Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Đề tài:Gía trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp điện tử ở Việt Nam doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (727.36 KB, 78 trang )



BỘ GIÁO DỤC
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

o0o



Công trình tham dự Cuộc thi
“Sinh viên nghiên cứu khoa học trƣờng Đại học Ngoại Thƣơng 2009”



Tên công trình: Gía trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp điện tử ở
Việt Nam


Thuộc nhóm ngành: XH1a




Họ và tên sinh viên: Phạm Thùy Yên Nam/Nữ: Nữ Dân tộc: Kinh
Lớp: Anh 8 – Kinh tế đối ngoại Khoá: 45 Khoa: Tài Chính Ngân Hàng
Họ và tên sinh viên: Lê Thảo Huyền Nam/Nữ: Nam Dân tộc: Kinh
Lớp: Nhật 1 - TCNHA Khoá: 45 Khoa: Tài Chính Ngân Hàng





Họ và tên người hướng dẫn: TS. Nguyễn Đình Thọ






2

MỤC LỤC
Lời mở đầu 4
1. Tính cấp thiết của đề tài 4
2. Phạm vi nghiên cứu 5
3. Mục tiêu nghiên cứu 5
4. Phƣơng pháp nghiên cứu 5
5. Phạm vi nghiên cứu 5
6. Kết quả nghiên cứu dự kiến 5
7. Kết cấu của đề tài 5
Chƣơng 1: Lý luận chung về ngành công nghiệp điện tử 6
1. Khái niệm về mạng lƣới sản xuất toàn cầu: 6
2. Đặc điểm của mạng lƣới sản xuất toàn cầu: 7
3. Quá trình hình thành và hoạt động của các mạng lƣới sản xuất điện tử
toàn cầu ở Đông Nam Á: 8
3.1. Các mạng lƣới sản xuất điện tử của Mỹ ở Đông Nam Á: 9
3.2. Các mạng lƣới sản xuất điện tử của Nhật Bản ở Đông Nam Á: 11
3.3. Quá trình chuyển dịch cứ điểm sản xuất trong nội bộ vùng Đông Á 16
3.4. Vị thế của Việt Nam 19
4. Kinh nghiệm của một số nƣớc có nền công nghiệp điện tử phát triển 20
4.1. Kinh nghiệm của Thái Lan 20
4.2. Kinh nghiệm của Malaysia 23

Chƣơng 2: Thực trạng công nghiệp điện tử Việt Nam trƣớc và sau khi gia
nhập WTO 26
1. Tình hình sản xuất và xuất nhập khẩu ngành công nghiệp điện tử Việt
Nam (giai đoạn 2002 – đầu 2009) 26
1.1.Giai đoạn tiền WTO 26
1.2.Giai đoạn hậu WTO (từ năm 2006 tới nay) 37
2. Thuận lợi và khó khăn đối với ngành công nghiệp điện tử Việt Nam 47
2.1.Thuận lợi đối với ngành công nghiệp điện tử Việt Nam 47


3

2.2.Những khó khăn và hạn chế đối với ngành công nghiệp điện tử Việt
Nam 53
Chƣơng 3 : Giải pháp phát triển công nghiệp điện tử ở Việt Nam trong thời
gian tới 60
1. Quan điểm và định hƣớng phát triển 60
1.1. Quan điểm phát triển 60
1.2. Mục tiêu phát triển 61
1.3. Định hƣớng phát triển 62
2. Giải pháp phát triển 64
2.1. Phát triển nguồn nhân lực 64
2.2. Giải pháp về công nghệ 66
2.3. Giải pháp phát triển nghành công nghiệp phụ trợ. 68
2.4. Giai pháp về chính sách 72
Kết luận 75



4




Lời mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước vào năm 2009, các doanh nghiệp công nghiệp điện tử của Việt Nam
đang đối mặt với cả hai khó khăn lớn cùng lúc: cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu
mức tối đa theo hiệp định tự do theo ngành (theo cam kết WTO) và cam kết mở
cửa thị trường bán lẻ, phân phối. Theo đó, sẽ bãi bỏ trợ cấp với hàng thay thế
nhập khẩu, bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu, bãi bỏ các ưu đãi về thuế thu nhập DN.
Riêng cam kết chung quy định, giảm mức thuế nhập khẩu bình quân của sản
phẩm công nghiệp từ 16,1% xuống 12,6% trong vòng 5-7 năm; cắt giảm ngay
đối với các mặt hàng đang có thuế suất cao trên 20% và 30%, trong đó gồm
nhiều loại máy móc, thiết bị điện, điện tử. Những yếu tố trên sẽ tác động tích
cực, thúc đẩy DN trong nước huy động mọi nguồn lực, thay đổi công nghệ và
tăng sức cạnh tranh.
Theo một thống kê khác từ Bộ Công Thương, cơ cấu công nghiệp chế biến
trong công nghiệp điện tử trong nước chưa đạt 5%. Do vậy, trong tổng số doanh
thu gần 3 tỉ đô la Mỹ do ngành công nghiệp này mang lại, xuất khẩu đạt trên 2 tỉ
đô la Mỹ nhưng 95 - 98% doanh thu xuất khẩu thuộc về các doanh nghiệp vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài - vốn chỉ chiếm 1/3 trong số 300 doanh nghiệp sản
xuất điện tử ở Việt Nam. Còn các sản phẩm điện tử của Việt Nam dù xuất khẩu
với số lượng lớn nhưng giá trị gia tăng lại rất thấp.
Với mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, Việt Nam cần phải
xây dựng những ngành sản xuất công nghiệp bền vững và phát triển. Một trong
những ngành sản xuất công nghiệp sẽ chiếm vị trí then chốt đó là công nghiệp
điện tử. Để từng bước xây dựng ngành công nghiệp điện tử phát triển. Với mục
tiêu tìm hiểu thực trạng và đưa ra những giải pháp hiệu quả nhằm góp phần gia
tăng giá trị của ngành công nghiệp điện tử. Chúng tôi quyết định lựa chọn và

nghiên cứu đề tài - „‟ Gía trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp điện
tử ở Việt Nam’’ với mong muốn từ những khó khăn trong thực trạng sản xuất
hàng điện tử từ đó tìm ra những giải pháp hiệu quả nhằm góp phần thúc đẩy
ngành công nghiệp điện tử ngày càng phát triển.


