Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Phân tích k12 chiếc thuyền ngoài xa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.75 KB, 18 trang )

TÀI LIỆU NGỮ VĂN
NGỮ VĂN KHỐI 12
TÊN BÀI HỌC: CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Học sinh ghi nhớ được những nét chính về bối cảnh, thể loại, tác giả, tác phẩm.
2. Học sinh phân tích được nội dung và nghệ thuật văn bản
- Phân tích hình tượng người đàn bà hàng chài
- Đáng thương
- Đáng trách
- Đáng nể phục
- Các nhân vật khác : người đàn ông, bé Phác, Chánh án Đẩu
- Phân tích hình tượng người nghệ sĩ Phùng trong cơng cuộc đi tìm cái đẹp và cái thật
- Ý nghĩa hình ảnh (nhan đề) “Chiếc thuyền ngồi xa”
I. TÌM HIỂU CHUNG
1. TÁC GIẢ: Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989)
- Quê ở Nghệ An. Là nhà văn tiêu biểu cho giai đoạn kháng chiến chống Mĩ và sau giải phóng.
Ơng là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời
sống ở bình diện đạo đức, thế sự
- Phương châm sáng tác: Đi tìm vẻ đẹp ẩn giấu trong tâm hồn mỗi con người và trong cuộc sống
thường nhật. Ngòi bút giàu trách nhiệm, giàu suy tư, trăn trở và chiêm nghiệm triết lí cuộc đời
2. TÁC PHẨM
1


- Xuất xứ: “Chiếc thuyền ngoài xa” lần đầu được in trong tập “Bến quê”, sau được tác giả lấy
làm tên chung cho cả tập truyện ngắn.
- Tình huống truyện
+ Truyện được xây dựng theo tình huống nhận thức của nghệ sĩ Phùng trên hành trình đi tìm
kiếm hình ảnh đẹp để chụp đã bắt gặp cảnh biển và hình ảnh của chiếc thuyền ngồi xa. Cứ
tưởng rằng đó chính là hình ảnh đẹp nhất vậy mà tình huống bất ngờ xảy đến khi Phùng chứng


kiến được cảnh bạo hành trong một gia đình. Từ lời tâm sự của người đàn bà bị bạo hành ở tồ
án Phùng đã có những nhận thức mới về nghệ thuật và cuộc sống
+ Quá trình nhận thức đã giúp cho Phùng và Chán án Đẩu khám phá được biết bao chân lí về
cuộc sống, về con người, về mỗi quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Một trong những nhân
vật chính góp phần tác động đến sự chuyển đổi trong nhận thức của họ là hình tượng người phụ
nữ hàng chài
II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1. TÌNH HUỐNG “VỠ LẼ” CỦA NGƯỜI NGHỆ SĨ PHÙNG
a. Vắn tắt về tình huống truyện
- Tình huống truyện là một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng của truyện ngắn. Tình huống
truyện thường được người viết dồn tài năng, tâm huyết để sáng tạo và xây dựng. Nhà văn, người
viết tạo được một tình huống đặc sắc, độc đáo là đã có được một tiền đề khá vững chắc cho sự
thành cơng của tác phẩm.
- Tình huống truyện là một hoàn cảnh, cảnh ngộ chứa đựng một sự việc mà tại đó có thể làm nổi
bật bản chất của đời sống cũng như tư tưởng, tình cảm, cảm hứng của tác phẩm và tính cách của
các nhân vật.
- Có 3 loại tình huống truyện cơ bản:
+ Tình huống hành động: Chủ yếu nhắm tới hành động có tính chất bước ngoặt của nhân vật (Ví
dụ: Tình huống Mị uống rượu; Mị cắt dây trói cứu A Phủ)
2


+ Tình huống tâm trạng: Chủ yếu khám phá diễn biến tình cảm, cảm xúc của nhân vật (Ví dụ:
Tình huống đợi tàu của 2 chị em Liên)
+ Tình huống nhận thức: Chủ yếu cắt nghĩa giây phút giác ngộ chân lý của nhân vật (Ví dụ:
Nhận thức của Điền trong Giăng Sáng của Nam Cao)
 Tình huống trong truyện CTNX là tình huống “Vỡ lẽ” (PGS.TS Lê Quang Hưng)
[Nhận thức: Chưa có hiểu biết hoặc đã có hiểu biết, nhờ tình huống mà hiểu biết thêm. Vỡ lẽ là
nhận ra cái trái ngược với cái ban đầu của mình. Vỡ lẽ thường kèm theo trạng thái ngạc nhiên,
ngỡ ngàng, kinh ngạc.]

