Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

SKKN NGỮBIỆN PHÁP góp PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG tác GIẢNG dạy và PHÁT TRIỂN NĂNG lực CHO học SINH TIỂU học TRONG PHÂN môn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.73 KB, 22 trang )

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NƠNG CỐNG
TRƯỜNG TIỂU HỌC TƯỢNG LĨNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
BIỆN PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG
TÁC GIẢNG DẠY VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CHO HỌC
SINH TIỂU HỌC TRONG PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 4

Năm 2022



A. LỜI NĨI ĐẦU
Việt Nam chúng ta trong thời kì phát triển, tiến tới hội nhập toàn cầu với xu thế
hiện đại hố, cơng nghiệp hố đất nước, để đáp ứng với nhu cầu phát triển xã hội cả dân
tộc ta đang vươn mình trỗi dậy, đang từng ngày từng giờ thay da đổi thịt, vươn lên
những tầm cao mới, tầm cao của tri thức, của công nghệ thông tin, của xã hội loài
người. Giáo dục được coi là nền móng của sự phát triển kinh tế xã hội. Vì lẽ đó, có thể
coi phát triển giáo dục đồng nghĩa với sự phát triển xã hội. Chính nhờ giáo dục mà các
di sản tư tưởng và kĩ thuật của thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau; nhờ giáo dục mới
đào tạo ra những con người có học thức, ngày càng có nhiều phát minh mới về khoa
học kĩ thuật – xây dựng đất nước giàu mạnh.
Đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực là những
phương diện thể hiện sự quyết tâm cách tân, đem lại những thay đổi về chất lượng và
hiệu quả giáo dục hiện nay.Và ở khía cạnh hoạt động, tất cả những đổi mới này đều
được biểu hiện sinh động trong mỗi giờ học qua hoạt động của người dạy và người học.
Chính vì thế những câu hỏi như: Làm thế nào để có một giờ học tốt? Đánh giá một giờ
học tốt như thế nào cho chính xác, khách quan, cơng bằng? Ln có tính chất thời sự và
thu hút sự quan tâm của tất cả các giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục. Trước đây, một
giờ học tốt là một giờ học phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của
cả người dạy và người học nhằm nâng cao tri thức, bồi dưỡng năng lực hợp tác, năng


lực vận dụng tri thức vào thực tiễn, bồi dưỡng phương pháp tự học, tác động tích cực
đến tư tưởng, tình cảm, đem lại hứng thú học tập cho người học. Nhưng hiện nay, dạy
học theo định hướng phát triển năng lực học sinh sẽ đẩy các hoạt động về phía học sinh,
học sinh là trung tâm của giờ học, giáo viên chỉ là người tổ chức, điều hành các hoạt
động, định hướng cho học sinh, học sinh phải hoạt động để tìm ra kiến thức, khơng nói
thay hoặc làm thay cho học sinh. Nếu ta đưa ra gợi ý bằng câu hỏi lớn mà học sinh
khơng tìm ra thì ta định hướng bằng cách chẻ câu hỏi lớn thành những câu hỏi phụ. Đây
chính là phát huy năng lực tự học và giải quyết vấn đề. Tóm lại, dạy học ở tiểu học theo


hướng phát triển năng lực người học là một hoạt động nghệ thuật mà giáo viên vừa là
nhà biên kịch vừa là diễn viên. Giáo viên phải không ngừng nghiên cứu, đổi mới
phương pháp dạy học nhằm giúp học sinh kiến tạo tri thức của cho chính mình một cách
tích cực, chủ động và sáng tạo.
Học sinh tiểu học là thế hệ măng non của đất nước, các em "Học vì ngày mai lập
nghiệp". Học để hiểu biết, học để trau dồi tri thức và học để trở thành những người cơng
dân có ích cho xã hội. Vì vậy việc đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động
sáng tạo độc lập tiếp thu tri thức để trở thành một công dân thực thụ là một vấn đề quan
tâm hàng đầu của nền giáo dục nước ta. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này nhà trường Tiểu
học phải bước đầu cung cấp cho học sinh những tri thức ban đầu để hình thành và phát
triển các năng lực nhận thức và trang bị các phương pháp kĩ năng về hoạt động nhận
thức, bồi dưỡng và phát triển tình cảm thói quen, đức tính tốt đẹp của con người thơng
qua việc dạy các mơn học nói chung và mơn Tiếng Việt nói riêng.
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiểu học với tư cách là bậc học nền tảng, là cơ sở quan trọng để từ đó nhân cách
con người phát triển tồn diện, mà nền tảng thì cần xây vững chắc.Tri thức và nhân cách
của những con người có được vững chắc hay khơng chính là nhờ vào sự kiên cố của
nền tảng đó. Mỗi mơn học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở
ban đầu nhân cách của trẻ và cung cấp cho trẻ những tri thức cần thiết. Việc dạy Tiếng
Việt thông qua giao tiếp, vận dụng vốn ngơn ngữ sẵn có của học sinh, tích cực hố hoạt

động của học sinh góp phần quan trọng trong chương trình dạy học Tiếng Việt. Đặc
biệt mơn Tập làm văn ở Tiểu học có nhiệm vụ rất quan trọng là rèn luyện kĩ năng nghe,
nói, đọc, viết cho học sinh.
Môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kỹ năng sáng tạo, sản sinh văn bản
(nói và viết). Phân mơn Tập làm văn góp phần hiện thực hoá mục tiêu quan trọng bậc
nhất của việc dạy và học là dạy học sinh sử dụng Tiếng Việt trong đời sống và sinh
hoạt, trong quá trình lĩnh hội các tri thức khoa học. Tập làm văn trau dồi vốn sống, vốn


