu dùng tìm tới các sản phẩm thay
thế. Điều này khiến cho lợi nhuận mục tiêu của doanh nghiệp khó được đảm
bảo và thậm chí sụt giảm, dẫn tới lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp trong
tương lai bị định giá thấp. Nếu lạm phát càng tăng mạnh thì hệ quả này diễn
ra càng nhanh và hoạt động đầu tư của doanh nghiệp càng bị ảnh hưởng
mạnh. Nếu lạm phát tăng quá cao lại diễn ra trong môi trường chính sách tiền
tệ - tài khoá thắt chặt thì hậu quả còn nặng nề hơn vì thanh khoản trên thị
trường bị co hẹp đáng kể do luồng vốn lưu thông trên thị trường sụt giảm.
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012
12
1.2.2 Lạm phát ảnh hưởng tới lợi nhuận:
1.2.2.1 Lý luận chung về lợi nhuận:
Khái niệm và những lý giải về nguồn gốc cũng như bản chất của lợi
nhuận đã được rất nhiều nhà kinh tế đưa ra có thể kể đến như:
- Theo Mác : do có sự chênh lệch về lượng giữa giá trị hành hóa và chi
phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, nên khi bán hàn hóa đúng giá trị trừ đi phần tư
bản ứng ra, nhà tư bản còn thu về tiền lời và được gọi là lợi nhuận. Lợi nuận
là hình thái chuyển hóa của giá trị thặng dư , giá trị thặng dư, được quan
niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước mang hình thái chuyển hóa là lợi
nhuận.

- Theo William Petty(1623-1687): ông cho rằng địa tô là số chênh lệch
giữa giá trị sản phẩm và chi phí sản xuất( tiền lương, tiền giống ) còn vấn đề
lợi tức ông coi nó cũng như tiền cho thuê ruộng.
- Adam Smith(1723-1790): Ông là người đầu tiên tuyên bố rằng “ Lao
động là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư”. Theo ông lợi nhuận là “ khoản
khấu trừ thứ 2” vào sản phẩm lao động. Theo cách giải thích này của ông thì
lợi nhuân, địa tô và lời tức là các hình thức khác nhau của giá trị do công
nhân tạo ra ngoài tiền lương. Và chính ông cũng đã khẳng định rằng “giá trị
hàng hóa” bao gồm : tiền công+ lợi nhuận+ địa tô.
- David Ricardo(1772-1823): ông cho rằng “ lợi nhuận là số còn lại
ngoài tiền lương mà nhà tư bản trả cho công nhân”.
Vai trò của lợi nhuận đối với nền kinh tế:
- Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
-Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển (sản xuất-phân phối-
trao đổi- tiêu dùng)
- Lợi nhuận là động lực phát triển sản xuất của doanh nghiệp
- Lợi nhuận thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội
1.2.2.2 Cơ sở lý thuyết của việc lạm phát ảnh hưởng tới lợi nhuận:
Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí
Khi nghiên cứu về lạm phát các nhà kinh tế học đã chỉ ra rằng lạm phát
có thể được sinh ra từ cả phía cung và phía cầu. Về phía cung thì nó là sản
phẩm của một quá trình tăng cung ứng tiền tệ liên tục trong một thời gian dài
làm cho mức giá cả tăng kéo dài và dẫn đến lạm phát. Mặt khác, xuất phát từ
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012
13
phía cầu thì lạm phát lại được lý giải bởi 2 lý do là lạm phát do chi phí đẩy và
lạm phát do cầu kéo. Trong nội dung đang trình bày về ảnh hưởng của lạm
phát tới lợi nhuận, lạm phát do chi phí đẩy là lý luận được sử dụng để lý giải.
Chi phí ở đây xuất phát từ việc các nhà sản xuất phải bỏ ra nhiều tiền hơn để
trang trải cho các chi phí sản xuất sản phẩm tại nhà máy của mình như : tiền

