Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

tình trạng chảy máu chất xám điều kiện hình thành phát triển năng lực và giải pháp thu hút phát triển tài năng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.3 KB, 10 trang )

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Tình trạng “Chảy máu chất xám” là một hiện tượng xã hội đang diễn ra
phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia khác trên thế giới
( như châu Á, châu Phi,..) đặc biệt là các nước đang phát triển. Hiện tượng này
làm thất thoát nguồn kinh phí đào tạo của quốc gia, đồng thời tiêu tốn một
nguồn kinh phí lớn để trả lương cho các chuyên gia nước ngoài mời về, nhiều
công trình nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ kỹ thuật thiếu nhân lực
có năng lực cao. Do đó, em lựa chọn đề “Hiện nay nước ta đang có tình trạng
“Chảy máu chất xám”. Nhiều bạn trẻ cho rằng, ở Việt Nam không có điều kiện
để cho họ phát triển năng lực nên đã ra nước ngoài học tập và làm việc. Dưới
góc độ tâm lý học, anh chị cho biết các điều kiện để hình thành phát triển năng
lực của cá nhân? Hãy đề xuất một số giải pháp để thu hút và phát triển tài năng
cho địa phương của mình.”
NỘI DUNG
I. Lý thuyết về năng lực cá nhân
1. Khái niệm:
Năng lực là tổng hợp những thuộc tính tâm lý độc đáo của cá nhân phù hợp
với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định, nhằm đảm bảo cho
hoạt động đó diễn ra có kết quả. Năng lực có 5 mức độ biểu hiện: tư chất, thiên
hướng, năng khiếu, tài năng, thiên tài.
- Tư chất là những đặc điểm giải phẫu – sinh lý của con người, quan trọng
là những đặc điểm của hệ thần kinh, nó mang tính chất bẩm sinh – di truyền và
là cơ sở tự nhiên, tiền đề vật chất của năng lực. Tư chất là một trong những điều
kiện bên trong không thể thiếu được cho sự xuất hiện năng lực.
- Thiên hướng là những phẩm chất đầu tiên của năng lực được bộc lộ trong
hoạt động trên cơ sở của những yếu tố nhất định. Tư chất gặp những điều kiện
hoạt động phù hợp sẽ phát triển thành thiên hướng.
- Năng khiếu là toàn bộ những phẩm chất làm cho hoạt động của con người


trong một hoặc một vài lĩnh vực đạt được kết quả đặc biệt, làm cho họ nổi bật
lên so với những người khác cùng học tập, cùng hoạt động trong điều kiện như
nhau. Năng khiếu được bộc lộ trong hoạt động mang tính chất nghề nghiệp.
2


- Tài năng là toàn bộ những phẩm chất cho phép con người hoạt động đạt
được kết quả độc đáo và mới mẻ, có sự hoàn thiện cao và có ý thức xã hội lớn.
Đặc điểm của tài năng là ở trình độ sáng tạo cao khi thực hiện một hoạt động
nào đó.
- Thiên tài là trình độ phát triển cao nhất của tài năng, cho phép con người
tạo ra một cái gì mới mẻ về nguyên tắc trong một lĩnh vực hoạt động mang ý
nghĩa lịch sử toàn xã hội và mở ra một thời đại mới trong lĩnh vực hoạt động đó.
Năng lực là sự tổng hợp, kết hợp các thuộc tính theo một cấu trúc nhất
định, cấu trúc năng lực bao gồm ba thành phần: những thuộc tính chủ đạo;
những thuộc tính làm chỗ dựa; những thuộc tính nền.
2. Phân loại
Có nhiều cách phân loại năng lực khác nhau.
* Xét về xu hướng chuyên môn hóa:
- Năng lực chung: là những phẩm chất tâm lý cá nhân đảm bảo cho mọi
lĩnh vực hoạt động nhanh chóng, thành thạo và đạt hiệu quả cao. Đó là năng lực
cần thiết cho nhiều ngành hoạt động khác nhau chẳng hạn như trí nhớ tốt, tư
duy linh hoạt, sâu sắc, óc tưởng tượng sáng tạo. Năng lực chung còn có thể
được phân chia thành năng lực sơ đẳng và năng lực phức tạp.
- Năng lực riêng: là hệ thống các thuộc tính đảm bảo cho con người hoạt
động có kết quả cao trong nhận thức sáng tạo về các lĩnh vực hoạt động chuyên
môn. Năng lực riêng lại chia thành hai loại: năng lực cơ sở riêng và năng lực
phức tạp riêng.
* Xét về hình thức phát sinh:
- Năng lực tự nhiên là năng lực có nguồn gốc sinh vật, có mối liên hệ trực