văn chương, rèn luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết thành thạo; hình thành nhân cách
cho học sinh. Tập làm văn là sự nối tiếp một cách tự nhiên các bài học trong mơn Tiếng
Việt, vừa mang tính chất thực hành toàn diện, tổng hợp và sáng tạo, vừa nhằm giúp học
sinh có một năng lực tạo lập văn bản. Tạo hứng thú là một giải pháp để phát triển sự
sáng tạo cho học sinh. Muốn làm văn miêu tả đạt yêu cầu, hay cần phải tích luỹ nhiều
kiến thức, có vốn sống thực tế, phải có kỹ năng quan sát, phân tích, lựa chọn những chi
tiết, đặc điểm tiêu biểu đưa vào dàn ý, vào bài văn, biết sử dụng các biện pháp tu từ,
nghệ thuật so sánh, nhân hố, sử dụng từ láy, từ tượng hình, tượng thanh, …phải có kỹ
năng viết liên kết đoạn văn mạch lạc. Để thực hiện việc này, theo tơi, bên cạnh việc
hình thành ở các em các tri thức tiếng Việt, phải tạo hứng thú, niềm vui, niềm say mê
cho các em khi học Tiếng Việt nói chung và Tập làm văn nói riêng. Chúng ta cần tạo
hứng thú nhằm phát triển sự sáng tạo, phát trển năng lực của mỗi cá nhân học sinh
Nhưng trong thực tế học sinh lớp 4 cịn nhiều lúng túng khơng biết nói và viết
như thế nào để thành bài viết sinh động, có hình ảnh. Vì vậy, dạy cho học sinh biết sử
dụng các từ ngữ giàu giá trị biểu cảm và biện pháp so sánh, nhân hóa là một yêu cầu
quan trọng khi làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4. Muốn đạt được mục tiêu trên cần có
giải pháp thích hợp: biện pháp cụ thể đòi hỏi một kế hoạch khoa học có định hướng.
Chính vì những lí do trên đây, tơi xin trình bày: “Biện pháp góp phần nâng cao chất
lượng công tác giảng dạy và phát triển năng lực học sinh trong phân mơn Tập làm
văn lớp 4” của mình.
1. MỤC ĐÍCH NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Tơi thực hiện đề tài với mục đích: Tìm hiểu các nội dung, phương pháp dạy học
văn miêu tả ở lớp 4, những khó khăn và thuận lợi của giáo viên và học sinh ở trường khi
dạy học kiểu bài này. Từ đó chúng tơi đưa ra những biện pháp giúp học sinh làm các bài
tập thuộc kiểu bài miêu tả sinh động và có hình ảnh, phát huy kĩ năng viết văn, năng lực
tư duy của các em. Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy học mơn Tiếng Việt nói


chung và phân mơn Tập làm văn nói riêng. Qua đó phát huy năng lực viết văn của học
sinh, nâng cao chất lượng dạy học toàn diện ở trường tiểu học.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
a. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Nghiên cứu sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4 tập 1, tập 2, Sách giáo viên Tiếng
Việt lớp 4 tập 1 và 2. Các tài liệu học bồi dưỡng giáo viên dạy thay sách lớp 4 – Tài liệu
BDTX cho giáo viên dạy Tiểu học chu kỳ III, một số tài liệu có liên quan đến Tập làm
văn miêu tả, tả cây cối. Phương phát dạy học phát triển năng lực học sinh của Tiến sĩ Lê
Phương Nga. Dự giờ các tiết tập làm văn miêu tả, các tiết dạy học chuyên đề phát triển
năng lực của học sinh.
b . Phương pháp phân tích, nghiên cứu thực trạng của việc dạy và học
- Nghiên cứu các bài soạn giảng chi tiết của giáo viên khối 4 trong trường.
- Thăm lớp, dự giờ các tiết dạy luyện từ và câu, tập làm văn miêu tả của giáo viên và
học sinh khối 4-5, từ đó điều chỉnh phương pháp dạy cho phù hợp.
- Kiểm tra đánh giá học sinh sau khi cùng một nội dung bài dạy mà áp dụng hai phương
pháp khác nhau trên hai lớp có mức độ học sinh như nhau.
c . Phương pháp tổng hợp
Khái quát thực tiễn để chỉ ra những khó khăn của giáo viên và học sinh trong dạy
học Tập làm văn lớp 4 kiểu bài miêu tả.
PHẦN 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1 Vị trí, vai trị của phân mơn Tập làm văn lớp 4 và những kĩ năng học sinh lớp 4
cần đạt được khi học Tập làm văn.

a.Vị trí, vai trị của phân mơn Tập làm văn:
Phân mơn Tập làm văn là phân môn tổng hợp các kiến thức của các phân môn
khác của môn Tiếng Việt cũng như các mơn học khác như Khoa học, Địa lí, Đạo đức ....
Trong 8 tiết của môn Tiếng Việt 4, Tập làm văn chiếm thời lượng là 2 tiết (25 %). Tập


làm văn rèn cả 4 kĩ năng nghe, nói, đọc, viết của môn Tiếng Việt. Với học sinh lớp 4,
các em được dạy các kĩ năng kể chuyện, miêu tả đồ vật, cây cối và con vật. Bên cạnh
đó, các em cịn được rèn kĩ năng thuyết trình, trao đổi, nâng cao kĩ năng viết thư, điền
vào giấy tờ in sẵn đã được hình thành từ các lớp dưới. Có thể nói, phân mơn Tập làm
văn có vai trị vơ cùng quan trọng trong mơn Tiếng Việt nói riêng và các mơn học khác
nói chung.
b. Những kĩ năng học sinh lớp 4 cần đạt được khi học Tập làm văn kiểu bài miêu
tả.
- Nhóm kỹ năng chuẩn bị cho việc sản sinh văn bản: gồm kỹ năng quan sát, kỹ năng
phân tích đề bài, kỹ năng tìm ý và lựa chọn ý, kỹ năng xây dựng ý.
- Nhóm kỹ năng viết văn bản (dùng trong giai đoạn thực hiện hóa chương
trình): gồm các kỹ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn văn, liên kết đoạn thành bài.
- Nhóm kỹ năng kiểm tra kết quả (dùng trong giai đoạn kiểm tra kết quả): gồm
kỹ năng phát hiện lỗi (lỗi dùng từ, lỗi chính tả, đặt câu đến lỗi viết văn, lỗi về
nội dung, tình cảm…) được thể hiện trong bài và sửa chữa lỗi.
Kỹ năng tìm hiểu đề bài là kỹ năng sản sinh văn bản đầu tiên học sinh phải học
tập trong trường, quy định văn bản đúng hay sai yêu cầu của đề bài. Do vậy, các kỹ
năng sản sinh văn bản có thể tiến hành qua một hệ thống bài tập từ thấp đến cao, từ bỡ
ngỡ ban đầu đến thành thục, nhuần nhuyễn trở thành các kỹ xảo
+ Nhiều kỹ năng sản sinh văn bản có quan hệ với đặc điểm phong cách bài văn,
chịu ảnh hưởng vốn sống, vốn hiểu biết của học sinh. Do vậy, giáo viên cần bồi dưỡng
vốn hiểu biết, vốn sống của học sinh qua việc cung cấp vốn từ, các đoạn, bài văn hay,
hướng dẫn học sinh quan sát để tả sinh động, sử dụng các từ ngữ có giá trị có hình ảnh
khi viết văn.

