Tải bản đầy đủ (.doc) (229 trang)

quá trình tập hợp lực lượng trong phong trào cộng sản quốc tế từ năm 1991 đến 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 229 trang )

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Tập hợp lực lợng, đoàn kết quốc tế trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế của giai
cấp công nhân là một trong những vấn đề lý luận hết sức cơ bản trong nền
tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời là nguyên tắc chỉ đạo tổ chức và
hoạt động của các đảng cộng sản cũng nh của toàn bộ phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế. Xét về bản chất, phong trào cộng sản quốc tế là một phong
trào chính trị của những ngời theo con đờng của chủ nghĩa xã hội khoa học do
C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập - một lực lợng cách mạng mang tính quốc tế,
phấn đấu không chỉ vì sự nghiệp giải phóng bản thân giai cấp công nhân, mà
còn tiến tới giải phóng toàn nhân loại khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột, xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản văn minh. Do đó, vấn đề
đoàn kết quốc tế, tập hợp lực lợng, phối hợp hành động chung trong phong
trào cộng sản quốc tế là một tất yếu khách quan, một nhân tố cực kỳ quan
trọng tạo nên sức sống, động lực phát triển và bảo đảm sự thắng lợi của phong
trào cũng nh của cả tiến trình vận động cách mạng thế giới.
Nhận rõ đợc vị trí, tầm quan trọng trớc mắt cũng nh lâu dài của vấn đề
nêu trên, trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản - Cơng lĩnh chính trị đầu
tiên của giai cấp vô sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng nêu khẩu hiệu: Vô
sản tất cả các nớc đoàn kết lại. Sau này, trong điều kiện lịch sử mới, khẩu
hiệu hành động này đợc Quốc tế Cộng sản, dới sự lãnh đạo của V.I Lênin, đã
khẳng định và phát triển thành: Vô sản tất cả các nớc và các dân tộc bị áp
bức đoàn kết lại!. Trên thực tế, ở bất cứ thời điểm nào, hoàn cảnh nào, mỗi
thắng lợi giành đợc trong cuộc đấu tranh giai cấp của GCCN ở từng nớc cũng
nh của phong trào cộng sản quốc tế, đều có cội nguồn hoặc sâu xa, hoặc trực
tiếp từ việc kết hợp thành công sức mạnh liên hiệp do tập hợp lực lợng và đoàn
kết quốc tế của GCCN.
Để tăng cờng sức mạnh của PTCS và công nhân quốc tế, ngay từ khi
tham gia hoạt động trong phong trào, Mác và Ăngghen đã tích cực xây dựng
1
những tổ chức quốc tế của GCCN nh: Đồng minh những ngời cộng sản (1847-


1852), Quốc tế I (1864-1876) và Quốc tế II (1889-1914). Những tổ chức này,
đã có những cống hiến to lớn trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác vào phong
trào công nhân, đấu tranh chống những khuynh hớng lệch lạc, cơ hội chủ
nghĩa và phản động nảy sinh trong phong trào, bảo đảm sự thống nhất về t t-
ởng, phối hợp hành động giữa các chính đảng của GCCN quốc tế suốt nửa sau
thế kỷ XIX và thập niên đầu thế kỷ XX.