b. Tình huống “vỡ lẽ” của nghệ sĩ Phùng trên bờ biển buổi bình minh
* Phát hiện 1: Cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh khi chiếc thuyền ở ngoài xa
- Một cảnh “đắt trời cho” một “vẻ đẹp tuyệt đỉnh”, một “bức tranh mực tàu của một danh họa
thời cổ”
+ Màu sắc: Bầu sương mù trắng như sữa có pha đơi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu
vào. Màu sắc vô cùng trong trẻo, nhẹ nhàng, thanh khiết.
+ Hình ảnh trung tâm: Một chiếc thuyền lưới vó với chiếc mui khum khum đang hướng mặt vào
bờ. Trên thuyền có bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng. Tất cả được nhìn
qua tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó trơng giống hình thù một con dơi.
 Đường nét, màu sắc, ánh sáng đều “hài hịa và đẹp”, một vẻ đẹp “thực tồn bích”
- Thái độ và hành động của Phùng:
+ Cảm thấy bối rối, trái tim như có gì bóp thắt lại
+ Tưởng mình vừa khám phá ra cái chân lí của sự toàn thiện; khám phá ra cái khoảnh khắc
trong ngần của tâm hồn nên cảm thấy hạnh phúc tràn ngập.
+ Hành động: bấm liên thanh hết ¼ cuốn phim
3


 Phùng thấy may mắn, xúc động, tâm hồn được thanh tẩy, trong sạch khi đứng trước một vẻ
đẹp thiên nhiên ngun sơ và tồn bích, lí tưởng và thánh thiện. Khám phá ra cái đẹp chuẩn
mực tưởng chừng như chỉ có ở thời quá vãng nay bất ngờ hiện ra trước mắt.
=> Nghệ sĩ thấy hạnh phúc bởi có lẽ trong anh nghĩ rằng: Sau cảnh đẹp toàn thiện, tồn bích,
chắc hẳn chính là một cảnh sống bình n, không lo toan bộn bề và anh đã làm xong công việc,
sắp được trở về với thành quả tuyệt vời.
* Phát hiện 2: Sự thực trần trụi khi chiếc thuyền vào gần
- Tín hiệu bất thường báo hiệu sự việc bất thường
+ Xuất hiện một người đàn ông và một người đàn bà và lời quát nạt, đe dọa


Gã đàn ông: Tấm lưng rộng cong như lưng một chiếc thuyền; Tóc tổ quạ, chân đi chữ bát;


Lơng mày cháy nắng, rủ xuống; Hai con mắt đầy vẻ độc dữ; Ngực trần vạm vỡ cháy nắng. =>
Tạo hình độc dữ, phản diện.


Người đàn bà: Những nét vẽ ngoại hình của người đàn bà cho thấy hoàn cảnh và thân

phận đầy đau khổ và bất hạnh.
- Cảnh tượng bất thường diễn ra- Cảnh bạo hành dữ dội:
+ Người đàn ông: Hùng hổ, mặt đỏ gay, rút thắt lưng lính ngụy ra quật tới tấp vào lưng người
đàn bà. Vừa đáng vừa thở, vừa chửi, vừa nghiến răng ken két.
+ Người đàn bà: Cam chịu, nhẫn nhục, không kêu, không chống trả, không chạy trốn.
+ Thằng con nít (Thằng Phác): Chạy một mạch giận giữ, căng thẳng, nhảy xổ vào lão đàn ông,
giật được chiếc thắt lưng, đánh trả. Bị ăn 2 phát tát ngã dúi xuống cát. Lặng lẽ đến bên người
đàn bà, đưa tay lên khuôn mặt người đàn bà như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy
trong những nốt rỗ chằng chịt.
- Phản ứng của Phùng: Hết sức kinh ngạc, cứ đứng há mồm ra mà nhìn mấy phút; vứt chiếc máy
ảnh chạy nhào đến; tưởng như vừa gặp một câu chuyện cổ tích quái đản.
4


 Sự thực trần trụi khiến Phùng kinh ngạc ngỡ ngàng đến phẫn nộ, “ngã ngửa” khơng tin vào
mắt mình
 Cùng một thời điểm, cùng một người quan sát, cùng một đối tượng quan sát nhưng ở 2 cự ly
khác nhau, góc độ khác nhau, người nghệ sĩ đã thấy hai bức tranh tương phản: Phía sau cái
thiên nhiên trong trẻo, tinh khôi, tinh khiết là sự thực trần trụi, tàn nhẫn, là cái độc ác, xấu xa.
c. Tình huống “vỡ lẽ” của Phùng và Đẩu khi ở tòa án huyện
- Tấm lịng nhân hậu, sự bất bình trước cái ác, cái bạo lực đã khiến Phùng và Đẩu tìm cách giải
thoát cho người đàn bà khỏi người chồng vũ phu, tàn ác.
+ Họ tin vào việc khuyên người đàn bà khốn khổ bỏ chồng là giải pháp nhân đạo, đúng đắn nhất