Đặc điểm trên của kỹ năng sản sinh văn bản góp phần lý giải vị trí phân môn Tập
làm văn. Giáo viên muốn dạy tốt Tập làm văn, ngoài việc rèn luyện các kỹ năng làm
bài, còn cần quan tâm đến việc bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, mở rộng nâng cao vốn


sống hiểu biết, vốn sống cho các em giúp học sinh ngày càng có những bài văn phong
phú, sinh động.
1.2. Một số kiểu bài văn tả cây cối ở lớp 4
Cấu trúc chương trình Tập làm văn miêu tả lớp 4:
Loại văn miêu tả

Học kỳ I

Học kỳ II

Cả năm

Khái niệm miêu tả
1
1
Miêu tả đồ vật
6
4
10
Miêu tả cây cối
11
11
Miêu tả con vật
8
8

Số tiết trong bảng được thực hiện trong 31 tuần học, không kể 4 tuần ôn tập giữa
học kỳ và cuối học kỳ. Như vậy, các bài dạy về văn miêu tả ở lớp 4 được cụ thể
hóa trong sách giáo khoa Tiếng Việt 4 – chủ yếu qua hai loại bài học: loại bài hình
thành kiến thức và loại bài luyện tập thực hành…
* Loại bài hình thành kiến thức được cấu tạo 3 phần
Phần 1:
Nhận xét (bao gồm một số câu hỏi, bài tập gợi ý học sinh tham khảo sát văn bản để tự
rút ra một số nhận xét về đặc điểm loại văn, kiến thức cần ghi nhớ).
Phần 2:
Ghi nhớ (gồm những kiến thức cơ bản được rút ra từ phần nhận xét).
Phần 3:
Luyện tập (gồm từ 1 đến 3 bài tập thực hành đơn giản giúp học sinh củng cố và vận
dụng kiến thức tiếp nhận trong bài học).
* Loại bài luyện tập thực hành: chủ yếu rèn luyện các kỹ năng tập làm văn, nội dung
thường gồm có 3, 4 bài tập nhỏ hoặc một đề bài tập làm văn kèm theo gợi ý thực hành
luyện tập theo hình thức nói, viết.
Nội dung các bài tập làm văn miêu tả ở lớp 4 thường gắn với chủ điểm đang học
ở các bài tập đọc. Quá trình hướng dẫn học sinh thực hiện các kỹ năng phân tích đề,
quan sát tìm ý, viết đoạn là những cơ hội giúp trẻ mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo


chủ điểm đang học. Việc phân tích dàn bài, lập dàn ý, chia đoạn bài văn miêu tả, quan
sát đối tượng… góp phần phát triển năng lực phân tích, tổng hợp, phân loại của học
sinh. Tư duy hình tượng của học sinh cũng được rèn luyện và phát triển nhờ các biện
pháp so sánh, nhân hóa khi miêu tả.
2. THỰC TRẠNG
2.1. Thuận lợi:
Tôi được nhà trường phân công trực tiếp giảng dạy lớp 4 hơn 3 năm nay và là giáo
viên giảng dạy bồi dưỡng năng khiếu cho học sinh tham gia thi giỏi của trường. Học
sinh tôi chủ nhiệm có lực học tương đối nhỉnh hơn so với các lớp cùng khối. Đa số các

em chăm chỉ học tập và các bậc phụ huynh cũng đã có nhiều người quan tâm đến con
em mình.
2.2. Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi, vẫn cịn khơng ít khó khăn. Bản thân cần phảo học hỏi
và dự giờ đồng nghiệp để nâng cao trình độ chun mơn . Chất lượng học sinh trong lớp
khơng đồng đều (có em có năng khiếu và có em có khó khăn về học), nên ảnh hưởng
khơng nhỏ đến việc dạy và học.
2.3. Thực trạng dạy Tập làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4 trường Võ Thị Sáu
Qua đợt kiểm tra định kì, tơi thấy kết quả bài tập làm văn của các em học sinh khối
4 rất thấp, chỉ có khoảng 60% số học sinh viết được bài văn đạt yêu cầu.Qua thực tế, tôi
nhận thấy việc giảng dạy Tập làm văn cho các em quả là vấn đề nan giải. Ở các lớp 1;
2;3 các em chỉ mới viết một đoạn văn ngắn, nhưng khi lên lớp 4 các em phải viết một
bài văn hòan chỉnh. Mặc dù vậy, đa số các em lớp tơi giảng dạy đều có thể viết được bài
văn với đầy đủ 3 phần (mở bài, thân bài, kết bài ), nhưng trong bài viết cụ thể của từng
em thì dường như hầu hết các bài đều có ít nhiều lỗi về sử dụng từ ngữ và khả năng sử
dụng các biện pháp nghệ thuật còn nhiều hạn chế. Các em sử dụng từ ngữ đơn giản, khơ
khan, ít giá trị biểu cảm, mang tính liệt kê các chi tiết. Bài văn ngắn, khơ khan, nghèo
cảm xúc, mang tính liệt kê