Kế tục sự nghiệp của Mác và Ăngghen, Lênin luôn kiên định cuộc đấu
tranh không khoan nhợng chống lại các trào lu cơ hội và xét lại trong Quốc tế
II vì sự đoàn kết, thống nhất của phong trào công nhân. Sau thắng lợi của Cách
mạng Tháng Mời Nga, Lênin sáng lập Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào
tháng 3 năm 1919. Sự ra đời của Quốc tế III đánh dấu giai đoạn mới về chất
trong quá trình tập hợp lực lợng của phong trào cộng sản quốc tế. Quốc tế III
đã có sự tham gia tích cực của cả các ĐCS-CN ở các nớc thuộc địa, nên thực
sự trở thành trung tâm chỉ đạo của cách mạng thế giới, đóng góp to lớn vào
việc tăng cờng khối đoàn kết, thống nhất giữa các ĐCS - CN quốc tế, nhất là
giữa các ĐCS-CN ở chính quốc và thuộc địa, đa PTCSQT trở thành lực lợng đi
tiên phong trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu mang tính thời đại là hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, trong điều kiện không còn tồn tại một
tổ chức quốc tế thống nhất, các ĐCS-CN trên thế giới đã sáng tạo, lập ra
những hình thức liên hệ, phối hợp và tập hợp lực lợng mới. Sự ra đời Cục
Thông tin quốc tế, sau đó là các hội nghị đại biểu của các ĐCS - CN quốc tế
năm 1957, 1960, 1969 ở Mátxcơva và nhiều hội nghị khác đợc tổ chức những
năm sau đó ở nhiều khu vực, châu lục, càng cho thấy những nỗ lực nổi bật, thể
hiện nhu cầu đoàn kết thống nhất lực lợng của PTCSQT trong hoàn cảnh mới
của thời kỳ chiến tranh lạnh.
Trớc biến động vô cùng phức tạp của tình hình thế giới sau sự sụp đổ
chế độ XHCN ở Liên xô và Đông Âu, PTCSQT bị lâm vào khủng hoảng trên
mọi phơng diện. Hoạt động quốc tế cũng nh việc tập hợp lực lợng của phong
2

trào gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí có lúc bị bế tắc. Vào thời điểm này, một
mặt, các lực lợng thù địch nhân cơ hội, chớp thời cơ đẩy tới việc chống chủ
nghĩa xã hội một cách quyết liệt: phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ nhận
vai trò lãnh đạo của ĐCS và cho rằng chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân giờ đây chỉ còn là hoài niệm. Mặt khác, trong một số ĐCS - CN đã xuất
hiện những biểu hiện coi nhẹ, thậm chí xa rời nguyên tắc tập hợp lực lợng,
đoàn kết quốc tế của GCCN. Chủ nghĩa quốc tế của GCCN đứng trớc những
thử thách nghiêm trọng. Điều đó đã ảnh hởng và cản trở lớn đến tiến trình
phục hồi, củng cố và phát triển của phong trào. Tuy nhiên, cũng có không ít
ĐCS-CN đã nỗ lực, cố gắng tìm ra nhiều hình thức mới để tập hợp lực lợng,
thống nhất quan điểm, phối hợp hành động, tăng cờng sự hợp tác quốc tế giữa
các ĐCS-CN, tiêu biểu cho những hình thức tập hợp lực lợng mới ấy phải kể
đến Diễn đàn Sao Paulô, cuộc gặp mặt quốc tế thờng niên giữa đại biểu các
ĐCS-CN ở Aten (Hy Lạp), ngoài ra còn có Hội nghị các ĐCS-CN đợc tổ chức
ở Béclin (Đức), Nicôsia (Síp), Nêpan và các hội thảo khoa học khác đợc tổ
chức ở quy mô khu vực, thu hút đại biểu nhiều ĐCS-CN, các lực lợng chính trị
xã hội tiến bộ của nhiều nớc tham gia.
Nghiên cứu quá trình tập hợp lực lợng trong PTCSQT có ý nghĩa
khoa học cơ bản, lâu dài và có tính chính trị thực tiễn sâu sắc, cấp bách đối
với Đảng, Nhà nớc ta trong giai đoạn hiện nay, giúp chúng ta vừa thấy đợc
tính đặc thù, vừa thấy đợc tính phổ biến của vấn đề này cũng nh vai trò, vị
trí cực kỳ quan trọng, có tính nguyên tắc của nó trong hoạt động của các
ĐCS - CN và của toàn bộ phong trào. Từ đây, có cơ sở hiểu sâu sắc hơn về
đờng lối quốc tế đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta - một yếu tố rất quan trọng
đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam, góp phần xứng đáng
vào cuộc đấu tranh chung của GCCN quốc tế trên hành trình tự giải phóng
và phát triển.