+ Họ tin vào thiện chí của mình chắc chắn sẽ được người đàn bà chấp nhận, biết ơn.
- Nghịch lí trớ trêu khiến cả hai kinh ngạc
+ Người đàn bà khơng chấp nhận li hơn, cịn khẩn thiết van xin để không phải bỏ chồng
+ Người đàn bà kể lại cuộc đời mình, giải thích, phân trần, thuyết phục Phùng và Đẩu hiểu cho
hồn cảnh của mình. Những lời phân trần thuyết phục từ người phụ nữ thâm trầm sâu sắc, thấu
hiểu lẽ đời đó đã khiến cho Phùng và Đẩu như được vỡ lẽ trong sự chua xót, bất ngờ, ngỡ
ngàng.
- Qua câu chuyện của người đàn bà quê mùa, xấu xí, nghèo khổ nhưng sâu sắc, từng trải, những
người có học thức, có quyền lực như Phùng và Đẩu đã vỡ lẽ ra nhiều điều:
+ Giải pháp li hôn chỉ là giải pháp nhất thời, nó khơng giúp người đàn bà thốt khỏi nghèo đói,
lam lũ.
+ Chỉ có lịng tốt và lí thuyết phi thực tế thì khơng thể giúp người đàn bà thốt khỏi đói nghèo,
lam lũ
+ Có những nghịch lí đau đớn, phẫn nộ vẫn phải chấp nhận “Trên thuyền phải có người đàn ông
dù hắn man rợ và tàn bạo”
5


d. Ý nghĩa tình huống truyện
* Về thái độ, cách nhìn đời sống, con người
- Chúng ta phải nhìn đời sống, con người bằng con mắt khác bởi: Cuộc sống không hề đơn giản,
xuôi chiều mà phức tạp, nhiều chiều. Phải nhìn đời sống bằng con mắt đa chiều, nhìn từ nhiều
phía
- Khơng phải bao giờ cái đẹp cũng thống nhất với cái thiện; cái bên ngoài cũng là sự thống nhất
với bản chất bên trong. Cho nên, muốn nhìn thấu đáo ta phải nhìn từ nhiều phía, nhiều góc độ.
Không nên xem xét, đánh giá một cách tức thời, nông cạn, hời hợt, dễ dãi.
- Trong một con người luôn tồn tại cả hai mặt “rồng phượng và rắn rết”. Cái ác, cái xấu đôi khi
vẫn tồn tại trong cùng một con người như một tất yếu không thể phản kháng. Nên cần có cái
nhìn thấu tình đạt lí với con người hơn. Không phải để dung túng, chấp nhận cái xấu, cái ác mà
để tìm ra cội nguồn của nó và loại bỏ. Cũng cần có thái độ đánh giá con người bằng con mắt

bao dung, vị tha, tránh định kiến, phiến diện.
Để giúp con người thoát khỏi cái xấu, cái ác, cái đói khổ, cần có những giải pháp thiết thực, cụ
thể chứ không chỉ bằng những lí thuyết xa vời, thiếu thực tế.
* Về mối quan hệ giữa đời sống, con người và nghệ thuật
- Nghệ thuật phải phản ánh chân thực, kịp thời đời sống. Nghệ thuật không được tách rời với
đời sống. (Không chỉ phản ánh kịp thời mà còn phải chân thực). Đời sống ln là cái đích chấp
chới trước mắt người nghệ sĩ. Nghệ sĩ phải không ngừng vận động, sáng tạo để bắt kịp đời sống.
- Đời sống là đối tượng thăm thẳm và không cùng của nghệ thuật và luôn cao hơn nghệ thuật.
- Nghệ sĩ không nên vội hài lịng với sự quan sát bên ngồi mà phải biết, phải hiểu bản chất thật
bên trong đời sống dù nó trần trụi và xấu xa đến mấy.
2. NHÂN VẬT NGƯỜI ĐÀN BÀ HÀNG CHÀI
6


NGƯỜI PHỤ NỮ ĐÁNG THƯƠNG
- Trong cảm nhận của người nghệ sĩ chị là hiện thân cho cuộc
Lam lũ, nghèo khổ

sống nghèo khổ, lam lũ, vất vả của người lao động vùng biển.
Con mắt của nghệ sĩ Phùng quen nhìn nét đẹp lãng mạn của
ngoại cảnh giờ đây sững sờ trước hiện thực nghèo khổ, nhọc
nhằn hằn in trên dáng vẻ của người đàn bà ấy. Đó là người phụ
nữ “trạc ngồi bốn mươi tuổi, một thân hình quen thuộc của
người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch,
mặt rỗ. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đếm thức trắng kéo lưới, tái
ngắt và dường như đang buồn ngủ” Có lẽ gánh nặng cuộc đời đầy
mưu sinh đã đè nặng lên đơi vai chị khiến chị có vẻ ngoài đầy
mệt mỏi như vậy
- Sự nghèo khổ của người phụ nữ ấy còn hiển hiện qua chi tiết
“tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng”.

