Phần một : Tình hình thu hút vốn đầu tư trên
thị trường vốn việt nam hiện nay
I. Vai trò của thị trường vốn.
1. Vai trò tập trung và tích tụ vốn cho đầu tư.
Thị trường vốn có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự phát triển
kinh tế của mỗi đất nước, đây là một kênh bổ sung vốn rất hiệu quả và nhanh
chóng cho các nhà đầu tư và các doanh nghiệp .
Thông qua việc phát hành và mua bán các loại chứng khoán , các
khoản vốn nhỏ lẻ tồn tại trong dân cư được các tổ chức kinh tế huy động
nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho công cuộc đầu tư và xây dựng của chủ đầu
tư.
Các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu , trái phiếu để huy động vốn còn
chính phủ và các địa phương phát hành trái phiếu của chính phủ và trái phiếu
địa phương để bù đắp thiếu hụt ngân sách hoặc đầu tư xây dựng các dự án
lớn.
Nếu đem so sánh với các phương thức huy động vốn khác thì thị
trường vốn có thể huy động một cách đa dạng hơn, rộng rãi hơn với một
phương thức linh hoạt hơn , từ đó có thể đáp ứng một cách nhanh chóng
những nhu cầu khác nhau của các nhà đầu tư, đảm bảo được tính hiệu quả và
thời gian cho nhà đầu tư và những người cần vốn.
Ngoài ra , thông qua thị trường vốn thì chính phủ và địa phương có thể
huy động vốn cho ngân sách hoặc đầu tư vào các công trình bằng việc phát
hành trái phiếu , công trái . Hơn nữa , nếu xét theo quan điểm kinh tế học thì
đây là hình thức có thể kiềm chế được lạm phát do không phải in thêm tiền
vào lưu thông để phục vụ cho chi tiêu của chính phủ .
Ở Việt Nam hiện nay thì vai trò này đã bắt đầu phát huy tác dụng
nhưng vẫn chưa thoả mãn nhu cầu về vốn hiện nay. Theo tính toán của các
nhà kinh tế thì tổng nhu cầu về vốn đầu tư của Việt Nam hiện nay : 258000 tỉ
đồng (năm 2004), 300.000 tỉ đồng (năm 2005) và khoảng từ 360.000-370.000
1
1
tỉ đồng (năm 2006) trong khi đó thì đến tháng 8/2006 chúng ta chỉ mới huy
động được một lượng rất nhỏ khoảng 8.000 tỉ đồng so với quy mô đầu tư.
2. Thị trường vốn góp phần tạo lập cơ chế đầu tư hợp lý, thúc đẩy quá
trình sử dụng vốn một cách hợp lý.
Thị trường vốn là kênh huy động vốn theo tín hiệu cơ chế thị trường ,
là van điều tiết hữu hiệu các khoản vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn , từ nơi
sử dụng kém hiệu quả sang nơi sử dụng vốn hiệu quả hơn.
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của Việt Nam hiện nay và liên tục
trong nhiều năm liền đã làm tăng khả năng thu hút vốn đầu tư của Việt Nam
lên một trang mới, một tầm cao hơn.
Theo các chuyên gia, các nhà quản lý của các tổ chức quỹ đầu tư hàng
đầu thế giới nhận xét thì việc khả năng huy động vốn đầu tư của nước ngoài
là rất tốt và có triển vọng tăng cao hơn trong các năm tiếp theo.
Bà Johanna Chua, Giám đốc phân tích kinh tế và thị trường các nước
đang phát triển ở châu Á thuộc Ban phụ trách thị trường toàn cầu châu Á của
Citigroup nói việc Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2006 sẽ khuyến khích
thêm vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào châu Á nói chung và tăng khả
năng mở rộng thị trường của Việt Nam tại thị trường Mỹ và EU nói riêng.
Cũng cần nói thêm rằng Citigroup hiện nay là tập đoàn cung cấp dịch vụ tài
chính và ngân hàng lớn nhất thế giới. Tại Việt Nam, Citigroup đã 4 năm liền
được nhận giải thưởng Ngân hàng có dịch vụ tốt nhất.
3 .Thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Hàng năm Việt Nam thu hút vốn một lượng vốn đầu tư gián tiếp nước
ngoài rất lớn từ các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế của người nước ngoài
thông qua việc đầu tư vào thị trường cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
Dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) không chỉ mang lại vốn mà
còn có vai trò quan trọng thúc đẩy thị trường tài chính phát triển theo hướng
nâng cao hiệu quả hoạt động, mở rộng qui mô và tăng tính minh bạch; nâng
cao chất lượng quản trị doanh nghiệp
2
2
Tuy nhiên, dòng vốn này cũng tiềm ẩn những rủi ro hơn so với các
kênh huy động vốn nước ngoài khác. Chính vì vậy, thúc đẩy thu hút FII ổn
định và tương xứng với tiềm năng, góp phần tạo động lực phát triển thị
trường vốn và nền kinh tế Việt Nam đang là vấn đề được các cơ quan hoạch
định chính sách, các nhà đầu tư, các doanh nghiệp quan tâm.
Theo Bà Nguyễn Thị Liên Hoa, Trưởng Ban phát triển thị trường thuộc
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thì :
"Trong hai năm 2004 và 2005, tốc độ cổ phần hoá các doanh nghiệp
Nhà nước đã được đẩy mạnh hơn so với những năm trước rất nhiều lần. Tới
cuối tháng 3 năm 2006, đã có 4.673 doanh nghiệp Nhà nước được tái cơ cấu,
trong đó có 3.298 doanh nghiệp được cổ phần hoá.
Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những công ty có quy mô trung bình và nhỏ,
vốn Nhà nước trong những công ty này chỉ chiếm 8% trong tổng số những
doanh nghiệp Nhà nước phải cơ cấu lại. Vẫn còn nhiều các doanh nghiệp Nhà
nước cần phải cổ phần hoá trong những năm tới và đây là những doanh
nghiệp Nhà nước có số vốn khổng lồ và thực sự là cơ hội lớn cho các nhà đầu
tư trong nước cũng như ngoài nước.
Một khu vực tiềm tàng nữa mà có thể thu hút được nguồn vốn đầu tư
gián tiếp nước ngoài, đó chính là khu vực các doanh nghiệp vừa và nhỏ tư
nhân. Hiện nay, có tới 97% của hơn 230.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động
tại Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp tư nhân rất
năng động và phát triển mạnh mẽ và đã trở thành một bộ phận quan trọng của
nền kinh tế.
Trong số đó, có một số không ít doanh nghiệp khẳng định được vị trí
của mình và đang trở thành những thương hiệu mạnh của Việt Nam. Tương
lai phát triển của các doanh nghiệp này càng trở nên rõ ràng hơn sau khi
Chính phủ ban hành hai bộ luật mới, đó là Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu
tư.
3
3
Ngoài các doanh nghiệp tư nhân và thuộc sở hữu Nhà nước, những
công ty niêm yết trên Thị trường chứng khoán cũng đang là những đầu mối
hút vốn gián tiếp quan trọng. thị trường chứng khoán Việt Nam cũng bắt đầu
có những sự khởi sắc nhất định trong giai đoạn vừa qua.
Cho tới thời điểm hiện nay, đã có 41 công ty niêm yết tại Trung tâm
Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM và 11 công ty đăng ký giao dịch tại Trung
tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội. Dữ liệu thị trường vào trung tuần tháng
7/2006 cho thấy mức vốn hoá của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán
Tp.HCM ước đạt 44.442 tỷ VND, và của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán
Hà Nội là 15.000 tỷ VND.
