Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

TIỂU LUẬN:Tập hợp lực lượng của Mỹ và Liên Xô trong chiến tranh lạnh 1945 -1991 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.47 KB, 25 trang )








TIỂU LUẬN

Tập hợp của Mỹ và Liên Xô trong
chiến tranh lạnh 1945 -1991



1
Trên cơ sở lý thuyết Địa chính trị đã học, anh chị hãy so sánh quá trình triển
khai, tập hợp lực lượng của Mỹ và Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh lạnh (1945-1991).

Bài làm
Trên một mức độ rất lớn, hành vi đối ngoại của một quốc gia bị chi phối bởi môi
trường quốc tế, nhưng môi trường quốc tế lại không phải là nhân tố duy nhất ảnh hưởng
đến hành vi đối ngoại của một nước. Từ góc độ lý luận, môi trường quốc tế của thời kỳ
đầu chiến tranh lạnh chỉ tạo điều kiện cho xung đột và đối kháng giữa hai cường quốc,
biến chiến tranh lạnh thành khả năng chiến tranh nóng. Nhưng sự thực, hai nước Xô –
Mỹ lại không lựa chọn phương thức hợp tác mà từng bước đi đến Chiến tranh lạnh. Đó
là vì sự đối lập căn bản về ý thức hệ, sự khác biệt căn bản về lợi ích quốc gia của hai
nước. Hay nói cách khác, động cơ hành vi của hai nước về cơ bản là triệt tiêu lẫn nhau.
Sự đối lập đó đã có những biểu hiện rõ ràng trong thời kỳ “nghẹt thở” này.
Liên Xô và Mỹ, một là nước Xã hội chủ nghĩa lớn nhất, một là nước Tư bản chủ
nghĩa lớn nhất. Chịu sự chi phối của tín ngưỡng ý thức hệ, hai nước dựa vào tiến triển
của Chiến tranh thế giới thứ 2 và cục diện sau chiến tranh để ra sức mở rộng phạm vi


ảnh hưởng tín ngưỡng ý thức hệ của bản thân, Liên Xô kiên trì theo đuổi học thuyết
Vùng Đất Trung Tâm (Heartland) còn Mỹ thì ngược lại với học thuyết Vùng Đất Rìa
(Rimland), để ra sức mở rộng phạm vi ảnh hưởng tín ngưỡng ý thức hệ của bản thân, ở
những khu vực mà khả năng cho phép đều xây dựng và duy trì chế độ giống như mình.
Là một quốc gia tôn thờ Chủ nghĩa cộng sản, Liên Xô trong chính sách đối ngoại
của mình cũng thể hiện rõ nét những tư duy về mặt ý thức hệ. Bắt đầu từ khoảng năm
1944, Hồng quân Liên Xô đã tiến hành phản công trên quy mô lớn, thu lại được những
lãnh thổ đã bị mất trong trong thời kỳ đầu chiến tranh, và tiến mạnh ra ngoài biên giới.
Trong quá trình phát triển ra bên ngoài của Hồng quân Liên Xô đã giúp đỡ những đảng
cộng sản ở những nơi đó thành lập chính quyền ủng hộ lực lượng tiến bộ. Giống như
Stalin nói với đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Nam Tư vào tháng 4-1945: “Chiến
tranh lần này và trước kia là khác nhau: bất luận ai chiếm lĩnh đất đai thì đều áp đặt chế
độ của mình ở đó. Không thể khác được”. Thời kỳ sau chiến tranh và thời kỳ đầu sau
chiến tranh, Hồng quân Liên Xô đã giúp đỡ các nước Đông Âu như: Ba Lan, Tiệp
Khắc, Rumani xây dựng chính quyề dân chủ nhân dân, Đảng Cộng sản Nam Tư và
Anbania trong quá trình lập chính quyền cũng được Liên Xô giúp đỡ. Đương nhiên sự
giúp đỡ to lớn của Liên Xô đối với các nước Đông Âu, trên một mức độ rất lớn là tính
đến lợi ích dân tộc của bản thân, nhưng không thể loại trừ trong đó có động cơ của chủ
nghĩa quốc tế giai cấp vô sản. Sự ra đời của nước Cộng hoà dân chủ Nhân dân Triều
Tiên, trên một mức độ rất lớn, đó chính là kết quả của sự mở rộng đến bán đảo Triều
Tiên của Hồng quân Liên Xô. Stalin trong thời chiến đã từng có quan hệ trao đổi với
Mỹ, coi Trung Quốc nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Mỹ, hơn nữa còn nghi ngờ và
không tin tưởng những người của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng cùng với sự phát
triển của tình hình Trung Quốc, thì Liên Xô lại dành một số sự giúp đỡ cho Đảng Cộng
sản Trung Quốc, như sau khi Hồng quân Liên Xô chiếm được vùng Đông Bắc Trung
Quốc, trên một mức độ nhất định đã ủng hộ Đảng Cộng sản ở Đông Bắc, và giao cho
quân đội của Đảng Cộng sản Trung Quốc một số lượng lớn trang bị vũ khí, khiến cho
quân đội của Đảng Cộng sản Trung Quốc ở vùng Đông Bắc trở thành một đội quân có

2

trang bị tốt nhất trong các khu giải phóng cả nước. Đối với các Đảng Cộng sản Tây Âu,
Liên Xô lại không giành sự trợ giúp nào.
Trong chiến tranh Thế giới thứ hai, Rudơven thực hiện chính sách ngoại giao
theo chủ nghĩa hiện thực, Mỹ và Liên Xô kết thành đồng minh chống phát xít, dòng
chảy chính của quan hệ hai nước trong thời chiến là hữu hảo và hợp tác. Nhưng suy cho
cùng, Rudơven vẫn là nhân vật đại diện cho giai cấp tư sản, trong quan hệ đối ngoại của
ông ta không thể không có nhân tố ý thức hệ chống cộng, ông ta lại càng không thể là
“phần tử đỏ trong Nhà Trắng”. Vì vậy, cùng với việc sắp sửa kết thúc chiến tranh thế
giới thứ hai, xung đột ý thức hệ giữa Mỹ - Xô ngày càng bộ lộ rõ. Nhân tố ý thức hệ
trong chính sách đối ngoại của Rudơven được phản ánh rõ nét trong chính sách đối với
Đông Âu. Bề ngoài ông chủ trương chính sách tự quyết dân tộc ở Đông Âu, để nhân
dân ở đó lựa chọn chính phủ của mình. Nhưng trên thực tế, mục đích của chính sách đó
là biến khu vực này thành “phi chủ nghĩa cộng sản hoá”, làm suy yếu ảnh hưởng của
chủ nghĩa xã hội. Đối với mục tiêu ý thức hệ trong chính sách đối ngoại của Mỹ, trợ lý
thân cận của Rudơven là Hopkin đã nói hết sức rõ ràng: “Cố gắng lợi dụng sức mạnh
ngoại giao của chúng ta, thúc đẩy và khích lệ xây dựng chính quyền dân chủ trên toàn
thế giới. Chúng ta không nên ngần ngại tỏ rõ lập trường của mình đối với thế giới, tức
là yêu cầu nhân dân thế giới đều phải được hưởng quyền thành lập một chính phủ đích
thực do dân bầu. Chúng ta tin tưởng, chính thể dân chủ có sức sống của chúng ta là tốt
nhất trên thế giới”.
Còn đối với Mỹ, luôn đi theo quan điểm học thuyết Vùng đất Rìa, đã tìm mọi
cách cô lập Liên Xô. Mỹ cố gắng áp đặt tầm ảnh hưởng của mình lên những vùng đất
đối chọi lại những vùng đất chịu ảnh hưởng của Liên Xô, cố gắng cô lập Liên Xô một
cách tốt nhất có thể. Sau khi Rudơven mất, đặc biệt là sau khi kết thúc Chiến tranh thế
giới thứ hai, động cơ ý thức hệ chống cộng thúc đẩy chế độ xã hội, và quan niệm giá trị
của Mỹ ngày càng được biểu hiện rõ ràng trong quan chính sách đối ngoại của Mỹ. Sau
khi nhậm chức tổng thống, tư tưởng chống cộng, chống Xô và đẩy mạnh chế độ xã hội
Mỹ của Truman được thể hiện nhiều trong lời nói, đồng thời biểu hiện cụ thể trong
chính sách của ông ta. Ông ta cho rằng: “Toàn thế giới nên áp dụng chế độ Mỹ”. Chính
sự thúc đẩy của hệ tư tưởng đó, ngay sau chiến tranh, Mỹ đã đứng về một bên các nước

đế quốc chủ nghĩa như Anh, Pháp, Hà Lan để kìm chế và tiêu diệt đảng cộng sản cũng
như lực lượng cánh tả khác của một số nước và ủng hộ lực lượng bảo thủ ở đó bằng mọi
hình thức. Tư lệnh quân Mỹ ở Thái Bình Dương – Mc.Authur tiến hành “cải cách dân
chủ” ở Nhật Bản, thiết lập một chế độ chính trị giống ở Mỹ. Ở Trung Quốc, Mỹ ủng hộ
Chính phủ Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch. Tại Nam Triều Tiên, Mỹ đưa phần
tử cánh hữu của giai cấp tư sản – Lý Thừa Vãn trở về để tổ chức chính phủ. Ở Đông
Nam Á, Mỹ ủng hộ Anh, Pháp, Hà Lan đàn áp lực lượng tiến bộ ở đó. Tại Tây Âu, Mỹ
ra sức viện trợ kinh tế để ổn định tình hình chính trị, và ủng hộ chính quyền các nước
Tây Âu loại trừ những người cộng sản. Ở Đông Âu, chính quyền của Truman kế thừa
chính sách của người tiền nhiệm, kiên trì “tự quyết dân tộc” và “tuyển cử tự do”, chỉ
trích Liên Xô không thực hiện “thoả thuận Yalta” và “tuyên ngôn châu Âu được giải
phóng” và ủng hộ thế lực phản động ở đó.
Hình thái ý thức mà Xô – Mỹ tôn thờ căn bản là đối lập nhau, lợi ích quốc gia
cũng khác nhau cơ bản. Chính sách mà hai bên áp dụng để thực hiệ lợi ích cho mình
cũng triệt tiêu lẫn nhau. Liên Xô muốn thiết lập và bảo vệ một “phạm vi thế lực” để bảo

3
đảm an ninh quốc gia và mở rộng phạm vi thế lực của mình, trong đó lấy Liên Xô làm
nòng cốt, vùng đất trung tâm của mọi vùng đất; còn Mỹ chống lại “sự uy hiếp của chủ
nghĩa cộng sản” và “lãnh đạo thế giới” hòng làm suy yếu, thậm chí đánh đổ Liên Xô.
Và có thể nói, Chiến tranh lạnh vẫn chưa có hồi kết, cho đến khi nào một trong hai
nước bị sụp đổ.
XUNG ĐỘT ĐÔNG TÂY TRONG CHIẾN TRANH LẠNH
Lấy bài diễn văn của “chủ nghĩa Truman” vào tháng 3-1947 làm mốc, chiến
tranh lạnh Đông – Tây được triển khai toàn diện. Chiến tranh lạnh kéo dài hơn 40 năm,
trong thời gian đó xuất hiện mấy giai đoạn, và không ngừng phát triển và thay đổi.
Dưới đây là một số ví dụ về sự kiện xung đột Đông – Tây được coi là quan trọng nhất,
điển hình nhất. Đó là: phong toả Berlin và khủng hoảng Berlin; Khủng hoảng tên lửa
Cuba; Chiến tranh Triều Tiên; Chiến tranh Việt Nam; Nội chiến Angôla và việc Liên
Xô đưa quân vào Ápganixtan. Xung đột Đông – Tây đại thể có thể chia làm hai loại,

loại thứ nhất là đối kháng căng thẳng trực tiếp giữa hai siêu cường, như sự Phong toả
Berlin và khủng hoảng Berlin, Khủng hoảng tên lửa Cuba; thứ hai là đối kháng gián
tiếp giữa hai nước lớn siêu cường, hoặc là nói sự giao tranh căng thẳng giữa đồng
minh của siêu cường này với siêu cường kia: chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt
Nam, nội chiến Angôla và việc Liên Xô đưa quân vào Ápganixtan. Những cuộc giao
tranh này, dù thuộc loại thứ nhất, hay loại thứ hai đều có đặc điểm chung là diễn ra
trên những khu vực nhạy cảm. Và nếu siêu cường nào thiết lập được tầm ảnh hưởng
của mình lên khu vực đó, sẽ là một khó khăn lớn đối với siêu cường kia.
LIÊN MINH PHÒNG THỦ VARXAVA VÀ HIỆP ƢỚC
BẮC ĐẠI TÂY DƢƠNG (NATO)
Dưới đây là bảng so sánh về hai tổ chức quân sự lớn nhất lúc bấy giờ.
Tiêu chí
so sánh
Liên minh phòng thủ Vacxava
Hiệp ƣớc Bắc Đại Tây Dƣơng (NATO)
Hoàn
cảnh
- Vào năm 1955 thì khối NATO đã
phê chuẩn hiệp ước Pari (1954) nhằm
tái vũ trang cho Tây Đức, đưa Tây
Đức gia nhập khối NATO nhằm chống
lại Liên Xô, chống CHDC Đức.
- Việc làm này đã làm cho hoà bình
và an ninh châu Âu bị uy hiếp nghiêm
trọng.
- Sự phát triển ảnh hưởng của chủ nghĩa
cộng sản và Liên Xô lúc đó đang trên đà
phát triển rất mạnh ở châu Âu.
- Các nước Đông Âu được sự giúp đỡ của
Liên Xô, đang xây dựng chủ nghiã xã hội.