Ví dụ một số em viết:
- Giá sách của em bằng gỗ, gắn liền với bàn học. Nó có ba ngăn. Một ngăn em để bút,
một ngăn em để sách vở, một ngăn để truyện.
- Cây bàng cao đến mái nhà. Thân nó to. Cây bàng có nhiều cành. Lá màu xanh. Quả
ăn có vị chát.
Về cơ bản, câu văn rõ nghĩa, đúng ý. Nhưng chỉ cần vài câu là tả xong một đồ
vật, một cây một cách rất chung chung, không làm nổi bật được nét riêng của Sự vật
định miêu tả, không một chút xúc cảm, sáng tạo khiến đoạn văn có gì đó bất ổn. Bài văn
lỗi trong cách dùng từ đặt câu, diễn đạt, dấu câu, chính tả
Ví dụ: Cún con mới dễ thương làm sao. (!) (Dấu câu)

Chú cún có bộ lơng xanh mướt. (dùng từ)
Mắt của nó màu đen. Râu của nó dài. đi thì đen…(Lặp từ, liệt kê)
Con chó lơng trắng mắt nó em yêu chú lắm. (Không rõ nghĩa)
Cây bàng cao thân cây. Xù xì (Dấu câu)
Có nhiều cành, nhiều lá rậm rạp. (Thiếu thành phần chính)
Con gà trống dậy rất sớm. Nó dậy sớm để báo thức mọi người.(Lặp từ)
Chiếc cặp của em màu đỏ giúp em học giỏi. (Không tương hợp về nghĩa)
Khi viết văn, các em mới chỉ dừng ở mức độ cụ thể, thực tế chứ chưa biết sử
dụng biện pháp nghệ thuật để cho lời văn có hình ảnh và giàu cảm xúc, làm cho người
đọc, người nghe hình dung một cách rõ nét, cụ thể, sinh động về sự vật.
Từ thực trạng trên, để dạy Tập làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4 đạt hiệu quả
hơn tôi mạnh dạn đưa ra nội dung và các giải pháp, biện pháp cụ thể như sau.
3. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
Tập làm văn là một phân môn tổng hợp các kiến thức và kĩ năng về chính tả, tập
đọc, luyện từ và câu. Nhưng trong quá trình viết văn miêu tả, các em gặp khá nhiều khó
khăn. Giúp học sinh lớp 4 khi viết văn miêu tả biết sử dụng từ ngữ giàu biểu cảm, biết


sử dụng biện pháp nghệ thuật (nhân hóa, so sánh, đảo ngữ,..) để bài văn thêm sinh động,
có hình ảnh tôi giúp học sinh làm tốt các yêu cầu sau đây:
+ Biết khai thác và sử dụng lớp ngôn từ nghệ thuật có giá trị biểu cảm và giá trị
hình tượng, tượng thanh.
+ Biết khai thác và sử dụng biện pháp nghệ thuật (nhân hóa, so sánh) trong học
Tập làm văn miêu tả.
Làm thế nào để thực hiện được mục tiêu trên đây? Bản thân tôi trăn trở và suy
nghĩ để tìm ra biện pháp tối ưu nhất có thể giúp học sinh đạt kết quả cao khi học tập làm
văn miêu tả ở lớp 4 trường TH Võ Thị Sáu như sau:
Biện pháp 1 : Khai thác và sử dụng lớp ngơn từ nghệ thuật có giá trị biểu cảm và giá
trị hình tượng
Trong Tiếng việt, lớp ngơn từ nghệ thuật có giá trị biểu cảm và giá trị hình tượng

cao đó là từ láy và các tính từ tuyệt đối. Giá trị gợi tả của từ láy và tính từ tuyệt đối là
khả năng làm cho người đọc, người nghe cảm thụ và hình dung một cách cụ thể, tinh tế
và sống động về màu sắc, âm thanh, hình ảnh của sự vật mà từ biểu thị. Vì vậy, khi
hướng dẫn học sinh làm bài văn miêu tả, tôi hướng cho học sinh sử dụng các từ láy và
các tính từ tuyệt đối có giá trị biểu cảm cao làm cho câu văn mượt mà giàu cảm xúc.
Xuất phát từ suy nghĩ trên đây, trong thực tế giảng dạy, tôi rèn cho học sinh kĩ
năng sử dụng từ láy và các tính từ tuyệt đối có giá trị gợi tả, gợi cảm thông qua việc
cung cấp từ và giải nghĩa từ.
a) Cung cấp lớp ngơn từ có giá trị nghệ thuật.
Khi dạy bất kì dạng bài tập làm văn miêu tả nào cho học sinh lớp 4, tôi xác định
rõ mục tiêu và cung cấp cho các em vốn từ ngữ phù hợp (nếu vốn từ ngữ trong sách
giáo khoa cịn hạn chế thì tơi cung cấp thêm từ ngữ trong vốn từ ngữ dân gian), giải
nghĩa những từ học sinh khó hình dung.
Chẳng hạn khi dạy dạng bài miêu tả đồ vật, tôi cung cấp và giúp học sinh hiểu
nghĩa của những từ có liên quan đến đặc điểm của các đồ vật.


Nếu miêu tả đồ dùng , tôi lưu ý học sinh những đặc điểm chung của vật. Như “cái
trống thì mình trịn, mặt trống phẳng lì, cái bàn cái ghế thì có các chân thon thả, mặt
phẳng, nhẵn bóng, nổi vân…Cái mũ, cái áo thì mềm mại, thùng thình, hơi dài hay vừa
vặn…
Nếu miêu tả đồ chơi tôi lưu ý học sinh những đặc điểm của đồ chơi. Như con gấu
bơng, con búp bê thì mình trịn, mập mạp hay thanh mảnh, thon thả,…bộ lơng mềm
mại, hồng hồng, đỏ tía hay vàng cam…
Còn khi dạy dạng bài miêu tả cây cối, tôi lưu ý học sinh những đặc điểm chung
về cây. Như là thân cây thì to tướng, hơi to, cổ thụ hay sừng sững…lá cây thì xanh đậm,
xanh non, xanh biếc hay xanh um…vỏ cây thì xanh xám, nâu xỉn, bạc phếch, xù xì hay
nhẵn nhụi …tán cây thì tròn, sum suê hay toả rộng…, rễ cây ngoằn ngoèo …
Khi dạy dạng bài miêu tả con vật- đây là dạng bài miêu tả sự vật sống động nên
cũng phải chân thực sinh động hơn, các con vật với các đặc điểm và các hoạt động sống