Tổng mức vốn hoá của toàn bộ thị trường tại thời điểm này ước chiếm
tỷ trọng 7,6% GDP (khoảng 3,8 tỷ USD). Trong thời gian sắp tới, sẽ có ít nhất
7 công ty nữa được cấp phép niêm yết và dự kiến thị trường sẽ chiếm tỷ trọng
ít nhất 8,5% GDP trong năm nay.
Sự phát triển chung của cả nền kinh tế cùng những cải cách mạnh mẽ
về thể chế và khuôn khổ pháp lý trong nỗ lực gia nhập WTO đã được các nhà
đầu tư nước ngoài chú ý.
4. Thị trường vốn tác động đến tăng trưởng tới nền kinh tế của đất nước
Theo các lý thuyết về đầu tư như : lý thuyết về đầu tư , lý thuyết gia tốc
đầu tư , lý thuyết q về đầu tư thì vốn có tác động rất lớn tới sự phát triển kinh
tế.
Như ta đã biết thì vốn được huy động từ rất nhiều nguồn khác nhau
trong đó có thị trường vốn . Theo tính chất bắc cầu trong kinh tế thì thị trường
vốn cũng có một tác động rất lớn tới sự phát triển kinh tế của đất nước
Ta có thể thông qua hình vẽ dưới đây để có thể hiểu được tầm quan
trọng của vốn đầu tư với sự tăng trưởng của nền kinh tế
Tăng trưởng kinh tế
4
4
vốn đầu tư
Từ bảng trên ta có thể thấy được tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư
tác động tới sự tăng trưởng kinh tế .
Khi nguồn vốn đầu tư tăng thì khối lượng sản phẩm sản xuất ra tăng ,
từ đó làm tăng tổng thu nhập quốc dân , làm cho GDP tăng từ đó làm cho nền
kinh tế tăng trưởng .
Tuy nhiên khi nguồn vốn đầu tư tăng đến một mức nào đó thì kinh tế
không thể tăng trưởng thêm đựơc do nền kinh tế còn phụ thuộc rất nhiều yếu
tố khác nhau như : lao động , tài nguyên thiên nhiên, hay chính sách tài khoá
của chính phủ .
Nước ta xuất phát từ một nước nghèo nàn và lạc hậu thì nguồn vốn lại
là một yếu tố vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước.
Không có tiền chúng ta không thể làm được gì , không có tiền chúng ta không
thể mọc thêm các nhà máy sản xuất , không thể tận dụng nguồn lao động dồi
dào của nước ta , không thể tận dụng những gì mà thiên nhiên đã ban tặng
cho chúng ta .
Kể từ khi đất nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang
nền kinh tế thị trường thì nguồn vốn là một điều rất quan trọng. Chính phủ đã
cố gắng tạo ra những cơ chế chính sách hợp lý tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh
của đất nước ta, để có thể phát huy tối đa mọi khả năng và nguồn lực của đất
5
5
nước.Và, cũng từ đó thì thị trường vốn cũng dần dần mở cửa khi chúng ta hội
nhập kinh tế thế giới.
Thị trường vốn của nước ta trong những năm qua có sự phát triển mạnh
mẽ vượt bậc so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Có thể thấy rất rõ
trên thị trường vốn quốc tế. Mặc dù, thị trường vốn của ta còn non trẻ nhưng
bước đầu khi hội nhập kinh tế thế giới đã khẳng định được vai trò của mình
trên trường quốc tế.
Hiếm thấy lần phát hành trái phiếu Chính phủ đầu tiên nào thu được
thành công như của Việt Nam" là nhận định được nhiều nhà đầu tư nước
ngoài đưa ra. Bằng chứng là ngay ngày đầu tiên tại Hong Kong (19.10), số
lượng các nhà đầu tư đặt mua đã đạt khoảng 1 tỷ USD, gấp 2 lần số lượng trái
phiếu Chính phủ Việt Nam định phát hành. Đến ngày 26.10, sau khi Chính
phủ quyết định tăng khối lượng phát hành thêm 250 triệu USD, số lượng các
nhà đầu tư đặt mua đã tăng lên tới hơn gấp 3 lần từ mức trên 1 tỷ USD lên
khoảng 3 tỷ USD. Ngày định giá trái phiếu, 29/10, số lượng các nhà đầu tư
đặt mua đã lên tới con số kỷ lục 4,5 tỷ USD, tức là gấp 6 lần mức Chính phủ
Việt Nam phát hành trong đợt này. Đặc biệt, có ngân hàng của Malaysia còn
dùng cả tiền dự trữ để tham gia mua 50 triệu USD. Điều này chứng tỏ, sức
hút mạnh mẽ của trái phiếu Việt Nam trên thị trường vốn quốc tế.
Ngoài ra thì cùng với tốc độ tăng trưởng khá cao của nền kinh tế Việt
Nam, tình hình hoạt động kinh doanh của phần lớn công ty niêm yết (CTNY)
đều đạt những kết quả khả quan. Các công ty lớn trên thị trường như REE,
Gemadept, Sacom … đều hoàn thành kế hoạch lợi nhuận trong năm. Một số
công ty như Khahomex, Hacisco… cũng đã thành công trong việc phát hành
thêm cổ phiếu để huy động vốn cho các dự án đầu tư mới. Bên cạnh đó, nhờ
thị trường khởi sắc hơn và tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước diễn
ra mạnh mẽ hơn nên hoạt động của các công ty chứng khoán cũng đa dạng
hơn và phần lớn đều đạt hiệu quả cao hơn mọi năm.
6
6
Qua đó chúng ta đã giải quyết được tình trạng thiếu vốn của các doanh
nghiệp trong nước hiện nay. Và hiện nay thì chính phủ đang có đề án tiếp tục
phát hành trái phiếu thêm 500 triệu đôla để kịp thời đáp ứng nhu cầu sản xuất
của các doanh nghiệp trong vốn . Vấn đề quan trọng nhất bây giờ là khi có
vốn thì làm sao có thể phát huy được tối đa những nguồn vốn đó.
5. Thị trường vốn làm đa dạng hoá các cơ hội đầu tư cho các chủ đầu tư.
Trước kia khi chưa có thị trường vốn thì các nhà đầu tư thường không
có nhiều cơ hội đầu tư, nhất là những nhà đầu tư có quy mô vốn nhỏ , những
người có vốn nhàn rỗi .
Hiện nay , khi thị trường vốn xuất hiện thì đã tạo ra rất , rất nhiều cơ
hội đầu tư cho các nhà đầu tư. Chỉ tính riêng trên thị trường chứng khoán hiện
nay đã có trên 40 doanh nghiệp cổ phần được niêm yết trên thị trường chứng
khoán tập trung và còn rất nhiều doanh nghiệp khác trên thị trường OTC.
Chính điều này đã làm tăng khả năng cạnh tranh nhau về vốn trên thị trường
vốn. Chẳng hạn ,trên thị trường không chính thức, các hoạt động mua bán cổ
phiếu diễn ra hết sức sôi động với hơn 100 loại cổ phiếu được giao dịch khá
thường xuyên; trong đó có những tên tuổi nổi tiếng như Vinamilk, Giống Cây
trồng miền Nam, Dầu Tường An, Dược Hậu Giang, Bảo Minh, Sacombank,
ACB, Eximbank… Cùng với nỗ lực đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá các
doanh nghiệp nhà nước và được khích lệ bởi sự tăng trưởng trở lại của thị
trường chứng khoán chính thức, các đợt đấu giá bán cổ phần ra công chúng
thật sự “bùng nổ” và đã thu hút sự quan tâm rất lớn của công chúng đầu tư
cũng như của toàn bộ người dân.