5

2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các doanh nghiệp công nghiệp điện tử ở Việt
Nam trong đó bao gồm cả các doanh nghiệp tư nhân có vốn đầu tư của Việt
Nam, các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh
nghiệp nhà nước.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua những số liệu từ báo cáo thông kê của Bộ Công Thương và của
International business strategies tác giả đi sâu vào phân tích những yếu kém của
công nghiệp điện tử Việt Nam từ đó tìm ra những giải pháp đối với các cơ quan
quản lý nhà nước, các doanh nghiệp hoạt động sản xuất và các hiệp hội doanh
nghiệp.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp thống kê và so sánh với các ngành sản xuất
công nghiệp khác, so sánh với nền công nghiệp điện tử của các quốc gia trong
khu vực và trên thế giới để tìm ra những giải pháp phát triển cho con đường của
công nghiệp sản xuất điện tử ở Việt Nam.
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình của các doanh nghiệp sản xuất công
nghiệp điện tử ở Việt Nam trong giai đoạn 2004- 2008, và đưa ra những giải
pháp dự kiến để phát triển đến năm 2020.
6. Kết quả nghiên cứu dự kiến
Đưa ra những giải pháp để xây dựng ngành công nghiệp điện tử trở thành

một trong những ngành then chốt với tổng kim ngạch lớn trong sản xuất công
nghiệp ở Việt Nam trên những điều kiện từ nguồn nhân lực, nguồn vốn hỗ trợ
của Nhà nước.
7. Kết cấu của đề tài

Chƣơng 1 :Lý luận chung về ngành công nghiệp điện tử

Chƣơng 2 : Thực trạng sản xuất công nghiệp điện tử ở Việt Nam

Chƣơng 3 : Giải pháp phát triển công nghiệp điện tử ở Việt Nam trong thời
gian tới




6

Chƣơng 1: Lý luận chung về ngành công
nghiệp điện tử

1. Khái niệm về mạng lƣới sản xuất toàn cầu:
Khái niệm mạng lưới sản xuất toàn cầu lần đầu tiên được các học giả Mỹ
đưa ra tại Hội nghị bàn tròn Berkeley về kinh tế quốc tế (BRIE) khi thực hiện
chương trình nghiên cứu sự phát triển kinh tế Đông Á, theo đó mạng lưới sản
xuất quốc tế toàn cầu là một kiểu cơ cấu phân chia chi nhánh quốc tế trong nội
bộ công ty do các công ty đa quốc gia tạo ra bằng đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) và chủ yếu phản ánh sự phân phối về mặt không gian, cơ cấu và các quan
hệ qua lại giữa chi nhánh của các công ty đa quốc gia. Các công ty đa quốc gia
có thế mạnh về sự phân chia dây chuyền định giá, đó là, sản xuất bán thành
phẩm ở một nơi, giao hàng ở nơi khác và gia tăng giá trị nhất định ở đó. Thông

qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, mỗi phần của quá trình sản xuất được đặt ở các
nước khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm khác nhau của từng khu vực. Hầu hết
các thành phẩm được lắp ráp cuối cùng sẽ được giao đến các nước khác chứ
không phải ở những khu vực như vậy. Kiểu mạng lưới sản xuất này đảm bảo cho
sự hội nhập của kinh tế khu vực và sự phát triển của nền kinh tế hướng vào xuất
khẩu do tất cả các nước đều có lợi từ lợi thế cạnh tranh dựa vào phân công lao
động. Dĩ nhiên là tiến bộ hội nhập và việc dựa vào thị trường thứ ba để xuất khẩu
như vậy cũng phải gánh chịu một số phí tổn.
Theo quan điểm của Dieter Ernst, khái niệm mạng lưới sản xuất toàn cầu
cố gắng phổ biến rộng hơn và có các hình thức sản xuất quốc tế hệ thống hơn và
phân mắt xích định giá thành nhiều công đoạn có thể có hoặc không đòi hỏi sự
bố trí công bằng. Khi sử dụng khái niệm này, chúng ta có thể phân tích cẩn thận


7

chiến lược toàn cầu hoá của các công ty, ví dụ như sắp đặt phần nào mắt xích
định giá ở đâu. Các công ty phụ thuộc vào nguồn cung bên ngoài tới mức độ nào,
điểm ưu việt của mạng lưới sản xuất liên công ty so với sản xuất trong nội bộ là
gì, việc kiểm soát những giao dịch này được tập trung hoá hay đa dạng hoá tới
mức nào, những bộ phận cấu thành khác nhau của mạng lưới sản xuất toàn cầu
này liên kết với nhau thế nào.

2. Đặc điểm của mạng lƣới sản xuất toàn cầu:
a. Sự mở rộng các hoạt động sản xuất ở các vị trí địa lý khác nhau:
Mạng lưới sản xuất toàn cầu bao gồm toàn bộ các phần của khâu định giá,
không chỉ là khâu sản xuất. Một mạng lưới sản xuất toàn cầu không chỉ bao gồm
các giao dịch nội bộ công ty mà còn có cả các hình thức hợp tác: Nó liên kết các
chi nhánh, các công ty con, các liên doanh của các công ty hàng đầu với các nhà
thầu phụ, các nhà cung ứng, các nhà cung cấp dịch vụ và các đối tác trong liên

minh chiến lược với nhau…Mục tiêu chính của các mạng lưới này là cung cấp
các nguồn lực, năng lực và tri thức để các công ty dẫn đầu khoanh vùng một
cách nhanh chóng nhờ đó tăng thêm năng lực cho công ty.
b. Tính không đối xứng về vai trò của các công ty đứng đầu và các công ty con:
Các công ty dẫn đầu quản lý các nguồn lực của mạng lưới và đưa ra quyết
định. Các công ty dẫn đầu liên kết các cơ sở sản xuất, khách hàng, tri thức bị
phân tán về địa lý vào mạng lưới sản xuất toàn cầu, điều này có thể làm giảm bớt
chi phí giao dịch. Theo ông, một mạng lưới sản xuất toàn cầu đặc trưng sẽ ràng
buộc một công ty đứng đầu, các chi nhánh của nó, các công ty con và các công
ty liên doanh, các nhà cung cấp và các nhà thợ phụ, các kênh phân phối, những
người bán lại, các liên minh R&D và rất nhiều thoả thuận hợp tác…với nhau. Nó
có thể có cổ phần bằng nhau hoặc không. Các công ty dẫn đầu được đặt ở trung
tâm của mạng lưới, đóng vai trò lãnh đạo về chiến lược và tổ chức, và có những


8

chiến lược ảnh hưởng trực tiếp đến vị thế cạnh tranh của các công ty thành viên
trong mạng lưới sản xuất. Thế mạnh của công ty dẫn đầu có được được từ việc
kiểm soát các nguồn lực và khả năng then chốt và hợp tác giao dịch giữa các khu
vực khác trong mạng lưới. Một trong những khả năng chủ chốt là tài sản trí tuệ
và tri thức để thiết lập, duy trì và tiếp tục nâng cao các chuẩn mực thị trường.
Chính vì những tài sản bổ sung như vậy mà các mạng lưới sản xuất toàn cầu có
tính không đối xứng.
c. Sự phổ biến tri thức từ các nước chủ đầu tư sang các nước nhận đầu tư:
Sự chia sẻ tri thức là sự cần thiết làm cho các mạng lưới này phát triển.
Lợi nhuận thực sự bắt nguồn từ sự phổ biến, trao đổi và tiếp nhận kiến thức và
năng lực bổ sung từ bên ngoài. Thường những nước hay khu vực có khả năng
trở thành một bộ phận cấu thành của mạng lưới sản xuất toàn cầu chính là những
nước đang công nghiệp hóa nhanh nhất.