lương, nguyên vật liệu đầu vào vì thế để đảm bảo không lỗ và kiếm được
lãi các nhà sản xuất buộc phải tăng giá bán sản phẩm. Việc tăng giá này trước
hết sẽ ảnh hưởng đến những hộ kinh doanh sử dụng các sản phẩm của nhà sản
xuất như một yếu tố đầu vào hay buôn bán như một kênh phân phối sản
phẩm.
Sẽ có 2 trường hợp xảy ra, thứ nhất nếu như mức giá mà nhà sản xuất
đưa ra vẫn thấp hơn so với mức giá ban đầu mà hộ gia đình vẫn bán thì hoặc
là họ sẽ tiếp tục bán sản phẩm với giá không thay đổi và chịu giảm lợi nhuận
đi hoặc là họ sẽ tăng giá theo đúng tỷ lệ mà nhà sản xuất tăng thêm để giữ
nguyên lợi nhuận như cũ. Trường hợp thứ 2 là khi giá bán sản phẩm tăng quá
nhiều và vượt qua giá bán ban đầu thì hoặc là hộ gia đình sẽ không bán tiếp
sản phẩm này nữa để tránh bị lỗ hoặc là họ cũng tăng giá bán để đảm bảo có
lợi nhuận.
Lẽ dĩ nhiên, khi phân tích theo quy luật cung-cầu thị trường thì khi giá
tăng sẽ khiến cho nhu cầu về hàng hóa đó giảm(đối với những hành hóa thông
thường) người tiêu dùng sẽ hạn chế sử dụng sản phẩm đó hoặc tìm kiếm một
mặt hàng thay thế giá rẻ hơn, khách hàng mua ít hơn đồng nghĩa với việc các
hộ kinh doanh sẽ bán được ít hơn và mức doanh thu sẽ giảm từ đó dẫn tới lợi
nhuận giảm.
1.2.3.Lạm phát ảnh hưởng đến tiền gốc
Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia
(tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số
dư).Lạm phát ảnh hưởng đến đầu tư của nền kinh tế thông qua việc tác động
tới tiền gốc.
Lạm phát ảnh hưởng đến tiền gốc xét trên 3 phương pháp.
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012
14
1.2.3.1.Phương pháp lãi suất
Ta có công thức
Lãi suất =

Tiền lãi
/
Tiền gốc
Trong đó:
- Tiền lãi (interest payment) là số tiền mà người đi vay phải trả cho
người cho vay với tư cách là chi phí sử dụng vốn vay
- Tiền gốc (principal) là số tiền người đi vay được sử dụng theo hợp
đồng tín dụng
Lãi suất danh nghĩa (nominal interest rate – NIR)
- Là mức lãi suất được quy định trong hợp đồng tín dụng và cố định
suốt toàn bộ thời gian hợp đồng
Lãi suất thực (real interest rate – RIR)
- Là mức lãi suất danh nghĩa đã được điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát
RIR = NIR - tỷ lệ lạm phát
Vậy khi lạm phát tăng lên làm lãi suất thực tế giảm xuống và làm lãi
suất danh nghĩa tăng lên(NIR=RIR+tỉ lệ lạm phát)
Mà các doanh nghiệp và chính phủ khi tính toán các khoản thu chi thì
tính toán dựa trên lãi suất danh nghĩa(NIR)
Và ta có Lãi suất =
Tiền lãi
/
Tiền gốc
 Lạm phát tăng cao làm cho đồng tiền mất giá nên DN phải bỏ nhiều
tiền hơn để chi trả cho các hoạt động của doanh nghiệp số tiền gốc giảm
xuống.
1.2.3.2 .Phương pháp tính lãi đơn
- Khoản vay đơn (simple interest): tiền lãi của mỗi kỳ luôn được tính
trên số vốn ban đầu
- PV là số tiền gốc ban đầu, i là lãi suất
- I là tiền lãi mỗi kỳ: I = I

1
= I
2
=…=I
n
= PV*i
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012
15
- Số tiền thu được sau n kỳ:
- FV
n
= PV+n*I = PV + n*PV*i
- -> FV
n
= PV*(1+n*i)
- ->PV= FV
n
/(1+n*i)
- Và i=r+tỉ lệ lạm phát
Do đó khi mà lạm phát tăng lãi suất danh nghĩa(i) tăng (1+n*i)
tăng FV
n
/(1+n*i) giảmsố tiền gốc ban đầu (PV) giảm và ngược lại.
1.2.3.3. Phương pháp tính lãi ghép
- Tiền lãi của kỳ trước được cộng vào tiền gốc để làm căn cứ tính tiền
lãi của kỳ sau
- PV: tiền gốc, i: lãi suất, FV: số tiền nhận được sau mỗi kỳ
- FV
1
= PV + PV*i = PV (1+i)