Từ cách tiếp cận nêu trên, tác giả lựa chọn Quá trình tập hợp lực lợng
trong phong trào cộng sản quốc tế từ năm 1991 đến 2005 làm đề tài luận
án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử phong trào cộng sản, công nhân quốc

tế và giải phóng dân tộc.
3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Sau sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu, thực tiễn vận
động của PTCSQT nói chung và vấn đề tập hợp lực lợng trong phong trào nói
riêng, là chủ đề đợc giới nghiên cứu trong và ngoài nớc quan tâm. Đã xuất
hiện những bài viết, công trình nghiên cứu bớc đầu của các nhà khoa học, các
cơ quan nghiên cứu, của các ĐCS cầm quyền cũng nh cha cầm quyền, đồng
thời cũng có cả không ít những bài viết và công trình mang nặng ý đồ chính trị
của lực lợng chống CNXH, liên quan đến việc đổi mới nhận thức về chủ nghĩa
Mác-Lênin, về vận mệnh của CNXH, về thành tựu và kinh nghiệm xây dựng
CNXH, về thực trạng PTCS-CNQT, về chủ nghĩa quốc tế và sứ mệnh lịch sử
của GCCN Trong những công trình đó, vấn đề tập hợp lực lợng trong
PTCSQT đợc đề cập trên một số khía cạnh nh liên minh giữa các ĐCS với các
lực lợng cánh tả, tiến bộ; những hình thức liên hệ mới của PTCSQT, nhu cầu
đoàn kết và phối hợp hoạt động giữa những ngời cộng sản với các lực lợng,
các phong trào chính trị - xã hội khác trong bối cảnh cách mạng KH-CN và
TCH, v.v
ở ngoài nớc: Các công trình, bài viết có liên quan đến đề tài luận án th-
ờng tập trung phân tích những ảnh hởng của cục diện thế giới sau chiến tranh
lạnh, những tác động của quá trình TCH và chiến lợc của các nớc lớn đối với
hoạt động liên hiệp, đoàn kết quốc tế của các ĐCS - CN cũng nh đối với quá
trình tập hợp lực lợng trong PTCSQT. Một số công trình, bài viết khi lý giải sự
cần thiết phải đổi mới t duy lý luận, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-
Lênin trong tình hình mới, đã nêu ra những đánh giá đối với chủ nghĩa quốc tế
của GCCN và vai trò của đoàn kết quốc tế, liên minh giữa các lực lợng cộng
sản, công nhân trên thế giới.
Đáng chú ý là những bài viết và công trình nghiên cứu của một số học
giả Trung Quốc và của các nhà khoa học ở một số nớc khác đã đợc dịch sang
tiếng Việt, nh: Xã hội hậu t bản(của Peter F.Drueker, Nxb ST, Hà Nội,

1995), Các lực lợng cộng sản của Bắc Âu đang tập hợp lại (T/c Phong trào
cộng sản quốc tế, 1/1997), Chủ nghĩa xã hội là gì? xây dựng chủ nghĩa xã
4
hội nh thế nào? (Chu Thợng Văn, Chu Cẩm uý, Trần Tích Hỷ, ST, Nxb CTQG,
Hà Nội 1999), Chủ nghĩa cộng sản, một dự án mới(của Robert Hue, Viện
thông tin khoa học, 8-1999), Hai chủ nghĩa một trăm năm (Tiêu Phong, Nxb
CTQG, Hà Nội. 2004), Sự khủng hoảng của chủ nghĩa t bản: Thách thức đối
với một công trình xây dựng thế giới khác (T/c Kinh tế và chính trị - Pháp -
số 582 - 583/2004). Đảng đoàn Cánh tả thống nhất trong Nghị viện châu Âu
(Thông tin Những vấn đề chính trị xã hội, Viện Thông tin khoa học, Học viện
CTQG Hồ Chí Minh, số 28/2004), Phong trào công nhân quốc tế - Những
vấn đề lịch sử và lý luận(của tập thể các nhà khoa học Xô Viết đợc dịch ra
tiếng Việt, Tập I và Tập II, Nxb CTQG, Hà Nội. 2004).v.v Nội dung chủ yếu
của các công trình nêu trên đã nêu rõ những thách thức của PTCSQT, phong
trào XHCN thế giới trên nhiều phơng diện, trong đó phân tích khá cụ thể
những khó khăn, bất cập của việc tìm kiếm những phơng thức tập hợp lực lợng
giữa các ĐCS - CN với nhau và với các lực lợng cánh tả, tiến bộ khác.