Làn sóng của chủ nghĩa cộng sản có thể lan
tràn ra khắp châu Âu.
Thành
lập
- Thành lập 14/5/1955 gồm 8 nước
Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, Cộng
hoà dân chủ Đức, Anbani, Bungari,
Rumani.
- Thành lập ngày 4/4/1949 tại thủ đô
Oasinhtơn (Mỹ) gồm có Mỹ và 11 nước
phương Tây (Anh, Pháp, Canada, Italia, Bỉ,
Hà Lan, Lúc-xăm-bua, Đan Mạch, Na Uy,
Aixơlen, Bồ Đào Nha. Sau này kết nạp
thêm nhiều thành viên mới, hiện nay có tới
20 nước tham gia.

4
Mục đích
- Giữ gìn hoà bình an ninh của Liên
Xô và các nước XHCN ở Đông Âu,
nhằm giữ gìn an ninh cho các nước
thành viên, duy trì hoà bình ở Đông
Âu và cũng cố tình hữu nghị, sự hợp
tác của các nước Chủ nghĩa xã hội.
- Ngăn chặn sự phát triển ảnh hưởng của
chủ nghĩa cộng sản và Liên Xô lúc đó đang
trên đà phát triển rất mạnh ở châu Âu có thể
gây phương hại đến an ninh của các nước
thành viên.
Tính

chất
Liên minh phòng thủ quân sự, chính
trị.
Liên minh phòng thủ quân sự, chính trị.
Vai trò
và tác
dụng
- Tăng cường sức mạnh quân sự cho
các nước Đông Âu giữ gìn hoà bình,
an ninh của Liên Xô và các nước
Đông Âu. Đối phó với mọi âm mưu
gây chiến của bọn Đế quốc. Tạo thế
cân bằng chiến lược về quân sự giữa
các nước xã hội chủ nghĩa với các
nước đế quốc. Tiêu biểu như ở
Hungari (1956), Tiệp Khắc (1968), Ba
Lan
- Nhằm xây dựng một lực lượng quân sự
mạnh cho đất nước tư bản chủ nghĩa ở Âu
Châu để ngăn cản “làn sóng cộng sản chủ
nghĩa” có thể lan sang các nước Tây Âu có
thể gây phương hại đến an ninh của các
nước đồng minh của Mỹ.
Kết quả
- Ngày 31/3/1991, tổ chức hiệp ước
Vacsava giải thể vì những biến đổi
chính trị ở Liên Xô và Đông Âu và do
Xô - Mỹ thoả thuận về việc chấm dứt
“Chiến tranh lạnh”.


- Trong khi Liên minh phòng thủ Vacxava
bị giải thể thì NATO vẫn tồn tại cho đến
hiện nay.
- Tổ chức NATO đã vượt ra khỏi phạm vi
phòng vệ, mà trở thành một khối quân sự đe
doạ hoà bình và an ninh thế giới.


PHONG TOẢ BERLIN VÀ KHỦNG HOẢNG BERLIN
Cuộc phong toả Berlin kéo dài từ ngày 24 tháng 6, 1948 đến ngày 11 tháng 5
năm 1949, là một trong những cuộc khủng hoảng đầu tiên của Chiến tranh Lạnh, khi
chính quyền Xô Viết quyết định phong toả tất cả các đường giao thông vận tải nối khu
Tây Berlin, lúc bấy giờ do Anh, Mỹ và Pháp chia nhau kiểm soát sau chiến tranh và
nằm lọt thỏm giữa vùng Đông Đức do chính quyền Xô Viết kiểm soát, với phần còn lại
của nước Đức. Cuộc phong toả đã dẫn đến quyết định của ba nước Anh-Pháp-Mỹ để
lập ra một cầu hàng không có quy mô nhất lúc bấy giờ để tiếp tế nhu yếu phẩm cho cư
dân của phần thành phố này. Sau hơn 11 tháng, lãnh đạo Stalin đã quyết định dỡ bỏ
cuộc phong toả, mở đầu cho cuộc đối đầu mới giữa khối Cộng sản và các nước phương
Tây.
Nguồn gốc mâu thuẫn
Khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, theo tinh thần của hiệp ước
Postdam giữa phe Đồng minh, nước Đức bị chia làm bốn vùng chiếm đóng bởi quân
đội các nước Anh, Pháp, Mỹ và Liên Xô. Riêng vùng Berlin cũng bị chia ra tương tự
nhưng do vị trí của thành phố trong nước Đức nên vùng kiểm soát bởi liên quân Anh-

5
Pháp-Mỹ (Tây Berlin) bị nằm lọt thỏm bên trong khu vực do Liên Xô kiểm soát. Thành
phố Berlin bị chia làm hai phần và mâu thuẫn giữa quân đội chiếm đóng ba nước
phương Tây và quân đội Liên Xô ngày càng sâu sắc, cùng với quan hệ giữa hai đồng
minh thế chiến là Hoa Kỳ và Liên Xô ngày càng xuống dốc.

Do có quan điểm khác nhau về việc điều hành một nước Đức thống nhất trong
tương lai, hai phía Liên Xô và Mỹ
Ngày 7 tháng 3 năm 1948, hội nghị London giữa 3 nước phương Tây đưa ra nghị
quyết hợp nhất ba vùng chiếm đóng phía Tây thành một chính quyền liên bang độc lập
Ngày 20 tháng 6 năm 1948, phần phía Tây của Berlin bắt đầu sử dụng Đồng
Mark làm đơn vị tiền tệ chung
Về mặt pháp lý, Tây Berlin cũng không là một phần của Cộng hoà Liên bang
Đức trong khi Đông Berlin trở thành thủ đô của Cộng hoà Dân chủ Đức.
Năm 1948, Stalin muốn giành toàn bộ thành phố này cho Đông Đức nên đã ra
lệnh phong tỏa tất cả đường bộ từ phía Tây Đức đến Berlin. Phương Tây cũng không
vừa, họ thiết lập một cầu không vận, vận chuyển 1,5 triệu tấn lương thực, thuốc men,
nhu yếu phẩm, cho người dân phần Tây Berlin, tính ra trên 120.000 chuyến bay đến
thành phố này trong vòng 10 tháng. Phong tỏa Berlin thất bại.
Bức tường Berlin, từng được Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Đức gọi là "Tường
thành bảo vệ chống phát xít" và bị người dân Cộng Hoà Liên Bang Đức gọi là "Bức
tường ô nhục" là một phần của biên giới nội địa nước Đức và đã chia cắt phần Tây
Berlin với phần phía đông của thành phố và với lãnh thổ của nước Cộng hòa Dân chủ
Đức bao bọc chung quanh Tây Berlin từ ngày 13 tháng 8 năm 1961 đến ngày 9 tháng
11 năm 1989. Bức tường này là một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của cuộc
Chiến tranh Lạnh và của việc chia cắt nước Đức. Khoảng 5000 người đã tìm cách vượt
qua bức tường để sang Tây Berlin. Số người bị thiệt mạng khi vượt tường nằm trong
khoảng từ 86 đến 200 người.
Sau khi Đệ nhị thế chiến chấm dứt, nước Đức bị chia thành bốn vùng chiếm
đóng theo Hội nghị Yalta, do các nước Đồng Minh (Mỹ, Liên Xô, Anh và Pháp) kiểm
soát và quản lý. Berlin, đã từng là thủ đô của Đế chế Đức, cũng bị chia làm bốn khu
vực tương tự như nước Đức. Cùng lúc đó cuộc Chiến tranh Lạnh giữa Đông và Tây
cũng đã bắt đầu trên nhiều bình diện khác nhau. Berlin trở thành trung tâm của cuộc
chiến giữa các cơ quan tình báo của cả hai phe. Trong năm 1948 Cuộc phong tỏa Berlin
của Liên bang Xô Viết là một trong những cuộc khủng hoảng lớn đầu tiên trong cuộc
Chiến tranh Lạnh.

Trong năm 1949, khi nước Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức) được thành lập
trong ba vùng chiếm đóng ở phía tây và ngay sau đó là nước Cộng hòa Dân chủ Đức
(Đông Đức) được thành lập trong vùng chiếm đóng của Liên bang Xô Viết, biên giới
bắt đầu được cả hai bên tăng cường củng cố và canh phòng. Hai quốc gia được thành
lập đã tạo nền tảng cho việc chia cắt nước Đức về chính trị. Đầu tiên, chỉ có cảnh sát
biên phòng và lực lượng quân đội biên phòng được giao nhiệm vụ canh gác giữa Đông
Đức và Tây Đức, sau đấy Đông Đức bắt đầu xây dựng nhiều rào chắn. Về mặt hình
thức, Berlin mang thể chế của một thành phố bao gồm bốn khu vực và là thành phố phi
quân sự đối với quân đội Đức, đồng thời cũng là một thành phố độc lập so với cả hai
quốc gia Đức – những điều thật ra không còn giá trị trong thực tế. Trên nhiều phương
diện, Tây Berlin gần như mang thể chế của một tiểu bang, thí dụ như việc có đại diện

6
(nhưng không có quyền bỏ phiếu) trong Quốc hội Liên bang Đức. Đi ngược lại hiệp
định đã được ký kết, Đông Berlin trở thành thủ đô của nước Đông Đức.
Khi cuộc Chiến tranh Lạnh leo thang dẫn đến nhiều việc như cấm vận kỹ thuật
cao COCOM cho khối Đông Âu, chiến tranh ngoại giao liên tục và đe dọa về quân sự,
phía Đông đã tăng cường đóng kín biên giới. Vì thế biên giới này không còn chỉ là một
biên giới giữa hai phần nước Đức mà đã trở thành biên giới giữa Hội đồng Tương trợ
Kinh tế và Cộng đồng châu Âu, giữa khối NATO và khối Warszawa, tức là giữa hai thế
lực khác nhau về tư tưởng chính trị, kinh tế và văn hóa, đã chính thức đối mặt thù địch
nhau trong cuộc Chiến tranh Lạnh.
Từ khi Đông Đức được thành lập, người Đông Đức chạy sang Tây Đức ngày
càng nhiều. Bắt đầu từ năm 1952 biên giới giữa hai nước Đức được bảo vệ bằng hàng
rào và có lực lượng canh phòng. Một khu vực cấm dọc theo biên giới có chiều ngang
5 km được thành lập, người dân chỉ được phép đi vào khi có giấy phép đặc biệt – thông
thường là chỉ cho những người dân cư trong vùng. Về hướng biên giới là một giải đất
bảo vệ rộng 500 m và tiếp theo ngay sau đó, trực tiếp cạnh biên giới, là một giải đất
canh phòng có chiều ngang 10 m. Ngược lại, ranh giới của các khu vực chiếm đóng
giữa Tây Berlin và Đông Berlin lại vẫn còn bỏ ngỏ, vì thế mà gần như không thể kiểm

soát được và trở thành một lỗ hổng để người dân chạy qua Tây Berlin. Từ 1949 cho đến
1961 khoảng 2,6 triệu người đã rời bỏ Đông Đức và Đông Berlin, trong số đó vẫn còn
47.433 người chạy trốn chỉ riêng trong hai tuần đầu của tháng 8 năm 1961. Ngoài ra
Tây Berlin cũng là cửa ngỏ đi đến phương Tây cho nhiều người Ba Lan và Tiệp Khắc.
Vì những người này thường là những người trẻ tuổi và được đào tạo tốt nên việc di dân
này là mối đe dọa cho sức mạnh kinh tế của Đông Đức và cuối cùng là cho sự tồn tại
của quốc gia này.
Thêm vào đó khoảng 50.000 người dân Đông Berlin tuy hằng ngày làm việc ở
Tây Berlin nhưng lại sinh sống và cư ngụ dưới những điều kiện rẻ tiền hơn ở Đông
Berlin hay ở những vùng ngoại thành Berlin. Vào ngày 4 tháng 8 năm 1961 Hội đồng
thành phố Berlin (Đông) ban quy định bắt buộc những người này phải đăng ký và phải
trả tiền nhà cũng như những phí tổn phụ (điện, nước) bằng tiền Deutsche Mark của Tây
Đức. Trước khi bức tường được xây dựng, lực lượng Công an Nhân dân của Đông Đức
trong Đông Berlin cũng đã kiểm soát nghiêm ngặt các con đường và phương tiện giao
thông đi qua phần phía tây của thành phố để ngăn chặn những người "chạy trốn cộng
hòa" và "buôn lậu". Ngoài ra, nhiều người ở Tây Berlin và người Đông Berlin nhưng
làm việc tại Tây Berlin đã dùng tiền Mark Đông Đức được đổi với giá rẻ trên thị trường
ngoại tệ chợ đen – tỷ giá hối đoái thời điểm đấy là 1:4 – để mua lương thực thực phẩm
tương đối rẻ và các hàng hóa tiêu dùng cao cấp ít ỏi ở Đông Berlin. Qua đó hệ thống
kinh tế theo chế độ kinh tế kế hoạch của Đông Đức lại càng suy yếu đi. Bức tường được
xây dựng để phục vụ cho ý định của những người cầm quyền Đông Đức, đóng kín cửa
biên giới để chấm dứt cái được gọi một cách bình dân là "bỏ phiếu bằng chân" – rời bỏ
"quốc gia công nông xã hội chủ nghĩa".
Bức tường được xây dựng theo chỉ thị của lãnh đạo Đảng Xã hội Chủ nghĩa
Thống nhất Đức, dưới sự bảo vệ và canh phòng của lực lượng Công an Nhân dân và
Quân đội Nhân dân Quốc gia – trái với những lời cam đoan của Chủ tịch Hội đồng Nhà
nước của Đông Đức, Walter Ulbricht, người trong một cuộc họp báo quốc tế tại Đông