Đặc biệt, người nghệ sĩ cịn khắc hoạ hình ảnh đơi mắt “chị đưa
cặp mắt mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá”, ánh mắt chứa đựng bao
ấm ức, chán nản cho cảnh đời nghèo khổ, túng quẫn
- Quả thật, khi được nghe những lời trần tình của chị ở toà án, ta
mới càng hiểu hơn về cuộc đời nghèo khó ấy. Nhà đơng con, cả
gia đình lại ở trên cùng một chiếc thuyền nhỏ lênh đênh ngồi
biển “giá tơi đẻ ít hơn”. Có những khi “ơng trời làm biển động
suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng
luộc chấm muối”
- Nỗi vất vả của người phụ nữ ấy là hiện thân cho nỗi vất vả của
bao nhiêu con người lao động sau chiến tranh. Vì thế, chị khơng
có một cái tên cụ thể mà Nguyễn Minh Châu chỉ gọi chị là “mụ”
hay “người đàn bà”. Nhà văn đã mờ hoá tên tuổi người phụ nữ để
7


tô đậm một số phận những người phụ nữ hàng chài nghèo khổ,
cam chịu trong cảnh đời ngang trái này
Nhẫn nhục, cam chịu

- Không dừng lại ở những quan sát bên ngồi ngoại hình, dáng vẻ
hay cử chỉ, người đàn bà hàng chài là người phụ nữ đáng thương
bởi ở chị có một tính cách cam chịu, nhẫn nhục đến xót xa.
- Đó là sự cam chịu nhẫn nhục khi bị hành hạ về thể xác, chịu
những trận đòn roi của người chồng vũ phu. Sự cam chịu của
người đàn bà còn khiến nghệ sĩ Phùng kinh ngạc bởi trong cơn
mưa tới tấp của những nhát quật mà người chồng trút vào lưng ,
vậy mà người phụ nữ kia vẫn : “với một vẻ nhẫn nhục, cam chịu ,
không hề kêu lên một tiếng , không chống trả cũng không tìm
cách chạy trốn” . Chị chấp nhận địn roi khơng phải vì dạn địn,

khơng phải vì tăm tối đến mức không ý thức được về nỗi bất
hạnh, về quyền được sống như một con người , càng không phải
để trả giá cho những sai lầm, tội lỗi của mình. Chị lặng lẽ chịu
mọi nỗi đau thể xác lẫn tinh thần chỉ vì “bất kể lúc nào thấy khổ
quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống
rượu…sau này con cái lớn lên ,tôi mới xin được với lão…đưa tôi
lên bờ mà đánh…” . Vậy là cùng một lúc, người đàn bà hàng chài
khôngc hri chịu đựng nhữung vất vả, nhọc nhằn của cuộc sống
mưu sinh , khơng chỉ chịu đựng những dày vị đau khổ của đói
nghèo mà cịn phải gánh thêm cả nỗi u uất, khổ sở của người
chồng khi lão khơng cịn đủ sức chịu đựng một mình nữa
- Người phụ nữ đó khơng chỉ bị bào mòn về thể lực với những
mệt mỏi sau từng đêm thức trắng kéo lưới, với nỗi đau đớn thể
xác từ trận đòn tàn bạo của chồng mà còn bị dày vò nặng nề về
8


tinh thần bởi sự nhục nhã khi bị chồng đối xử thô bạo khiến chị
đau đớn tủi hổ bởi luôn lo sợ cho đám con bị tổn thương. Trong
cảnh bạo hành, có sự xuất hiện của bé Phác – đứa con trai của
chị. Đây là một trong những chi tiết xúc động, người đàn bà lúc
nào cũng câm lặng nhưng khi đứa con xuất hiện, chị buột lời
“Phác, con ơi!” . Hình ảnh người mẹ vừa khóc vừa “chắp tay vái
lấy vái để” như là một lời cầu xin đầy cam chịu để đứa trẻ đừng
phạm đạo hiếu, đừng chống lại cha nó . Dường như người phụ nữ
ấy xuất hiện là để câm lặng, trong nhân nhục. Thái độ của chị đã
thôi thúc người nghệ sĩ khám phá, mong mỏi tìm ra nguồn cơn
của những uẩn khúc trong cuộc đời
- Người đàn bà đó khơng trốn chạy khi bị chồng đánh đập dã
man trên bờ biển, chị càng không có ý định tự giải thốt mình

khỏi người chồng tàn bạo ấy. Sự cam chịu, nhẫn nhục của người
phụ nữ còn được biểu hiện qua thái độ của chị khi đến tồ án
huyện. Đối diện với chốn cơng đường, với vị chánh án vùng biển,
người phụ nữ càng lúng túng, sợ sệt “cái vẻ lúng túng, sợ sệt mà
ngay lúc mụ đứng giữa bãi xe tăng cũng không hê thấy có”. Sự
cam chịu của chị tốt lên trong hành động “vừa đặt chân vào
trong văn phòng đầy bàn ghế và giấy má, liền tìm đến một góc
tường để ngồi” , rồi dáng vẻ “rón rén ngồi mép vào chiếc ghế và
cố thu nhỏ người lại”. Chị khẩn khoản van xin khơng phải ly hơn
dù biết rằng những trận địn sẽ tiếp diễn mãi cùng cuộc sống với
người chồng vũ phu lênh đênh trên biển “Quý toà bắt tội con
cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó” đã cho
thấy sự cay đắng trong số phận con người.