Tuy nhiên thì số lượng nhà đầu tư tham gia trên thị trường chứng khoán
chưa nhiều như mong đợi, diễn biến giao dịch trên thị trường có những giai
đoạn trầm lắng, nhiều công ty vẫn còn tình trạng thiếu minh bạch trong công
bố thông tin khi đấu giá bán cổ phần lần đầu ra công chúng
Cho tới thời điểm hiện nay, đã có 41 công ty niêm yết tại Trung tâm
Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM và 11 công ty đăng ký giao dịch tại Trung
7
7
tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội. Dữ liệu thị trường vào trung tuần tháng
7/2006 cho thấy mức vốn hoá của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán
Tp.HCM ước đạt 44.442 tỷ VND, và của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán
Hà Nội là 15.000 tỷ VND.
Tổng mức vốn hoá của toàn bộ thị trường tại thời điểm này ước chiếm
tỷ trọng 7,6% GDP (khoảng 3,8 tỷ USD). Trong thời gian sắp tới, sẽ có ít nhất
7 công ty nữa được cấp phép niêm yết và dự kiến thị trường sẽ chiếm tỷ trọng
ít nhất 8,5% GDP trong năm nay.
6. Thị trường vốn tạo điều kiện để thực hiện các chính sách kinh tế
vi mô.
Thị trường vốn có một ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế
của các nước có nền kinh tế thị trường. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị
trường chứng khoán như một trung tâm thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của
các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, của chính phủ và địa phương tạo
thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế.
Thị trường vốn hoạt động dựa theo những tín hiệu của thị trường như
lãi suất , hệ số tín nhiệm, độ rủi ro. Thị trường vốn như một cái van điều tiết
của nền kinh tế, điều tiết từ nơi sử dụng vốn không hiệu quả sang đến nơi sử
dụng vốn có hiệu quả hơn, từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn. Do đó thị
trường vốn đã góp phần giúp chính phủ và các tổ chức tài chính điều tiết cho
nền kinh tế.
Thông qua thị trường vốn, chính phủ và các địa phương có thể huy
động vốn cho các dự án đầu tư vào các công trình của mình hoặc huy động
vốn cho ngân sách bằng việc phát hành các loại công cụ nợ như trái phiếu,
công trái… nhìn từ thực tế ta thấy đây là hình thức huy động vốn rất tích cực,
nó góp phần vào việc kiềm chế lạm phát do không phải phát hành thêm tiền
vào lưu thông nhằm phục vụ cho nhu cầu chi tiêu .
Thực tế đã chính minh điều đó rất rõ, từ khi xuất hiện thị trường vốn thì
thị trường tài chính của Việt Nam đã được ổn định rất nhiều , không còn
8
8
những biến động quá lớn trên thị trường tài chính, tạo điều kiện cho sự phát
triển kinh tế đất nước. trên thị trường vốn thì bất cứ khoản vốn nào được sử
dụng đều phải trả giá do vậy mà người sử dụng vốn phải quan tâm rất nhiều
đến khả năng sinh lợi của mỗi đồng vốn bỏ ra.
Khi đất nước ta chưa có cải cách kinh tế thì tình hình tài chính của Việt
Nam rất rối ren, và mang tính khó lường. Tỉ lệ lạm phát tăng cao, có khi đến
hàng trăm phần trăm, người dân không dám cầm tiền mặt trong tay do sợ mất
giá đồng tiền , từ đó kinh tế chậm phát triển ,đời sống nhân dân gặp rất nhiều
khó khăn. Nhưng còn hiện nay, do có những chính sách tài chính ổn định
cùng với sự xuất hiện của thị trường vốn thì thị trường tài chính của Việt Nam
đã ổn định đi rất nhiều , không còn những con số lạm phát cao như trước đây
nữa mà thay vào đó là tỉ lệ lạm phát luôn luôn nằm trong phạm vi được kiểm
soát .
Thông qua thị trường vốn thì chính phủ đã điều tiết và thực hiện những
chính sách kinh tế của mình nhằm phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của mình và
nhằm bình ổn giá cả , bình ổn thị trường tài chính , từ đó phục vụ cho nhu cầu
phát triển kinh tế của doanh nghiệp ,của đất nước.
7. Thị trường vốn là công cụ đánh giá, dự báo chu kì kinh doanh của các
doanh nghiệp của nền kinh tế.
Đứng trên quan điểm của chính phủ và trên quan điểm của các doanh
nghiệp thì thị trường vốn thực sự là cầu nối giữa doanh nghiệp , nhà nước và
thị trường. Thị trường vốn như cái van điều tiết hữu hiệu các nguồn huy động
vốn và sử dụng vốn .
Do đó mà thông qua thị trường vốn mà các doanh nghiệp và chính phủ
thường lấy tín hiệu từ thị trường vốn làm căn cứ điều chỉnh những chính sách
và kế hoạch của mình cho phù hợp với điều kiện thực tế của thị trường .
Với chính phủ thì phải ban hành những quy định và chính sách kinh tế
ngày càng hợp lý hơn, ngày càng đi sâu đi sát vào tình hình trên thị trường
vốn hơn. Chẳng hạn như : Nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 1/1/2005 của
9
9
Chính phủ về quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài giúp Chính phủ xây
dựng một cơ chế quản lý nợ an toàn, hiệu quả, thống nhất, và mang tính
chuyên nghiệp; góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền trên cơ sở đảm bảo
sự nhất quán và đồng bộ trong hệ thống văn bản pháp lý hiện hành, đảm bảo
sự không phân biệt giữa các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận nguồn vốn
của Chính phủ. Đạt được mục tiêu giám sát có hiệu quả hơn các nghĩa vụ dự
phòng và rủi ro tiềm ẩn đối với ngân sách Nhà nước và dự trữ ngoại tệ quốc
gia. Đồng thời tiến dần tới áp dụng các thông lệ được quốc tế thừa nhận rộng
rãi, nhằm hỗ trợ quá trình hội nhập kinh tế-tài chính khu vực và quốc tế của
nước ta. Môi trường đầu tư được cải thiện thông qua việc đổi mới chính sách
theo hướng tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, đặc biệt là việc ban hành Luật
Đầu tư chung và Luật Doanh nghiệp thống nhất tạo sân chơi bình đẳng cho tất
cả các doanh nghiệp. Việc theo dõi, thu thập, xử lý thông tin quản lý đảm bảo
thường xuyên, kịp thời đối với mọi hoạt động thuộc lĩnh vực quản lý. Quy
trình huy động, đàm phán ký kết các Hiệp định vay, thủ tục giải ngân, thanh
toán, thu hồi vốn, trả nợ từ nguồn vốn nước ngoài đã được cải tiến theo
hướng giảm bớt thủ tục, thời gian và từng bước hài hoà với thông lệ quốc tế.
Việc bố trí sử dụng vốn đã được quy định một cách rõ ràng, trong đó xác định
rõ những loại dự án nào được ngân sách Nhà nước cấp, dự án phải vay lại,
đồng thời tăng thêm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc vay vốn
thương mại nước ngoài của các doanh nghiệp, gắn trách nhiệm sử dụng vốn
hiệu quả, tạo ra khả năng trả nợ và góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
vay và viện trợ nước ngoài
Đối với các doanh nghiệp thì thị trường vốn là một căn cứ rất quan
trọng trong sự phát triển kinh tế của doanh nghiệp, nhất là với các công ty cổ
phần , các công ty trách nhiệm hữu hạn có quy mô vốn hầu hết là vừa và nhỏ.