động cho nên việc sử dụng từ ngữ độ chính xác phải cao. Khi miêu tả con chó, con mèo,
con gà…thì màu lơng của chúng màu trắng (trắng bạch, trắng tinh hay trắng xen lẫn
đốm vàng.. ), màu vàng (vàng sậm, vàng óng hay vàng như nắng…), đơi mắt của chúng
có thể trịn, trong, nâu, xanh hay long lanh…,chân của chúng có thể cao cao, thon thon,
nhanh nhẹn hay chắc chắn…, săn mồi (chồm, vồ bắt chuột..), thể hiện thái độ thân thiết,
quấn quýt (với chủ)…
b) Hướng dẫn học sinh thực hành sử dụng từ ngữ có giá trị nghệ thuật.
Trong thực tế, khi dạy bất kì một tiết luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả nào,
tôi đều yêu cầu các em nêu câu văn, đoạn văn miêu tả đặc điểm từng bộ phận của sự vật
đó, gợi cho các em hình dung, tưởng tượng sự vật đó một cách cụ thể, sinh động.
 Bài tập viết câu
Ví dụ 1: Diễn đạt lại những câu văn sau đây bằng cách thêm các từ ngữ, các biện pháp
nghệ thuật cho sinh động, gợi cảm.
+ Mùa xuân vừa đến.


Viết lại: Mùa xuân vừa đến mang theo trong gió mùi thoang thoảng của đất, mùi của
những lá cỏ non mới mọc và cả mùi ngai ngái của những đống rơm khô thấm đẫm
mưa xuân.
+ Hoa cam trắng muốt
Viết lại: Hoa cam kết lại thành chùm, bông hoa trắng muốt, bung tỏa năm cánh sao
nhũ bạc duyên dáng.
+ Hương cam ngan ngát, dịu nhẹ.
Viết lại: Mùa hoa nở, hương cam ngan ngát dịu nhẹ dâng lên khiến khơng khí vườn
q thật thanh mát, trong lành, dễ chịu.( Sử dụng các hình ảnh, chi tiết sinh động biểu
cảm)
+ Khi mùa thu đến, quả bàng vàng óng.
Viết lại: Khi mùa thu bắt đầu thêu lên vòm lá xanh dịu dàng những chiếc lá vàng, lá
đỏ thì quả bàng cũng chuyển màu vàng óng.
*Bài tập viết đoạn văn

Ví dụ 1: Khi yêu cầu học sinh viết một đoạn văn ngắn bao quát cái bút của em.
+Học sinh có thể nêu miệng cách tả bao quát cái bút như sau:
Đó là chiếc bút máy nhỏ, xinh. Nó dài bằng gang tay em. Bút làm bằng nhựa, màu
xanh trông rất mát mắt. Loại bút này viết dễ nên các em thích dùng.
Đoạn văn trên đây, học sinh đã dùng tính từ chỉ màu sắc để miêu tả đặc điểm của
cây bút. Song, giá trị gợi tả ở mức độ thấp, chưa thể hiện được sắc thái biểu cảm.
+ Tôi hướng dẫn em sửa lại cách dùng từ như sau:
-Theo em đó là cây bút nhỏ hay nho nhỏ ?
-Bút có màu xanh như thế nào ? (xanh dương, xanh da trời hay xanh màu ngọc bích..)
-Bút xinh hay xinh xinh ?
-Bút viết dễ như thế nào ? (dễ dàng)
+ Học sinh đã sửa lại đoạn văn như sau:


Chiếc bút thật xinh xắn! Đó là chiếc bút của hãng Thiên Long nho nhỏ, xinh
xinh. Nó dài bằng gang tay em. Bút làm bằng nhựa, màu xanh da trời trông thật mát
mắt. Loại bút này viết dễ dàng nên các em thích dùng.
Như vậy sau khi chỉnh sửa một số từ (từ tính từ chuyển sang từ láy và tính từ
tuyệt đối) làm cho đoạn văn gợi hình ảnh rõ nét hơn về cây bút máy.
Ví dụ 2: Khi yêu cầu học sinh viết đoạn văn ngắn tả hình dáng bên ngồi chiếc cặp
của em.
+ Học sinh có thể nêu miệng cách tả hình dáng bên ngồi cái cặp như sau:
Chiếc cặp của em màu vàng, hình chữ nhật, to và dày. Cặp cịn thơm mùi vải
mới. Mặt ngồi cặp mềm, sờ vào êm. Nắp cặp hình chữ nhật, hơi vát ở hai bên, cũng
bằng da mềm và có màu vàng. Xung quanh mép được viền bằng một loại chỉ to màu
hồng trang trí cho nổi. Hai khố chốt bằng kim loại nằm cân xứng hai bên,
đẩy ra, đẩy vào nhẹ và kêu.
+ Tôi hướng dẫn em sửa lại cách dùng từ như sau:
- Chiếc cặp của em màu vàng như thế nào? (vàng tươi, vàng cam hay vàng sẫm..) - Cặp
của em hơi to hay rất to?

- Mặt ngoài cặp mềm mềm, mềm mại hay mềm như nhung?
- Sờ vào êm như thế nào?
- Đẩy nhè nhẹ hay nhẹ nhàng?
- Em nghe âm thanh khoá cặp ra sao? (lách cách hay tanh tách)
+ Học sinh sửa lại đoạn văn :
Chiếc cặp mới đẹp làm sao! Cặp khoác chiếc áo màu vàng cam, hình
chữ nhật, hơi to và dày. Cặp cịn thơm mùi vải mới. Mặt ngồi cặp mềm mại, sờ vào
êm êm. Nắp cặp hình chữ nhật, hơi vát ở hai bên, có màu vàng cam. Em thích nhất
hình cơ cơng chúa mặc chiếc áo dạ hội xinh xắn được diểm trên mặt cặp. Xung quanh
mép được viền bằng một loại chỉ to màu hồng trang trí cho nổi. Hai khoá chốt bằng
kim loại nằm cân xứng hai bên, đẩy ra, đẩy vào nhẹ nhàng và kêu tanh tách.