- FV
2
= PV(1+i) + PV(1+i)*i = PV(1+i)(1+i) = PV(1+i)
2
- -> FV
n
= PV(1+i)
n
- ->PV= FV
n
/(1+i)
n
Do đó khi lạm phát tăng làm cho i tăng dẫn đến PV giảm và ngược lại.
Vậy lạm phát và tiền gốc tỉ lệ nghịch với nhau.
Khi mà lạm phát giă tăng làm cho tiền gốc của DN giảm xuống vì đồng
tiền mất giá nên khi đầu tư DN phải bỏ nhiều tiền hơn cho khoản đầu tư ấy.
Trong khi rất dễ nhận thấy ảnh hưởng của lạm phát đối với lợi nhuận
(P&L) của doangh nghiệp thì ảnh hưởng của nó đối với tình hình tài sản
(balance sheet) lại khó nhận biết nhưng cần phải chú ý hơn. Lý do nằm ở chỗ
dòng tiền mặt, chứ không phải lợi nhuận kế toán, quyết định giá trị doanh
nghiệp. Khi lạm phát tăng cao, tiền bị mất giá, nên số lượng tiền mặt cần thiết
cho các kế hoạch đầu tư của doanh nghiệp cũng tăng lên, nhiều khi mức tăng
là rất đáng kể. Cần tái huy động vốn lưu động ròng theo phí tốn kê thêm, các
khoản đầu tư vốn cố định trở nên đắt đỏ hơn. Nếu doanh nghiệp không thể
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012
16
tăng giá nhanh hơn tỷ lệ lạm phát thì giá trị của công ty sẽ bị ảnh hưởng
nghiêm trọng. Bởi vậy, doanh nghiệp cần phải đánh giá khả năng ảnh hưởng
của lạm phát đến 2 cấu thành chính của vốn đầu tư là vốn lưu động ròng bắt
buộc và vốn đầu tư cố định.

-Vốn lưu động ròng bắt buộc
+Lạm phát có thể khiến cho vốn lưu động ròng bắt buộc tăng lên đáng
kể vì thế mỗi DN nên xem xét bài toán phân tích trên, sử dụng các số liệu
trong kế hoạch kinh doanh của mình để biết vốn lưu động ròng bắt buộc sẽ
thay đổi như thế nào nếu lạm phát xảy ra. Đương nhiên là DN nào cũng
mong muốn giảm số vốn lưu động ròng bắt buộc xuống mức thấp nhất có thể
và điều này càng cần thiết hơn trong thời gian lạm phát. Khi mô hình hoạt
động của một DN yêu cầu phải có lượng hàng hóa tồn trữ lớn thì bắt buộc DN
phải liên tục bổ sung hàng dự trữ với mức giá ngày càng cao trong giai đoạn
lạm phát, đòi hỏi lượng vốn lưu động cũng phải tăng lên. Ngược lại, khi hình
thức hoạt động của DN yêu cầu lượng hàng tồn kho ít thì DN đó có thể linh
hoạt hơn, thậm chí tận dụng giá thấp hiện tại để thu mua nguyên liệu đầu vào
cơ bản để tránh giá cao lúc lạm phát.
-Vốn đầu tư cố định
+Việc xem xét, cân nhắc có hệ thống tất cả các khoản đầu tư hiện tại và
trong tương lai sẽ giúp DN biết được lạm phát sẽ kéo các khoản đầu tư này
tăng lên bao nhiêu. DN nên phân đoạn dự án dựa trên mức độ mà DN có thể
kiểm soát được. Các dự án đã bắt đầu chưa hay vẫn đang còn trên bản vẽ? Có
dễ trì hoãn các dự án đó không, hay việc trì hoãn có thể khiến chi phí tăng và
thêm chi phí cơ hội mới? Tầm quan trọng của dự án đối với hoạt động kinh
doanh và việc duy trì hiệu quả của DN? Mục đích của quá trình xem xét trên
là để định lượng các tác động của lạm phát đối với nhu cầu vốn. Ngoài việc
xây dựng biện pháp đối phó thích hợp là điều kiện tiên quyết thì công ty cũng
cần xác định các khoản đầu tư cần được ưu tiên.
-Năng lực tài chính
+Việc giải quyết như cầu vốn tăng do lạm phát gây ra phụ thuộc một
phần vào năng lực tài chính của DN. Do đó, khía cạnh khác của việc đánh giá
ảnh hưởng của lạm phát đến cân đối thu chi là nhằm giúp DN có thể so sánh
nhu cầu vốn phát sinh do lạm phát với nguồn vốn có sẵn, có thể từ nguồn vốn
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012