3. Quá trình hình thành và hoạt động của các mạng lƣới sản xuất
điện tử toàn cầu ở Đông Nam Á:
Sự tham gia của Đông Nam Á vào mạng lưới sản xuất điện tử toàn cầu là
yếu tố quan trọng trong việc thay đổi mô hình và gia tăng sự tham gia của khu
vực này vào thương mại quốc tế từ những năm 1980. Cụ thể là, ASEAN-5 ( gồm
Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan) là những nước có sự
tham gia vào các mạng lưới sản xuất của nhiều công ty như Intel ở Châu Âu,
Sony, Toshiba, Hitachi và Fujitsu của Nhật Bản, và vào những năm 1990 là các
hãng như Samsung và Goldstar của Nam Triều Tiên và Acer của Đài Loan. Khu
vực này trở thành cơ sở sản xuất của nhiều công ty đa quốc gia (MNC) và các
công ty xuyên quốc gia (TNC) cho thị trường khu vực mình tới phần còn lại của


9

Đông Á, Bắc Mỹ và Châu Âu. Kết quả là sự mở rộng thương mại và đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) và gia tăng sự hội nhập kinh tế của khu vực.
Mạng lưới sản xuất toàn cầu lấy khu vực làm cơ sở là một đặc điểm đáng
chú ý của sự phát triển kinh tế Đông Nam Á kể từ thập niên 1980. Một số mạng
lưới toàn cầu như vậy đã được thiết lập dựa trên đầu tư FDI của các công ty TNC
nhưng chúng không chỉ đơn giản là việc mở rộng vốn đầu tư FDI ở Đông Nam
Á. Trong mạng lưới sản xuất toàn cầu, các công ty TNC đầu tư trực tiếp sẽ tổ
chức và hoạt động theo các phương thức rất khác biệt, trong khi đó các nhân tố
của hệ thống tại nước bản xứ cũng đồng thời ảnh hưởng đáng kể tên con đường
lựa chọn đầu tư của nước chủ nhà thông qua hình thức mạng lưới sản xuất toàn
cầu này. Sự đa dạng của nguồn vốn đầu tư FDI ở khu vực Đông Nam Á cũng thể
hiện cấu trúc đa tầng của hệ thống sản xuất dây chuyền xuyên quốc gia, đó là ở
Đông Nam Á tồn tại các mạng lưới sản xuất toàn cầu đa tầng tổ chức một cách
khác thường, nghĩa là một quá trình phát triển toàn cầu không giới hạn, làm suy

yếu tầm quan trọng của cơ cấu và mục tiêu phát triển kinh tế của nước bản xứ
của nhà đầu tư đối với lựa chọn chính sách của các nước công nghiệp hoá lạc
hậu. Ở đây, Nhật Bản, Mỹ, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Châu Âu và các
công ty TNC của Trung Quốc đều thiết lập các mạng lưới xuyên quốc gia đa
dạng, có phần chồng chéo nhau và có phần cạnh tranh nhau.
3.1. Các mạng lưới sản xuất điện tử của Mỹ ở Đông Nam Á:
Các mạng lưới sản xuất toàn cầu của Mỹ ở Đông Nam Á xuất hiện cùng
với FDI tại khu vực này, nhưng chúng chỉ bắt đầu hình thành từ những năm
1970. Công ty con ở Đông Nam Á của các công ty điện tử Mỹ thành lập như một
phần của hệ thống sản xuất xuyên quốc gia phục vụ cho thị trường các nước phát
triển từ lúc ban đầu. Các công ty Mỹ tập trung nguồn lực của họ vào việc phát
triển sản phẩm, liên kết hệ thống và phần mềm (những lĩnh vực này cho phép các
công ty của Mỹ thiết lập các tiêu chuẩn thực tế cho sản phẩm và giữ vững vị thế


10

của những người dẫn đầu trên thị trường). Dần dần các công ty con của họ tại
Đông Nam Á sản xuất chuyên môn hoá vào các bộ phận, linh kiện và các sản
phẩm cuối cùng, điều này không những cho phép công ty có thể sản xuất với chi
phí rẻ nhưng với năng suất cao mà còn tạo ra các đối thủ cạnh tranh Đông Nam
Á chống lại các công ty Nhật Bản trong cá lĩnh vực như chất bán dẫn, màn hình,
và các sản phẩm điện tử gia dụng v.v…
Các mạng lưới sản xuất điện tử toàn cầu của Mỹ hoạt động theo chiều
dọc. Do các công ty con ở Đông Nam Á đã hội nhập vào mạng lưới sản xuất và
vận hành phục vụ cho các nước phát triển, các doanh nghiệp của Mỹ thực sự
hiện đại hoá các công ty tại Đông Nam Á dựa vào tình hình phát triển của thị
trường chính mà họ phục vụ mà chủ yếu là Mỹ. Nói cách khác, họ cập nhật công
nghệ dựa vào Mỹ chứ không phải là vòng đời sản phẩm tại địa phương. Do đó,
sau rất nhiều lượt đầu tư trực tiếp và cập nhật công nghệ, các công ty chi nhánh

của Mỹ tại khu vực Đông Nam Á ngày càng phát triển về công nghệ sản xuất, từ
đó cho phép nâng cao mức độ chuyên môn hoá công nghệ tại địa phương trong
hệ thống sản xuất toàn cầu của các doanh nghiệp Mỹ. Trong tình hình như vậy,
các hệ thống của Mỹ sản xuất ngày càng nhiều các sản phẩm điện tử công nghiệp
như ổ cứng, máy tính cá nhân., máy in phun, các thiết bị viên thông v.v… Các
mạng lưới sản xuất của Mỹ thành lập cá chi nhánh cung cấp lao động bổ sung,
trong đó các công ty của Mỹ chuyên môn hoá trong các hoạt động cần năng lực
mềm nhất định (lựa chọn, tưởng tượng, thiết kế - xét về mặt tiêu chuẩn), trong
khi các công ty Đông Nam Á chuyên môn hoá trong các hoạt động cần năng lực
cứng ( các bộ phận và linh kiện, các quy trình chế tạo và các thành quả thiết
kế/phát triển). Nói chung, các công ty Mỹ chuyển giao quyển quản lý và hoạt
động sản xuất có giá trị gia tăng đáng kể cho các công ty con Đông Nam Á.
Thực tế này tạo ra một hình thức phân chia lao động trong khu vực phức tạp,
thông qua hệ thống như vậy, các công ty con của Mỹ thực hiện quyền tự quản lý


11

sẽ tham gia vào các hoạt động sản xuất phức tạp. Do các công ty Mỹ chuyển
giao dây chuyền sản xuất làm gia tăng giá trị lớn từ Mỹ tới Đông Nam Á, các chi
nhánh của họ bắt đầu sản xuất linh kiện và bộ phận và các hệ thống phụ phức
tạp. Đầu những năm 1990, các công ty Mỹ đưa ra các chiến lược sản xuất khu
vực dựa vào sự chuyên môn hoá công nghệ nội bộ khu vực Đông Nam Á. Kết
quả là hình thành một hình thức cơ sở cung cấp của các công ty Mỹ, nhờ đó cho
phép các công ty Mỹ tránh dược việc dựa vào các công ty cạnh tranh Nhật Bản
cung cấp linh kiện, bộ phận quan trọng và công nghệ.
3.2. Các mạng lưới sản xuất điện tử của Nhật Bản ở Đông Nam Á:
Các mạng lưới sản xuất điện tử toàn cầu của Nhật Bản ở Đông Nam Á
bắt đầu xuất hiện từ những năm 1960 hay những năm 1970, phát triển nhanh và
tồn tại sau giữa những năm 1980. Trước những năm đầu của thập niên 1980, các