Trong số những bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận
án nh đã kể trên, còn có những bài viết, công trình nghiên cứu mang đậm màu
sắc chính trị chống cộng nh: Chớp lấy thời cơ - Thách thức đối với Hoa Kỳ
trong thế giới một siêu cờng của Richard Nixon (Nxb Simon and Schuster,
New York, 1991 - Bản dịch của Viện Thông tin khoa học, Viện Mác-Lênin),
Đợt sóng thứ ba của A.Vill Toffler (Nxb KHXH, Hà Nội. 1996), Bàn cờ
lớn của Z.Brêdinxki (Nxb CTQG, Hà Nội 1999), Sự kết thúc của lịch sử
của Francis FuKuyama (ngời Mỹ gốc Nhật Bản) Chịu chi phối từ góc nhìn
của giai cấp t sản, các công trình này về cơ bản phủ nhận diễn trình phát triển
và những thành quả của PTCS-CNQT nói chung, do đó cũng đa ra những nhận
định, đánh giá rất sai lệch đối với sự phối hợp hoạt động, tập hợp lực lợng
trong PTCSQT nói riêng.
Gần đây, giới nghiên cứu lý luận đặc biệt quan tâm đến quan điểm của

một số ĐCS - CN ở khu vực EU về vấn đề tập hợp lực lợng nh ĐCS Anh,
Pháp, Bồ Đào Nha, Đức, Italia, Tây Ban Nha, Hy Lạp thông qua tham luận
của đại biểu các đảng này tại Diễn đàn Sao Paulô, cuộc gặp gỡ thờng niên của
5
các ĐCS-CN ở Aten, Nicôsia, Béclin (đợc đăng tải trên Website - Solidnet và
Rednet). Cuối tháng 4-2005, cuộc Hội thảo quốc tế về Triển vọng của chủ
nghĩa xã hội với sự tham gia của 39 đảng cộng sản, công nhân và cánh tả đại
diện cho 34 nớc trên thế giới (đợc tổ chức tại Praha) đã khẳng định tính đúng
đắn đờng lối đổi mới của Việt Nam; cải cách, mở cửa của Trung Quốc, coi đó
là sự bổ sung độc đáo vào lý luận của chủ nghĩa xã hội, là cơ sở cho sự đoàn
kết tin cậy, sát cánh bên nhau hơn nữa giữa các ĐCS-CN, không chỉ trong khu
vực mà cả trên phạm vi toàn thế giới.