17
dự trữ hoặc các khoản vay. DN cần phải hành động ngay nếu phát hiện ra lỗ
hổng tài chính ở đây. Nếu cần thiết, DN sẽ phải hạn chế chương trình đầu tư
của mình, và hạn chế theo một cách chiến lược, có hệ thống bằng cách hoãn
lại các dự án đầu tư chưa thực hiện, hoặc hủy bỏ các dự án phát triển không
thực sự cần thiết. Cần phải ghi nhớ rằng giảm quá mức các dự án đầu tư có
thể làm suy yếu vị thế cạnh tranh của DN và dẫn đến tình trạng dự án đầu tư
chất đống trong các năm tiếp theo.
+Để tránh các rủi ro trên, DN cũng nên xem xét các đề xuất, sáng kiến dài
hạn để giảm các chi phí đầu tư như giảm độ phức tạp hay nét đặc trưng, riêng
biệt của sản phẩm Ngoài ra, cũng cần phải đảm bảo rằng DN có đủ vốn dưới
khả năng vay mượn chưa dùng đến hoặc dự trữ tiền mặt. Đây có thể là cách tốt
nhất để tránh tình trạng thiếu vốn và đầu tư không đủ trong thời kì lạm phát.
Sau khi đã chỉ ra được những lý thuyết và lý luận khẳng định sự tác
động của yếu tố lạm phát đến đầu tư của doanh nghiệp và hộ gia đình, trên cơ
sở đó có thể đưa ra kết luận ban đầu là lạm phát có sự ảnh hưởng gián tiếp
đến đầu tư của hộ gia đình. Lạm phát tác động đến các yếu tố về giá cả, làm
thay đổi chi phí kinh doanh, làm thay đổi lợi nhuận và hiệu quả đầu tư dẫn
đến ảnh hưởng đến đầu tư trong tương lai. Từ những sự tác động của lạm phát
tới các yếu tố trên có thể thấy rằng lạm phát và đầu tư trong tương lai của hộ
gia đình có mối quan hệ ngược chiều.
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012
18
CHƯƠNG 2: KIỂM CHỨNG TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT
ĐẾN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH
TẠI ĐỊA BÀN PHƯỜNG ĐỒNG TÂM
Địa bàn nghiên cứu : Phường Đồng Tâm- quận Hai Bà Trưng-
thành phố Hà nội
Giai đoạn nghiên cứu: từ 6/2011 đến 12/2011.
2.1 Diễn biến tình hình lạm phát 6 tháng cuối năm 2011 và tình