tiếp với các yếu tố bẩm sinh di truyền, tư chất.
- Năng lực xã hội được hình thành và phát triển trong quá trình sinh hoạt
xã hội và chỉ có con người với có như năng lực lao động, năng lực ngôn ngữ,
năng lực học tập.
3. Điều kiện hình thành phát triển năng lực của cá nhân
a. Tiền đề tự nhiên của năng lực.
3


* Yếu tố tư chất:
Tư chất là đặc điểm riêng của cá nhân về giải phẫu sinh lý và những chức
năng của chúng được biểu hiện trong những hoạt động đầu tiên của con người.
Muốn tạo điều kiện phát triển năng lực trong cuộc sống có tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo trong lĩnh vực hoạt động đó.
Sinh lí bẩm sinh của bộ não, của hệ thần kinh, của cơ quan phân tích, tạo
nên sự khác biệt giữa con người với nhau.
Là một trong những điều kiện hình thành năng lực nhưng không quy định
trước sự phát triển của năng lực, tư chất là điều kiện cần nhưng không là điều
kiện đủ của sự phát triển năng lực. Ngoài các yếu tố bẩm sinh, di truyền, tư chất
còn chứa đựng sự tự tạo trong cuộc sống, điều này có được bảo tồn và thể hiện
ở thế hệ sau hay không, ở mức độ nào còn phụ thuộc vào hoàn cảnh sống của
mỗi cá nhân.
* Yếu tố di truyền:
Di truyền và đặc điểm cá nhân là yếu tố ảnh hưởng đến năng lực của cá
nhân, đặc biệt là năng lực sáng tạo. Di truyền là hiện tượng chuyển những tính
trạng của cha mẹ cho con cái thông qua gen của của bố mẹ. Trong sinh học, di
truyền chuyển những đặc trưng sinh học từ một sinh vật cha mẹ đến con cái và
nó đồng nghĩa với di chuyển gen, gen thừa nhận mang thông tin sinh học (hay
thông tin di truyền).
Ngoài ra các đặc điểm về năng lực (nhận thức tư duy) hay tính cách của

con cái có thể được tiếp nhận từ bố mẹ thông qua môi trường sinh hoạt gia đình.
Những nghiên cứu khoa học mới đây đã chỉ ra rằng, có tới 40% trí thông minh
của trẻ là do di truyền từ bố mẹ, điều đó cho thấy yếu tố di truyền có vai trò rất
quan trọng, quyết định đến năng lực sáng tạo của mỗi cá nhân.
b. Điều kiện xã hội của năng lực
* Tri thức
Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình
nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng dưới dạng các loại ngôn ngữ.
Ví dụ: kiến thức đã được học in sâu trong đầu óc.
Tri thức có được thông qua các quá trình nhận thức phức tạp: quá trình tri
giác, quá trình học tập, quá trình tiếp thu, quá trình giao tiếp, quá trình tranh
4


luận, qua trình lý luận hay kết hợp các quá trình này với nhau. Có một tri thức
tốt cá nhân sẽ có một năng lực đáng kể.
* Yếu tố xã hội và giáo dục
Năng lực ngoài chịu sự tác động của một số yếu tố nội tại như gen, não,
tính cách, giá trị, kỹ năng nhận thức, tâm lí, động lực bên trong thì còn chịu tác
động của các yếu tố bên ngoài như giáo dục, xã hội, việc làm, kinh tế, văn hóa,
công nghệ… Các yếu tố bên trong và các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lẫn nhau
và cùng tác động đến sự hình hình thành, phát triển năng lực của cá nhân. Học
tập ảnh hưởng đến cả yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài của sự hình thành
năng lực. Cá nhân liên tục học hỏi, phát triển cảm xúc, trí tưởng tưởng, kinh
nghiệm của họ trong môi trường của họ.
Yếu tố xã hội góp phần không nhỏ trong việc hình thành, phát triển năng
lực của cá nhân. Tuy nhiên, tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường với
sự hình thành và phát triển nhân cách còn tùy thuộc vào lập trường, quan điểm,
thái độ của cá nhân với các ảnh hưởng đó. Nếu một người sinh sống, học tập và
làm việc trong điều kiện phù hợp, năng lực của cá nhân họ sẽ được rèn luyện,