9


NHẬN XÉT: Phải chăng trong lời van xin của chị ẩn chứa những lẽ đời với những uẩn
khúc sâu xa mà nghệ sĩ Phùng và chán án Đẩu chưa thể nào hiểu thấu. Điều đó thơi thúc
con người tìm sự lí giải, bước vào cuộc hành trình khám phá những điều xù xì, phức tạp
cịn ẩn sau bức tranh thiên nhiên tưởng như tươi đẹp kia. Trong sự khám phá của nhà văn
về cuộc sống lam lũ, cam chịu của người đàn bà chất chứa một cảm quan nhân đạo sâu sắc.
Nguyễn Minh Châu xót xa khi nhận thức cuộc sống cịn nhiều khó khăn, vất vả của người
lao động. Dù cuộc chiến tranh đã đi qua nhưng nỗi khổ của con người chưa phải đã chấm
dứt. Những nghịch lí của cuộc đời vẫn luôn luôn tồn tại. Cuộc sống tươi đẹp là bức tranh
thiên nhiên, mà ẩn sau lớp sương mù kia chính là những vết mực đen của hiện thưc. Có lẽ,
tác giả muốn gợi cho người đọc những nỗi lo âu, suy ngẫm về cuộc chiến đấu chống lại
nghèo đói, sự tăm tối, bạo lực cịn gian nan, lâu dài hơn cuộc chiến đáu chống ngoại xâm
và chừng nào con người vẫn chưa thốt khỏi đói nghèo thì chừng ấy con người vẫn sống
trong sự tăm tối, tàn bạo.

- Trước những bất công, tàn bạo của hiện thực đầy ngang trái, ta vẫn tin tưởng một tiếng
nói nói lên sự thật, tiếng nói giành quyền sống, quyền tự trọng cho con người. Ấy vậy mà,
xuyên suốt tác phẩm, người phụ nữ ấy một là nhẫn nhục, chịu đựng, hai là khi đã lên tiếng
thì tồn là những lí lẽ cảm thơng, bênh vực cho người chồng, là sự hợp tình hợp lí khi phải
chấp nhận cuộc sống đầy bất hạnh đấy. Chính vì lẽ đó, phải chăng người phụ nữ ấy vẫn
quả thực là người đáng trách?
- Cái đáng trách ở đây có lẽ chính là sự buông xuôi, nhịn nhục, chấp nhận cho sự đẩy đưa
của cuộc đời mà khơng dám thay đổi nó, khơng dám tự giải thốt mình, dù cho sau này ở
tồ án huyện, chị có nêu rất nhiều lí do để trần tình khiến cho Đẩu và Phùng cũng phải im
lặng suy ngẫm nhưng sẽ chẳng có nghĩa lí gì nếu con người vẫn quyết định sống trong
cuộc sống tù túng, tăm tối như vậy
- Hoặc có lẽ chăng, chính hồn cảnh của xã hội, chính sự đói nghèo đã đẩy người phụ nữ
vào tình cảnh “đáng trách”, dù chị có cố gắng thay đổi hiện thực thì bản thân chị cũng đành
bất lực buông xuôi bởi không đủ sức để khiến cuộc sống ấy tốt đẹp hơn
10


NGƯỜI PHỤ NỮ ĐÁNG NỂ PHỤC
Giàu đức hi sinh,
vị tha

- Người phụ nữ ấy dành biết bao yêu thương cho chồng, cho con.
Qua lời tâm sự của chị với người nghệ sĩ và người chánh án,
Nguyễn Minh Châu đã nói lên tâm trạng không hề đơn giản của
người phụ nữ lam lũ này.
- Đối với chồng, chị là một người đàn bà nhân hậu, thấu hiểu và
cảm thông với nỗi khổ của chồng. Chị hiểu nỗi vất vả của cuộc
sống mưu sinh trên biển đầy sóng gió và đói nghèo, nỗi cay đắng,
phẫn uất vượt quá sức chịu đựng của một con người đã khiến người
đàn ơng “cục tính nhưng hiền lành, không bao giờ đánh đập tôi” trở

thành kẻ vũ phu, độc ác. Chị chịu đựng những trận đòn là để chồng
có nơi để giải toả những áp lực mà cuộc sống mưu sinh đầy khó
nhọc kia đè nặng lên đơi vai chồng mình. Người phụ nữ ấy tự dằn
vặt và trách mình “giá tơi đẻ ít đi hoặc chúng tơi sắm được chiếc
thuyền rộng hơn…lỗi chính là ở đám đàn bà đẻ nhiều quá mà
thuyền lại chật” mà trên thuyền thì cần có một người đàn ơng.
Người phụ nữ ấy không đổ lỗi cho ai mà tự nhận mọi tội lỗi về
mình, điều đó khiến người đọc phải kinh ngạc vì sự hi sinh, tấm
lịng nhân hậu của chị
- Đối với những đứa con, nguyên nhân khiến chị nhẫn nhục chịu
đựng vì chị đã tâm niệm rằng “ơng trời sinh ra người đàn bà là để
đẻ con nên phải gánh lấy cái khổ”. “Đàn bà ở thuyền chúng tơi phải
sống vì con, cho con chứ khơng thể sống cho mình như ở trên đất
được”. Vì những đứa con người mẹ phải chịu đựng sự hành hạ của
chồng mình vì chị biết trên thuyền khơng thể thiếu bàn tay người
11