7
Berlin vào ngày 15 tháng 6 năm 1961 đã trả lời câu hỏi của nữ nhà báo Tây Đức

Annamarie Doherr:
"Tôi hiểu câu hỏi của bà là có những người ở Tây Đức muốn chúng tôi huy động
công nhân xây dựng của thủ đô nước Đông Đức để lập nên một bức tường. Tôi không
biết có một ý định như thế vì những người công nhân xây dựng của thủ đô đã dốc toàn
lực của họ để xây chủ yếu là nhà dân cư. Không một ai có ý định dựng lên một bức
tường cả!
Vì thế mà Ulbricht chính là người đầu tiên sử dụng khái niệm bức tường trong
việc này – hai tháng trước khi bức tường được dựng lên.
Tuy quân đội Đồng Minh phía Tây đã có thông tin về kế hoạch của "những biện
pháp cứng rắn" nhằm để phong tỏa Tây Berlin thông qua những người tin cậy, nhưng
họ vẫn ngạc nhiên về thời điểm cụ thể và quy mô của rào cản này. Do quyền ra vào Tây
Berlin không bị cắn xén nên phương Tây đã không can thiệp bằng quân sự. Cơ quan
tình báo Liên bang Đức cũng đã nhận được nhiều thông tin tương tự ngay từ giữa tháng
7. Sau khi Ulbricht viếng thăm Nikita Sergeyevich Khrushchyov trong thời gian của
cuộc họp cấp cao các nước trong khối Warszawa tại Moskva từ 3 tháng 8 đến 5 tháng 8,
báo cáo hằng tuần của BND vào ngày 9 tháng 8 đã ghi lại:
Trong tuyên bố của các quốc gia thành viên trong hội nghị của khối Warszawa
đã có lời đề nghị "phải chặn đứng các hoạt động phá hoại ngấm ngầm chống lại các
nước phe xã hội chủ nghĩa tại biên giới Tây Berlin và phải đảm bảo canh gác và kiểm
soát có hiệu quả vùng Tây Berlin." Vào ngày 11 tháng 8 Quốc hội của Đông Đức chấp
thuận kết quả của hội nghị Moskva và ủy nhiệm cho Hội đồng Bộ trưởng tiến hành tất
cả các biện pháp tương ứng. Vào ngày 12 tháng 8 Hội đồng Bộ trưởng quyết định sử
dụng các "lực lượng vũ trang" để canh phòng biên giới với Tây Berlin và để xây dựng
rào chắn biên giới.
Trong ngày thứ Bảy 12 tháng 8 BND nhận được thông tin từ Đông Berlin, rằng
"vào ngày 11 tháng 8 năm 1961 đã có cuộc họp các bí thư của các nhà xuất bản thuộc
Đảng và các cán bộ Đảng khác tại Ủy ban Trung ương Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống
nhất Đức. Tại đấy, ngoài những việc khác là tuyên bố: [ ] Do tình hình dòng người di
tản tăng liên tục, việc khóa kín phần phía đông của Berlin và khu vực chiếm đóng phía
đông cần phải thực hiện trong những ngày sắp đến – một thời điểm cụ thể không được

nêu ra – chứ không như theo kế hoạch là đến 14 ngày nữa."
Trong đêm 12 rạng sáng ngày 13 tháng 8 năm 1961 Quân đội Nhân dân Quốc
gia, 5.000

người của Cảnh sát biên phòng (tiền thân của Lực lượng Biên phòng sau
này), 5.000 người thuộc Công an Nhân dân và 4.500

người thuộc lực lượng công nhân
vũ trang bắt đầu phong tỏa các đường bộ và đường sắt dẫn đến Tây Berlin. Quân đội
Xô Viết được đặt trong tình trạng báo động và hiện diện tại các cửa khẩu biên giới của
Đồng Minh. Tất cả các liên kết giao thông còn tồn tại giữa hai phần Berlin đều bị gián
đoạn.
Một cuộc chạm trán trực tiếp có vẻ nguy hiểm giữa quân đội Mỹ và Xô Viết xảy
ra vào ngày 27 tháng 10 năm 1961 tại Checkpoint Charlie trên đường Friedrich khi 10
chiếc tăng mỗi bên đã đỗ đối diện nhau ngay trước vạch ranh giới. Thế nhưng vào ngày
hôm sau cả hai nhóm tăng đều được rút về. Cả hai phe đều không muốn vì Berlin mà
cuộc Chiến tranh Lạnh sẽ leo thang hay cuối cùng là đi đến một cuộc chiến tranh hạt
nhân.

8
Đất nƣớc bị chia cắt
Từ ngày 1 tháng 6 năm 1952 dân cư trong Tây Berlin không còn được phép tự
do vào Đông Đức. Sau nhiều cuộc thương lượng kéo dài Hiệp định giấy thông hành
được ký kết năm 1963, tạo điều kiện cho hằng trăm ngàn người Tây Berlin thăm viếng
họ hàng trong phần phía đông của thành phố vào dịp cuối năm.
Bắt từ đầu thập niên 1970 với chính sách tiếp cận giữa Đông Đức và Tây Đức do
Willy Brandt và Erich Honecker mở đầu, biên giới của hai quốc gia được mở rộng hơn
một ít. Đông Đức bắt đầu cho phép đi du lịch dễ dàng hơn, đặc biệt là cho những nhóm
người "phi sản xuất" như những người đang nghỉ hưu và cho phép công dân Tây Đức
thăm viếng một cách đơn giản hơn từ những vùng gần biên giới. Một quyền tự do du

lịch rộng rãi bị Đông Đức gắn liền với việc công nhận thể chế là một quốc gia độc lập
và với yêu cầu trao trả các công dân Đông Đức đi du lịch nhưng không muốn trở về
nữa. Tây Đức đã không muốn thỏa mãn các yêu cầu này vì hiến pháp không cho phép.
Bức tường sụp đổ trong đêm thứ Năm ngày 9 tháng 11, rạng sáng ngày thứ Sáu
ngày 10 tháng 11 năm 1989, sau hơn 28 năm.
Dựa trên thông tin từ các đài truyền thanh và truyền hình của Tây Đức và Tây
Berlin dưới tựa đề được diễn giải một cách sai lầm là "Bức tường đã mở!" hằng ngàn
người dân Đông Berlin đã kéo đến các cửa khẩu và yêu cầu mở cổng. Vào thời điểm
này, không những lực lượng biên phòng mà ngay cả các đơn vị kiểm tra hộ chiếu chịu
trách nhiệm về thủ tục thuộc Bộ An ninh Quốc gia cũng hoàn toàn không được thông
báo gì về vấn đề này. Dưới áp lực của số đông quần chúng, ngay sau 23 giờ, cửa khẩu
biên giới tại đường Bornholm (Bornholmer Straße) ở Berlin được mở đầu tiên mà
không có lệnh hay chỉ đạo cụ thể, sau đấy là các cửa khẩu khác trong thành phố Berlin
cũng như tại biên giới nội địa Đức. Ngay tối khuya đó, nhiều người đã theo dõi việc mở
các cửa khẩu biên giới qua truyền hình và một phần đã bắt đầu ra đi. "Cơn bão" bắt đầu
vào sáng ngày hôm sau, ngày 10 tháng 11 năm 1989, vì rất nhiều người vẫn còn đang
ngủ khi biên giới được mở vào giữa đêm khuya.
Công dân Đông Đức đã được người dân Tây Berlin đón chào nồng nhiệt. Phần
lớn các quán bia gần bức tường tự phát cho uống bia không phải trả tiền và trên đại lộ
Kurfürstendamm là hằng đoàn ô tô bóp còi diễu hành, những người hoàn toàn xa lạ ôm
choàng lấy nhau. Khi có thông tin về việc bức tường được mở cửa, Quốc hội Liên bang
đã tạm ngừng phiên họp về ngân sách quốc gia và các nghị sỹ đã tự phát hát quốc ca.

KHỦNG HOẢNG TÊN LỬA CUBA
Khủng hoảng tên lửa Cuba (tháng 10/1962) là sự kiện kịch tính nhất trong thời
kỳ Chiến tranh Lạnh, từng đẩy Mátxcơva và Oasinhtơn đến bên bờ của một cuộc chiến
tranh hạt nhân.
Nhưng rốt cuộc, ít người biết được nguyên nhân sâu xa gây ra nó và nhân loại
đã thoát ra khỏi thảm hoạ hạt nhân nhãn tiền đó như thế nào.


Kỳ 1: Từ sự kiện Vịnh Con lợn
Chiến tranh Lạnh bắt đầu được một thời gian, Trung Âu và khu vực Viễn Đông
trở thành mặt trận giằng co, đấu tranh chủ yếu của hai phe Xô, Mỹ. Điều đó cũng có
nghĩa thế trận được bày ngay trước cổng của Liên Xô. Đối với Mátxcơva, đặc biệt là
Nikita Khrushchev, người đang giữ chức Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng Cộng sản

9
Liên Xô, đó là điều không thể chấp nhận được. Vì thế, Cremli quyết tâm tìm cách thay
đổi tình hình. Sau khi cách mạng Cuba thắng lợi vào năm 1959, cơ hội đã đến với
người Liên Xô
Đứng trước sự uy hiếp về quân sự và quyết định đình chỉ viện trợ kinh tế của
Mỹ, Cuba vẫn kiên cường. Nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của Mátxcơva, ngày
3/7/1960, lãnh tụ Cuba, Fidel Castro, tuyên bố từ nay về sau sẽ là một bộ phận cấu
thành của phe xã hội chủ nghĩa. Ngày 2/9 năm đó, trong một cuộc mít tinh với sự tham
gia của hàng trăm nghìn người, Fidel đã đọc bản “Tuyên ngôn La Habana” nổi tiếng,
kịch liệt chỉ trích chính sách mở rộng xâm lược của Mỹ ở Mỹ Latinh, tuyên bố “Mỹ
Latinh là của người Mỹ Latinh”.
Sau khi đi theo con đường chủ nghĩa xã hội, dưới sự ủng hộ của các nước xã hội
chủ nghĩa, tình cảm chống Mỹ của người Cuba dâng cao. Tháng 1/1961, Mỹ cắt quan
hệ ngoại giao với Cuba. Quan hệ giữa Mỹ và Cuba căng thẳng cực độ. Ngày 20/1/1961,
John Kennedy lên thay Dwight Eisenhower làm tổng thống thứ 35 của Mỹ.
Tình hình vẫn không có gì thay đổi bởi trong quá trình tranh cử, Kennedy đã
biểu thị một cách rõ ràng rằng Mỹ sẽ không để cho Liên Xô biến Cuba thành căn cứ của
mình trên biển Caribê. Tiếp quản Nhà Trắng, Kennedy càng cho thúc đẩy kế hoạch ủng
hộ các phẩn tử lưu vong Cuba lật đổ chính quyền của Fidel. Theo Dobrynin, nhà ngoại
giao kỳ cựu của Liên Xô, Cục tình báo trung ương Mỹ và Lầu Năm góc đã lên kế hoạch
bí mật mang tên Mangosta với mục tiêu là làm suy yếu và sụp đổ hoàn toàn chính
quyền của Fidel.
Ngày 15/4/1961, ba chiếc máy bay B-26 sơn cờ hiệu Cuba mang theo bom, tên
lửa và súng máy tấn công một số sân bay chủ yếu gần La Habana như ở Ciudad

Libertad, San Antonio de Los Banos… Sau đó, hai trong ba chiếc B-26 hạ cánh xuống
Florida (Mỹ), những tên phi công bước xuống, tự xưng là người của không quân Cuba
đào tẩu, yêu cầu được tị nạn chính trị.
Chiếc B-26 còn lại bị pháo cao xạ Cuba bắn bị thương, buộc phải hạ cánh xuống
Giamaica. Kì thực, ba chiếc máy bay này không giống những chiếc máy bay không
quân Cuba sử dụng. Trên thực tế, nó cất cánh từ một căn cứ ở trong lãnh thổ Goatêmala
và do những phần tử lưu vong điều khiển. Chúng muốn tiêu diệt hoàn toàn lực lượng
không quân của Cuba, nhưng đã không thể toại nguyện.
Cũng đúng lúc này, hơn 1.200 phần tử lưu vong Cuba tổ chức thành một đội đột
kích viễn chinh, lên 4 chiếc tầu rời cảng ở Nicaragoa. Chúng mang theo 5 chiếc xe tăng,
nhiều khẩu pháo 75 mm và súng chống tăng, sáng sớm ngày 17/4 đổ bộ lên bãi biển
Giron ở trung nam bộ Cuba. Ngoài ra, các phần tử phản động lưu vong Cuba còn sử
dụng máy bay để thả xuống Cuba 175 tên lính dù.
Tuy nhiên, điều chúng không ngờ là vừa chân ướt chân ráo lên bờ đã bị tan tác
bởi lưới lửa phục kích của các lực lượng vũ trang Cuba. Kết quả: 82 tên đền mạng, gần
1.200 tên bị bắt sống, chỉ có khoảng 50 tên lóp ngóp trên biển được tầu Mỹ cứu vớt
mang đi. Đây chính là Sự kiện bãi biển Giron hay còn gọi là Sự kiện Vịnh Con lợn. Hệ
quả của nó là: 1/ Làm tăng thêm quyết tâm đi theo con đường xã hội chủ nghĩa cùng
Liên Xô của nhân dân Cuba.
Tháng 5/1961, Fidel chính thức tuyên bố Cuba là một nước xã hội chủ nghĩa,
hợp nhất Phong trào 26/7, Đảng Xã hội nhân dân và Ủy ban chỉ đạo cách mạng 13/3,
xây dựng tổ chức cách mạng thống nhất (năm 1965 đổi thảnh Đảng Cộng sản Cuba).