Các tính từ đã được thay đổi thành từ láy gợi hình ảnh và âm thanh làm cho đoạn
văn miêu tả cái cặp cụ thể hơn.
Ví dụ 3: Khi yêu cầu học sinh viết đoạn văn ngắn tả bao quát cây hoa trong vườn
nhà em.
+ Học sinh có thể nêu miệng cách tả cây hoa hồng như sau:
Vào mỗi buổi sáng, khi ánh nắng lan toả khắp nơi, cùng với mọi vật hân hoan
chào đón một ngày mới, cây hoa hồng vươn mình đón nắng mai trơng rất đẹp. Những
bơng hoa màu đỏ, cánh mịn màng như nhung đung đưa theo gió. Cây say sưa khoe sắc,
toả hương thơm khắp khu vườn.
Đoạn văn này học sinh đã miêu tả được đặc điểm nổi bật của cây hồng, nhưng giá
trị biểu cảm cịn hạn chế.
+ Tơi hướng dẫn em sửa lại cách dùng từ như sau:
Tơi u cầu học sinh tìm lại trong đoạn văn có những tính từ nào em đã sử dụng,
gợi cho em thấy rằng các tính từ đó chưa thật sự gây ấn tượng cho người đọc, người
nghe. Em hãy chuyển thành các từ có sức biểu cảm cao hơn như
- Cây hoa đẹp thì đẹp như thế nào ?
- Bông hoa đỏ tươi hay đỏ thắm? - Cây toả hương thì ra sao ?

+ Học sinh sửa lại đoạn văn trên là:
Vào mỗi buổi sáng, khi ánh nắng lan toả khắp nơi, cùng với mọi vật hân hoan
chào đón một ngày mới, cây hoa hồng vươn mình đón nắng mai trơng mới đẹp làm
sao? Những bơng hoa màu đỏ thắm, cánh mịn màng như nhung đung đưa theo gió.
Cây say sưa khoe sắc, toả hương thơm ngan ngát khắp khu vườn.
Như vậy, khi học sinh biết khai thác và sử dụng các từ láy, các tính từ tuyệt đối để
miêu tả, thì bài văn của các em mang lại hiệu quả cao hơn. Bởi vì, các từ láy và các tính
từ tuyệt đối sẽ mang lại những giá trị biểu cảm về hình tượng, về âm thanh, thế giới
màu sắc, hình ảnh sẽ làm cho bài văn của các em cụ thể, sinh động, chân thực và giàu
cảm xúc.


Biện pháp 2: Khai thác và sử dụng biện pháp nghệ thuật (nhân hoá, so sánh) trong
làm văn miêu tả.
Như chúng ta đã biết, sử dụng biện pháp nhân hoá, so sánh trong viết văn thể
hiện sự nhận thức chính xác, sâu sắc của người sử dụng và tăng cường sự nhận thức cho
người đọc, người nghe về sự vật. Khi sử dụng hai biện pháp này giúp người đọc, người
nghe hình dung ra sự tương đồng giữa các đối tượng. So sánh làm tăng sức gợi hình,
gợi cảm cho sự diễn đạt, khiến sự vật được so sánh trở nên đẹp đẽ, sinh động, hấp dẫn,
cụ thể và lôi cuốn người đọc, người nghe. Nhân hoá làm cho sự vật được miêu tả sinh
động, hấp dẫn, lí thú, làm các đối tượng không phải con người lại mang dấu hiệu, thuộc
tính của con người, các sự vật được thổi một luồng sinh khí mới vào cuộc sống của
chúng, đó là sức sống của con người. Với hai biện pháp này, người miêu tả có thể thể
hiện được màu sắc, hình khối, âm thanh và thể hiện kín đáo sâu sắc tình cảm, cảm xúc,
thái độ, sự đánh giá đối với sự vật đó. Chính vì vậy, tơi giúp học sinh khai thác, sử dụng
hai biện pháp này vào viết văn miêu tả. Trong thực tế giảng dạy, tôi đã rèn kĩ năng sử
dụng và khai thác các biện pháp nghệ thuật như sau:
a) Yêu cầu học sinh thực hiện bài tập về sử dụng biện pháp nghệ thuật.
Trong những tiết học thực hành Tập làm văn trên lớp, tiết học tăng cường, cùng
với việc hướng dẫn làm văn, tôi kết hợp hướng dẫn làm một số dạng bài tập cụ thể là:

* Em hãy điền từ hoặc cụm từ phù hợp vào mỗi câu sau để có hình ảnh so sánh
- Thân mình chú to bằng…
- Mắt trịn và …
- Dáng đi uyển chuyển như …
- Bộ lông mềm mượt …
- Tán lá bàng xoè ra giống như …
(nàng tiểu thư đài các, bắp đùi em, nhung, cái ô xanh khổng lồ, long lanh như thuỷ
tinh)