đàn ơng, vả lại nếu chị khơng chịu thì người chịu những trận đòn
roi ấy phải chăng là những đứa con của chị?
- Quả thật, người phụ nữ ấy có một đức hi sinh cao cả và tấm lòng
vi tha, bao dung nhân hậu biết nhường nào, chị cảm thông cho
chồng và sẵn sàng hi sinh vì những đứa con.
Thấu hiểu lẽ đời

- Nơi tồ án huyện, trong cuộc trị chuyện giãi bày với Phùng và
Đầu, những lời bộc bạch tâm sự của chị bỗng nhiên khiến cho họ
trở thành những người ngây ngơ. Sự giận dữ, bất bình và những lời
khuyên không thể bàn cãi của Phùng và Đẩu khi vấp phải những lẽ
đời bình dị của người phụ nữ từng trải lại trở thành những nghịch lí

trớ trêu mà chẳng thể nào hoá giải .
- Chị cương quyết không bỏ chồng bởi chị hiểu nguyên nhân, hiểu
nổi khổ của chồng, chị hiểu được chính hồn cảnh bế tắc để đẩy
người đàn ơng “cục tính nhưng hiền lành và khơng bao giờ đánh
đập tơi cả” vào tình cảnh như bây giờ. Anh vốn là người nghĩa hiệp
vì lấy chị nên chị mới có được hạnh phúc làm vợ, làm mẹ. Chị hiểu
chính cái nghèo, cái khổ mới dẫn đến sự tha hố của người đàn ơng.
Chị hiểu được cái đói, cái khổ là nguyên nhân khiến bao áp lực đè
nặng lên đơi vai chồng mình và việc “ba ngày một trận nhẹ, năm
ngày một trận nặng” chỉ là sự giải phóng cho những áp lực của cuộc
đời. Bởi lẽ, con người vốn ích kỉ, khi khơng thể tự mình gồng gánh
những áp lực của cuộc đời, họ muốn những người khác cũng phải
khổ đau. Giống như Nam Cao đã nói “để thoả mãn lịng ích kỉ, có
những con người tự cho mình quyền được hành hạ mọi người” Hiện
thực đó trong lờ tâm sự đó của người đàn bà khiến chúng ta phải
suy nghĩ thật nhiều.
- Chị còn hiểu rõ cho tấm lòng của Đẩu và Phùng “lòng các chú tốt
12


nhưng các chú đâu phải người làm ăn…đâu có hiểu được cái việc
của người làm ăn lam lũ khó nhọc”.
- Chị còn giúp cho họ nhận ra những luẩn quẩn, bế tắc của cuộc
đời, tưởng như dễ giải quyết nhưng lại chẳng hề đơn giản” các chú
không phải đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất
vả của người đàn bà trên chiếc thuyền không có đàn ơng…đám đàn
bà chúng tơi cần có người đàn ông chèo chống khi phong ba, để
cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con”. Vì vậy, dù có địn nữa,
địn mãi thì chị vẫn có thể chịu đựng được.
- Tiếng thở dài của Đẩu, câu hỏi băn khoăn của Phùng, cảm giác bất

lực của họ trước những giải pháp thiện chí đã trở nên phi thực tế
bởi hiện thực và lí lẽ của người đàn bà hiểu đời, hiểu người. Sự sâu
sắc của chị khiến người đọc cảm phục nhưng cũng xót xa.
Yêu thương
con sâu sắc

- Đặc biệt ở người phụ nữ này cịn có một tình u thương con vơ
cùng sâu sắc, tình mẫu tử được chị thể hiện như là một thiên tính
bẩm sinh của người phụ nữ “Ông trởi sinh ra người đàn bà là để đẻ
con rồi nuôi con chod dến khi lớn khôn nên phải gánh lấy cái khổ”.
Vì thế, dù có khổ nữa nhưng chị vẫn cam chịu bởi những đứa con
chị vẫn cần có người cha, người đàn ơng để bảo vệ đỡ đần nơi cuộc
sống biển khởi đầy sóng gió “một người đàn ông chèo chống khi
phong ba để cùng nuôi đặng một sắp con”.
- Cũng vì thương con, sợ con bị tổn thương khi nhìn cảnh bạo lực
đau lịng mà chị phải xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, rồi cũng
vì lo sợ hình thành những nhân cách khơng tốt đẹp cho con có thể
thằng Phác sẽ làm gì dại dột với bố nó mà chị phải đưa đứa con
mình u thương nhất lên bờ sống với ơng ngoại. Khi bị chồng
đánh đập, chị lặng lẽ chịu đựng như một người câm khi thằng Phác
13