Để tăng quy mô sản xuất thì các doanh nghiệp cần phải áp dụng nhiều biện
pháp khác nhau,và một trong những yếu tố là cần phải tăng quy mô vốn để
đáp ứng nhu cầu sản xuất của công ty. Để có thể tăng quy mô vốn cho việc
10
10
sản xuất của mình thì có thể áp dụng nhiều phương thức huy động vốn khác
nhau như vay vốn của tổ chức tín dụng, tiền trợ cấp từ ngân sách nhà nước,
hay thế chấp tài sản của doanh nghiệp khi vay vốn của ngân hàng… nhưng
hầu hết các biện pháp trên đều gặp rất nhiều khó khăn khi huy động vốn do có
nhiều lý do khác nhau. Chẳng hạn muốn vay vốn của ngân hàng thì các doanh
nghiệp phải có dự án cụ thể có khả năng thu hồi vốn cao, nếu không phải thế
chấp bằng tài sản hiện có của công ty, nếu doanh nghiệp muốn được nhận trợ
cấp từ chính phủ thì phải qua rất nhiều khâu, nhiều giai đoạn khác nhau mới
có thể nhận được nguồn vốn từ ngân sách. Hiện nay thì nguồn vốn ngân sách
không còn nữa khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO do đó các doanh
nghiệp sẽ phải huy động vốn trên thị trường vốn. Chính thị trường vốn sẽ là
nơi huy động vốn một cách tốt nhất , đáp ứng một cách đầy đủ và nhanh
chóng về vốn cho các doanh nghiệp. Và cũng chính thị trường vốn là căn cứ ,
là tín hiệu , là công cụ dự báo chu kì kinh doanh cho các doanh nghiệp khi đi
quyết định đi vay vốn.
II .Tình hình thu hút vốn trên thị trường vốn
1. Toàn cảnh thu hút vốn đầu tư trên thị trường vốn
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã được 6 năm hình thành và phát
triển. Trong đó, khi mở cửa để đón các nhà đầu tư nước ngoài, thị trường
chứng khoán bắt đầu có những chuyển biến tích cực. Đa số các nhà đầu tư
nước ngoài đến Việt Nam đều đã nghiên cứu khá kỹ lưỡng thị trường này.
Việt Nam được xem như là “một Trung Quốc Mới” như nhận định gần đây
của một số tờ báo.
Tuy nhiên, khoảng cách của Việt Nam và các nước trong khu vực còn
khá xa. Đặc biệt về độ lớn của thị trường và số lượng chứng khoán niêm yết.
Toàn bộ giá trị thị trường hiện nay nằm ở mức 5.3 tỷ USD. Và với thói quen
đầu tư của người Việt hiện nay, số tiền còn “dự trữ dưới gối” là con số rất lớn
lên đến hàng chục tỉ đô la Mỹ, và số tiền này chưa được đưa vào đầu tư, tuy
nhiên vẫn không thể so với nguồn vốn dồi dào từ các nhà đầu tư nước ngoài
11
11
của quốc tế nằm ở mức hơn hàng trăm tỷ USD vẫn còn chờ nơi để đầu tư chủ
yếu thông qua các định chế tài chính (financial institutions) và công ty quản
lý quỹ (fund managers).
Thị trường của Việt Nam hiện nay chủ yếu là sân chơi của các nhà đầu
tư nhỏ lẻ, thiếu kinh nghiệm phân tích, mua bán nên thị trường thường xoay
chuyển theo “cảm xúc” và những tin đồn, nhưng khi các nhà đầu tư chuyên
nghiệp gồm các định chế tài chính và công ty quản lý quỹ bước vào, với các
công cụ phân tích chuyên nghiệp, thị trường sẽ hoạt động một cách bài bản
hơn, và có động lực mua bán nhiều hơn.
Số lượng các công ty quản lý quỹ hiện nay tại Việt Nam còn ít và đa số
là các đại gia của nước ngoài, có khả năng khống chế lớn hoạt động mua bán.
Vì sao? Hiện nay, thủ tục gia nhập thị trường vốn Việt Nam khá phức tạp, đặc
biệt là khâu xin Mã Giao Dịch (Trading Code). Đối với cá nhân thì công việc
này không có gì quá phức tạp, nhưng đối với các định chế tài chính thì tốn
khá nhiều thời gian. Nhận thức được vấn đề này, chúng tôi đã làm công việc
này giúp cho các nhà đầu tư nhằm tạo điều kiện dễ dàng hơn cho họ khi đến
Việt Nam kinh doanh. Thiết nghĩ, đây cũng là phương thức tốt để tạo môi
trường với nhiều người bán, người mua. Và trên hết, tạo thuận lợi, cạnh tranh
công bằng cho các quỹ đầu tư hoạt động tại Việt Nam.
2. Thị trường vốn đầu tư gián tiếp
Theo các chuyên gia về lĩnh vực đầu tư và tài chính nước ngoài thì thị
trường vốn đầu tư gián tiếp của Việt Nam là một thị trường đầy tiềm năng.
Cùng với việc tăng trưởng GDP của Việt Nam và có thể duy trì ở mức
8%/năm trong năm năm tới, thậm chí còn có thể nhanh hơn nếu có chính sách
cởi mở, thông thoáng hơn. Thì việc các nhà đầu tư nước ngoài chấp nhận trái
phiếu quốc tế VN cũng là một tín hiệu tốt cho lĩnh vực đầu tư gián tiếp vào
VN.
Theo VinaCapital, sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực cuối thập
niên 1990, dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào VN đã tăng trở lại. Tuy
12
12
nhiên, con số vẫn còn thấp so với đầu tư trực tiếp nước ngoài, chiếm khoảng
1,2% năm 2002 và tăng lên 3,7% năm 2004. Trong khi đó, tỉ lệ này ở Thái
Lan, Malaysia và Trung Quốc là 30-40%. “Các quĩ đầu tư có mặt tại đây đang
nắm giữ một lượng vốn khoảng 100 tỉ USD. Chỉ cần họ đồng ý chi 1% trong
số này vào VN là chúng ta đã có 1 tỉ USD” - ông Don Lam, tổng giám đốc
VinaCapital, nói.
Ông Bill Vanperfelt một nhà đầu tư Bỉ lại cho rằng quy định của Chính
phủ cho phép nhà đầu tư nước ngoài mua 49% cổ phần trong các doanh
nghiệp VN là tín hiệu mở ra khả năng cho thấy sẽ có nhiều nhà đầu tư gián
tiếp khác “đổ” vào VN thời gian tới.
Và thực tế đã chứng minh điều này khi Việt Nam mở cửa thị trường
vốn của mình với những chính sách thông thoáng hơn. Các doanh nghiệp ,
các tổ chức tài chính nước ngoài đã chính thức nhảy vào thị trường vốn của
Việt Nam một cách nhanh chóng với một tốc độ chóng mặt.
Ngày càng có nhiều quỹ đầu tư nước ngoài công khai ý định đổ tiền
vào Việt Nam, nhất là sau khi Merrill Lynch tung ra báo cáo về sự tăng
trưởng khả quan của nền kinh tế Việt Nam và tin mới nhất được hãng thông
tấn Reuters phát đi.
Giữa tháng 3/2006, Công ty Quản lý quỹ VinaCapital mới chính thức
khai trương Quỹ Bất động sản VinaLand, nhưng số tiền mà các nhà đầu tư
nước ngoài góp vào quỹ đã lên tới gần 65 triệu đô la Mỹ, vượt mức dự kiến
15 triệu Đôla Mỹ
Theo ngài Don Lam, Giám đốc VinaCapital, nói công ty đang chạy đua
với thời gian vì thời gian này chính là cơ hội: “Đầu tư tín dụng của ngân hàng
cho địa ốc đang chựng lại. Một số ngân hàng không những không “bơm”
thêm vốn, mà còn cân nhắc rút bớt vốn khỏi lĩnh vực này. Điều đó có khả
năng làm giá nhà đất trở nên dễ chịu hơn và tạo điều kiện cho các quỹ đầu tư
tham gia vào các dự án bất động sản”.