10
2/ Làm cho chính phủ Mỹ bị dư luận trong ngoài nước chỉ trích. Cuộc đổ bộ lên
bãi biển Giron thảm bại là đòn đánh mạnh vào Kennedy. Sau khi Sự kiện Vịnh Con lợn
xảy ra, Kennedy lập tức phái hai thuộc hạ thân tín tới Florida theo dõi việc lãnh đạo
chính trị những phần tử lưu vong Cuba đang phẫn nộ vì bị CIA cấm tiếp xúc với thế
giới bên ngoài.
Không lâu sau, Kennedy đã hoà giải thành công với những tên lãnh đạo lực

lượng Cuba lưu vong, đồng ý với chúng rằng Mỹ sẽ bỏ 53 triệu USD để chuộc những
tên phản động lưu vong bị bắt trong Sự kiện Vịnh Con lợn về trước lễ Noel và sẽ loại
Cuba ra khỏi Tổ chức các nước châu Mỹ trong hội nghị của tổ chức này vào tháng
1/1962…
3/ Cổ vũ mạnh mẽ phe xã hội chủ nghĩa. Ngày 18/4/1961, Liên Xô ra tuyên bố
kiên quyết ủng hộ cuộc đấu tranh dũng cảm giành độc lập, tự do của nhân dân Cuba,
yêu cầu Mỹ ngừng mọi hành động xâm lược nhằm vào Cuba. Khrushchev sau này cũng
viết: “Sau khi Fidel giành thắng lợi quyết định trước các phần tử phản cách mạng,
chúng tôi đã tăng cường viện trợ quân sự cho Cuba. Quân đội Cuba có thể tiếp nhận
được bao nhiêu vũ khí, chúng ta sẽ cung cấp bấy nhiêu”.
Nếu đem kết hợp ba yếu tố trên lại, rõ ràng, Cuba ngày càng gần với Liên Xô và
phe xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh giữa Mátxcơva và Oasinhtơn lấy La Habana làm
thể mang cũng ngày càng quyết liệt. Cuộc khủng hoảng trên biển Caribê đã xảy ra trong
bối cảnh đó.
Kỳ 2: Đến những chuyến tầu bí mật trên biển Caribê
Từ khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu, hai phe Xô, Mỹ luôn trong tình trạng “tên
chuẩn bị rời cung, súng sẵn sàng lẩy cò” và bên nào cũng muốn giành phần thắng.
Về phần Oasinhtơn, sau khi Eisenhower bước vào Nhà Trắng, John Dulles thay
George Marshall làm Ngoại trưởng, từ “ngăn chặn”, chính sách đối phó với phe xã hội
chủ nghĩa của Mỹ đã chuyển thành “ngăn chặn và giải phóng”:
Một mặt dựa vào ưu thế hạt nhân quân sự để đạt được hiệu quả uy hiếp cao nhất
với giá thấp nhất, thông qua răn đe hạt nhân và thiết lập vòng vây quân sự tiếp tục ngăn
chặn sự “bành trướng” của Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản; mặt khác dựa vào các hành
động bí mật và tấn công tâm lý để lật đổ chính quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa, dùng
biện pháp hòa bình “giải phóng nhân dân các nước Đông Âu khỏi ách áp bức của chủ
nghĩa cộng sản” (chiến lược Diễn biến hòa bình).
Đối với Mátxcơva, sau khi Stalin mất, Georgy Malenkov lên giữ chức Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng. Trong hơn hai năm nắm quyền, Malenkov đã cho thực thi chính
sách đối ngoại tương đối hòa hoãn, làm dịu bớt sự đối kháng vốn rất quyết liệt với thế
giới phương Tây do Mỹ đứng đầu.

Năm 1955, sau khi Malenkov từ chức, Khrushchev đã không vì những bất đồng
với Malenkov trong vấn đề đối nội mà thay đổi chính sách đối ngoại của Liên Xô, thậm
chí còn tỏ ra hòa hoãn hơn với phương Tây so với người tiền nhiệm. Ví dụ: Liên Xô kết
thúc tình trạng chiến tranh với Đức, thừa nhận sự trung lập của Áo và rút quân đội ra
khỏi nước này, cải thiện quan hệ với Mỹ, tìm cách giải trừ quân bị, cấm bom nguyên tử,
đưa ra đường lối tổng thể cho chính sách đối ngoại với nội dung chủ yếu là chung sống
hòa bình…
Ở một mức độ nào đó, những điều chỉnh của Mỹ và Liên Xô đã làm dịu bớt sự
căng thẳng của tình hình quốc tế kể từ khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu. Tuy nhiên, điều đó

11
không có nghĩa Mátxcơva và Oasinhtơn lùi bước vì thực chất đây là thủ đoạn tấn công
mới. Trước tiên, cả Liên Xô và Mỹ khi đó đều gặp phải nhiều khó khăn lớn.
Với Mỹ là vai trò minh chủ phe phương Tây bị lung lay do không thể giành
chiến thắng trên chiến trường Triều Tiên. Với Liên Xô là khuynh hướng li tâm của các
nước Đông Âu do phải đối mặt với những khó khăn kinh tế trong nước. Bên cạnh đó, cả
Liên Xô và Mỹ đều lấy thực lực quân sự làm lá chắn bảo vệ và không chịu đơn phương
nhượng bộ. Do đó, mặc dù mùa đông băng giá của Chiến tranh Lạnh đã đi qua, nhưng
mùa xuân hòa hoãn vẫn chưa tới.
Trong thời khắc giao mùa đó, giữa Liên Xô và Mỹ, giữa phe xã hội chủ nghĩa và
phe đế quốc chủ nghĩa lại xuất hiện những dòng hàn lưu đối kháng như cuộc khủng
hoảng Béclin lần thứ hai, sự kiện bức tường Béclin, sự kiện máy bay do thám U-2 của
Mỹ bị bắn rơi trên bầu trời Liên Xô, sự đổ vỡ của hội nghị thượng đỉnh Pari… Tuy
nhiên, dòng hàn lưu lớn nhất lại đến từ biển Caribê.
Sau sự kiện bãi biển Giron, chính sách khống chế và phong tỏa của Mỹ đối với
Cuba càng ngặt nghèo hơn. Ngoài việc cấm vận mậu dịch toàn diện, Oasinhtơn tiếp tục
sử dụng biện pháp cô lập để ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản kiểu Fidel
ở Mỹ Latinh và không từ bỏ ý định can thiệp vũ trang. Vì thế, Lầu Năm góc thường
xuyên phái máy bay do thám tầm cao U-2 tiến hành giám sát Cuba, chiêu mộ 150.000
quân dự bị, cho phép những phần tử Cuba lưu vong gia nhập quân đội Mỹ, tổ chức diễn

tập quân sự quy mô lớn ở biển Caribê…
Hơn ai hết, Chủ tịch Fidel Castro, hiểu rõ thế và lực của Cuba lúc này, muốn
chống lại Mỹ cách tốt nhất là nhờ vào sự giúp đỡ của Liên Xô. Sau sự kiện bãi biển
Giron, Khrushchev đã hai lần viết thư cho Kennedy nói rõ với người Mỹ rằng Liên Xô
phải cung cấp cho Cuba mọi sự viện trợ cần thiết. Tháng 7/1962, Fidel phái Raul và
Che Guevara dẫn đầu đoàn đại biểu Cuba thăm Liên Xô với mục đích chủ yếu là yêu
cầu Liên Xô có biện pháp giúp Cuba.
Trên thực tế, từ khi xảy ra sự kiện bãi biển Giron, Khrushchev luôn suy nghĩ
nghiêm túc về sách lược đối với vấn đề Cuba. Theo Khrushchev, người Mỹ sẽ không
thể chấp nhận được sự tồn tại của chính quyền Fidel. Nếu Liên Xô không có bước đi
quyết định bảo vệ Cuba thì rất có thể sẽ mất Cuba. Nếu Cuba sụp đổ, các nước Latinh
khác sẽ rời bỏ Liên Xô, làm sụt giảm nghiêm trọng vị thế của Liên Xô trên trường quốc
tế. Với suy nghĩ đó, Khrushchev quyết tâm biến Cuba thành lô cốt đầu cầu ngay trong
sân sau của phương Tây.
Trong chuyến thăm này, Cuba và Liên Xô đã đạt được một hiệp định đàm phán
quân sự. Theo đó, Liên Xô sẽ cung cấp viện trợ quân sự cho Cuba và cử chuyên gia
quân sự tới đảo quốc này. Nội dung cụ thể của hiệp định không được công bố, nhưng
sau đó người Mỹ phát hiện, số lượng tầu Liên Xô chở vật tư đi tới biển Caribê tăng
mạnh, chỉ trong hai tháng 7 và 8/1962 đã là hơn 100 lượt. Đặc biệt, những chiếc tàu này
sau khi cập cảng Cuba, hàng hoá đều do người Liên Xô bốc dỡ.
Điều này đã làm cho người Mỹ nghi ngờ. Khi đó, ở nước Mỹ cũng loang đi tin
có 16 tàu hàng của Liên Xô chở theo 3.000-5.000 nhân viên kĩ thuật và rất nhiều cấu
kiện tên lửa đã tới Cuba. Tuy chưa được kiểm chứng, nhưng nó đã làm cho người Mỹ
cảm thấy bất an. Ngay lập tức, Mỹ tăng cường giám sát đường không và đường biển đối
với Cuba, chụp ảnh tất cả những tàu Liên Xô đi vào vùng biển Cuba.

12
Kennedy rất quan tâm tới những thông tin tình báo này. Bắt đầu từ tháng 8/1962,
việc nhân viên và trang bị của Liên Xô được đưa vào Cuba luôn nằm trong chương
trình nghị sự của Nhà Trắng. Phái cứng rắn của Đảng Cộng hòa càng được thể, phê

phán sự yếu kém về chính sách đối ngoại của chính quyền Kennedy (thuộc Đảng Dân
chủ). Cuối tháng 8 năm đó, Che Guevara dẫn đầu đoàn đại biểu thứ hai của Cuba sang
thăm Mátxcơva.
Ngày 2/9, hai nước ra thông báo cho biết Liên Xô đồng ý với yêu cầu cung cấp
vũ khí và chuyên gia kĩ thật cũng như huấn luyện cho lực lượng vũ trang của Cuba. Sự
hoài nghi của người Mỹ đã được chứng thực. Ngày 4/9, Nhà Trắng ra tuyên bố về việc
Liên Xô thiết lập trận địa tên lửa phòng không ở Cuba và tàu chở tên lửa của Liên Xô.
Người Mỹ không thể chấp nhận được cảnh những quả tên lửa đất đối đất và các loại vũ
khí tiến công khác được bố trí ở Cuba.
Đứng trước sự phản ứng quyết liệt của Mỹ, ngay ngày hôm đó, Khrushchev đã
viết thư gửi Kennedy, bảo đảm rằng trước khi cuộc bầu cử Quốc hội Mỹ diễn ra sẽ
không có bất cứ hành động gì làm phức tạp hóa tình hình quốc tế và khiến quan hệ hai
nước căng thẳng thêm. Một tuần sau, chính phủ Liên Xô ra tuyên bố: Liên Xô không
cần thiết phải di chuyển vũ khí tiến công chiến lược sang nước khác như Cuba. Liên Xô
có khả năng chi viện cho bất cứ nước nào yêu chuộng hoà bình ngay từ lãnh thổ của
mình.
Kì 3: Cuộc đấu vẫn tiếp tục
Vào những năm 1960, trong khi vẫn tiếp tục đàm phán về việc dừng thử nghiệm
hạt nhân và cắt giảm quân bị, cả Liên Xô và Mỹ lại tăng cường thử nghiệm hạt nhân.
Năm 1959, một tướng lĩnh cao cấp Bộ Quốc phòng Mỹ đã dự đoán: cuối năm 1962, số
lượng tên lửa tầm xa của Mátxcơva sẽ gấp 3 lần Mỹ.
Kennedy rất quan tâm tới điều này. Chính vì vậy, trong ba năm cầm quyền
(1961- 1963), Kennedy liên tục gia tăng ngân sách quốc phòng. Tháng 3/1961,
Kennedy ra lệnh đẩy mạnh việc nghiên cứu, chế tạo và sản xuất tên lửa Polaris bắn từ
tàu ngầm và tên lửa Minuteman phóng từ lòng đất. Ngoài ra, Mỹ còn tìm cách tăng
cường sự có mặt của mình ở Tây Đức, Áo, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ để hình thành thế
bao vây đối với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.
Trong hai năm: 1959 và 1960, quân đội NATO và quân đội Tây Đức nhiều lần tổ
chức diễn tập liên hợp lấy Liên Xô và Đông Âu làm kẻ địch giả tưởng. Những quả tên
lửa của Mỹ bố trí ở Thổ Nhĩ Kỳ chỉ mất 5-6 phút là có thể vươn tới Mátxcơva. Trong

khi đó, nếu phóng từ lãnh thổ của mình và muốn đến được nước Mỹ, tên lửa của Liên
Xô phải mất từ 20-30 phút bay
Cục diện bất lợi này khiến Khrushchev cảm thấy bất an. Trước chuyến thăm
Mátxcơva của Raul Castro, tháng 5/1962, Khrushchev đi thăm Bungari. Một hôm,
Khrushchev đi dạo trên bờ Biển Đen với Nguyên soái Rodion Malinovsky - Bộ trưởng
Quốc phòng Liên Xô. Malinovsky chỉ tay sang phía bờ đối diện nói: “Chỉ cần vài phút
là những quả tên lửa hạt nhân bố trí ở các căn cứ quân sự Mỹ trên đất Thổ Nhĩ Kỳ có
thể huỷ diệt Kiép, Minxcơ và Mátxcơva”.
Khrushchev hỏi: “Vậy tại sao chúng ta không thể thiết lập căn cứ quân sự ở gần
nước Mỹ?” Và Khrushchev quyết tâm biến ý tưởng đó thành hiện thực. Đúng lúc này,
quan hệ giữa Mỹ và Cuba leo thang căng thẳng. Trong một thời gian ngắn, Cuba đã cử