hình đầu tư chung :
2.1.1 Diễn biến tình hình lạm phát 6 tháng cuối năm 2011:
2.1.1.1 Tình hình chung của cả nước:
Bảng 1: Mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng 6 tháng cuối năm 2011
Đơn vị: %
Tháng 6/2011 7/2011 8/2011 9/2011 10/2011 11/2011 12/2011
So với tháng trước 1.09 1.17 0.93 0.82 0.36 0.39 0.53
So với tháng 12/2010 13.29 14.61 15.68 16.63 17.05 17.50 18.13
So với cùng kỳ năm trước 20.82 22.16 23.02 22.42 21.59 19.83 18.13
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Bảng số liệu trên cho thấy mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng các tháng
cuối năm 2011 hay chính là số liệu về tỷ lệ lạm phát 6 tháng cuối năm 2011
(Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá tiêu dùng là tỷ lệ phần trăm mức tăng
của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá trung bình ở thời điểm gốc).
Qua bảng trên ta thấy có sự biện động cùng chiều nhau của lạm phát năm
2010 và 2011.
Trong 6 và 7/2011 ,tỷ lệ lạm phát giữa tháng 5 so với tháng 6 vs tháng
6 so với tháng 7 luôn tăng ở mức khá cao (>1%) cùng với đó là sự tăng lên
đến hơn 20% của tỷ lệ lạm phát 2 tháng giữa năm 2011 so với 2010. Đến 2
tháng tiếp theo, mặc dù có sự hạ nhiệt trong mức tăng giữa các tháng trong
năm, tuy nhiên lại đánh dấu sự tăng lên đỉnh điểm của lạm phát giữa 2 năm
2010 và 2011 khi mà tỷ lệ lạm phát tháng 8/2011 so với cùng kỳ 2010 đạt con
số 23.02% và hạ đôi chút còn 22.42% vào hết tháng 9/2011. Những tháng
cuối năm, mặc dù được xem là tháng cao trào tiêu dùng nhưng lại đánh dấu sự
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012
19
đi xuống của tỷ lệ lạm phát nhờ vào việc phát huy hiệu quả các công cụ chính
sách của nhà nước, được thể hiện qua sự tăng chậm lại của chỉ số gia tiêu
dùng giữa các tháng (luôn ở mức >0.5%) và đánh dấu tỷ lệ lạm phát của cả
năm 2011 đạt mức 18.58% so với bình quân 2010

Cụ thể đối với từng nhóm mặt hàng:
Chỉ số giá sản xuất
Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và
thủy sản năm 2011 tăng 31,8% so với năm trước, trong đó chỉ số giá bán sản
phẩm của người sản xuất hàng nông nghiệp tăng 33,49%; hàng lâm nghiệp tăng
13,58%; hàng thủy sản tăng 27,23%. Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản
xuất hàng công nghiệp năm nay tăng 18,43% so với năm trước, trong đó chỉ số
giá bán sản phẩm của người sản xuất sản phẩm khai khoáng tăng 30,33%; sản
phẩm công nghiệp chế biến tăng 16,49%; điện, nước tăng 11,92%.
Chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất năm 2011 tăng
21,27% so với năm 2010, trong đó chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho
sản xuất của một số ngành tăng cao là: Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
tăng 30,65%; thực phẩm, đồ uống và thuốc lá tăng 22,75%; than cốc, sản
phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 27,68%; khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa
không khí tăng 21,8%; hóa chất và các sản phẩm hóa chất tăng 18,33%.
Chỉ số giá cước vận tải năm 2011 tăng 18,52% so với năm trước, trong
đó giá cước vận tải hành khách tăng 22,96%; vận tải hàng hóa tăng 16,23%. Chỉ
số giá cước vận tải đường sắt năm 2011 tăng 20,34% so với năm 2010; đường
bộ tăng 18,77%; đường thủy tăng 16,65%; đường hàng không tăng 13,13%.
Chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa
Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá năm 2011 tăng 19,62% so với năm
trước, trong đó chỉ số giá lương thực, thực phẩm tăng 21,41%; hàng phi lương
thực, thực phẩm tăng 13,27%; nguyên liệu tăng 25,40%; máy móc, thiết bị
tăng 7,74%. Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá năm nay tăng 20,18% so với năm
trước, trong đó chỉ số giá lương thực, thực phẩm tăng 20,65%; hàng phi lương
thực, thực phẩm tăng 18,60%; nguyên liệu tăng 22,89%; máy móc, thiết bị
tăng 12,72%
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012
20
2.1.1.2 Diễn biến giá cả của thành phố Hà Nội năm 2011:

Tổng sản phẩm nội địa (GRDP) tăng 10,1%, giá trị sản xuất công
nghiệp tăng 12,2%, tổng mức bán lẻ tăng 23,7%, kim ngạch xuất khẩu trên
địa bàn tăng 27,1%, tổng vốn đầu tư xã hội tăng 13,5%; an ninh chính trị và
trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Vốn đầu tư phát triển trên địa bàn thành
phố Hà Nội năm 2011 dự kiến đạt 193587 tỷ đồng tăng 13,5% so với năm
2010, trong đó, vốn đầu tư xây dựng cơ bản chiếm tỷ trọng 20,6%, tăng
29,5% so với cùng kỳ năm 2010.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng Mười Hai năm 2011 so tháng trước tăng
0,61%. Chỉ số giá vàng giảm 1,04% so tháng trước và chỉ số giá USD tăng
0,12 %. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 năm 2011 so với tháng 12 năm 2010
tăng 17,07%.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2011 so năm 2010 tăng 17,98%
(năm 2010 tốc độ này là 9,05%).Chỉ số giá tiêu dùng năm 2011 tăng cao nhất
vẫn là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (tăng 31,32%, trong đó, nhóm hàng
thực phẩm tăng mạnh kéo dài suốt 8 tháng đầu năm, chỉ đến tháng 9 mới có
xu hướng giảm).
2.1.1.3.Thực trạng phường Đồng Tâm
Theo cuộc khảo sát mức sống gia đình do tổng cục thống kê tiến hành
năm 2004-2005 và được cập nhật tháng 5-2006. Xem xét các rổ hàng hóa,
dịch vụ đại diện để tính chỉ số giá tiêu dùng hiện nay được chia thành 10
nhóm với quyền số (tỷ trọng trong tổng chi tiêu dùng) như sau:
1. Hàng ăn và dịch vụ ăn uống (trong đó có lương thực, thực phẩm)
chiếm: 42,85%;
2. Đồ uống và thuốc lá chiếm: 4,56%;
3. May mặc, mũ nón, giày dép chiếm: 7,21%;
4. Nhà ở và vật liệu xây dựng (gồm cả điện, nước, chất đốt) chiếm:
9,99%;
5. Thiết bị và đồ dùng gia đình chiếm: 8,62%;
6. Dược phẩm y tế (thuốc và dịch vụ y tế) chiếm: 5,42%;
7. Phương tiện đi lại (giao thông), bưu điện (bưu chính viễn thông)

chiếm: 9,04%;
8. Giáo dục chiếm: 5,41%;
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012
21
9. Văn hóa, thể thao, giải trí (cả du lịch) chiếm: 3,59%;
10. Hàng hóa dịch vụ khác chiếm: 3,31%.
Trong năm 2011 hàng loạt các mặt hàng thiết yếu tăng giá. Trong đó 4
mặt hàng thiết yếu có mức tăng giá mạnh nhất là: xăng dầu, điện, các loại thịt
lơn- bò-gà-cá, thuốc
• Xăng dầu
Ngày 24/2/2011, người tiêu dùng trong nước đã chứng kiến một đợt bứt
phá giá khi xăng A92 có bước nhảy kỷ lục: tăng tới 2.900 đồng một lít, lên
mức 19.300 đồng. Dầu diezen tăng 3.550 đồng một lít, từ 14.750 đồng lên
18.300 đồng (đối với diezen 0,05S). Dầu hỏa tăng từ 15.100 đồng lên 18.200
đồng một lít, dầu ma-dút lên từ 12.690 tới 14.800 đồng một kg, đối với ma-
dút N°2B(3,5S).
Tiếp đó, theo quyết định của Bộ Tài chính, bắt đầu từ 22h ngày
29/3/2011, giá xăng A92 tiếp tục tăng tới 21.300 đồng một lít, dầu diezen lên
21.100 đồng, dầu hỏa đạt 20.800 đồng. Dầu mazút chạm 16.800 đồng một kg.
• Điện
Giá điện năm 2011 tăng từ 1.058 đồng mỗi kWh lên 1.220 đồng mỗi
kWh tương đương với 15,28%. Trong khoảng từ tháng 3 đến nay, Tổng công
ty điện lực Việt nam (EVN) liên tục đề xuất tăng giá điện. Tuy nhiên việc này
vấp phải nhiều rào cản lớn nên quyết định tăng tiếp giá điện của EVN bị trì
hoãn lại sang năm 2012. Giá điện tăng kéo theo các loại sản phẩm tiêu dùng
đều tăng theo như than, xi măng, sắt thép, gạch ngói
• Thịt lợn, gà, bò, cá
“Cơn lốc” tăng giá thịt bắt đầu từ tháng 3/2011 khi các loại điện, xăng
dầu tăng giá, cộng thêm Nhà nước phá giá tiền 8,5% khiến giá các loại thực
phẩm tươi sống, đặc biệt là thịt lợn tăng khá mạnh. So với thời điểm trước và