lao đến đánh bố chị phải ơm lấy nó, rồi “vái lạy con”. Đứa con đối
với chị mà nói ln chạm đến nơi sâu thẳm yếu mềm nhất nơi tâm
hồn chị, thằng bé như “một viên đạn xuyên qua tâm hồn người đàn
bà, làm rỏ xuống những giọt nước mắt”. Tiếng khóc của người mẹ
là tiếng khóc đớn đau và xót xa cho con của mình, tiếng khóc của
tình mẫu tử thiêng liêng.
- Đặc biệt, dù cho cuộc sống của người phụ nữ ấy tràn ngập bao nỗi

bất hạnh nhưng cũng có giây phút chị hạnh phúc. Và giây phút đó
chẳng có thể nào khác chính là lúc nhìn thấy các con “vui nhất là
lúc ngồi nhìn đàn con tơi chúng nó được ăn no”. Niềm vui ấy chính
là niềm vui của người làm mẹ, hạnh phúc khi thấy các con vui, các
con ấm no hạnh phúc.
- Thấp thoáng trong bóng hình người phụ nữ hàng chài là hình ảnh
của người mẹ người vợ Việt Nam lam lũ, cần cù khó nhọc và u
thương gia đình sâu sắc. Chính sự ý thức về thân phận và ý nghĩa
cuộc sống của mình là vì con khiến họ có đủ sức mạnh, sự nhẫn
nhục để chịu đựng biết bao đớn đau của cuộc sống, chỉ cần những
đứa con mình hạnh phúc, khơn lớn trưởng thành và bảo vệ niềm tin
trong sáng trong tâm hồn non nớt của những đứa con mình khiến họ
có thể gồng gánh bao bão tố của cuộc đời.

NHẬN XÉT CHUNG: Đằng sau thiên nhiên tươi đẹp mà Phùng nhìn thấy, chính là những nỗi
đau của con người, mà nếu ta khơng chịu nhìn và hiểu họ thì ta chỉ thấy những nỗi đau ấy như
những vệt đen xấu xí trên bức vẽ tươi đẹp kia. Thế nhưng, khi nhìn thấu vào tâm hồn của những
con người nhỏ bé ấy ta mới hiểu được rằng, những vết đen ấy lại có ý nghĩa nhấn mạnh điểm tơ
đến nhường nào. Điều đó thơi thúc các nhà văn khơng ngừng khám phá, khơng ngừng kiếm tìm
3. MỘT SỐ NHÂN VẬT KHÁC
14


NGƯỜI ĐÀN ƠNG
- Người đàn ơng trong tác phẩm hiện lên với vẻ thô kệch, lam lũ “ Tấm lưng rộng và cong
như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn,
hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ…”. Trong mắt đứa con, đó là
người bố vũ phu, cục cằn “trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật
tới tấp” vào lưng mẹ nó, với Phùng: ơng chồng là kẻ độc ác và tàn nhẫn, với Đẩu là kẻ man
rợ, tàn bạo…

- Thế nhưng, nghịch lí là: trước đây, anh là người hiền lành, là ân nhân của người đàn bà
hàng chài, là trụ cột vững chắc trong gia đình.
- Khi hiểu được sự đau khổ của người chồng qua lời kể của người đàn bà hàng chài thì ta
thấy rằng người chồng ấy cũng rất đáng thương, chính hồn cảnh nghèo khó đã biến anh
thành kẻ cục cằn, những trận đòn roi lên vợ là sự giải toả của những bức giận, bế tắc trong
cuộc sống nhiều cái cơ cực. Thậm chí, ta cịn thấy được đằng sau sự hung bạo thô lỗ kia là
một con người cô đơn, bất lực trước thực tại ngang trái khổ đau. Hình ảnh người đàn ông
lẳng lặng bỏ về thuyền, không quay mặt nhìn lại gợi cho người đọc nhiều trăn trở.

NHÂN VẬT CẬU BÉ PHÁC

- Phác hiện lên với hình ảnh giận dữ tột độ, nhảy xô vào người đàn ông là bố mình để bảo
vệ mẹ, giấu sau lưng con dao găm sáng loáng sẵn sàng vung vào người bố cục cằn kia
- Hành động tưởng chừng bất hiếu kia nhưng thực chất cậu bé rất yêu thương mẹ, đó là
hành động để bảo vệ người mẹ
- Khi ta hiểu được, thực chất cậu bé ấy chính là nạn nhân đáng thương của một gia đình
túng quẫn, nạn nhân của tình trạng bạo hành gia đình, và vết cứa tuổi thơ là một gia đình
bạo lực, niềm tin mái ấm đổ nát
15


NHÂN VẬT CHÁNH ÁN ĐẨU
- Là một vị quan toà có lịng tốt nhưng xa rời thực tế. Giải quyết vấn đề chỉ bằng lí thuyết
bằng tấm lịng mà chưa gắn với hiện thực cuộc sống.
- Sau buổi nói chuyện với người đàn bà hàng chài, Đẩu vỡ lẽ, bắt đầu nhận ra rằng: Muốn
con người thoát khỏi cảnh tăm tối, đau khổ cần có những giải pháp thiết thực chứ khơng
phải chỉ là thiện chí và lí thuyết sng.