mạng lưới sản xuất điện tử toàn cầu của Nhật Bản ở Đông Nam Á nhìn chung có
đặc điểm tương đối chặt chẽ, là sự mở rộng trên phạm vi quốc tế của hàng loạt
các công ty nội địa của Nhật Bản. Nói chung, các công ty con tại nước ngoài của
Nhật Bản tiếp tục giữ hình thức tổ chức có thứ bậc của các công ty Nhật Bản
trong nước, trụ sở chính tại Tokyo nắm quyền quyết định chính và năng lực công
nghệ. Các hoạt động và vận hành của các công ty con tại nước ngoài chịu sự điều
khiển nghiêm ngặt của tổng hành dinh tại Tokyo và hình thành một loại hình sản
xuất đính kèm và các công ty có vốn đầu tư của Nhật Bản không nên thiết lập
qua hệ kinh doanh với các chi nhánh cung cấp không có chi nhánh của địa
phương và nước ngoài. Phân tích theo chuỗi giá trị có nghĩa là các công ty TNC
của Nhật Bản sắp xếp sản xuất và dây chuyền lắp ráp các sản phẩm cấp thấp ở
Đông Nam Á trong khi nắm giữ ở Nhật Bản dây chuyền sản xuất cuối cùng đem
lại giá trị gia tăng cao. Theo mô hình này, các công ty con có đầu tư Nhật Bản ở
Đông Nam Á mua những phần quan trọng của hợp đồng phụ ở Nhật Bản, luôn
luôn là từ trong nội bộ hệ thống công ty sau đó lắp ráp và sản xuất cục bộ, và do


12

đó không cần chuyển giao thêm công nghệ cho các nước tiếp nhận.Các công ty
mẹ được đặt tại Nhật Bản là những người chuyển giao công nghệ, thông tin và
nhân lực duy nhất. Trụ sở của các công ty Nhật Bản mang lại sự kết nối mật thiết
quá trình ra quyết định, nguồn lực và nguồn thông tin dưới sự kiểm soát trung
tâm của trụ sở chính. Các hoạt động cấp cao như lập kế hoạch sản phẩm và phát
triển hay sản xuất các bộ phận quan trọng được quản lý chặt chẽ tại chi nhánh
Nhật Bản. Trên thực tế, các công ty Nhật Bản theo đuổi các lợi thế về hiệu quả
của họ bằng cách trao đổi ý thức về trách nhiệm cho các công ty địa phương,
chuyển giao công nghệ và hoạt động cho các nước tiếp nhận.
Theo nghĩa nào đó, nguồn cung cấp công nghệ khu vực Đông Nam Á
nhận được từ Nhật Bản chủ yếu là công nghệ công nghiệp, thường gắn liền với

các tư liệu sản xuất và các linh kiện nhập khẩu từ Nhật Bản trong khi công nghệ
sản xuất những bộ phận chủ chốt luôn được kiểm soát bởi các nhà sản xuất Nhật
Bản. Vào những năm 1980 các nền kinh tế công nghiệp mới nổi ở Châu Á nhập
khẩu rất nhiều công nghệ, máy móc, linh kiện và bộ phận từ Nhật Bản nhưng lại
xuất khẩu sản phẩm hoàn chỉnh sang các nước Mỹ và Châu Âu. Kết quả là mặc
dù nền kinh tế khu vực Đông Nam Á tăng trưởng nhanh, công nghệ sản xuất
cũng tăng ở mức đáng kể nhưng xét về công nghệ sản xuất linh kiện và bộ phận,
Đông Nam Á chưa thoát khỏi sự gắn kết với Nhật Bản
Tuy nhiên từ đầu những năm 1990 các mạng lưới sản xuất điện tử toàn
cầu của Nhật Bản ở Đông Nam Á đã thay đổi rât nhiều. Một mặt, quy mô tái sản
xuất không ngừng được mở rộng do việc tư bản hoá lợi nhuận. Trong giai đoạn
1989-1992, tỷ lệ tái đầu tư của các chi nhánh công ty Nhật Bản trong tổng đầu tư
FDI của Nhật Bản đã tăng từ 35% lên 60% cho các công ty con ở ASEAN, và từ
54% lên 80% cho các công ty con ở các nền kinh tế mới nổi. Mặt khác do sự
tăng giá của đồng Yên Nhật, các nhà cung cáp nhỏ của Nhật chuyên cung cấp
các bộ phận đa năng phẩm cấp thấp thì hoặc là buộc phải đóng cửa và ngưng sản


13

xuất không thì thất bại trong việc bỏ vốn ra đầu tư sản xuất ở nước ngoài, do đó,
các công ty điện tử Nhật Bản phải tính đến các nhà cung cấp bộ phận và linh
kiện phẩm cấp thấp ở nước nhận đầu tư nhắm mục đích tham gia vào các hoạt
động thầu phụ và chế tạo theo hợp đồng các sản phẩm cấp thấp. Các áp lực lớn
về giảm chi phí và cạnh tranh căng thẳng trên thị trường toàn cầu ép các công ty
Nhật Bản giảm thời gian giữa sản xuất sơ cấp các sản phẩm công nghệ cao ở
Nhật Bản và việc chuyển giao tiếp theo tới Đông Nam Á. Ngày càng có nhiều
công ty Nhật Bản chú trọng vào việc kết hợp sản xuất các nộ phận chính với việc
mua bán tại địa phương để giảm chi phí các bộ phận đó.
Trong lúc đó, một số công ty Nhật Bản thậm chí còn di chuyển các hoạt

động phi sản xuất như nghiên cứu và phát triển (R&D) và các hoạt động phối
hợp trong khu vực tới Đông Nam Á. Các công ty mẹ Nhật Bản không chỉ giúp
đỡ các công ty con đầu tư của Nhật Bản trong việc thay đổi và phát triển thiết kế
sản phẩm và kỹ thuật sản xuất mà còn chuyển giao những công nghệ mới phát
triển tới các chi nhánh chị em tại các nước hoặc khu vực khác ở Đông Nam Á, từ
đó sinh ra các chi nhánh nòng cốt có thê được gọi là các cơ sỏ công nghệ khu
vực ơ nước ngoài. Xét về chức năng, các cơ sở công nghệ khu vực này nhìn
chung đã túc luỹ được trình độ kỹ sư địa phương chất lượng cao và các năng lực
hội nhập, và không chỉ nâng cao trình độ kỹ thuật của các hoạt động sản xuất của
bản thân họ mà còn mở ra một con đường cho việc sản xuất và truyền đạt lại tri
thức cho các chi nhánh chị em trong mạng lưới sản xuất tại nước ngoài. Xét về
dòng tri thức, họ chấp nhận tất nhiều dòng tri thức vào từ các công ty mẹ Nhật
Bản sau khi thay đổi và phát triển thêm những công nghệ về sau và tại được tri
thức ở mức độ cao chảy vào ccá chi nhánh chị em tại khu vực này. Năm 1989,
đầu tư R&D của các công ty điện tử Nhật Bản vài Đông Á chiếm 1.9% tổng đầu
tư cho các thiết bị, con sô này năm 1986 chỉ có 1.2%. Trước kia các công ty mẹ
Nhật Bản cũng cấp thiêt kế sản phẩm cho các cơ sở sản xuất ở nước ngoài. Tuy