13
hai đoàn đại biểu sang thăm Liên Xô, đề nghị Mátxcơva giúp La Habana chống lại sự
xâm lược của Oasinhtơn
Nhằm tạo thế cân bằng với Mỹ, Khrushchev đương nhiêu đã vui vẻ nhận lời giúp
đỡ Cuba. Nhưng giúp bằng cách gì? Cung cấp những loại vũ khí thông thường như xe
tăng, đại pháo …cũng chỉ giúp Cuba nâng cao khả năng phòng ngự thông thường,
không thể tạo ra sức mạnh răn đe đối với Mỹ. Khrushchev cho rằng: “Chúng ta nhất
định phải nghĩ ra biện pháp thực tế để đối phó với Mỹ và sự can thiệp của Mỹ ở biển
Caribê”. Cuối cùng, Khrushchev quyết định phải xây dựng căn cứ quân sự và bố trí tên
lửa hạt nhân, máy bay Il-28 ở Cuba.
Khrushchev dự tính nếu hoàn thành việc bố trí tên lửa hạt nhân ở Cuba trước khi
bị người Mỹ phát hiện thì chỉ cần 1/10 số tên lửa của Liên Xô thoát khỏi đòn trả đũa
của Lầu Năm góc cũng đủ giáng đòn sấm sét vào New York. Kết quả của việc bố trí tên
lửa hạt nhân ở Cuba không chỉ có thể khống chế hành động quân sự tuỳ tiện của Mỹ
nhằm vào Cuba, mà còn giúp tạo thế cân bằng hạt nhân giữa Mátxcơva và Oasinhtơn.
Theo Khrushchev, người Mỹ xây dựng các căn cứ quân sự bao vây Liên Xô, sử dụng
vũ khí hạt nhân đe doạ Liên Xô, nên họ đáng được nếm vị đắng khi thấy tên lửa của
Liên Xô chĩa vào

Chính phủ Liên Xô phê chuẩn kế hoạch của Khrushchev, căn cứ vào hiệp định bí
mật kí với Cuba, quyết định bố trí tên lửa tầm trung ở Cuba và cung cấp máy bay ném
bom phản lực Il-28 cho Cuba. Hàng chục quả tên lửa (mỗi quả có thể mang đầu đạn hạt
nhân có sức công phá lớn gấp hàng chục lần so với quả bom nguyên tử Mỹ ném xuống
Hiroshima và Nagasaki - Nhật Bản) và hàng chục chiếc máy bay đã được tháo rời, đóng
vào kiện, bí mật chuyển lên những chiếc tàu chở hàng đưa đến Cuba.
Khoảng 3.500 nhân viên kĩ thuật Liên Xô cũng xuống tàu sang Cuba. Tới ngày
2/9, khi hai đoàn đại biểu Liên Xô và Cuba ra tuyên bố chung, kế hoạch vận chuyển vũ
khí và nhân viên kĩ thuật của Liên Xô cơ bản đã hoàn tất. Tuy nhiên, Khrushchev
không thể ngờ rằng kế hoạch chuyển thế trận từ Đông bán cầu sang Tây bán cầu của
mình lại gây ra một cơn sóng gió lớn đến vậy trong quan hệ giữa Mátxcơva và
Oasinhtơn cũng như trên trường quốc tế. Nguy cơ chiến tranh cũng không đặt Liên Xô
vào vòng ngoại lệ.
Kì 4: Phát hiện kinh hoàng của những chiếc máy bay do thám tầm cao U-2
Trong khi người Liên Xô bí mật vận chuyển tên lửa và máy bay đến Cuba, người
Mỹ cũng không một phút ngơi nghỉ, vận dụng mọi thủ đoạn có thể để tìm hiểu chân
tướng sự việc và đề ra sách lược đối phó.
Ở phương diện này, U-2, chiếc máy bay do thám từng làm người Mỹ mất mặt
khi bị bắn rơi trên bầu trời Liên Xô rạng sáng 1/5/1960 và sau đó làm phá sản hội đàm
thượng đỉnh 4 nước: Mỹ, Anh, Pháp, Liên Xô, dự kiến tổ chức vào trung tuần tháng
5/1960 tại Pari, giờ lại tỏ ra hữu dụng đối với Kennedy. Bởi nhờ nó, ông chủ Nhà Trắng
đã có được bằng chứng về việc Liên Xô bố trí tên lửa ở Cuba trước khi quá muộn.
Sau khi xảy ra sự kiện bãi biển Giron, Kennedy đã phê chuẩn kế hoạch phục hồi
những chuyến bay do thám của U-2. Rạng sáng chủ nhật ngày 14/9/1962, một chiếc U-
2 được lệnh cất cánh làm nhiệm vụ trinh sát đường không ở khu vực phía tây Cuba. Tối
hôm đó, các chuyên gia phân tích không ảnh của CIA đã thức trắng để kiểm tra, đối
chiếu, so sánh những tấm ảnh U-2 vừa chụp với những tấm ảnh có từ trước

14
Họ bàng hoàng phát hiện dấu vết đầu tiên về sự có mặt của một căn cứ tên lửa

tầm trung của Liên Xô ở San Cristobal (tỉnh La Habana). Ngay lập tức, thông tin trên
được cấp báo cho cố vấn an ninh quốc gia, George Bundy. Nhận thấy tính nghiêm trọng
của sự việc, không một chút chậm trễ, Bundy vội vàng sang gặp tổng thống. 11 giờ trưa
16/10, trên bàn Kennedy đã có tất cả những tấm ảnh phóng to cùng lời chú giải của CIA
về căn cứ tên lửa của Liên Xô trên đất Cuba.
Theo CIA, những bãi phóng tổng hợp của Liên Xô xây dựng ở Cuba được cấu
thành từ 16-20 quả tên lửa, có thể sẵn sàng tham chiến trong vòng 2 tuần nữa. Khi đó,
Oasinhtơn, Dalas hay Saint Louis và rất nhiều thành phố khác cùng toàn bộ các căn cứ
trực thuộc Bộ tư lệnh không quân chiến lược Mỹ đều nằm trong tầm bắn của tên lửa
Liên Xô. Viễn cảnh khủng khiếp trên khiến người Mỹ không thể ngồi yên. Trong một
hành động được cho là đối phó, Lầu Năm góc nhanh chóng vạch ra kế hoạch huấn
luyện quân sự và lấy đó làm bình phong che mắt để tiến hành tập kết binh lực ở các căn
cứ quân sự thuộc bang Florida, gần Cuba.
Tham gia kế hoạch huấn luyện quân sự trên của Lầu Năm góc có khoảng 40.000
lính thủy đánh bộ Mỹ, trong đó 5.000 quân được bố trí ở căn cứ hải quân Guantnamo
của Mỹ trên lãnh thổ Cuba. Sư đoàn đổ bộ đường không số 101, tinh nhuệ nhất của
quân đội Mỹ cũng được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Tất cả chỉ đợi lệnh là
nổ súng tiến công Cuba.
Từ 11 giờ trưa đến 6 giờ chiều ngày 16/10, Kennedy đã triệu tập hai cuộc họp bí
mật thảo luận về kế hoạch hành động đối với Cuba. Phái diều hâu trong Lầu Năm góc
đưa ra hai phương án cứng rắn: 1/ Lực lượng vũ trang Mỹ trực tiếp tấn công Cuba. Ban
đầu, máy bay Mỹ sẽ tiến hành tấn công đường không, phá hủy các cơ sở phòng thủ, kho
vũ khí và sân bay của Cuba. Sau đó, lính thủy đánh bộ Mỹ sẽ đổ bộ lên Cuba, tiêu diệt
toàn bộ tên lửa, nhân viên kĩ thuật của Liên Xô và chính quyền Fidel.
2/ Huy động khoảng 500 chiếc máy bay tiến hành ném bom rải thảm đối với
Cuba, mục tiêu chủ yếu là các bãi phóng tên lửa của Liên Xô. Tuy nhiên, cả hai phương
án này rõ ràng mang tính xâm lược, đặc biệt là có thể khơi nguồn cho một cuộc chiến
tranh giữa Mỹ và Liên Xô, nên đã gặp phải sự phản đối của phái ôn hòa chiếm đa số tại
cuộc họp.
Quan trọng hơn, Kennedy vẫn chưa biết rõ mục đích thực sự của Liên Xô khi

đem tên lửa bố trí tại Cuba: là thử phản ứng của Mỹ hay dụ Oasinhtơn ra đòn tiến công
quân sự nhằm vào Cuba, khiến Mỹ phải hứng chịu búa rìu dư luận hoặc buộc Mỹ tham
gia vào cuộc mặc cả mang tính toàn cầu (muốn Liên Xô rút tên lửa khỏi Cuba, Mỹ phải
nhượng bộ trong vấn đề Béclin hoặc rút tên lửa khỏi Thổ Nhĩ Kỳ). Do vậy, Kennedy
cho rằng việc phát động một cuộc tấn công quy mô lớn vào Cuba lúc này là vô cùng
mạo hiểm.
Sau nhiều lần cân nhắc và hiệp thương với các nhân vật chóp bu Nhà Trắng và
Lầu Năm góc, Kennedy quyết định thành lập hai tiểu ban đặc biệt, yêu cầu hai tiểu ban
này khẩn cấp hoàn thành kế hoạch chi tiết cho việc đối phó với tình hình mới phát sinh
ở Cuba. Để bảo mật, những người tham gia hai tiểu ban này vẫn phải làm những công
việc thường nhật của mình. Nhìn vẻ ngoài, cuộc sống của những người dân Mỹ vẫn
diễn ra bình thường, ít ai ngờ rằng khi đó đất nước họ đang chuyển động cùng quá trình
thai nghén một hành động quân sự lớn nhằm vào đảo quốc nhỏ bé-Cuba.

15
Một số nét về U-2 U-2 là máy bay do thám phản lực tầm cao một chỗ ngồi của
Mỹ, có thể bay làm nhiệm vụ do thám ở độ cao trên 20 km. U-2 do hãng Lockheed sản
xuất theo đơn đặt hàng của CIA. U-2 được trang bị máy chụp ảnh hồng ngoại có ống
kính đặc biệt 915 mm, có thể chụp được những khu vực rộng khoảng 200 km, dài trên
4.800 km. Sau khi phóng to ảnh U-2 chụp, người ta có thể phân biệt rõ những vật thể có
đường kính khoảng 50 cm.
Kì 5: Cuộc khủng hoảng bắt đầu ló dạng
Về thời gian xảy ra cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, sử sách đều ghi bắt đầu từ
ngày 22/10/1962 khi Mỹ tuyên bố phong tỏa Cuba và kết thúc vào ngày 28/10 khi Liên
Xô và Mỹ kí hiệp định, theo đó, Mátxcơva sẽ đình chỉ việc xây dựng căn cứ tên lửa ở
Cuba và triệt thoái tên lửa khỏi Cuba.
Trong “tuần lễ đen tối” (nói theo lời Bộ trưởng Tư pháp Mỹ lúc đó, Robert
Kennedy) này, cả thế giới như căng lên cùng cuộc đối đầu giữa hai siêu cường Xô-Mỹ.
hính vào lúc Nhà Trắng tập trung tinh lực nghiên cứu đề ra đối sách, Cremli đẩy
nhanh tốc độ vận chuyển vũ khí sang Cuba và xây dựng căn cứ tên lửa ở Cuba. Trên

phương diện ngoại giao, Mátxcơva cũng thể hiện rõ thái độ cứng rắn. Ngày 18/10, Bộ
trưởng Ngoại giao Liên Xô, Andrei Andreyevich Gromyko, lần lượt hội kiến với Tổng
thống Mỹ, John Kennedy và Ngoại trưởng Mỹ, David Dean Rusk, tại New York.
Gromyko khẳng định: “Nếu Mỹ lựa chọn hành động thù địch đối với Cuba, cũng
có nghĩa Mỹ đã nhằm vào một số nước có quan hệ tốt đẹp với Cuba, tôn trọng độc lập
của Cuba và viện trợ cho Cuba những lúc khó khăn. Trong bối cảnh đó, Liên Xô sẽ
không đứng nhìn. Giờ không phải là giữa thế kỷ 19, không phải là thời đại thế giới phân
chia thành những mảnh đất thuộc địa thực dân, cũng không thể xảy ra cảnh một nước bị
xâm lược hàng tuần rồi mà vẫn không kêu gọi cứu viện được. Liên Xô là một quốc gia
vĩ đại. Liên Xô sẽ không là một kẻ bàng quan trước nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến
tranh lớn gây ra bởi vấn đề Cuba hay tình hình ở khu vực khác trên thế giới”.
Khi đó cả Tổng thống Kennedy, Ngoại trưởng Rusk, Bộ trưởng quốc phòng
McNamara, Bộ trưởng Tư pháp Robert Kennedy và Thứ trưởng Ngoại giao George
Power đều biểu thị Mỹ không muốn tấn công vũ trang đối với Cuba, nhưng quyết
không cho phép Liên Xô biến hòn đảo này thành căn cứ quân sự tiến công Mỹ và các
nước Mỹ Latinh. Gromyko phản đòn: “Mỹ xây dựng căn cứ quân sự ở Thổ Nhĩ Kỳ,
Nhật Bản và phái tới đó không ít cố vấn quân sự.
Ấy là chưa nói tới ở Anh, Italia và một số quốc gia Tây Âu khác. Một khi Mỹ có
thể xây dựng căn cứ quân sự ở những quốc gia trên thì Mỹ cũng có thể ký hiệp ước
quân sự ưới những quốc gia này. Lẽ nào Liên Xô không có quyền giúp Cuba phát triển
kinh tế và củng cố quốc phòng”. Sự cứng rắn của Mátxcơva như chất xúc tác khiến Nhà
Trắng ngày càng thiên về lựa chọn một quyết sách cứng rắn.
Sau cuộc họp bí mật của Nhà Trắng, các thành viên tiểu ban bí mật (sau này có
tên: “Tiểu ban chấp hành Ủy ban An ninh Quốc gia”) cũng tham gia vào 4 cuộc thảo
luận trong 4 đêm liên tục nhằm tập hợp ý kiến, đưa ra các phương án đối phó với việc
Liên Xô đưa tên lửa sang Cuba. Đa số đồng ý với việc thiết lập một vành đai phong tỏa
đặc biệt ngăn chặn Liên Xô đưa các thiết bị nguyên tử vào Cuba. Ngày 18/9, Kennedy
quyết định thành lập ủy ban chuyên môn phụ trách việc hoạch định những hành động
đối phó cụ thể và chỉ một ngày sau, ủy ban này đã đưa ra được một loạt phương án khác
nhau, chỉ đợi tổng thống phê chuẩn.