13
13
Ngoài VinaLand, VinaCapital đang nỗ lực giải ngân nốt số tiền còn lại
chừng 50 triệu đô la Mỹ trong tổng số 171 triệu đô la Mỹ của Quỹ Vietnam
Opportunities Fund (VOF). Hướng đầu tư chính của VOF tiếp tục là cổ phiếu
OTC và địa ốc
VinaCapital không giấu tham vọng đặt chân vào các công trình giao
thông, cầu đường, bãi đậu xe bằng một quỹ chuyên đầu tư cho cơ sở hạ tầng
đang được gọi vốn. Công ty cũng có ý định năm sau sẽ khai sinh một quỹ mới
là Technology Fund để đầu tư vào các dự án công nghệ cao.
Không phải chỉ có VinaCapital nhận ra cơ hội đầu tư tài chính ở Việt
Nam đang bùng nổ. Dragon Capital, công ty quản lý quỹ có thâm niên nhất ở
Việt Nam, vừa nhận quản lý thêm một quỹ mới, Vietnam Dragon Fund, với số
vốn 35 triệu Đôla Mỹ.
Đây là quỹ thứ ba của Dragon Capital, cùng với hai quỹ khác là VEIL
(vốn 190 triệu đô la Mỹ) và Vietnam Growth Fund (90 triệu Đôla Mỹ). Công
ty Quản lý quỹ MekongCapital đã đầu tư gần hết số vốn 18,5 triệu Đôla Mỹ
của Mekong Enterprise Fund vào các doanh nghiệp cổ phần và tháng 5 này sẽ
ra mắt một quỹ mới với số tiền 40 triệu Đôla Mỹ.
Indochina cũng không đứng ngoài cuộc đua đầu tư gián tiếp khi họ
đang có trong tay hai quỹ, một địa ốc với 42 triệu đô la Mỹ và một quỹ chứng
khoán với 50 triệu Đôla Mỹ. Quỹ đầu tư Phan-xi-phăng (PXP) đã “đổ” 93%
của số tiền 25,8 triệu Đôla Mỹ vào 23 công ty niêm yết và chưa niêm yết,
đồng thời dự kiến phát hành thêm 3,5 triệu cổ phiếu để tăng vốn trong quí 2
năm nay.
Quỹ Finansa vốn 18 triệu Đôla Mỹ với những cổ đông chính như
Propaco (Pháp) và DIG (Đức) mới hình thành từ tháng 8/2005, nhưng cũng
đã đầu tư thành công vào một số doanh nghiệp nhỏ và vừa. Danh sách các
quỹ đầu tư nước ngoài sẽ dài thêm khi mà thời điểm họ gõ cửa Việt Nam
được dự báo là năm 2006 này. Trong số này, đáng chú ý là sự quay trở lại của
Quỹ Templeton với số vốn khoảng 50 triệu Đôla Mỹ. Vào những năm 1990,
14
14
Templeton đã từng đầu tư ở Việt Nam 105 triệu Đôla Mỹ, nhưng phần lớn các
dự án lúc bấy giờ, do nhiều nguyên nhân, đã không thành công
Bên cạnh Templeton, có thêm một quỹ của Cộng hòa Séc, một của
Thụy Sỹ và một của Nhật. Hai quỹ khác là Pionneer Fund và Horison Fund
cũng đang rục rịch tham gia thị trường.
Tuy nhiên nhiều nhà đầu tư cũng cảnh báo, chính sách mở cửa của
Chính phủ Việt Nam đã tạo thụân lợi cho các nhà đầu tư cả trong và ngoài
nước, thu hút được nhiều nguồn vốn, tốc độ phát triển nhanh, nhưng vấn đề là
cần phải có một khung pháp lý hoàn thiện để có thể kiểm soát được hoạt động
của các doanh nghịêp.
Vấn đề tiếp theo mà Việt Nam cần lưu ý là xu hướng luân chuyển đồng
vốn trên thị trường thế giới quá nhanh, vì vậy, Việt Nam cần phải có qui chế,
cơ sở hạ tầng để điều chuyển nguồn vốn hịêu quả, là phải hoàn thiện hệ thống
tài chính, ngân hàng, kiểm toán.
3.Thị trường vốn quốc tế.
Việc phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế ngoài mục
tiêu huy động vốn còn nhằm tạo ra một hình ảnh của Việt Nam trên thị trường
vốn quốc tế. Trong bối cảnh chúng ta đã tiến hành hội nhập về hoạt động
thương mại, đầu tư thì hội nhập tài chính không thể đứng ngoài cuộc. TPCP
do Việt Nam phát hành trên thị trường quốc tế sẽ là thước đo cho các nhà đầu
tư khi quyết định đầu tư vào Việt Nam.
Thứ trưởng Tài chính Lê Thị Băng Tâm cho biết: “Việc phát hành trái
phiếu lần này có ý nghĩa rất quan trọng vì đây là một trong những mục tiêu
của Việt Nam tham gia hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế, đồng thời
việc phát hành trái phiếu quốc tế còn là một phương thức vay thương mại
trong chiến lược huy động vốn của Việt Nam, đảm bảo quyền tự chủ trong
việc sử dụng nguồn vốn huy động được không bị lệ thuộc vào điều kiện của
các nhà thầu như vay tín dụng xuất khẩu. Đồng thời việc phát hành trái phiếu
lần này đã mở đường cho các doanh nghiệp lớn của Việt Nam trực tiếp huy
15
15
động nguồn vốn trung và dài hạn bằng ngoại tệ nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư
phát triển kinh tế”.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế trên thế giới thì số lượng các
nhà đầu tư quốc tế tham gia mua trái phiếu đạt mức kỷ lục trên thị trường vốn
trong nhiều năm lại đây (lên tới 255 nhà đầu tư lớn). Các nhà đầu tư tham gia
mua trái phiếu của Chính phủ Việt Nam đều là những nhà đầu tư lớn, có uy
tín trên thị trường tài chính quốc tế. Điều đặc biệt là số trái phiếu này được
phát hành rộng khắp trên thế giới đó là Châu Á nắm 38%, Châu Âu nắm 32%
và Mỹ là 30%.
Sự đón nhận nhiệt tình đến bất ngờ đó được nhận định là do nhiều
nguyên nhân từ chính Việt Nam. Thứ nhất, các nhà đầu tư quốc tế tin tưởng
vào tương lai sáng sủa của nền kinh tế Việt Nam sau khi chứng kiến hơn 10
năm đổi mới vừa qua. Đến nay, hầu như toàn thế giới biết đến công cuộc cải
cách đổi mới ở Việt Nam. Ngoài ra Việt Nam là một trong những ví dụ thành
công nhất về chuyển đổi kinh tế trong lịch sử đương đại, đổi mới làm thay đổi
gần như tất cả mọi mặt của cuộc sống kinh tế. Với chính sách đổi mới mở ra
nhiều phương thức tổ chức và quản lý kinh tế mới mẻ, góp phần cải thiện đời
sống; tạo ra nguồn động lực sáng tạo cho hàng triệu người Việt Nam có dịp sử
dụng một cách hiệu quả tiềm năng của mình.
Về cơ bản, kinh tế của Việt Nam đã được công nhận là đổi mới:
Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN; Từng bước hình thành thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN; Chuyển một nền kinh tế khép kín, nhập khẩu là chủ yếu sang nền
kinh tế mở, chủ động hội nhập, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế
nhập khẩu những sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế và có hiệu quả.