trong Tết Nguyên Đán 2011, mức tăng này dao động từ 20-30%.
• Thuốc
Từ 1/1/2011 đến đầu tháng 3/2011, 20 công ty dược thông báo có điều
chỉnh tăng giá thuốc với khoảng 240 trên 4.000 mặt hàng tăng giá, tỉ lệ
khoảng 6%, biên độ điều chỉnh từ 3% đến 30%. Đáng chú ý là mặt hàng thuốc
nhập với tỷ lệ tăng trung bình khoảng 5,2%. Với mặt hàng thuốc nội, hầu hết
giá các sản phẩm đều lên khoảng 4,6%.
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012
22
Theo kết quả của Tổ Điều tra thị trường trong nước của Cục Quản lý
Dược, thị trường cơ bản được duy trì bình ổn, đáp ứng đủ thuốc phục vụ công
tác điều trị, không để xảy ra tăng giá đồng loạt, đột biến. Tuy nhiên, thực tế
thị trường tự do vẫn dựa hơi vào lạm phát để tăng giá. Giá thuốc tăng vù vù
khiến nhiều bệnh nhân rơi vào hoàn cảnh bỏ bệnh viện về quê tự trị bệnh và
phó mặc cho số phận.
 Lạm phát bùng nổ, chỉ số giá tiêu dùng tăng cao,một loạt các hàng
hóa thiết yếu tăng giá mạnh. Điều này ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến người
tiêu dùng, cùng với đó là đầu tư của các hộ gia đình.
Thực trạng phường Đồng Tâm: kết quả điều tra cho thấy, hoạt động
đầu tư của các hộ gia đình trên địa bàn phường Đồng Tâm chủ yếu tập trung
vào việc kinh doanh gắn liền với các mặt hàng thiết yếu cung cấp hàng ngày.
các loại hình kinh doanh hộ gia đình nổi bật lên như: các cửa hàng tạp hóa,
siêu thị mini, các shop thời trang, các cửa hàng ăn uống, đặc biệt là một loạt
các cửa hàng thuốc tân dược,… Trên địa bàn phường Đồng Tâm bao gồm 2
trường Đại Học lớn, gần bệnh viện Bạch Mai- bệnh viện lớn của cả nước.
chính vì thế hoạt động kinh doanh của các hộ gia đình sẽ hướng tới cung cấp
và phục vụ hàng hóa dịch vụ cho các đối tượng này.
2.1.2 Tình hình đầu tư chung tác động đến đầu tư của hộ kinh doanh
Bước vào năm 2011, năm đầu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã
hội 5 năm 2011-2015, nước ta có những thuận lợi cơ bản: Tình hình chính trị

ổn định; kinh tế-xã hội phục hồi trong năm 2010 sau hơn một năm bị tác động
mạnh của lạm phát tăng cao và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, ngay sau đó những khó khăn, thách thức tiềm ẩn trong nội
tại nền kinh tế thế giới với vấn đề nợ công, tăng trưởng kinh tế chậm lại. Giá
hàng hóa, giá dầu mỏ và giá một số nguyên vật liệu chủ yếu tăng cao và có
diễn biến phức tạp. Ở trong nước, lạm phát và mặt bằng lãi suất cao gây áp
lực cho sản xuất và đời sống dân cư.
Ổn định vĩ mô và kiềm chế lạm phát là mục tiêu mà chính phủ đề ra.
Trong đó:
Xây dựng, đầu tư phát triển
Đề tài nghiên cứu khoa học 2012
23

×