*Em hãy chọn từ (trong ngoặc đơn dưới đây) điền vào chỗ chấm để có hình ảnh
nhân hố:
Kìa trên nụ hồng còn ướt đẫm sương mai, một …. bướm vàng đang rung rung đơi
cánh. Hình như đã ngửi thấy mùi hương thơm của bông hoa mới nở ở cành trên. Chị
vẫy nhẹ đôi cánh đậu nhẹ nhàng. Thế rồi cái lưỡi dài đã cuộn thành ống hút. Chị duỗi
ống lưỡi ra, đưa đầu lưỡi nhúng vào mật ngọt hút say sưa. Chắc chị đan…“Chà! Sao mà
ngọt thế!” Rồi chị vẫy nhẹ đôi cánh, chập chờn bay đi. Cái râu rung rung như muốn ….
“Cảm ơn bạn hoa nhé, mật của bạn thật tuyệt!” (chị, nói, nghĩ)
*Em hãy viết các câu sau thành các câu có hình ảnh so sánh, nhân hoá:
- Buổi sáng những cánh buồm nâu trên biển đẹp quá.
- Đôi cánh gà mẹ xoè ra che chở cho bầy con.
- Ánh nắng mai chiếu trên mái nhà và trên khoảng sân rộng.
- Trên tán lá bàng, bầy chim đang hót.
Với kiểu bài tập này học sinh có thể viết được các câu như:
- Buổi sáng, những cánh buồm nâu trên biển giống như những cánh bướm dập
dờn.
- Đôi cánh gà mẹ xoè ra như hai mái nhà che chở cho bầy con.
- Ánh nắng mai đùa vui trên mái nhà và trên khoảng sân rộng.
- Trên tán lá bàng, bầy chim đang ríu rít chuyện trị.
b) Hướng dẫn học sinh thực hành sử dụng biện pháp nghệ thuật.

Trong thực tế, khi dạy bất kì một tiết luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả nào,
nếu các em nêu miệng câu văn, đoạn văn miêu tả đặc điểm từng bộ phận của sự vật đó,
tơi gợi ý cho các em hình dung, tưởng tượng sự vật đó một cách cụ thể, sống động bằng
cách thêm vào những hình ảnh so sánh, nhân hố.
*Bài tập viết câu
Ví dụ 1: : Từ những câu văn đã cho, viết lại cho sinh động, gợi cảm xúc bằng cách
thêm biện pháp nghệ thuật nhân hóa:


+ Bông hoa hồng xinh đẹp.
Viết lại: Bông hoa hồng xinh đẹp đang tươi cười và thì thầm toả hương thơm. (Biện
pháp nhân hố).
Ví dụ 2: Diễn đạt lại những câu văn sau đây bằng cách thêm các từ ngữ, các biện pháp
nghệ thuật so sánh cho sinh động, gợi cảm.
+ Hoa cam trắng muốt
Viết lại: Hoa cam kết lại thành chùm trắng như tuyết, bung tỏa năm cánh sao
nhũ bạc duyên dáng.
+ Hương cam ngan ngát, dịu nhẹ.
Viết lại: Mùa hoa nở, hương cam ngan ngát dịu nhẹ như hương cau hương bưởi ( Sử
dụng biện pháp so sánh)
*Bài tập viết đoạn
Ví dụ 1: Khi yêu cầu viết đoạn văn ngắn miêu tả đồ chơi mà em yêu thích.
+ Một học sinh chọn tả gấu bông và nêu miệng cách tả như sau:
Chú gấu bông này mới đẹp làm sao! Chú có bộ lơng màu vàng sẫm và mịn
màng. Cái đầu trịn và to. Hai mắt chú đen sì. Trên cổ chú có thắt một chiếc nơ màu
xanh da trời. Mỗi buổi tối, sau khi học bài xong, em lại mang chú ra chơi.
Học sinh đã miêu tả được các bộ phận của chú gấu bông và thể hiện tình cảm của
mình đối với đồ vật. Nhưng đồ vật chưa thật sự sinh động.
+ Tôi hướng dẫn học sinh sửa đoạn văn trên bằng các câu hỏi :
- Bộ lơng chú mịn màng như cái gì ? (như nhung)

- Đầu chú trịn và to bằng vật gì ? (cái bát tơ)
- Hai mắt đen sì giống như thứ gì em biết ? (hạt nhãn)
- Chú gấu bông đối với em như thế nào ? Có thân thiết khơng ? (Như người bạn thân).
+ Học sinh đã sửa đoạn văn trên thành:
Chú gấu bơng thật dễ thương! Chú có bộ lông màu vàng sẫm và mịn màng như
nhung. Cái đầu trịn và to như cái bát tơ múc phở. Ngộ nhất là hai cái tai như hai cái


bánh quy gắn trên đầu, lúc nào cũng như lắng nghe mọi người nói. Hai mắt chú đen
sì giống như hai hạt nhãn. Trên cổ chú có thắt một chiếc nơ màu xanh da trời. Mỗi
buổi tối, sau khi học bài xong, em lại bế chú ra chơi. Không biết từ khi nào chú đã trở
thành một người bạn thân của em. Gấu bông là người bạn em hay tâm sự chuyện
buồn vui trong ngày.
Ví dụ 2: Khi yêu cầu học sinh hãy viết đoạn văn ngắn miêu tả hình dáng con
vật mà em yêu thích.
+ Một học sinh đã nêu miệng đoạn thân bài như sau:
Mẹ của đàn gà con là con gà mái hoa mơ. Với bộ lông với nhiều đốm trắng,
sáng lên màu nắng khiến hoa mơ nổi bật giữa bầy con. Cái mào của hoa mơ ngày xưa
đỏ tươi bây giờ chuyển sang màu đỏ sậm. Hai con mắt trịn xoe ln lấp lánh của hoa
mơ vừa tìm mồi, vừa trơng con. Mỗi khi có nguy hiểm hoa mơ liền dùng đôi cánh để
che chở cho đàn con thơ dại.
Đoạn văn của học sinh đã tả được tương đối cụ thể hình dáng của một chú gà mẹ,
song cần có sự chân thực và cần thể hiện được sức sống của một “bà mẹ gà”.
+ Tôi gợi ý học sinh cách sửa:
- Từ “con” có thể dùng từ gì để thay thế làm cho hoa mơ giống một bà mẹ thực sự ?
(chị, cô)
- Bộ lông hoa mơ sáng lên màu nắng hay sáng lên như màu nắng ?
- Đôi cánh hoa mơ giống như vật gì để che chở được đàn con ?
+ Đoạn văn được học sinh sửa lại là:
Chị gà mái hoa mơ ra dáng là một bà mẹ đảm đang của đàn gà co. Với bộ lơng

có nhiều đốm trắng, sáng lên như màu nắng khiến hoa mơ nổi bật giữa bầy con. Cái
mào của chị hoa mơ ngày xưa đỏ tươi bây giờ chuyển sang màu đỏ sậm. Hai con mắt
tròn xoe liếc ngang, liếc dọc của hoa mơ vừa tìm mồi, vừa trơng con. Mỗi khi có nguy
hiểm hoa mơ liền dùng đôi cánh như hai mái nhà để che chở cho đàn con thơ dại.