phát huy một cách mạnh mẽ, ngược lại nếu ở trong những điều kiện hạn chế,
không phù hợp thì cá nhân sẽ khó để thể hiện và phát triển năng lực của mình.
Bên cạnh ảnh hưởng của xã hội, môi trường sống, giáo dục là yếu tố chủ
đạo giúp phát triển năng lực của cá nhân. Sở dĩ như vậy vì giáo dục là sự tác
động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch nhằm thực hiện có hiệu quả các mục
đích đề ra. Giáo dục sẽ mang lại những tiến bộ mà những nhân tố khác như bẩm
sinh – di truyền hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể có được. Giáo dục sẽ
giúp con người phát huy, cải thiện, rèn giũa khả năng của mình.
II. Tình trạng “Chảy máu chất xám”
1. Khái niệm:
Chảy máu chất xám là sự di chuyển quy mô lớn (từ vùng này sang vùng
khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác) của của đội ngũ nhân lực có tri thức
và trình độ cao để làm việc, nghiên cứu và học tập. Đó có thể là các sinh viên tài
năng, các kĩ sư, nhà khoa học hoặc văn nghệ sĩ… Việc di chuyển của họ nhằm
tìm đến một mội trường làm việc phù hợp, nơi có thu nhập, mức sống cao, chế
độ đãi ngộ và chính sách ưu đãi tương xứng.

5


Hiện tượng chảy máu chất xám có thể được xem xét dưới hai hình thức là
chảy máu chất xám “nội” (người lao động không làm hết năng lực, không cống
hiến hết khả năng hoặc làm việc trái ngành, trái nghề) và chảy máu chất xám
“ngoại” (việc nhân viên rời khỏi doanh nghiệp để làm việc cho doanh nghiệp
khác; hoặc chảy máu chất Về hiện tượng chảy máu chất xám ở nước ta hiện nay
xám ra nước ngoài: người Việt Nam ra nước ngoài học tập, nghiên cứu).
Tình huống được nhắc đến là dưới hình thức chảy máu chất xám “ ngoại”.
Hiện trạng này được biểu hiện cụ thể như sau: Những trí thức có khả năng, có
năng lực, được đào tạo bài bản, đang công tác tại các cơ quan đầu não nhà nước,
chuyển ra làm việc cho các công ty ngoài quốc doanh, công ty 100% vốn nước

ngoài. Một số cán bộ tại các vụ, viện, trung tâm nghiên cứu, các cơ quan nhà
nước nhưng lại làm bán thời gian cho các tổ chức, các công ty nước ngoài. Chảy
máu chất xám diễn ra ở đối tượng sinh viên cao đẳng và đại học. Những sinh
viên giỏi không chấp nhận ở lại trường làm công tác nghiên cứu và giảng dạy.
Một số trí thức công tác tại các cơ quan khoa học đầu nào được cử đi công tác ở
nước ngoài, nhưng sau đó lại ở lại nước đó làm việc theo đúng chuyên môn đã
được đào tạo.
2. Nguyên nhân:
a. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám:
Các nguyên nhân chính của lực hút chất xám ở các nước có điều kiện là
mức lương cao, đời sống xã hội cao, nền khoa học - công nghệ cao, môi trường
học tập và làm việc tốt, cơ chế tuyển dụng công bằng, có chính sách ưu đãi đối
với người tài.
Hiện tượng chảy máu chất xám diễn ra chủ yếu ở các nước đang phát triển
còn do tác động của nhu cầu thị trường lao động thế giới, các chính sách cạnh
tranh thu hút nhân tài chủ yếu ở châu Âu và Mỹ, bao gồm: sửa đổi luật di dân,
cấp visa việc làm, đề mức lương cao, đầu tư các chế độ đãi ngộ, xây dựng các
quỹ nghiên cứu hoặc quỹ học bổng,...
Một số nguyên nhân tạo lực đẩy chất xám là tình trạng lương thấp, thiết bị
lỗi thời, tương lai không sáng sủa, ít lựa chọn cho các nhà khoa học nếu làm
việc ở các nước sở tại, chế độ đãi ngộ kém, môi trường nghiên cứu khoa học
không phù hợp, giá trị lao động thực sự chưa được đề cao. Riêng tại châu
Phi còn do các yếu tố nghèo đói, chính trị bất ổn định (chiến tranh, đại loạn) và
nguồn ngân sách đầu tư cho lĩnh vực khoa học kỹ thuật quá thấp (0,3 % GDP).
6