14

nhiên, từ cuối những năm 1980, các cơ sở công nghệ khu vực bắt đầu thay đổi và
phát tiển thiết kế sản phẩm của riêng họ và cung cấp cho các chi nhánh chị em.
Sự xuất hiện của các cơ sở công nghệ khu vực làm thay đổi đáng kể thiết kế , cấu
trúc của các công ty TNC của Nhật Bản. Trong tình huống như vậy, Nhật Bản
không còn là nước duy nhất chuyển giao công nghệ, thông tin và nhân công nữa
bởi vì các cơ sở công nghệ khu vực sẽ tạo ra dòng lưu thông nội bộ khu vực.
Thêm vào đó, sự phát triển của các cơ sở công nghệ khu vực cho phép các công
ty TNC Nhật Bản tận dụng lợi thế công suất phân bổ không đồng đều và khả
năng thích ứng hoạt động trong mạng lưới sản xuất Đông Nam Á. Trong tình

hình như vậy, khả năng phát triển công nghệ của khu vực Đông Nam Á được cải
thiện nhanh chóng, do đó các mạng lươi sản xuất điện tử toàn cầu của Nhật Bản
cũng bắt đầu chuyển sang mảng lưới R&D toàn cầu. mặc dù so với các đối thủ
cạnh tranh Mỹ và Châu Âu, các công ty Nhật Bản mới đang ở gian đoạn đầu của
toàn cầu hoá R&D, và vì vậy họ có rấtt ít kinh nghiệm trong việc tổ chức mạng
lưới R&D toàn cầu.
Sự hình thành các cơ sở công nghệ khu vực và sự tiến bộ của trình độ
công nghệ của các công ty nước ngoài đã đưa tới những sự thay đổi lớn trong mô
hình thu mua của mạng lưới sản xuất toàn cầu của Nhật Bản tại khu vực Đông
Nam Á, bao gồm việc các công ty mẹ Nhật Bản tăng khối lượng thu mua từ khu
vực Châu Á, các công ty điện tử chính của Nhật Bản đưa ra nhiều chiến lược thu
mua khu vực mang tính hệ thống; các nhà cung cấp linh kiện và bộ phận Nhật
Bản sắp xếp lại sản xuất ở Châu Á, một số đã thiết lập hệ thống sản xuất khu vực
có liên hệ mật thiết với các nhà sản xuất địa phương, các công ty con Nhật Bản
đặt tại khu vuẹc Đông Nam Á tận dụng việc thu mua cấp khu vực hay thu mua
tại nước sở tại để thay thế các bộ phận hay linh kiện nhập khẩu từ Nhật Bản, và
theo cách đó đã bắt đầu một hình thức quy trình khu vực hoá thu mua phức tạp.
Năm 1988, tỷ lệ các sản phẩm điện tử của Nhật Bản nhập khẩu từ Châu Á nhờ


15

hơn 31% (384,6 tỷ Yên Nhật) và tăng lên 44% năm 1993 (962 tỷ Yên Nhật)
nhưng tỷ lệ đó ở khu vựcc sản phẩm điện tử tiêu dùng và thiết bị gia dụng là
84%. Hơn nữa khu vực Đông Nam Á trỏ thành cơ sở cung cấp cho các linh kiện
và bộ phận điện tử và các sản phẩm máy tính cá nhân cho Nhật Bản. Xem xét
bảng số liệu dưới đây về cơ cấu nguồn bộ phận và linh kiện cho doanh nghiệp
vốn Nhật Bản đầu tư trong ngành sản xuất máy quay phim ở Malaysia vào năm
1993 để thấy rõ điều đó. Trước đây các linh kiện và bộ phận máy quay phim phải
được mua từ thị trường Nhật Bản nhưng đến năm 1993, 64% linh kiện và bộ

phận phải mua từ các thị trường các nước Đông Nam Á mà chủ yếu là Malaysia,
Singapore, Thái Lan với các tỷ lệ lần lượt là 34%, 26,7%, 3,9%.
Bảng 1.1: Cơ cấu nguồn bộ phận và linh kiện cho doanh nghiệp vốn
Nhật Bản đầu tư trong ngành sản xuất máy quay phim Malaysia (1993)
Nước cung cấp
các linh kiện
và bộ phận
Xuất xứ các công ty
Khối lượng
cung cấp (%)
Nhật Bản
Các công ty mẹ Nhật Bản
36
Malaysia
Các công ty có vốn Nhật Bản ở Malaysia
Các công ty của bốn con rồng Châu Á
Các công ty địa phương của Malaysia
29,9
4
2,1
Singapore
Các công ty có vốn Nhật Bản ở Singapore
Các công ty có vốn của Mỹ ở Singapore
Các công ty địa phương Singapore
21,5
1
0,2
Thai Lan
Các công ty có vốn Nhật Bản ở Thái Lan
3,9

Úc
Các công ty Úc
6
Tổng cộng:

100
Nguồn: Chunli Hu: “Foreign capital-dominated vertical division:
underlying causes of South East Asian Financial Crisis”, T/C Strategy and
Management, tháng 3/1998.


16

Vì thế, sau năm 1992, những mạng lưới sản xuất ở Đông Nam Á của các
công ty điện tử Nhật Bản cũng bắt đầu tiến hành địa phương hoá và trở nên rộng
mở hơn. Trong quá trình như vậy, những mạng lưới sản xuất toàn cầu của Nhật
Bản cạnh tranh với nhau ở khu vực Đông Á trở thành mọt mô hình chuyên môn
hóa khu vực mới. Trong đó Singapore và Hồng Kông cạnh tranh chiếm vị trí trụ
sở chính tại khu vực cũng như các chức năng bổ trợ chính thức khác như giám
sát thu mua, đào tạo, dịch vụ kỹ sư, các thiết kế sản phẩm nhất định, v.v…);
Malaysia, Thái Lan và Philippine được coi là những nơi sản xuất hàng loạt, đặc
biệt là các sản phẩm có chất lượng trung bình và cao.
Có thể thấy rằng những mạng lưới sản xuất toàn cầu của các công ty
TNC Nhật Bản ở Đông Nam Á đã trải qua bốn giai đoạn trong vài thập kỷ gần
đây, đó là bước nhập khẩu nguyên liệu thô từ nước ngoài và xuất khẩu sản phẩm
ra nước ngoài tiến tới giai đoạn sử dụng các nguồn nguyên liệu thô từ nước
ngoài, cung cấp nguyên liệu thô từ nước thứ ba và cung cấp nguyên liệu thô từ
địa phương rồi phát triển thị trường trong và ngoài nước, sau đó bước vào giai
đoạn di chuyển, gia công và dây chuyền lắp ráp ra nước ngoài, và cuối cùng là
giai đoạn chuyển giao thiết kế và phát triển sản phẩm, các nghiên cứu nền tảng

quan trọng ra nước ngoài, đây là giai đoạn quốc tế hoá R&D.