16
Chiều 20/9, lấy lý do sức khỏe không được tốt, Kennedy rời Chicago về
Oasinhtơn, lập tức cho triệu tập hội nghị lần thứ 505 Ủy ban An ninh Quốc gia tại
phòng bầu dục ở Nhà Trắng. Kennedy đưa ra những tấm ảnh chụp các bãi phóng tên
lửa Liên Xô ở Cuba, rồi giải thích rõ cho những người dự hội nghị về phương án phong
tỏa Cuba. Qua thảo luận và nghe ý kiến của các thành viên Ủy ban An ninh Quốc gia
cũng như sự tham vấn của Bộ tư lệnh không quân chiến lược, Kennedy quyết định cho
thực thi kế hoạch phong tỏa trên biển đối với Cuba.
Để giảm bớt mùi thuốc súng, thay vì dùng từ “phong tỏa”, kế hoạch này sử dụng
từ “cách ly”. Trước khi công bố quyết sách quan trọng, đặt đất nước vào tình trạng khẩn
cấp, chính phủ Mỹ đã khẩn trương hoàn thành công tác chuẩn bị, gồm: liên lạc với các
sứ quán Mỹ ở nước ngoài, khởi thảo tuyên bố kiểm tra, cách ly tàu thuyền, thông báo
cho Tổ chức các nước châu Mỹ, tăng viện binh lực cho căn cứ hải quân Guantanamo….
Đặc biệt, 6 giờ tối 22/10, một tiếng trước khi Mỹ công bố lệnh phong tỏa Cuba,
Ngoại trưởng Rusk triệu kiến khẩn cấp Dobrynin, trao cho vị Đại sứ Liên Xô tại Mỹ
này bức thư Tổng thống Kennedy gửi nhà lãnh đạo Khrushchev và tuyên bố đặt đất
nước trong tình trạng khẩn cấp sắp được phát đi trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Ngoại trưởng Rusk từ chối đưa ra bất kì lời giải thích hay hồi đáp nào. Sau khi
tiếp nhận hai văn kiện trên, Đại sứ Dobrynin nói luôn: “Chính phủ Mỹ đang âm mưu
gây ra một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Điều đó có nghĩa Mỹ đã từ chối đàm phán
về các vấn đề song phương giữa hai nước”.
Trong bức thư gửi Khrushchev, Kennedy viết: “Nếu như xảy ra một sự kiện nào
đó, nhằm bảo vệ mình và an ninh của các đồng minh, chúng tôi sẽ làm tất cả những gì
phải làm. Ở Cuba đã xuất hiện căn cứ tên lửa và hệ thống vũ khí tiến công của Liên Xô,
do đó, tôi phải nói với ngài rằng Mỹ quyết định phải loại bỏ tận gốc sự uy hiếp này ở
Tây bán cầu. Hành động mà chúng tôi sắp sửa tiến hành chỉ là mức thấp nhất của việc
loại bỏ tận gốc sự uy hiếp này ở Tây bán cầu”.
7 giờ tối 22/10/1962, Kennedy bắt đầu bài phát biểu trên truyền hình. Kennedi
nói: “Giống như những gì đã cam kết, chính phủ liên tục theo dõi chặt chẽ hành động

quân sự của Liên Xô ở Cuba. Tuần trước, có rất nhiều bằng chứng không thể chối cãi
cho thấy trên hòn đảo này đang có sự xây dựng một hệ thống tên lửa mang tính tiến
công. Căn cứ tên lửa này, ngoài việc đem tới sức mạnh vũ trang tấn công Tây bán cầu
thì không có mục đích nào khác.
Có được loại vũ khí tầm xa mang tính tiến công với sức sát thương quy mô lớn
như vậy, Cuba sẽ lập tức biến thành căn cứ chiến lược quan trọng, tạo ra sự uy hiếp rõ
ràng đối với người châu Mỹ và hòa bình, an ninh. Lần đầu tiên, người Liên Xô quyết
định bí mật bố trí thứ vũ khí chiến lược này ngoài lãnh thổ của họ. Điều đó cho thấy họ
cố ý thay đổi hiện trạng. Nếu chúng ta hy vọng bạn bè tin vào dũng khí và những lời
cam kết của chúng ta, Mỹ phải quyết không để Liên Xô làm như vậy”.
Ngay sau đó, Kennedy ra lệnh cho quân đội Mỹ bước vào trạng thái sẵn sàng
chiến đấu, 24 tiếng đồng hồ sau đó lại ký văn kiện số 3504, tuyên bố bắt đầu từ 14 giờ
(giờ GMT) ngày 24/10, Mỹ sẽ tiến hành phong tỏa toàn diện đối với Cuba, bất cứ tàu
thuyền nào tới Cuba đều phải chịu sự kiểm tra của các chiến hạm Mỹ, nếu chống lệnh
sẽ bị bắn chìm. Một biên đội hải quân khổng lồ của Mỹ được tập kết ở biển Caribê.
Một nửa số máy bay ném bom chiến lược của Mỹ sẵn sàng cất cánh. Những
chiếc tàu ngầm trang bị tên lửa Polaris đã tiến vào trận địa tác chiến. Bài phát biểu trên

17
truyền hình của Kennedy được phát đi trên toàn thế giới bằng 38 loại ngôn ngữ khác
nhau đã gây ra phản ứng mạnh mẽ. Mỹ bắt đầu hành động. Nguy cơ về một cuộc đối
đầu nghiêm trọng kể từ sau Chiến tranh Triều Tiên, thậm chí là sau Chiến tranh Thế
giới lần thứ II đã lộ diện.
CHIẾN TRANH TRIỀU TIÊN
Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) là mộ cuộc chiến tranh nóng đầu tiên trong
thời kỳ chiến tranh lạnh, và cũng là một trong những xung đột nghiệm trọng nhất giữa
Đông – Tây. Một hiện tượng đáng để mọi người suy ngẫm là cuộc chiến tranh này và
cuộc chiến tranh nóng Đông – Tây sau này đểu nổ ra ở Châu Á, hơn nữa Bán đảo
Đông Dương mà Việt Nam ở đó và Bán đảo Triều Tiên như người Mỹ nói lại không
phải là “khu vực trọng điểm”, mà là khu vực “biên duyên” chiến lược. Ngoài ra, hiai

siêu cường Mỹ-Xô đều bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh này, trong đó Mỹ trực tiếp điều
quân đến tham chiến, còn Liên Xô lại dùng phương thức ủng hộ đồng minh của mình về
mặt quân sự, gián tiếp đọ sức với Mỹ, nhưng giữa hai bên chưa từng đánh giáp lá cà
trên chiến trường.
TRẬT TỰ HAI CỰC LÀM BÙNG PHÁT
CUỘC CHIẾN TRANH TRIỀU TIÊN

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai(1945), quan hệ quốc tế có những thay đổi rõ rệt.
Lúc này, hai chủ thể trọng yếucủa trật tự thế giới là Mỹ và Liên Xô đã từ chỗ là đồng
minh với nhau, chuyểnsang quan hệ đối đầu quyết liệt. Lúc này, do có nhiều lợi ích
mâu thuẫn, cả Mỹvà Liên Xô đều can dự ở những mức độ khác nhau vào việc giải
quyết các vấn đề quốc tế.
Riêng về mặt quân sự, lúc thìnước này ra mặt, lúc thì nước kia ra mặt. Song,
phương châm chung là cả Mỹ vàLiên Xô đều tối kị đụng đầu trực tiếp. Với phương
châm đó, trong thời kỳ Chiếntranh lạnh, tuy không có cuộc đại chiến trực tiếp giữa hai
cường quốc, nhưngcũng đã xảy ra không ít cuộc xung đột quân sự mang tính khu vực ở
nhiều nơi trênthế giới, trong đó có phản ánh cuộc đối đầu Xô - Mỹ. Một trong những
cuộc xungđột khu vực ở thời kỳ này tiêu biểu phải kể đến là Cuộc chiến tranh Triều
Tiên (1950-1953).
Cả Mỹ và Liên Xô đều không muốnđể đối thủ của mình nắm trọn vẹn bán đảo
Triều Tiên. Chính vì thế, ngay từ khiChiến tranh thế giới thứ hai chưa kết thúc thì Triều
Tiên đã được các nước lớnđưa lên bàn cân. Bằng chứng là việc giải phóng Triều Tiên
khỏi phát xít Nhật docả Mỹ và Liên Xô tiến hành, mỗi cường quốc giải quyết một nửa,
lấy vĩ tuyến 38làm ranh giới phân chia.
Tiếp đó, cả Mỹ và Liên Xô đều cónhững hoạt động để biến bán đảo Triều Tiên
đi theo một quỹ đạo do mình đạo diễn;nếu không được, thì ít nhất cũng phải biến vùng
lãnh thổ do mình kiểm soát khôngthể phát triển theo chiều hướng ngược lại.
Với những hoạt động của Mỹ vàLiên Xô, một chế độ theo định hướng tư bản
chủ nghĩa đã dần được xác lập ở NamTriều Tiên và một chế độ theo định hướng xã hội
chủ nghĩa (XHCN) đã dần được xáclập ở Bắc Triều Tiên. Mỹ không muốn có một

Triều Tiên thống nhất, bởi nếu TriềuTiên thống nhất thì ở bên cạnh hai "người khổng
lồ" của hệ thống XHCN là Liên Xôvà Trung Quốc thì sớm muộn cả bán đảo Triều Tiên
cũng sẽ bị cuốn vào quỹ đạo củachủ nghĩa cộng sản.

18
Mỹ cũng xác định rằng, Đông Bắc Ácó nhiều lợi ích trong chiến lược toàn cầu
của mình, mà điểm then chốt là NamTriều Tiên. Mỹ coi Nam Triều Tiên như là chiếc
neo chiến lược đối với sự có mặtcủa mình trên lục địa châu Á nói chung và khu vực
Đông Á nói riêng. Bởi ngoài sựđề phòng Liên Xô, Mỹ còn sợ nếu mất Nam Triều Tiên,
thì không chỉ Liên Xô và rung Quốc, Nhật Bản cũng sẽ là một đối trọng với Mỹ.
Nam Triều Tiên sẽ là một điểmdừng chân của Mỹ ở Đông Á, giúp Mỹ khống chế
Liên Xô, Trung Quốc và Nhật Bản.Còn về phía Liên Xô, cũng coi bán đảo Triều Tiên
có tầm chiến lược quan trọng.Nếu Nam Triều Tiên được giải phóng thì phạm vi thế lực
của Liên Xô sẽ được mởrộng tới sát Nhật Bản, đối thủ kỳ cựu đáng gờm nhất của nước
Nga từ cuối thế kỷXIX.
Hơn nữa cường quốc này cũng khôngmuốn có một "biên giới mềm" của Mỹ ở
ngay sát cạnh mình và khống chế cả khu vựcvốn nằm trong vùng ảnh hưởng truyền
thống của mình. Chính vì thế, Liên Xô xemNam Triều Tiên thân Mỹ là một cái gai
trong mắt và luôn muốn nhổ bỏ nó đi.
Và như vậy, việc chiến tranh nổra trên địa bàn chiến lược Triều Tiên không phải
là toan tính của riêng phíaLiên Xô hay phía Mỹ, mà nó xuất phát từ động cơ chính trị,
kinh tế của cả haibên, nằm trong một không gian chung - đó là cuộc Chiến tranh lạnh.
Triều Tiên đã trở thành một chủthể hàm chứa khối mâu thuẫn lớn của thời đại
(mâu thuẫn giữa hai cực Xô - Mỹ).Chính vì vậy, việc nổ ra cuộc chiến ở đây là điều
người ta hoàn toàn có thể dựliệu được.
VAI TRÒ CỦA “CỰC MỸ” VÀ “CỰC XÔ” TRONG DIỄN BIẾN CUỘC
CHIẾN TRANH TRIỀU TIÊN
Ngay sau khi chiến tranh bùng nổtrên bán đảo Triều Tiên (25/6/1950), để tránh
can thiệp một cách "thô thiển", Mỹđã nhanh chóng đưa vấn đề Triều Tiên ra nghị bàn
tại diễn đàn Liên Hiệp Quốctrong lúc thiếu vắng sự tham dự của đại diện Liên Xô, rồi

ngay lập tức lập ramột liên quân đồng minh do mình đứng đầu đến tham chiến tại Triều
Tiên.
Sau đó, Mỹ lại đạo diễn cho LiênHiệp Quốc "bật đèn xanh" cho mình được danh
chính ngôn thuận vượt qua vĩ tuyến38, tiến đến tận sông Áp Lục - giáp ranh với biên
giới Trung Quốc Có thểthấy, trong cuộc chiến tranh này, vai trò của Mỹ có thể nhìn
thấy trực tiếp,nhưng còn Liên Xô thì sao?
Liên Xô bề ngoài tỏ ra không đếmxỉa gì đến vấn đề Triều Tiên, coi đó là công
việc nội bộ của Triều Tiên. Songtrên thực tế Liên Xô luôn tìm mọi cách để xác lập vị
thế của mình trên bán đảoTriều Tiên. Biểu hiện trước hết là, cuối năm 1948, khi cho rút
hết quân đội củamình về nước, thì Liên Xô vẫn để lại rất nhiều xe tăng và vũ khí đạn
dược choquân đội Bắc Triều Tiên. Đồng thời Liên Xô tích cực xây dựng một lực lượng
quânđội mạnh cho Bắc Triều Tiên để đề phòng nguy cơ tấn công từ phía Nam Triều
Tiên.
Tới tháng 9/1949, quân đội BắcTriều Tiên đã có khoảng 90.000 người, trang bị
đầy đủ các loại vũ khí nặng, nhẹ.Liên Xô cũng không ngừng "bật đèn xanh" cho Kim
Nhật Thành tấn công Nam TriềuTiên khi thời cơ thuận lợi.
Ngày 5 và 12/1/1950, Tổng thốngMỹ Truman tuyên bố vành đai an toàn của Mỹ
không bao gồm Nam Triều Tiên và ĐàiLoan, Mỹ sẽ không dùng hành động quân sự
trực tiếp bảo vệ khu vực này, thì LiênXô đã coi đây là điều kiện thuận lợi để thống nhất
Triều Tiên. Liên Xô đã tăngnguồn viện trợ quân sự cho Triều Tiên lên tới 300 triệu rúp

19
và đánh động BắcTriều Tiên chuẩn bị tiến hành thống nhất lãnh thổ. Tuy thế, Stalin vẫn
thậntrọng nhắc Kim Nhật Thành chỉ được dùng hình thức phản công khi Nam Triều
Tiêntấn công trước.
Đến đầu năm 1950, trước khi chiếntranh Triều Tiên nổ ra, Liên Xô đã viện trợ
thêm vũ khí và cử hơn 3.000 cố vấnquân sự sang giúp Bắc Triều Tiên (tính ra trung
bình cứ 45 lính Bắc Triều Tiêncó 1 cố vấn quân sự Liên Xô). Trung tướng Vaxilev dẫn
đầu đoàn cố vấn quân sựLiên Xô đã lập kế hoạch tác chiến, trong đó dự định trong
vòng từ ngày 22 đến27/6/1950 sẽ chiếm xong Nam Triều Tiên.