Ví dụ 3: Khi yêu cầu học sinh hãy viết đoạn văn ngắn miêu tả hình dáng loại
cây mà em yêu thích.
+ Với Đề bài : Em viết đoạn văn ngắn tả hình dáng của cây bàng ở sân trường,
một học sinh đã viết:
Nhìn từ xa, cây bàng rất cao. Thân cây to, màu nâu sẫm. Những chiếc rễ nổi trên
mặt đất. Cây có hàng chục tán lá to vừa vươn rộng, vừa vươn cao để đón ánh nắng mặt
trời. Từ những tán lá to mọc ra nhiều cành nhỏ chi chít lá. Lá bàng hình bầu dục và
xanh bóng. Cây bàng toả bóng mát cho chúng em vui chơi, học tập.
Đoạn văn của học sinh đã tả được tương đối cụ thể hình dáng của cây bàng, song cần
thể hiện sự sinh động, vẽ đẹp tự nhiên nhưng gần gũi với học sinh.
+ Tôi gợi ý học sinh cách sửa:
- Cây bàng có thể hình dung, so sánh với đồ dùng quen thuộc nào? (cái ô, dù)
- Thân cây to như thế nào? ( Vịng tay em ơm)
- Rễ cây giống con vật gì sống ở đất?

- Cành cây thế nào?

- Lá bàng có đặc điểm gì nổi bật khác với lá các lọai cây khác?
+ Đoạn văn được học sinh sửa lại là:
Nhìn từ xa, cây bàng như một chiếc ô khổng lồ, xanh mát rượi. Thân cây to,
màu nâu sẫm bằng cả vịng tay ơm của em. Những chiếc rễ nổi trên mặt đất ngoằn
ngèo như những con giun khổng lồ bò lổm ngổm. Cây sở hữu hàng chục tán lá to
như những cánh tay vừa vươn rộng, vừa vươn cao để đón ánh nắng mặt trời. Từ
những tán lá to mọc ra nhiều cành nhỏ chi chít lá. Lá bàng hình bầu dục, to hơn bàn

tay em, dày và xanh bóng. Cây bàng toả bóng mát cho chúng em vui chơi, học tập. Mỗi
khi gió thổi qua, lá bàng vẫy vẫy như những chiếc quạt……
Trong mỗi tiết học Tập làm văn miêu tả, tôi luôn kiên trì hướng dẫn học sinh khai
thác, sử dụng biện pháp nghệ thuật giúp học sinh từng bước, từng bước viết văn miêu tả
ngày càng hay và đạt hiệu quả tốt.
4. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC


Qua quá trình vừa nghiên cứu đề tài vừa áp dụng vào thực tế giảng dạy tôi nhận
thấy rằng những biện pháp dạy học mà tơi áp dụng đã có những kết quả đáng mừng
trong những năm học qua. Sau khi áp dụng một số biện pháp sử dụng từ ngữ và biện
pháp so sánh, nhân hố. Tơi thấy bài làm của các em chuyển biến rõ rệt.
Cuối năm học đa số các em học sinh lớp tôi viết được bài văn miêu tả biết sử dụng
từ láy, biện pháp so sánh, biện pháp nhân hoá, viết văn giàu cảm xúc, sinh động và hấp
dẫn người đọc, người nghe.
- Các em u thích mơn học.
- Đội tuyển tơi bồi dưỡng đạt nhiều kết quả cao.
Minh chứng và kết quả đạt được khi áp dụng biện pháp vào thực tiễn như
sau:
* Kết quả kiểm tra môn Tập làm văn của học sinh lớp 4/1 – Năm học 2021 - 2022 là:
Tổng số học sinh: 40 em - Nữ: 22 em.
Kết quả kiểm tra mơn Tập làm văn cuối học kì I và cuối năm cụ thể như sau:
Cụ thể :
Xếp loại
Thời gian
Cuối HKI
Cuối năm

Hoàn thành tốt
SL

7
15

%
17,5
37,5

Hoàn thành
SL
30
25

%
75%
62,5

Chưa hoàn thành
SL
3
0

%
7,5
0

PHẦN III: KẾT LUẬN CHUNG
Thầy cơ giáo cũng như nghệ sĩ, ngồi việc giảng dạy tri thức, họ còn mang thiên
chức bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, cảm xúc và những rung động thẩm mĩ cho học sinh.
Để khơi gợi sự sáng tạo ở học sinh, khơng thể bị sự bó buộc trong những khuôn khổ,
những quy định quá chặt chẽ, giáo điều. Chính vì thế, để học sinh sáng tạo, đặc biệt là

sáng tạo trong viết văn, việc đầu tiên cần làm, theo tơi đó là rèn kĩ năng, tạo ra hứng thú
học tập để cho các em phát huy hết năng lực trong học tập. Từ thực trạng dạy và học


Tập làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4, tơi mạnh dạn nghiên cứu và trình bày biện
pháp rèn kĩ năng giúp học sinh phát huy năng lực khai thác và sử dụng từ ngữ giàu giá
trị biểu cảm và sử dụng biện pháp nhân hoá, so sánh, đạt kết quả đáng khích lệ.
Biện pháp của tơi chắc hẳn khơng tránh khỏi sự thiếu sót nhất định, rất mong
nhận được sự góp ý của lãnh đạo ngành, của đồng nghiệp để biện pháp của tơi được
hồn thiện và áp dụng rộng rãi trong địa bàn Quận.
Xin chân thành cảm ơn!
Hòa Minh, ngày 1 tháng 11 năm 2020
NGƯỜI THỰC HIỆN



×