3.3. Quá trình chuyển dịch cứ điểm sản xuất trong nội bộ vùng Đông Á
Vùng Đông Á đang trở thành cứ điểm sản xuất lớn nhất thế giới trong
nhiều loại hàng đồ điện, điện tử gia dụng, do đó quá trình chuyển dịch cứ điểm
sản xuất tại đây chủ yếu tập trung vào các loại hàng hóa trên. Các nước trong
vùng này vào năm 2003 sản xuất 82% sản lượng thế giới về máy điều hoà không
khí, 55% về máy giặt, 52% về tủ lạnh, 56% về máy hút bụi; năm 2004 sản xuất
105 triệu chiếc tivi màu (70% sản lượng thế giới), 93 triệu chiếc máy thu và phát
hình (90%)
(1)
. Độ 25 năm trở về trước, tại vùng Đông Á, các mặt hàng này hầu


17

hết chỉ sản xuất tại Nhật nhưng sau đó cứ điểm sản xuất chuyển nhanh sang Hàn
Quốc, Đài Loan, rồi sang các nước ASEAN, chủ yếu là Malaixia và Thái Lan,
rồi đến Trung Quốc. Vào tháng 6-1992, số cứ điểm sản xuất các mặt hàng điện,
điện tử của các công ty đa quốc gia Nhật Bản tại Hàn Quốc là 62, Đài Loan là
93, Xingapo là 71, nhưng đến tháng 6-2000, các cứ điểm đó giảm còn 46, 71 và
60. Ngược lại, trong thời gian đó, số các cứ điểm cùng loại tăng nhanh tại Thái
Lan (từ 63 đến 97), Malaixia (từ 121 đến 135), Inđônêxia (từ 14 đến 65),
Philíppin (từ 16 đến 48) và Trung Quốc (từ 42 đến 273). Theo tư liệu của Hiệp
hội Công nghệ thông tin điện tử Nhật Bản (Denshi Joho Gijutsu Sangyo Kyokai),
Công nghệ trong lĩnh vực này dễ chuyển giao nên cứ điểm sản xuất chuyển dần
sang những nơi nhân công rẻ và các phí tổn khác cũng thấp do chính sách
khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của các nước. Hiện nay, Nhật
Bản chỉ sản xuất các loại cao cấp, còn lại thì nhập khẩu từ các cứ điểm sản xuất
của doanh nghiệp Nhật hoạt động tại ASEAN và Trung Quốc.

Hiện nay, ngoài Nhật Bản, bốn nước sản xuất nhiều đồ điện gia dụng và
có thị phần đáng kể là Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaixia và Thái Lan. Riêng
Trung Quốc sản xuất trên 30% tổng sản lượng thế giới, Hàn Quốc cũng sản xuất
hầu hết các mặt hàng trong ngành này với thị phần từ 5-10%. Thái Lan cũng là
cứ điểm sản xuất quan trọng, đứng đầu ASEAN trong các mặt hàng như máy
giặt, tủ lạnh, máy điều hoà không khí, và đứng thứ hai trong những mặt hàng
khác. Malaixia đứng đầu ASEAN về tivi màu, máy hút bụi, máy thu và phát hình

(1)
Trần Văn Thọ, Động Kinh Tế Đông Á Và Con Đường Công Nghiệp
Hoá Việt Nam

(VTR/DVD), cassettes. Thái Lan và Malaixia chiếm được vị trí quan trọng hiện
nay là nhờ họ đã có chính sách khôn ngoan đón được dòng thác FDI từ Nhật sau


18

khi đồng yên lên giá đột ngột vào cuối năm 1985. Inđônêxia đi chậm hơn, hiện
nay mới chỉ sản xuất với số lượng tương đối đáng kể tivi màu, máy thu và phát
hình, và tủ lạnh.
ASEAN và Trung Quốc đang cạnh tranh gay gắt tại các thị trường lớn
như Nhật Bản và Mỹ. Đầu thập niên 1990, Trung Quốc hầu như chưa có khả
năng xuất khẩu sang các thị trường đó nhưng đến khoảng năm 2000 đã chiếm
lĩnh trên dưới 30% tổng nhập khẩu của Nhật trong hầu hết các hàng điện và điện
tử gia dụng11. Trong tổng nhập khẩu đồ điện, điện tử gia dụng của Nhật vào
năm 2000, Trung Quốc chiếm 29% máy điều hoà không khí, 33% máy giặt, 44%
đồ nhiệt điện gia dụng, 43% radio, 24% tivi màu. Thị phần của các nước
ASEAN tính chung là 35%, 30%, 31%, 44% và 67%
(1)

. Theo Takeuchi (2001a)
Trung Quốc cũng có thành quả tương tự tại thị trường Mỹ với những mặt hàng
như máy thu thanh, video, đồ nhiệt điện gia dụng. Tuy nhiên, Trung Quốc chiếm
thị phần ngày càng lớn tại các thị trường Nhật, Mỹ là do họ thay thế vị trí của
Hàn Quốc, Đài Loan hoặc Mỹ và Nhật chứ chưa đánh bật được vị trí của
ASEAN. Công nghiệp điện, điện tử gia dụng của ASEAN giữ được sức cạnh
tranh quốc tế nhờ đã thu hút hiệu quả FDI từ Nhật Bản, chất lượng đạt tiêu chuẩn
quốc tế và sử dụng được mạng lưới tiếp thị quốc tế do các công ty đa quốc gia
Nhật xây dựng trong nhiều thập niên qua. Số liệu thống kế cũng cho thấy, FDI
của Nhật chiếm một tỷ lệ rất cao (đặc biệt là trong tivi màu, máy điều hoà không
khí và tủ lạnh) trong tổng lượng sản xuất hàng điện, điện tử gia dụng tại ASEAN

(1)
Trần Văn Thọ, Biến Động Kinh Tế Đông Á Và Con Đường Công Nghiệp Hoá
Việt Nam
Ngoài ra, Thái Lan và Malaixia đã xây dựng được các cụm công nghiệp cho
ngành điện gia dụng, với sự phát triển mạnh mẽ của các loại công nghiệp phụ


19

trợ. Nhu cầu thế giới, đặc biệt tại Đông Á, về những mặt hàng này sẽ tăng nhanh,
do đó ASEAN sẽ tiếp tục là cứ điểm quan trọng của thế giới trong tương lai.
3.4. Vị thế của Việt Nam
Hiện nay những ngành sản xuất các loại máy móc như đồ điện gia dụng,
nhiều ngành thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin phần cứng như máy điện thoại
di động và một bộ phận của nhóm các ngành có công nghệ cao như xe hơi,
máy tính có nhu cầu ngày càng lớn trên thế giới. Mặt khác, công nghệ cũng dễ
lan nhanh từ nước này sang nước khác nên những nước có nguồn lực lao động
dồi dào, khéo tay và tiền lương rẻ sẽ dễ trở thành những cứ điểm sản xuất có sức