Trong các bức điện ngày 1 và 6/7,Stalin viết: Liên Xô sẽ "hoàn toàn thỏa mãn
yêu cầu của Bắc Triều Tiên về vậnchuyển vũ khí và các trang bị quân sự khác", "sẽ
cung cấp toàn diện các loại vũkhí, xe tăng v.v ".
Viện trợ quân sự của Liên Xôtrong năm 1950 lên tới kỷ lục 870 triệu rúp. Nhờ
vậy quân đội Bắc Triều Tiênnhanh chóng chiếm gần hết Nam Triều Tiên, trừ khi tới
mỏm Pusan tận cùng phía nam mới gặp kháng cự đáng kể. Tuyvậy, Stalin không muốn
công khai việc Liên Xô giúp Bắc Triều Tiên về quân sự.
Ông cấm các cố vấn quân sự LiênXô vượt vĩ tuyến 38 với lý do "không muốn để
lại chứng cứ để người ta tố cáoLiên Xô tham dự cuộc chiến tranh này, đây là việc của
Kim Nhật Thành". Vì vậy,khi quân Bắc Triều Tiên bị sa lầy ở Nam Triều Tiên (tháng
7/1950) cần sự cố vấncủa chuyên gia quân sự Liên Xô, thì một số cố vấn Liên Xô đã
phải cải trangthành các phóng viên để vượt vĩ tuyến 38 xuống giúp Bộ tham mưu mặt
trận quânBắc Triều Tiên.
Sang năm 1951, trước việc quânđội Triều - Trung gặp khó khăn khi phải chống
đỡ với không quân Mỹ, Liên Xô đãtiến thêm một bước bằng việc chi viện không quân
cho Bắc Triều Tiên. Tuy vậy,Moskva vẫn tìm mọi cách tránh nảy sinh xung đột công
khai với Washington. Liên Xô đã cử những phi công ưu tú giả làmkhách du lịch và đi
tàu sang Trung Quốc.
Các phi công Liên Xô được chọnđều mang một tấm thẻ, bên trên in tên Trung
Quốc của mình cũng như những từ ngữchuyên dùng khi bay bằng tiếng Hán và tiếng
Triều Tiên. Ngoài ra, nhằm tránh bịlộ chân tướng, trong quá trình tác chiến, khi liên lạc
qua vô tuyến điện, cácphi công Liên Xô phải sử dụng tiếng Hán hoặc tiếng Triều Tiên.
Không quân LiênXô dưới vỏ bọc không quân Trung Quốc đã gây nhiều tổn thất cho
không quân Mỹ ởTriều Tiên
Đặc biệt là trận giao chiến ngày12/4/1951 đã trở thành ngày "Thứ 5 đen tối"
trong lịch sử không quân Mỹ. Một vấnđề đặt ra là người Mỹ có biết quân đội Liên Xô
đã tham gia vào Chiến tranh TriềuTiên? Câu trả lời là có.
Ngay từ cuối năm 1950, qua cácnguồn tin tình báo, Lầu Năm Góc đã kết luận
quân Liên Xô đã tham chiến. Các đàichặn thu sóng vô tuyến điện của Mỹ đã ghi lại
được nhiều đoạn đối thoại bằngtiếng Nga của các phi công Liên Xô khi tác chiến trên

chiến trường Triều Tiên.Phi công Mỹ cũng nhiều lần nhìn thấy những khuôn mặt da
trắng trong buồng láicủa máy bay quân chí nguyện.
Tuy nhiên, Washington không một lần đề cập tới việc tham chiến của Liên Xô.
Bởi Nhà Trắng biết rằngnếu công bố, nhân dân Mỹ sẽ yêu cầu họ phải có hành động
trong khi họ không muốn đẩy những cuộc đụng độ với Kremlin tới bờ vực nguy hiểm
của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ ba.


20
NỘI CHIẾN ĂNGÔLA
Cuộc nội chiến Ăngôla và việc Liên Xô đưa quân vào Ápganixtan đều là ví dụ
điển hình do việc Liên Xô can thiệp vào xung đột nội bộ của thế giới thứ ba dẫn đến
xung đột chính trị giữa hai nước siêu cường Xô – Mỹ trong thập kỷ 1970, có tác dụng
rất lớn trong việc thúc đẩy sự kết thúc, hoà hoãn vào cuối những năm 1970. Nhưng hai
cái đó cũng có chỗ khác nhau, nội chiến Ăngôla đã thể hiện việc Liên Xô thông qua sự
can thiệp quân sự của Cuba để thọc tay vào công việc của khu vực này, còn sự kiện
Ápganixtan lại thể hiện việc Liên Xô trực tiếp điều quân đội đến nước thuộc thế giới
thứ ba để can dự vào sự phát triển tình hình ở đó, hiển nhiên cái sau nghiêm trọng hơn
nhiều so với cái trước, và ảnh hưởng đến quan hệ Đông – Tây cũng lớn hơn rất nhiều.
Sau khi lật đổ chính phủ phát xít Bồ Đào Nha bằng một cuộc đảo chính mang
hơi hướng xã hội chủ nghĩa, các đảng quốc gia Angola bắt đầu đàm phán về độc lập vào
tháng 1 năm 1975. Một thỏa thuận với chính phủ Bồ Đào Nha được đưa ra, theo đó độc
lập cho Angola sẽ được tuyên bố vào tháng 11 năm 1975. Hầu như ngay lập tức, một
cuộc nội chiến nổ ra giữa MPLA (Phong trào giải phóng nhân dân Ăngôla), UNITA
(Liên minh toàn quốc độc lập triệt để) và FNLA (Mặt trận giải phóng dân tộc Ăngôla).
Cả ba phái này đều muốn giành chính quyền, và còn tìm kiếm sự ủng hộ từ bên ngoài.
Liên Xô và Cuba luôn ủng hộ MPLA, còn FNLA thì được Mỹ, Daia và Trung Quốc
ủng hộ, chủ yếu ủng hộ UNITA có Trung Quốc và Nam Phi. Điều đó đã quyết định sự
xung đột giữa các phe phái khác nhau ở Ăngôla, không thể không mang màu của cuộc
đấu tranh giữa các nước lớn và đối kháng Đông – Tây, từ đó đã ấp ủ một nguy cơ quốc

tế quan trọng. Ngay khi độc lập khỏi Bồ Đào Nha năm 1975, thủ đô và chính phủ danh
nghĩa của Angola rơi vào Phong trào Giải phóng Nhân dân độc đảng trị.Trước đó,
UNITA và FLNA được Zaire, Hoa Kì, và Nam Phi hậu thuẫn đã kiểm soát được miền
Bắc, miền Nam, Tây và Tây Nam.Một phần Miền trung, bờ biển phía Tây và Thủ đô
Luanda do MPLA kiểm soát. Một thời gian trước khi dược trao trả độc lập, cuộc nội
chiến bắt đầu.
Để bảo vệ 1.376 kilômét biên giới với Tây Nam Phi của Angola chống lại sự
xâm nhập của du kích Tổ chức Nhân dân Tây Nam Phi (SWAPO) có cơ sở tại Angola,
các lực lượng quân đội Nam Phi đã dọn một dải trắng rộng một kilômét tại Angola với
chiều dài gần một nửa đường biên giới. Zaire, vốn từng cung cấp hỗ trợ cho các du kích
FNLA, nhanh chóng cung cấp viện trợ cho cả UNITA. Tới lượt mình, Liên bang Xô
Viết tăng mạnh viện trợ quân sự cho MPLA với các thiết bị quân sự như xe bọc thép,
máy bay, cố vấn; trong khi một số lượng lớn quân đội Cuba được máy bay Liên Xô đưa
tới Angola trong một nỗ lực công khai nhằm thiết lập sự cân bằng quân sự có lợi cho
MPLA. Tới tháng 10 - 1975, MPLA và các lực lượng Cuba đã kiểm soát Luanda, và đa
phần cơ sở hạ tầng đất nước, buộc các lực lượng UNITA phải chuyển sang chiến thuật
du kích. MPLA đơn phương tuyên bố mình là chính phủ thực tế của đất nước khi độc
lập được tuyên bố chính thức vào ngày 11 tháng 11, và Agostinho Neto trở thành tổng
thống Angola đầu tiên. Nước Cộng hòa nhân dân Angola ra đời (đến năm 1991 hệ
thống đa đảng được áp dụng, Nhà nước đổi tên là Cộng hòa Angola).
Năm 1976, FNLA bị quân đội Cuba đánh bại, chỉ còn lại MPLA và UNITA (khi
ấy được Hoa Kỳ và Nam Phi hậu thuẫn) cạnh tranh quyền lực. Từ năm 1979, Jose
Eduardo dos Santos đã nắm quyền lãnh đạo chính trị đất nước. Dù hệ thống đa đảng đã

21
được áp dụng từ năm 1991, Đảng Lao động của Phong trào Giải phóng Nhân dân vẫn
nắm quyền lực.
Nội chiến
Cuộc xung đột giữa MPLA và UNITA diễn ra ở vùng nông thôn, được tiếp thêm
sức lực bởi cuộc xung đột địa chính trị thời Chiến tranh lạnh và bởi khả năng tiếp cận

các nguồn tài nguyên thiên nhiên Angola của cả hai bên. MPLA dựa vào nguồn tài
chính từ dầu mỏ ngoài khơi, trong khi UNITA lại có được nguồn kim cương dễ dàng
buôn lậu được qua vùng biên giới.
Năm 1991, hai bên đồng ý với Hiệp ước Bicesse với ý định chuyển đổi Angola
từ một nước độc tài một đảng thành một chế độ đa đảng với các cuộc bầu cử dân chủ
năm 1992. Tổng thống dos Santos dẫn đầu sau vòng một cuộc bỏ phiếu với hơn 49% số
phiếu bầu, trong khi Jonas Savimbi đạt 40%. Sau những tuyên bố gian lận bầu cử, cuộc
nội chiến tiếp diễn, và vòng bầu cử tiếp theo không bao giờ diễn ra.
LIÊN XÔ ĐƢA QUÂN VÀO ÁPGANIXTAN
Tháng 12-1979, Liên Xô đưa quân vào Ápganixtan bằng vũ trang lại là một sự
việc điển hình nữa về bành trướng chính trị của Liên Xô vào thế giới thứ ba đúng vào
thời kỳ đang hoà hoãn. Đối với việc này, Mỹ có phản ứng quyết liệt, Ápganixtan vì thế
đã trở thành “chiến trường quan trọng của chiến tranh lạnh”, Liên Xô xâm nhập
Ápganixtan là mốc đánh dấu sự kết thúc hoà hoãn Xô – Mỹ được bắt đầu từ đầu thập kỷ
1970. Là một đường ranh giới của chiến tranh lạnh Đông – Tây sau chiến tranh, cho
nên sự kiện Ápganixtan chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong lịch sử chiến tranh lạnh.
Ápganixtan là một quốc gia nhiều núi nằm trong lục địa châu Á, là một khu đệm
quan trọng giữa Liên Xô và Islam, đồng thời cũng là hành lang ăn thông đến vùng sản
xuất dầu mỏ Trung Đông, đi về phía Nam ra Ấn Độ Dương. Đối với Liên Xô thì
Ápganixtan có một ý nghĩa chiến lược vô cùng to lớn, Liên Xô khó có thể chịu cho thế
lực Ápganixtan vừa coi mình là thù địch, vừa kiểm soát được vùng đó, và trở thành một
công cụ để cho nước lớn từ bên ngoài chống lại Liên Xô.
Năm 1965, Đảng Dân chủ Nhân dân Ápganixtan (PPPA) thành lập, đây là một
chính đảng có tính chất của một đảng cộng sản. Năm 1967, Đảng này chia thành hai
phái lớn: “Phái quần chúng" và “Phái ngọn cờ”. Hai phái này có những bất đồng về
quan điểm và có những bối cảnh dân tộc khác nhau, và “Phái quần chúng” có quan hệ
với Liên Xô chặt chẽ hơn.
Tháng 7-1973, Thứ trưởng Ápganixtan Đaút làm cuộc đảo chính, “Phái ngọn cờ”
ủng hộ cuộc đảo chính này. Ngày 14-7-1978, một người lãnh đạo quan trọng của Phái
ngọn cờ bị ám sát đã gây ra làn sóng lớn biểu tình thị uy của quần chúng. Đaút đã bắt

giữ những người lãnh đạo chủ yếu của Phái ngọn cờ và Phái quần chúng. Ngày 27-4-
1978, một nhóm sĩ quan giết chết Đaút, lấy danh nghĩa là “Uỷ ban quân uỷ Cách mạng”
tiếp quản chính quyền, đổi tên nước thành Cộng hoà Dân chủ Ápganixtan. Ngày 30-4
“Uỷ ban Quân sự Cách mạng” bị giải tán và thành lập ra “Uỷ ban Cách mạng” do Đalát
lãnh đạo. Cuộc đảo chính tháng 4 này đã được Liên Xô hoan nghênh, mặc dù Liên Xô
không hề biết kế hoạch đảo chính, bởi vì nó phù hợp với lợi ích quốc gia Liên Xô. Tuy
chính quyền mới có tuyên bố kiên trì chính sách “không liên kết”, nhưng lại nhấn mạnh
sẽ tăng cường thêm một bước quan hệ hữu hảo và hợp tác toàn diện với Liên Xô. Cố
vấn quân sự và các trang bị vũ khí ùn ùn đưa đến Ápganixtan.