Một số khía cạnh cá nhân có thể kể đến như: sự tác động từ gia đình (ví dụ
người thân ở nước ngoài) hoặc do sở thích cá nhân thích khám phá và muốn
được cải thiện sự nghiệp, hay lí do bởi nhiều bạn trẻ cho rằng ở Việt Nam

không có điều kiện để cho họ phát triển năng lực cá nhân nên muốn ra nước
ngoài học tập và làm việc…
b. Nguyên nhân dẫn đến suy nghĩ của nhiều bạn trẻ:
Nguyên nhân sẫn đến suy nghĩ trên của nhiều học sinh sinh viên cũng là
bởi sự chênh lệch quá lớn về điều kiện xã hội giữa các nước phát triển ( nơi bạn
trẻ du học và đến làm việc nhiều như Mỹ, châu Âu,..) và một nước đang phát
triển như Việt Nam. Cụ thể về điều kiện cho giáo dục, đại học ở nước ngoài
ngoài lý thuyết còn quan tâm đến thực hành, luận văn được kiểm tra chặt chẽ
chống sao chép yêu cầu phải làm bằng năng lực bản thân trong khi trong nước
chủ yếu học lý thuyết, không sát với thực tế đi làm, đồng thời các bài tập không
được kiểm tra chặt chẽ về việc sao chép, hoặc có thì chỉ với trong cùng năm học
mà không thể kiểm tra so với các khóa trước đó. Về điều kiện cho việc làm, ở
nước ngoài có chế độ đãi ngộ để thể hiện năng lực của mình khi mà ở Việt Nam
chủ yếu thể hiện là tiền tệ, quan hệ thay thế cho năng lực của cá nhân.
* Tính đúng đắn của suy nghĩ: Suy nghĩ này đúng bởi thứ nhất, yếu tố xã
hội và giáo dục, tri thức ( đời sống xã hội cao, nền khoa học phát triển, môi
trường học tập làm việc hiện đại ở nước ngoài) ảnh hưởng tích cực đến sự phát
triển năng lực của cá nhân. Nguyên nhân thứ hai là theo lý thuyết tuy năng lực
ngoài điều kiện xã hội còn có điều kiện tự nhiên nhưng điều kiện tự nhiên của
một các nhân là không thể thay đổi nên điều kiện xã hội trở nên quan trọng và
có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển năng lực của cá nhân đó.
3. Giải pháp để thu hút và phát triển tài năng cho địa phương của
mình:
a. Giải pháp thu hút tài năng:
Có nhiều giải pháp cho vấn đề thu hút tài năng cho địa phương.
- Tăng suất học bổng cho nhiều học sinh vượt khó ở các trường đại học.
Ngoài ra còn có học bổng cho học sinh điểm đầu vào cao để thu hút học sinh
vào trường. Việc giảm chi phí được coi là một giải pháp hữu hiệu do ở nước
ngoài tuy có điều kiện xã hội về giáo dục cao nhưng đi kèm theo một bất lợi là
việc chi phí học tập đắt đỏ, học bổng khó lấy do phạm vi rộng toàn thế giới.