cạnh tranh lớn. Việt Nam rất có triển vọng cạnh tranh được trong lĩnh vực này
nhưng do công nghiệp phụ trợ còn yếu kém, Việt Nam vẫn chưa trở thành một
trong những nơi sản xuất chính tại châu Á. Tuy nhiên, thực tiễn thu hút FDI
trong thời gian gần đây ( sẽ được đề cập kỹ hơn trong chương 2) cho thấy một xu
hướng chuyển dịch dần căn cứ sản xuất từ các Đông Á sang Việt Nam. Trong
khoảng 15 năm qua, các cứ điểm sản xuất của các ngành này chuyển nhanh từ
Nhật Bản sang Hàn Quốc, Đài Loan, Xingapo, sau đó sang Malaixia và Thái
Lan, và gần đây sang Inđônêxia và Trung Quốc. Khuynh hướng này trong ngành
điện, điện tử được thể hiện qua sự thay đổi trong kim ngạch sản xuất đồ điện gia
dụng (thành phẩm lắp ráp cuối cùng, phần trung nguồn trong chuỗi giá trị) và
phụ tùng điện tử (sản phẩm của công nghiệp phụ trợ, ở thượng nguồn trong
chuỗi giá trị). Trong thập niên 1990, Nhật Bản và các nền kinh tế công nghiệp
hoá mới (NIEs-4) giảm sản xuất ở phần trung nguồn nhưng tăng kim ngạch sản
xuất của công nghiệp phụ trợ. Đáng chú ý là khuynh hướng tại Trung Quốc và
các nước ASEAN, nhất là tại Malaixia, Thái Lan và Philíppin, sản xuất tăng
nhanh trong cả hai giai đoạn đồ điện gia dụng và phụ tùng điện tử. Phụ tùng
điện tử gồm rất nhiều chủng loại mặt hàng, có loại có hàm lượng công nghệ cao
nên Nhật và NIEs còn duy trì sức cạnh tranh trong nhiều mặt hàng và triển khai


20

phân công hàng ngang với các nước ASEAN . Rất tiếc là làn sóng công nghiệp
này chưa lan rộng đến Việt Nam, kim ngạch sản xuất của Việt Nam còn quá nhỏ
và ngành công nghiệp điện tử Việt Nam mới đang ở cuối giai đoạn 1 (lắp ráp sản
phẩm từ phụ kiện nhập khẩu), đầu giai đoạn đầu tư sản xuất linh kiện phụ tùng
phát triển công nghiệp phụ trợ.
4. Kinh nghiệm của một số nƣớc có nền công nghiệp điện tử phát
triển
4.1. Kinh nghiệm của Thái Lan

Trong suốt thập kỷ 70 Thái Lan đã thực hiện chính sách khuyến khích xuất
khẩu cho ngành điện và điện tử thông qua ưu đãi thuế cho xuất khẩu. Kết quả là
đầu tư nước ngoài vào Thái lan tăng lên liên tục cho đến giữa thập kỷ 90 khi nền
kinh tế Thái Lan lâm vào khủng hoảng kinh tế năm 1997. Bộ Công Nghiệp Thái
Lan đã tiến hành cải cách triệt để cơ cấu ngành công nghiệp và phát triển các
doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Đầu tư bắt đầu chảy trở lại Thái Lan. Mặc dù
môi trường đầu tư trong khu vực thay đổi nhanh chóng do sự cạnh tranh đang
nổi lên từ Trung Quốc và những rào cản thương mại dần được tháo dỡ theo hiệp
định AFTA, ngành điện và điện tử ở Thái Lan đã dần hồi phục và phát triển
mạnh mẽ phần nào nhờ vào nỗ lực của chính phủ trong việc cải cách cơ cấu kinh
tế.
4.1.1. Khái quát về ngành công nghiệp điện và điện tử của Thái Lan
Ngành công nghiệp điện tử Thái Lan gặt hái nhiều thành công nhờ vào
mối liên hệ chặt chẽ các nhà sản xuất linh kiện và các nhà máy lắp ráp sản phẩm
điện tử Nhật Bản. Ngược lại, hầu như các công ty đang hoạt động ở Thái Lan
không phụ thuộc nhiều vào nhau. Thái Lan có nhu cầu lớn về các sản phẩm và
linh kiện cho máy móc chính vì vậy mà Thái Lan có trình độ công nghệ về máy
móc gia công tương đối cao. Đối mặt với sự nổi lên của Trung Quốc và việc


21

tham gia vào khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á ( AFTA), Thái Lan đã cố
gắng điều chỉnh cơ cấu sản xuất của ngành điện và điện tử. Điều này không có
nghĩa là Thái Lan kém năng lực cạn tranh so với Trung Quốc về nhân công và
chi phí hậu cần. Trên thực tế quá trình tái cơ cấu đang cho thấy rõ Thái Lan là
trung tâm xuất khẩu hàng gia dụng như tủ lạnh , điều hòa nhiệt độ, máy giặt và
thiết bị thông tinvà đang dần thay thế Singapore để trở thành một trung tâm
chính sản xuất đĩa cứng máy tính.
4.1.2. Các chính sách của Thái Lan để phát triển ngành công nghiệp điện tử

a. Sự ra đời và vai trò của Viện Điện và Điện Tử (EEI)
Viện Điện và Điện Tử ( VĐ&ĐT ) thành lập năm 1998 như một cơ quan
độc lập nhằm phục vụ lợi ích chung cho ngành điện và điện tử, cũng là một trong
những kế hoạch hành động cụ thể nhằm thay đổi cơ cấu ngành công nghiệp.
VĐ&ĐT bắt đầu hoạt động đầu năm 1999, đóng vai trò là cơ quan chính phủ
thúc đẩy ngành điện và điện tử của Thái Lan phát triển. Viện này đóng vai trò vô
cùng quan trọng trong việc tạo ra cầu nối giữa khu vực tư nhân và khu vực nhà
nước cũng như phối kết hợp lợi ích từ việc hợp tác giữa các công ty tư nhân với
nhau. Theo một cuộc nghiên cứu của Tổng công ty phát triển Hải Ngoại của
Nhật Bản (JODC), chức năng của EEI là:
Kiểm tra chất lượng sản phẩm, môi trường và độ an toàn liên quan đến
ngành điện và điện tử
Cung cấp thông tin về hoạt động sản xuất, công nghệ và hỗ trợ bán hàng.
Tạo một khung hợp tác giữa các ngành do nhà nước quản lí và các ngành
do tư nhân quản lí với các ban ngành liên quan ở Thái Lan và các nước
khác.
Nghiên cứu về việc ban hành thiết lập các chính sách và chiến lược cho
ngành điện và điện tử dựa trên dự thảo của các kế hoạch phát triển cho
ngành này


22

b .Thực hiện Kế hoạch Chiến lược Khoa học và Công nghệ Quốc gia ( 2004 -
2013 )
Chính phủ Thái Lan đang thực hiện Kế hoạch Chiến lược Khoa học và Công
nghệ Quốc gia ( 2004 -2013 ). Trọng tâm nhắm vào việc hình thành mạng lưới
khoa học và công nghệ và xúc tiến việc hợp tác giữa các cơ quan tư nhân và nhà
nước bao gồm các công ty sản xuất, các nhà cung cấp dịch vụ, các cơ quan tài
chính, cơ quan giáo dục vv… . ở Thái Lan các trường đại học trước tiên là nhằm