22
Nhưng sau khi Đảng dân chủ Nhân dân cầm quyền chưa được bao lâu thì nội bộ
bắt đầu xảy ra tranh chấp và bộc lộ ra ngoài rất gay gắt. Những người lãnh đạo của Phái
ngọn cờ bị phế truất, và Phái quần chúng lên nắm chính quyền. Lúc này, ở Ápganixtan,
lá cờ hồng đã thay thế lá cờ ba sắc lục, đen, đỏ đại diện cho Đạo Islam, phụ nữ có thể
không phải đeo mạng che mặt khi đứng trước đàn ông… Cuộc cải cách đã đánh mạnh
vào xã hội Ápganixtan mang đạm màu sặc Đạo Islam, vì thế mà nó phải chịu sự chống
đối từ nhiều mặt. Ngay từ mùa hè 1978, ở miền Đông đã xảy ra bạo loạn vũ trang chống
chỉnh phủ. Cuối năm 1978 đầu năm 1979, phong trào đấu tranh chống chính phủ đã lan
rộng ra khắp hầu hết các khu vực trong cả nước. Sự biến động cục diện chính trị ở
Ápganixtan là Liên Xô hết sức lo ngại. Những người lãnh đạo Liên Xô không hài lòng
hành động loại trừ Phái ngọn cờ thân Liên Xô và những biện pháp cải cách cực đoan,
nhưng vì suy tính đến việc bảo vệ thế lực của Liên Xô tại đó, nên vẫn giúp đỡ Đảng dân
chủ Nhân dân củng cố chính quyền, và hy vọng Đảng này sẽ áp dụng chính sách ôn hoà
hơn. Cuối tháng 6-1979, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô quyết định
bí mật đưa một tiểu đoàn đổ bộ bằng đường không gồm 600 người đến để bảo vệ an
ninh cho căn cứ không quân trọng yếu của Ápganixtan và cử 125-150 nhân viên đến
bảo vệ an ninh cho Đại sứ quán Liên Xô ở Kabun. Mặc dù cũng đưa đến Ápganixtan
nhiều chuyên gia quân sự và chính trị, nhưng nhà lãnh đạo Liên Xô vẫn từ chối đem
quân đến Ápganix để dẹp loạn vì sợ sức ép chính trị của quốc tế. Vì có một vị trí chiến

lược đặc biệt quan trọng, Liên Xô quyết không để mất Ápganixtan nên đã cố gắng hoà
giải quan hệ của hai phái lớn trong Đảng dân chủ Nhân dân Ápganixtan.
Từ ngày Amin bắt giữ Đalát vì tội ám sát không thành, những người lãnh đạo
Liên Xô bắt đầu suy tính có nên chăng mang quân vào đất nước này. Từ này 25-12-
1979, quân Liên Xô tiến vào Ápganixtan với số lượng lớn, thực hiện kế hoạch “hành
động bão táp”. Ngày 27-12, quân Liên Xô tiến vào Kabun và khống chế các yếu địa
chính trị, quân sự. Đêm đó, Amin bị giết. Sáng hôm sau, Đài phát thanh Kabun dưới sự
kiểm soát của Liên Xô thông báo Kaman là Chủ tịch hội đồng cách mạng Ápganixtan.
Nhờ sự giúp đỡ bằng lưỡi lê, Kaman – người lãnh đạo Phái ngọn cờ đã thay thế Amin,
trở thành người thống trị cao nhất đất nước này. Cuối năm 1979, ở Iran nổ ra cuộc cách
mạng Khômêni, chính quyền thân Mỹ bị lật đổ, rất nhiều con tin người Mỹ bị bắt giữ.
Do đó không thể tránh khỏi việc Mỹ có phản ứng kịch liệt đối với các hành vị của Liên
Xô ở Ápganixtan.
Từ sau thập kỷ 1970, Đaút định giảm bớt sự dựa dẫm vào Liên Xô, phát triển
mối quan hệ với các nước khác trong đó có Mỹ. Mỹ rất hoan nghênh với điều đó. Đến
khi đại sứ Mỹ ở Kabun bị bắt cóc và giết hại vào tháng 2-1979, thì Mỹ mới trách móc
chính quyền Ápganixtan đã không có những cố gắng ứng cứu cần có và cắt giảm phần
lớn viện trợ cho nước này. Sau khi Liên Xô đưa quân vào Kabun và Amin bị giết, chính
quyền Catơ nhanh chóng có những phản ứng cứng rắn. Và chính phủ Mỹ đã quyết định
sử dụng biện pháp khiến cho Liên Xô phải “trả giá đắt nhất” về những hành động ở
Ápganixtan: Cấm vận kinh tế Liên Xô, bao gồm cấm vận cả ngũ cốc; lên án Liên Xô ở
Liên Hợp Quốc; Viện trợ cho các thế lực chống đối để đánh lại Liên Xô… Sự điều
chỉnh lớn trong chiến dịch đối ngoại, dùng chiến lược “ngăn chặn” thay hoà hoãn. Sự
hoà hoãn Đông – Tây bắt đầu từ thập kỷ 1970 đã kết thúc tại đây, mở ra một “cuộc
chiến tranh lạnh mới”.

23
Việc Liên Xô đưa quân đội vào Ápganixtan, dựng lên chính quyền thân Xô là
một thắng lợi của Liên Xô. Nhưng cái giá phải trả thì quá đắt. Từ đó Ápganixtan là một
gánh nặng cực lớn mà Liên Xô khó lòng rũ ra được. Đến năm 1985, Gioócbachốp lên

làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô và ông đã tìm mọi cách để rút quân về nước
trong danh dự.
CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến tranh nóng khác hết sức căng thẳng, có
sự ảnh hưởng lâu dài giữa Đông – Tây trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Cũng giống như
chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam chưa làm cho chiến tranh lạnh Mỹ-Xô
thành chiến tranh nóng Mỹ-Xô.
Chiến tranh Việt Nam bắt đầu từ năm 1956, khi Mỹ ngang nhiên chống lại hiệp
định Giơnevơ, hất cẳng Pháp ra khỏi Việt Nam, đem quân vào chiến trường miền Nam
Việt Nam, lập ra chính phủ bù nhìn Ngô Đình Diệm, lấy sông Gianh – vĩ tuyến 17 làm
giới tuyến tự nhiên chia đôi hai miền Nam – Bắc. Và giới tuyến này chỉ được xoá bỏ
khi quân đội Bắc Việt Nam đánh chiếm được dinh Độc Lập, miền Nam được thống
nhất, Tổ quốc thu về một mối lúc 11 giời ngày 30-4-1975.
Về bản chất, chiến tranh Việt Nam và chiến tranh Triều Tiên đều là chiến tranh
nóng Đông – Tây trong thời kỳ chiến tranh lạnh, nhưng quan hệ Đông – Tây được phản
ánh trong cuộc chiến tranh Việt Nam lại phức tạp, đan xen gấp nhiều lần so với chiến
tranh Triều Tiên.
Ngày 18-1-1950, Việt Nam và Trung Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại
giao. Trung Quốc tuy đang gặp muôn vàn khó khăn những vẫn quyết định viện trợ cho
Việt Nam kháng Pháp. Với sự ra đời của nước Trung Hoa mới, Trung – Xô kết thành
đồng minh quân sự và Trung Hoa tích cực ủng hộ Việt Nam trong cuộc chiến tranh giữ
nước chống Pháp, buộc Mỹ phải nhìn nhận lại vị trí chiến lược của Việt Nam, coi đây là
chiến tuyến quan trọng để chống lại “sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản”. Vào
khoảng đầu năm 1950, Mỹ công khai ủng hộ Pháp và Mỹ đã bị cuốn hút thu nhập theo
từng bước. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Pháp buộc phải ký Hiệp định
Giơnevơ, công nhận nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Mỹ tuy cũng
tham gia hiệp định này nhưng lại không chịu ký kết, chỉ tỏ thái độ sẽ không dùng đe
doạ hoặc vũ lực để gây trở ngại đến việc thực hiện Hiệp định. Sau khi thay thế Pháp ở
Việt Nam, Mỹ thành lập nước Việt Nam Công hoà do Ngô Đình Diệm làm tổng thống
ở miền Nam Việt Nam vào tháng 10 – 1955. Đến năm 1959, chính quyền Aixenhao bắt

đầu giúp đỡ chính quyền Nam Việt Nam tiến hành “chiến tranh chống du kích”. Tháng
4-1960, chính phủ Mỹ lại quyết định điều thêm ba tổ chiến tranh đặc biệt đến Việt
Nam, phụ trách việc huấn luyện chống chiến tranh du kích cho quân đội của Ngô Đình
Diệm. Mặc dù chính quyền Aixenhao không cho phép cố vấn quân sự Mỹ tham gia vào
“hành động tác chiến” nhưng lý do mà Aixenhao can thiệp vào Đông Dương cùng với
hành động tăng quân số mở rộng chức năng cố vấn quân sự đã gieo rắc mầm mống xấu
cho việc mở rộng chiến tranh Việt Nam và việc sa lầy vào vũng bùn chiến tranh Việt
Nam của Mỹ về sau này. Kenneđi – tổng thống nhậm chức tháng 1-1961 đã đi quá xa
vào trên con đường can thiệp vào Việt Nam. Chính phủ Kenneđi tăng viện trợ kinh tế
quana sự cho chính quyền Nam Việt Nam, tăng thêm cố vấn quân sự Mỹ, điều đến Việt
Nam hàng trăm lính tinh nhuệ đặc biệt giúp đỡ quân đội Việt Nam Cộng hoà vạch ra và
thực thi “chiến tranh chống du kích” và “chiến tranh đặc biệt chống phản loạn”, cho

24
phép Mỹ lấy danh nghĩa là phi công để tham chiến. Số lượng nhân viên quân sự của Mỹ
ở Việt Nam tăng lên nhanh chóng, năm 1961 chỉ có 875 người nhưng con số đó đã là
16.000 người vào năm 1963. Và khi Giônsơn kế nhiệm chức Tổng thống của Nhà
Trắng, ông vẫn tiếp tục theo đuổi các chính sách của người tiền nhiệm đã vạch ra. Đặc
biệt năm 1965 ông mở rộng việc đánh phá chiến lược Bắc Việt Nam và điều thêm quân
đến Việt Nam. Cũng trong năm nay Liên Xô trực tiếp ca dự vào xung đột Việt Nam
khiến cho tính chất đối kháng Đông – Tây trong cuộc chiến tranh này càng rõ nét hơn.
Tuy Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều được nhận viên trợ từ hai xã hội chủ nghĩa đối
lập lúc này là Trung Quốc và Liên Xô, nhưng việc ai nấy làm. Theo đánh giá trong thời
gian 1965-1968, viện trợ của Liên Xô và Trung Quốc cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
là hơn 2 tỷ đô la. Còn đối với Mỹ trong cuộc chiến ở Việt Nam, sau khi mở rộng chiến
tranh Việt Nam, chỉ có một số nước như Ôxtrâylia, Niudilân, Thái Lan và Hàn Quốc đã
điều động tượng trưng một số ít quân đến Việt Nam.
Trong cuộc chiến tranh kéo dài đó, quan hệ giữa Mỹ - Xô – Trung tương đối
phức tạp. Nửa đầu thập kỷ 1950, Trung – Xô cùng nhau ủng hộ Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà. Nửa sau thập niên này, quan hệ Xô – Trung rạn nứt. Năm 1965, chiến tranh

Việt Nam mở rộng và Liên Xô bắt đầu viện trợ với quy mô lớn của Việt Nam. Tóm lại,
chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh nóng giữa Đông – Tây, và phức tạp hơn nhiều
so với chiến tranh Triều Tiên, nhưng đối kháng Đông – Tây lại phản ảnh không đậm nét
như chiến tranh Triều Tiên. Cuộc chiến tranh này đã làm Mỹ tiêu tốn rất nhiều nhân lực
và vật lực, và dẫn đến địa vị thực lực của Mỹ xuống dốc nhanh chóng. Ngược lại, khi
Mỹ sa lầy trong chiến tranh Việt Nam, Liên Xô lại tăng nhanh thực lực của mình, nhất
là trong lĩnh vực quân sự buộc Mỹ phải thay đổi chính sách đối ngoại của mình, hoà
hoãn với Trung Quốc để mượn sức mạnh của Trung Quốc chống lại Liên Xô. Còn Liên
Xô lại lợi dụng lúc Mỹ suy yếu để thẩm thấu ảnh hưởng vào các khu vực Trung Đông,
châu Phi, Nam Á, Trung Mỹ. Và sau chiến tranh, Việt Nam lại là đồng minh thân cận
của Liên Xô.

×