Thứ hai, các nhà đầu tư tỏ ra lạc quan với việc Việt Nam được coi là nền
kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định thứ hai châu Á, chỉ sau Trung
Quốc. Bên cạnh đó, phải kể đến việc sụt giảm lòng tin của nhà đầu tư đối với
16
16
trái phiếu cùng loại của Indonesia và Phillipines do tình hình kinh tế chính trị
các nước này thời gian qua không ổn định lắm. Số tiền thu được sẽ được bơm
thêm vào nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh với tốc độ trung bình từ 7 - 8%
của Việt Nam, cùng với việc đầu tư nước ngoài đang tăng nhanh tại đây.
Việt Nam đã rút ra nhiều bài học từ kinh nghiệm của các nước trong khu
vực trong suốt 20 năm qua và đang có những chiến lược kinh tế tài chính
được đánh giá cao. Chính phủ đã có kế hoạch 5 năm sắp tới (2006-2010) là
thời gian quyết định để thực hiện chiến lược đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng
nước đang phát triển ở trình độ thấp và tạo nền tảng để đến năm 2020 cơ bản
trở thành một nước công nghiệp hiện đại.
Các nhà đầu tư hy vọng chiến lược đó sẽ giúp họ hưởng lợi lớn trong
tương lai khi bỏ tiền vào Việt Nam để cùng Việt Nam bước vào công cuộc cải
cách mới.
4. Căn cứ vào sự luân chuyển của nguồn vốn
4.1 Thị trường sơ cấp.
Thị trường sơ cấp đảm bảo nguồn vốn được huy động thông qua phát
hành chứng khoán ra công chúng (POs - Public Oferrings hoặc lPOs - Initial
Public Oferring). Thị trường sơ cấp thực sự là kênh huy động vốn trung và
dài hạn cho nên kinh tế. Thị trường thứ cấp là nơi thu hút các nhà đầu tư mua
đi bán lại chứng khoán, từ đó nâng cao tính thanh khoản cho các loại chứng
khoán được giao dịch
Trong khi đó tại Việt Nam thì tại thị trường sơ cấp chỉ mới huy động
một lượng vốn còn rất nhỏ so với quy mô đầu tư. Năm 2000 và 2001, số huy
động vốn qua kênh này bằng 0, năm 2002 là 0,035 nghìn tỷ đồng. Nếu so
sánh với dư nợ cho vay trung và dài hạn đa là con số không đáng kể, so với
tổng dư nợ cho vay của cả hệ thống ngân hàng thì con số là không có ý nghĩa
gì. Hoạt động của thị trường sơ cấp rất mờ nhạt trong hai năm đầu đi vào hoạt
động có duy nhất Công ty cổ phần giấy Hải Phòng (HAPACO) phát hành
17
17
thêm 01 triệu cổ phiếu mới (tương dương với số vốn 35 tỷ đồng) để huy động
vốn cho dự án giấy kraf.
Ngoài ra , khi nói đến thị trường sơ cấp không thể không nói đến vai
trò của các ngân hàng thương mại.
các ngân hàng thương mại đảm nhiệm vai trò trong việc bảo lãnh phát
hành chứng khoán cho đơn vị phát hành. Tuy nhiên tại Việt Nam, bảo lãnh
phát hành là phương thức phổ biến nhất đối với trái phiếu Chính phủ. Với độ
tín nhiệm cao và tiềm lực tài chính mạnh, các ngân hàng thương mại có ưu
thế lớn khi tham gia bảo lãnh phát hành.
Để phát triển thị trường sơ cấp nói riêng và thị trường chứng khoán nói
chung thì chính phủ đang có đề án phát triển thị trường sơ cấp thông qua việc
phát hành trái phiếu chính phủ. Đến ngày 30/6/2003 nếu tính cả vốn huy động
ngân sách Nhà nước thông qua dấu thầu và bảo lãnh phát hành, đã có 5.400 tỷ
đồng trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Quỹ hỗ trợ phát triển niêm yết trên thị
trường. Có 5 Công ty niêm yết phát hành thêm cố phiếu mới để mở rộng sản
xuất kinh doanh, tăng vốn điều lệ với tổng vốn tăng thêm 155,4 tỷ đồng.
Như vậy, ở thị trường chứng khoán của Việt Nam hiện nay chưa thực
sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, nó chỉ mới
đáp ứng một phần rất nhỏ trong tổng quy mô vốn đầu tư của cả nước.
4.2 Thị trường thứ cấp
Nếu thị trường sơ cấp là nơi kênh huy động vốn trung và dài hạn cho
nền kinh tế thì thị trường thứ cấp là nơi thu hút các nhà đầu tư mua bán lại
chứng khoán đó từ đó nâng cao tính thanh khoản cho các loại chứng khoán
được giao dịch.
Ở thị trường thứ cấp của Việt Nam thì Thị trường thứ cấp lại hoạt động
trầm lắng, kém sôi động, tính thanh khoản của thị trường không cao là
nguyên nhân sâu xa dẫn đến hoạt động yếu kém của thị trường sơ cấp trong
thời gian gần đây. Nguyên nhân là do việc công bố thông tin của các doanh
nghiệp niêm yết trong một số trường hợp không trung thực, đánh mất lòng tin
18
18
của công chúng đầu tư đối với thị trường. Có thể nêu vài ví dụ: Công ty đồ
hộp Hạ Long CANFOCO, tổng giám đốc bị truy tố đến sáu tháng mà các nhà
đầu tư trên thị trường chứng khoán không hề hay biết Công ty bánh kẹo Biên
Hòa đến 30/6/2003 vẫn tiếp tục trì hoãn không công bố thông tin về tình hình
hoạt động kinh doanh trong năm 2002.
Tuy nhiên nếu tính đến việc vay vốn nước ngoài thông qua việc phát
hành trái phiếu chính phủ thì trên thị trường thứ cấp chúng ta lại thu được
những kết quả rất tích cực , hơn cả sự mong đợi của các nhà đầu tư và của
chính phủ.
Khi chúng ta phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường quốc tế
Hồng Kông đã có rất nhiều nhà đầu tư muốn mua trái phiếu của Chính phủ
Việt Nam. Bằng chứng là số lượng nhà đầu tư đặt mua trái phiếu lên tới trên
255 nhà đầu tư lớn (so với 150 nhà đầu tư mua trái phiếu của Chính phủ
Indonesia đầu tháng 10/2005). Tính trung bình, mỗi nhà đầu tư chỉ mua được
khoảng 20% lượng đặt mua, thậm chí có nhà đầu tư không mua được trái
phiếu. Việc nhiều nhà đầu tư lớn tham gia mua trái phiếu Việt Nam sẽ là điều
kiện tốt để tăng tính thanh khoản cho trái phiếu khi giao dịch trên thị trường
thứ cấp, tạo thuận lợi cho những lần phát hành tiếp theo.
Theo Thứ trưởng Băng Tâm cho biết, 30 giây sau khi được định giá
phát hành ở thị trường sơ cấp, trái phiếu Chính phủ Việt Nam đã được giao
dịch trên thị trường thứ cấp và giá trái phiếu đã tăng khoảng 5 điểm, sau 15
phút tăng lên 10 điểm và đến ngày 1/11 vẫn giữ ở mức tăng 10 điểm so với
lúc định giá phát hành....
Qua đó chúng ta có thể thấy được tính thanh khoản cũng như việc mua
bán các công cụ trên thị trường thứ cấp. Tại thị trường thứ cấp thì việc buôn
bán các công cụ tài chính hết sức linh hoạt và biến động một cách liên tục.
Đây cũng là thị trường được công chúng đầu tư quan tâm nhất và được theo
dõi liên tục nhất.
5. Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường.