đào tạo nguồn nhân lực tuy nhiên vẫn chưa có được vị thế giống như các trung
tâm Nghiên cứu và Phát triển (R&D). Trong bối cảnh đó CQCLKH & CNQG đã
được thành lập dưới sự ủng hộ của bộ Khoa học và Công nghệ đã phát triển và
quản lí một khu trung tâm khoa học công nghệ từ năm 1996.
c . Tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
Nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khu vực Đông Á, Thái Lan đã
thay đổi những chính sách để tạo môi trường đầu tư hấp dẫn hơn so với các
nước trong khu vực. Cụ thể như nâng mức sở hữu nước ngoài lên 49% đối với
các dự án thông thường, 100% đối với các dự án có trên 80% sản phẩm xuất
khẩu. Ngoài ra, đối tác nước ngoài còn được phép điều chỉnh tỷ lệ sở hữu lên
trên 51% trong trường hợp đối tác Thái Lan gặp khó khăn về tài chính. Bên cạnh
đó, Bộ Tài chính Thái Lan hủy bỏ quy định phải có 30% sản phẩm xuất khẩu trở
lên mới được hưởng miễn giảm thuế trong ngành công nghiệp chế tạo.
Hiện nay, khi quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư trong khu vực đang tiếp
tục được thúc đẩy để tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa điện tử xuất khẩu,
Thái Lan nhất thiết phải thu hút FDI cho nghành công nghệ cao này và phát triển
mạng lưới ngành công nghiệp hỗ trợ một cách thích ứng.
4.1.3. Một số tồn tại và hạn chế
a. Khung chính sách và thể chế pháp lí


23

Thái Lan có nhiều luật điều chỉnh hoạt động đầu tư cũng như nhiều cơ quan
chính phủ tham gia việc thực thi các luật trên với mức độ tham gia khác nhau.
Điều này đã gây ra nhiều phiền toái. Ví dụ như các công ty nước ngoài được Ủy
Ban Đầu Tư (BĐT ) thừa nhận trên lí thuyết được phép nhập khẩu vật liệu mà
không phải nộp thuế. Tuy nhiên trên thực tế chính sách này chỉ hoàn lại thuế
nhập khẩu cho doanh nghiệp tại thời điểm các doanh nghiệp đưa ra chứng cứ có
hàng xuất khẩu. Thủ tục này gây ra phiền hà cho các doanh nghiệp và nhiều công

ty đã chỉ ra rằng việc hoàn lại thuế thu nhập như vậy đôi khi bị trì hoãn một cách
tuỳ tiện. Ngoài ra chính phủ thay đổi mức thuế suất nhập khẩu, các công ty còn
bị yêu cầu phải trả khoản chênh lệch giữa mức thuế cũ và mới trước đây.
b. Nguồn nhân lực chất lượng cao
Nguồn nhân lực các công ty cần nhất trong ngành điện và điện tử là kỹ sư thiết
kế, sản xuất và hệ thống thông tin và cán bộ quản lí. Nhưng rất ít trường đại học
ở Thái Lan có khoa khoa học cơ bản, kỹ sư hoặc kế toán. Khi có nhu cầu lớn về
một loại lao động nào đó thì số lượng lại rất hạn chế vì thế rất khó cho các công
ty có thể đảm bảo tuyển được các cán bộ có tài. Để giải quyết vấn đề này các
công ty phải đưa ra một cơ chế khuyến khích như trả thêm lương cho những
người làm việc tốt hơn. Tuy nhiên do lề lối quản lí lao động cũ liên đoàn lao
động khó chấp thuận sự chênh lệch lớn về lương trong một công ty.
4.2. Kinh nghiệm của Malaysia
4.2.1. Khái quát vể sự phát triển ngành công nghiệp điện và điện tử

Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển sản xuất ngành công nghiệp
điện tử, các công ty sản xuất nước ngoài đầu tư vào Malaysia với mục đích tận
dụng chi phí sản xuất rẻ nhờ vào các chính sách cơ chế khuyến khích đầu tư ,
nguồn nhân lực rẻ, các khu chế xuất và hệ thống cơ sở hạ tầng như đường sá, hải
cảng, sân bay và thông tin liên lạc. Hơn nữa, hoạt động đầu tư phát triển không


24

ngừng trong suốt hơn 30 năm dưới nền tảng một nền chính trị ổn định, minh
bạch, nhất quán và khả năng giao tiếp tiếng Anh và các điều kiện môi trường
thuận lợi đã chuyển hóa Malaysia thành một trung tâm sản xuất công nghiệp
điện và điện tử. Ở góc độ các chính phủ địa phương đã liên tục điều chỉnh các
chính sách nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi nhất cho các công ty
nước ngoài và cung cấp những dịch vụ phù hợp cho các công ty đã đầu tư trước

kia. Điều này đã dẫn tới vòng đầu tư tuần hoàn thuận lợi cho việc mời gọi các dự
án mới theo sau.
Các công ty sản xuất các sản phẩm và linh kiện điện và điện tử ở Malaysia
, hầu hết là các công ty của Nhật, đã thành lập các cụm sản xuất sản phẩm linh
kiện và đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu. Các công ty mà hình thành các cụm
sản xuất này thường phụ thuộc lẫn nhau và thu được lợi thế nhờ tập trung và
chuyên môn hóa. Chính điều này đã giúp cho ngành công nghiệp điện tử của
Malaysia phát triển như hiện nay.
4.2.2. Chính sách công nghiệp

Dưới sự lãnh đạo của thủ tướng Mahathir, Bộ Phát triển Công Nghiệp
(MIDA) đã thực hiện nhiều chính sách phát triển công nghiệp bao gồm chính
sách phát triển nguồn tài nguyên tự nhiên, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài
vào lĩnh vực điện và điện tử và các ngành công nghiệp liên quan cũng như chính
sách thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất ô tô nội địa. Những dự
định của Malaysia giờ đây là chuyển dịch sang phát triển các ngành công nghiệp
có giá trị gia tăng cao thông qua đầu tư vào nghiên cứu và phát triển và đầu tư
vào công nghệ thông tin. Malaysia đang nỗ lực rất lớn để tạo ra Hành lang siêu
xa lộ thông tin được đưa ra từ giữa năm 1990.
* Sáng kiến hành lang siêu xa lộ thông tin


25

Chương trình Siêu xa lộ thông tin đã tạo ra một trung tâm nghiên cứu và
phát triển cho các ngành công nghiệp dựa trên công nghệ thông tin. Trung tâm
này tổng cộng có 8 dự án đặc biệt bao gồm một trung tâm y tế từ xa, một trường
học chất lượng cao, các cơ sở nghiên cứu R&D, trung tâm đa chức năng và chính
phủ điện tử. Các công ty liên quan đến bất kỳ một trong những dự án trên được
những ưu đãi như được lựa chọn miễn 100% thuế đầu tư hoặc là ưu đãi cho các

nhà đầu tư tiên phong trong vòng 10 năm. Các công ty này cũng được phép
tuyển dụng các chuyên gia nước ngoài khi cần thiết.
* Những ưu đãi dành cho các công ty Nhật Bản
Công nghiệp điện và điện tử của Malaysia phụ thuộc rất lớn vào các hoạt
động của các công ty Nhật. Chính phủ đã có rất nhiều cải cách về khung chính
sách, pháp luật, công nghiệp phụ trợ, nguồn nhân lực và các cải cách khác,
Malaysia đã tạo được môi trường đầu tư có nhiều điều kiện thuận lợi.
Cơ chế khuyến khích cũng có nhiều cải thiện hơn thông qua các ưu đãi
cho các nhà đầu tư tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển và tham
gia vào phân phối buôn bán toàn cầu và các ưu đãi khác. Với các chính sách ưu
đãi của Malaysia đã góp phần vào việc chuyển giao công nghệ của Nhật Bản
sang cho nước này. Đây là một trong những yếu tố giúp cho ngành công nghiệp
điện tử của Malaysia được phát triển như hiện nay.



×