7


- Tăng mức lương phù hợp với bằng cấp năng lực của cá nhân. Đây là một
cơ chế để thu hút người có năng lực của nhiều công ty nước ngoài bởi tăng mức
tiền lương sẽ giúp nhân viên tăng điều kiện đời sống, thỏa mãn nhiều như cầu.
- Thực hiện chế độ đãi ngộ công bằng và huấn luyện chuyên nghiệp cho
nhân viên để giúp nhân viên tăng lên năng lực của bản thân. Nhiều bạn trẻ muốn
phát triển năng lực cá nhân sẽ ưa thích các công ty luôn quan tâm đến chế độ
phát triển năng lực của nhân viên. Công ty Vinamilk nhờ đó được bình chọn là
một trong những công ty được nhiều người hướng đến.
b. Giải pháp phát triển tài năng:
Tuy vậy, những giải pháp thu hút này chỉ mang tính ngắn hạn và tạm thời
do tuy có sức hút nhưng không giải quyết được về điều kiện xã hội ngăn cản sự
phát tiển năng lực cá nhân- một vấn đề nguồn gốc căn bản suy nghĩ của mầm
non tổ quốc. Do đó, cần có giải pháp để phát triển tài năng cho đất nước, cụ thể
từng địa phương, trong đó có Hà Nội.
* Về vấn đề giáo dục phổ cập.
- Nâng cao sức khỏe thể lực, nền tảng sinh học của nguồn nhân lực, nhân
tài bằng cách tiếp thu kiến thức khoa học mới, hoàn thiện thống nhất giáo dục
bắt buộc .
- Sớm phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu cho học sinh ở trường phổ thông,
không chỉ cho việc tham gia các cuộc thi quốc tế mà còn định hướng học tập,
lựa chọn môn học phù hợp khả năng của mỗi học sinh và hướng nghề nghiệp
tương lai.
- Thực hiện tốt công tác hướng nghiệp cho học sinh phổ thông, mở rộng hệ
thống trường lớp đào tạo nghề các trình độ khác nhau phù hợp với bản thân
người học và hình thức đa dạng của thị trường lao động xã hội.
* Về vấn đề đào tạo nghề, giáo dục đại học
- Có chính sách phát triển giáo dục trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn

giáo dục hiện nay của nước nhà và học tập các mô hình giáo dục tiên tiến của
khu vực và thế giới, kết hợp học lý thuyết và cả thực tiễn công việc trên thực tế.
- Thực hiện xã hội hóa giáo dục, khai thác mọi tiềm năng của xã hội vào
đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có tay nghề kỹ thuật cho địa phương, cho
vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Ví dụ như tổ chức thực tập cho sinh viên của
8


các trường đại học ở các công ty tập đoàn để có kinh nghiệm thực tiễn, các
chương trình vừa học vừa làm việc tại công ty lớn .
- Tiếp tục chọn lọc và đào tạo chất lượng cao ở bậc đại học và sau đại học
để có đội ngũ nhân lực, nhân tài đáp ứng được những yêu cầu phát triển đỉnh
cao, mũi nhọn của phát triển xã hội, ngang tầm khu vực và quốc tế. Năng lực
của phó giáo sư, giáo sư phải được đảm bảo chất lượng qua các luận án được
kiểm định kỹ càng và minh bạch, phù hợp với điều kiện các nước phát trienr
trên thế giới.
* Về vấn đề việc làm
- Có chính sách sử dụng và đãi ngộ hợp lý, đảm bảo kích thích được đóng
góp và sáng tạo của nhân lực, nhân tài tham gia phát triển xã hội.
KẾT THÚC
Việc nghiên cứu những điều kiện để hình thành và phát triển năng lực của
cá nhân có ý nghĩa thực tế rất lớn. Nó có thể được vận dụng triệt để trong việc
đề ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực của con người cũng như thu hút,
bồi dưỡng và phát triển tài năng. Nhờ vậy làm hạn chế được tình trạng “Chảy
máu chất xám” ở không chỉ Hà Nội, mà còn tại trên toàn lãnh thổ Việt Nam, và
đồng thời đồng nghĩa với việc giúp tránh được lượng chi phí bị lãng phí lớn về
tài sản quốc gia, và tăng tốc độ phát triển nền kinh tế của đất nước.

9



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tâm lý học đại cương, Nxb.
CAND, Năm 2011.
Tạp chí Tâm lý Giáo dục, 2/2011, tr. 11
/> Chảy_máu_chất_xám

10



×