19
19
5.1 Thị trường cổ phiếu.
Người ta có thể có hàng trăm cách để đầu tư, muốn chọn được cách tốt
nhất thì nhà đầu tư trước hết phải tìm được thông tin cơ bản về các công cụ tài
chính mà họ đang xem xét. Trong thị trường chứng khoán thì cổ phiếu là công
cụ tài chính thường được sử dụng nhất , thường được buôn bán nhiều nhất do
tính đại chúng và lượng thông tin nhiều, được phổ biến rộng rãi.
Đối với các doanh nghiệp ,các công ty thì việc phát hành cổ phiếu có
lợi hơn là việc phát hành các chứng chỉ nợ. Vì công ty nắm giữ tiền mà không
phải trả lãi theo thời hạn định, đối với việc mua cổ phiếu các cổ đông được
nắm giữ cổ phiếu trong công ty, có nghĩa là các cổ đông mới sẽ được chia
quyền sở hữu đối với các cổ đông đầu tiên.
Cổ phiếu là một chứng thư, chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông
đối với một công ty cổ phần, hay cổ phiếu là một giấy chứng nhận việc đầu tư
vốn của một chủ thể vào một công ty cổ phần. Các cổ đông không phải là chủ
nợ của công ty mà là người hùn vốn cùng công ty hoạt động , là người chủ sở
hữu một phần của công ty. Cổ phiếu có thể có nhiều loại tuỳ thuộc vào đơn vị
phát hành như : cổ phiếu ưu đãi , cổ phiếu biểu quyết , cổ phiếu phổ thông …
Thứ nhất : Thị trường chứng khoán của Việt Nam mặc dù còn non trẻ
nhưng cũng đã góp phần rất lớn trong sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Và được các chuyên gia nước ngoài đánh giá rất cao và được coi là thị trường
đầy tiềm năng. Bên cạnh đó thì chính phủ Việt Nam cũng đã và đang rất quan
tâm đến thị trường chứng khoán Việt Nam.
Chính phủ đã có các nghị quyết và chủ trương liên quan đến chiến lược
phát triển của toàn ngành chứng khoán, đẩy mạnh hơn nữa tiến trình cổ phần
hóa doanh nghiệp Nhà nước đi đôi với phát triển thị trường chứng khoán. Uỷ
ban Chứng khoán Nhà nước được chuyển giao về Bộ Tài chính nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển.
Những yếu tố trên đã khiến thị trường cổ phiếu sau một thời gian dài rơi
vào tình trạng trầm lắng đã có sự hồi phục và tăng trưởng mạnh mẽ. Chỉ số
20
20
VNIndex từ mức 166,94 điểm vào cuối năm 2003 đã tăng lên đến gần 280
điểm (tăng 67,7%) vào đầu tháng 4-2004 và hiện nay khá ổn định ở mức 230
điểm.
Với việc giá cổ phiếu tăng mạnh, giới đầu tư đã quan tâm hơn đến thị
trường chứng khoán khiến tình hình giao dịch cổ phiếu trên thị trường diễn ra
sôi động hơn. Trong năm, Quỹ đầu tư chứng khoán đầu tiên đã được thành lập
và được niêm yết chứng chỉ VF1 trên thị trường chứng khoán tập trung.
Thứ hai : Trên thị trường không chính thức, các hoạt động mua bán cổ
phiếu diễn ra hết sức sôi động với hơn 100 loại cổ phiếu được giao dịch khá
thường xuyên; trong đó có những tên tuổi nổi tiếng như Vinamilk, Giống Cây
trồng miền Nam, Dầu Tường An, Dược Hậu Giang, Bảo Minh, Sacombank,
ACB, Eximbank…
Bên cạnh đó, với nỗ lực đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá các doanh
nghiệp nhà nước và được khích lệ bởi sự tăng trưởng trở lại của thị trường
chứng khoán chính thức, các đợt đấu giá bán cổ phần ra công chúng thật sự
“bùng nổ” và thu hút sự quan tâm rất lớn của công chúng đầu tư.
Đặc biệt, năm 2004 chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của thị trường trái
phiếu Việt Nam. Các đợt phát hành trái phiếu Chính phủ đã diễn ra đều đặn
và mức độ thành công cũng khá hơn so với năm trước.
Trên thị trường giao dịch, nghiệp vụ mua bán trái phiếu có kỳ hạn đã
giúp tăng tính thanh khoản cho thị trường trái phiếu và thực sự đem lại lợi ích
cho các đối tượng tham gia mua bán trái phiếu. Các đơn vị chiếm thị phần lớn
trên thị trường trái phiếu cũng thu được lợi nhuận đáng kể từ nghiệp vụ này,
nổi bật là Công ty Chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn.
Cùng với tốc độ tăng trưởng khá cao của nền kinh tế Việt Nam, tình hình
hoạt động kinh doanh của phần lớn công ty niêm yết đều đạt những kết quả
khả quan. Các công ty lớn trên thị trường như REE, Gemadept, Sacom … đều
hoàn thành kế hoạch lợi nhuận trong năm.
21
21
Một số công ty như Khahomex, Hacisco… cũng đã thành công trong
việc phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn cho các dự án đầu tư mới. Bên
cạnh đó, nhờ thị trường khởi sắc hơn và tiến trình cổ phần hóa các doanh
nghiệp nhà nước diễn ra mạnh mẽ hơn nên hoạt động của các công ty chứng
khoán cũng đa dạng hơn và phần lớn đều đạt hiệu quả cao hơn mọi năm.
Năm nay cũng chứng kiến sự tham gia mạnh mẽ hơn của các quỹ đầu tư
chứng khoán như VEIL, PXP Fund, VF1 và các tổ chức đầu tư khác vào thị
trường chứng khoán Việt Nam. Nhờ sự tham gia của các tổ chức này mà thị
trường chứng khoán đã có sự ổn định cần thiết trong một số giai đoạn.
Thứ ba : Làn sóng tăng vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại cổ
phần. Vấn đề tăng cường nội lực tài chính. Sức mạnh từ nội lực sẽ là nguồn
gốc để tăng trưởng một cách bền vững chứ không dựa vào nguồn lực từ bên
ngoài .Do đó để phát triển thị trường chứng khoán nói chung thì cần phải tăng
cường nội lực, củng cố năng lực tài chính một cách vững mạnh. Hiện tại ,
theo ước tính cả nước ta có khoảng 34 ngân hàng thương mại cổ phần đang
hoạt động. Hầu hết là những ngân hàng có tiềm lực tài chính vừa và nhỏ so
với quy mô của thế giới, cho nên hầu hết các ngân hàng này đang thực hiện
chính sách thắt lưng buộc bụng để tăng vốn điều lệ, nhất là trong hai năm gần
đây. Nhờ có hệ số an toàn về vốn ngày càng tăng cao nên khả năng đáp ứng
những khoản vay lớn cũng như các dịch vụ hiện đại cho đông đảo khách
hàng. Một số đơn vị đã thành công với chiến lược tăng vốn của mình và trở
thành những ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu, như: Sacombank hiện
có 505 tỷ đồng; ACB với 423,9 tỷ đồng. Kế đến là NHCP Xuất Nhập khẩu
với 300 tỷ đồng, ngân hàng quân đội 280 tỉ , ngân hàng VIB 180 tỉ .Các ngân
hàng đã thực hiện tăng vốn, mở rộng quy mô hoạt động; chuẩn bị cho thời kỳ
hội nhập với các tổ chức thương mại quốc tế và thực hiện cam kết Hiệp định
thương mại Việt - Mỹ; theo đó, ngân hàng sẽ phải đối đầu với những cạnh
tranh gay gắt.