4. HÌNH ẢNH CHIẾC THUYỀN NGỒI XA


Lần thứ 1: Hình ảnh con thuyền xuất hiện trong hoàn cảnh nghệ sĩ Phùng đang khao khát
kiếm tìm bức ảnh đẹp cho bộ ảnh lịch đầu năm. Sau những lần bấm máy, người nghệ sĩ sững
sờ khi nhìn thấy “một cảnh trời cho”.
+ “Bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào
bầu trởi sương mù trắng như sữa có pha đơi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu
vào”.
+ “Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn
giản và tồn bích khiến đứng trước nó” người hoạ sĩ trở nên “bối rối” “trong trái tim như có
gì bóp thắt vào”.
Lần thứ 2: Con thuyền xuất hiện sau cuộc gặp gỡ giữa người nghệ sĩ Phùng và người đàn
bà làng chài tại tồ án huyện. Hình ảnh con thuyền xuất hiện trong cảnh “trời trở gió đột
ngột, từng tảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt biển đen ngòm”  khám phá hiện thực.
Ý nghĩa
a. Tả thực
- Chiếc thuyền nhỏ bé kia là khơng gian sống của gia đình người dân chài
16


- Gợi cuộc sống bấp bênh, cuộc sống đầy gian khó của người dân chài chống chọi nơi sơng
nước
- Chiếc thuyền là hình ảnh của ngoại cảnh, một vẻ đẹp hài hoà giữa thiên nhiên và con
người mà người nghệ sĩ phải lặn lội tìm kiếm mãi mới được
b. Biểu tượng
- Biểu tượng cho mối quan hệ giữa hiện thực và nghệ thuật
- Nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa” như lời gợi ý về khoảng cách, cự li ngắm nhin đời sống
của nghệ thuật. Từ xa hay gần? Đó là điều mà người nghệ sĩ phải coi trọng
- Sự xuất hiện trong hai cảnh với hai hình ảnh khác nhau của chiếc thuyền ngoài xa mang ý
nghĩa phản anhs sự chuyển đổi trong nhận thức cùa người nghệ sĩ về đối tượng của nghệ
thuật: Cảnh đầu là vẻ đẹp toàn vẹn tồn bích , cảnh sau là con thuyền chống trọi với sóng
gió, bão táp của cuộc đời. Vậy đối tượng của nghệ thuật đâu chỉ là cái đẹp mà phải là tất cả

những gì khắc nghiệt của hiện thực của đời sống
- Chiếc thuyền ngồi xa cịn cho thấy quan điểm của Nguyễn Minh Châu về cách khám phá
hiện thực của nhân vật. Khám phá cuộc sống không phải trong cái nhìn đơn giản một chiều
mà người nghệ sĩ phải ln nhìn cuộc đời bằng cái nhìn đa diện, nhiều chiều để từ đó phát
hiện ra bản chất hiện thực
 Hình ảnh con thuyền là thành cơng nghệ thuật trong việc xây dựng hình tượng của
Nguyễn Minh Châu
III. TỔNG KẾT
1. NỘI DUNG
a. Giá trị hiện thực
- Cuộc sống lam lũ khó nhọc, bạo lực của người dân sau chiến tranh. Họ là nạn nhân hậu chiến
sống trong cảnh nghèo đói, tù túng, bất hạnh, tối tăm
17


- Con người cam chịu, nhẫn nhục trước thực tại, bị tha hố bởi sự đói nghèo và khổ đau
b. Giá trị nhân đạo
b. 1 Xót xa trước cảnh nghèo khổ của người dân
- Cuộc sống nghèo khổ của gia đình người đàn bà hàng chài
- Cuộc sống nghèo khổ nói chung của con người sau chiến tranh => Lên án tố cáo chiến tranh
và chính sách “tơ hồng” của thời đại bấy giờ
b.2 Trăn trở những vấn đề đạo đức
- Bạo lực gia đinh và vấn đề tha hoá nhân cách của con người (chồng đánh vợ, con đánh cha,..)
b.3 Trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của con người
- Phẩm chất tốt đẹp của người đàn bà hàng chài được biểu hiện trong tác phẩm
2. NGHỆ THUẬT - Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo: Tác giả đã dựng nên tình
huống nghịch lí giữa hình ảnh của con thuyền khi ở ngoài xa với con thuyền lúc đến gần để tạo
ra tình huống nhận thức cho nhân vật của mình, cũng là cho người đọc.- Cách khắc họa nhân
vật, cốt truyện hấp dẫn kết hợp với ngơn ngữ sử dụng rất linh hoạt, sáng tạo góp phần làm nổi
bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm

- Giọng điệu: chiêm nghiệm, suy tư, trăn trở phù hợp với tình huống nhận thức. Đồng thời cũng
làm nên nét đặc trưng trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu

18



×