22
22
Tổng kết báo cáo hàng năm của các ngân hàng thương mại cổ phần cho
thấy, các ngân hàng có bình quân lợi nhuận đạt từ 15-30%, tỷ lệ chia cổ tức
đạt 15%. Nợ quá hạn của các ngân hàng đã giảm hơn 7% trong năm vừa qua
và chỉ chiếm 6,35% trong toàn hệ thống. Theo các chuyên gia về kinh doanh
tiền tệ, mặc dù số vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại cổ phần còn hạn
chế nếu so với các ngân hàng liên doanh hay chi nhánh các ngân hàng nước
ngoài, nhưng nhờ kinh doanh có hiệu quả trong mấy năm gần đây nên đầu tư
vào các ngân hàng thương mại cổ phần đang có sự hấp dẫn hơn nhiều lĩnh
vực khác; cổ phiếu các ngân hàng đang được các nhà đầu tư tìm mua. Điều đó
cho thấy có một triển vọng lớn khi cổ phiếu các ngân hàng thương mại cổ
phần được niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Trên thực tế, một số ngân hàng thương mại cổ phần khi tăng vốn điều
lệ đã bán được cổ phiếu của mình cao hơn mệnh giá nhiều lần. Khi ACB có
được góp vốn của các cổ đông nước ngoài, lập tức giá cổ phiếu của cổ đông
trong nước tăng 1,5 lần so với mệnh giá và cổ phiếu dành cho người nước
ngoài đã tăng 2,1 lần. Cổ phiếu Sacombank đã bán được gấp 1,8 lần so với
mệnh giá. Điều đó cho thấy các nhà đầu tư đã đặt niềm tin lớn vào hoạt động
kinh doanh của các ngân hàng thương mại cổ phần.
Tuy nhiên , khi vốn tăng thì lại đặt ra một vấn đề là vấn đề sử dụng vốn
như thế nào. Theo bà Bùi Thị Mai, Tổng giám đốc Habubank, việc điều hành
một ngân hàng có số vốn điều lệ cả ngàn tỷ đồng hoàn toàn không giống việc
điều hành một ngân hàng chỉ vài trăm tỷ vốn điều lệ. Vốn tăng vài trăm phần
trăm, song khối lượng công việc tăng có khi đến vài ngàn phần trăm, khả
năng bao quát, tầm nhìn, hệ thống thông tin - phản hồi... đều phải tăng và đòi
hỏi tốt hơn trước là những áp lực đầu tiên.
Khi cổ đông góp vốn, đồng tiền của họ phải được sử dụng hiệu quả
nhất. Cũng theo bà Mai, huy động vốn thì rất nhanh nhưng ngân hàng này đã
phải chuẩn bị kế hoạch sử dụng lượng vốn huy động này trong nhiều tháng
trời, đảm bảo sử dụng vốn hiệu quả và đem lại nhiều lợi nhuận cho các cổ
23
23
đông nhất. Vấn đề là làm sao khi mở rộng quy mô phải đảm bảo chất lượng
nguồn nhân lực để không ảnh hưởng tới khả năng phục vụ khách hàng, đồng
thời bài toán duy trì tỷ lệ cổ tức cao cũng là yêu cầu không hề dễ đối với ban
điều hành
Thứ tư : Quá trình nhảy vào của các ngân hàng nước ngoài vào thị
trường vốn ở Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước đã quyết định mức sở hữu tối đa của các nhà đầu
tư nước ngoài tại ngân hàng cổ phần trong nước là 30%, dự thảo Nghị định về
tổ chức tín dụng nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng trong nước do
NHNN soạn thảo đã được trình Chính phủ. Cho dù như vậy, các ngân hàng
nước ngoài dường như vẫn sẵn sàng cho một đợt tăng số tiền góp vốn trong
các ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là các cổ đông chiến lược nước ngoài tới
đây sẽ được sở hữu tới 20% cổ phần tại một ngân hàng Việt Nam.
Mới đây, một số hãng thông tấn nước ngoài đã đưa tin về việc HSBC
và ANZ đã sẵn sàng tăng thêm vốn tại Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam
(Techcombank) và Ngân hàng Sài Gòn Thương tín (Sacombank). Cả hai ngân
hàng nước ngoài này đều là các cổ đông chiến lược tại các ngân hàng mà họ
đầu tư. Trong năm 2005, HSBC (ngân hàng lớn nhất châu Âu) và ANZ (ngân
hàng cung cấp tín dụng lớn thứ 3 tại Australia) đã bỏ ra tương ứng 17,3 triệu
USD và 27 triệu USD để mua 10% cổ phần tại Techcombank và Sacombank.
Theo tin đưa ra thì Đại hội cổ đông Techcombank đã thông qua Nghị
quyết có điểm cho phép bán thêm 10% cổ phần cho HSBC khi Nhà nước cho
phép mở room lên 20% đối với cổ đông chiến lược nước ngoài. Trả lời Báo
Đầu tư Chứng khoán, ông Nguyễn Đức Vinh, Tổng giám đốc Techcombank
đã xác nhận thông tin này. Theo ông Vinh, việc bán thêm 10% cổ phần cho
HSBC đồng nghĩa với việc HSBC trở thành cổ đông lớn nhất tại
Techcombank. Điều này cũng nằm trong kế hoạch tăng vốn lên mức khoảng
từ 1.500 đến hơn 1.600 tỷ đồng của Techcombank trong năm tới. Việc tăng
24
24
vốn của Techcombank thông qua việc phát hành thêm cổ phiếu mới, gồm hai
phần dành cho cổ đông cũ và cổ đông chiến lược là HSBC.
Đối với Techcombank, việc tăng vốn của cổ đông chiến lược tương đối
dễ dàng, bởi room dành cho các nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn và HSBC mới
là nhà đầu tư nước ngoài duy nhất của ngân hàng này. Nhưng đối với trường
hợp của Sacombank sẽ khác, bởi hiện tại ngân hàng này đã sử dụng hết room
30% dành cho cổ đông nước ngoài. Hiện IFC, Dragon Capital và ANZ là 3
nhà đầu tư nước ngoài, mỗi nhà đầu tư nắm giữ 10% cổ phần của ngân hàng
này.
Mặc dù vậy, không có nghĩa ANZ không thể tăng thêm phần vốn góp bởi khi
Sacombank phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, ANZ có thể mua
thêm và thay đổi tỷ lệ nắm giữ nếu các nhà đầu tư nước ngoài khác là IFC và
Dragon Capital không mua thêm. Điều này không làm ảnh hưởng tới trần tối
đa 30% như đã nói trên.
Hiện trong 4 ngân hàng cổ phần có nhà đầu tư chiến lược nước ngoài là
Techcombank, Sacombank, Ngân hàng Á Châu (ACB) và Ngân hàng Ngoài
quốc doanh (VPBank) thì ACB và Sacombank đã sử dụng hết room cho nhà
đầu tư nước ngoài, Techcombank là 10% và VPBank là 20%.
Qua đó chúng ta có thể thấy được khả năng huy động vốn từ đầu tư
gián tiếp của nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán mà cụ thể ở đây là
thông qua việc mua cổ phiếu để trở thành cổ đông. Tuy nhiên ở đây chúng ta
phải lưu ý là việc huy động từ đầu tư nước ngoài phải hết sức phòng tránh
việc thôn tính của các ngân hàng nước ngoài đối với các ngân hàng trong
nước. Từ đó có thể làm đảo lộn thị trường tài chính của Việt Nam , tránh một
cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Hơn nữa, hầu hết các ngân hàng
của Việt Nam hầu hết còn non trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc quản
lý và sử dụng vốn một cách có hiệu quả từ các nguồn vốn có thể huy động
được. Từ đó mới thấy hết tầm quan trọng của nguồn vốn.
5.2. Thị trường trái phiếu
25
25