Bên cạnh đó, một số nhà nghiên cứu của ĐCS Trung Quốc, Cuba, Liên
bang Nga, Pháp, Đức, Italia, Hy Lạp, Nhật Bản, Mỹ trong những bài viết của
mình đều nhấn mạnh sự cần thiết phải xác lập những hình thức liên hệ, phối
hợp lực lợng thích hợp của các ĐCS-CN trong giai đoạn hiện nay, khi các thế
lực đế quốc cấu kết với nhau tăng cờng phản kích các lực lợng cách mạng,
chống các ĐCS, thực hiện chính sách cờng quyền hiếu chiến can thiệp thô bạo
vào công việc nội bộ các quốc gia độc lập, có chủ quyền. Đáng chú ý là cùng
với việc đánh giá cao thành tựu đổi mới của Việt Nam, nhiều ĐCS - CN trên
thế giới khẳng định những đóng góp của ĐCS Việt Nam đối với việc củng cố
tình đoàn kết trong PTCSQT hiện nay; đồng thời cũng nhấn mạnh, với đờng
lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phơng hoá, ĐCS Việt Nam đã kết hợp
có hiệu quả giữa chủ nghĩa yêu nớc chân chính với chủ nghĩa quốc tế của
GCCN ở những thời điểm khó khăn nhất trong hoạt động của phong trào.
ở trong nớc: PTCSQT và quá trình tập hợp lực lợng trong phong trào
cũng là những vấn đề giành đợc sự quan tâm nghiên cứu kể từ đầu thập niên
90 đến nay. Đã có một số công trình, bài nghiên cứu khoa học tập trung phản
ánh việc thực hiện những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ
nghĩa quốc tế của GCCN trong tình hình mới, về sự cần thiết phải đổi mới

nhận thức cũng nh triển khai thực hiện các hình thức tập hợp lực lợng vì lợi
ích cấp bách trớc mắt, cũng nh lợi ích cơ bản, lâu dài và mục tiêu chiến lợc
cuối cùng là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội của GCCN. Một số công
trình, bài viết về kinh nghiệm của một số ĐCS - CN ở một số khu vực trong
6
việc tập hợp lực lợng, phối hợp hoạt động quốc tế. Những bài học về tập hợp
lực lợng của PTCSQT đợc phân tích, đánh giá trên góc nhìn mới với những gợi
ý về khả năng vận dụng đối với phong trào hiện nay. Theo hớng này, đáng chú
ý là các bài viết và một số công trình nghiên cứu nh: Thêm những t liệu về
Quốc tế Cộng sản với Đông Dơng(Nguyễn Quốc Hùng, T/c Lịch sử Đảng,
số1/1991); Quốc tế Cộng sản và vấn đề tập hợp lực lợng trong đấu tranh cách
mạng(Trần Ngọc Linh, T/c Nghiên cứu Lý luận, số 3/1999), Về các xu thế
và các hình thức liên kết, liên minh, tập hợp lực lợng trên thế giới hiện nay -
chiến lợc và sách lợc của chúng ta (Đề tài KHXH 06-06 năm 2001 do Hoàng
Thuỵ Giang làm chủ nhiệm). Đề tài đã đa ra những nhận định về các hình
thức, nội dung kiên kết, tập hợp lực lợng trên thế giới ngày nay dựa trên cơ sở
có sự tơng đồng về lợi ích, có sự gần gũi về địa lý, văn hoá và phong tục, tập
quán cũng nh về dân tộc, tôn giáo Đây cũng là một trong những tài liệu
tham khảo giúp tác giả có thêm chất liệu mới để nâng cao chất lợng nghiên
cứu luận án. Một số đề tài khác nh: Đảng Cộng sản Việt Nam với phong trào
cộng sản và công nhân các nớc t bản chủ nghĩa từ năm 1990 đến nay (Đề tài
cấp bộ 2004, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, PGS. TS Trình Mu làm chủ
nhiệm), Những hình thức phối hợp hoạt động của phong trào cộng sản quốc
tế từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay (Đề tài cấp bộ năm 2005, Học
viện CTQG Hồ Chí Minh, TS Nguyễn Hoàng Giáp làm chủ nhiệm) đã bớc đầu
phân tích và phân loại nội dung cũng nh hình thức phối hợp hoạt động giữa
các ĐCS trong giai đoạn hiện nay. Dới góc nhìn khác về phơng thức tập hợp
lực lợng mới, Luận án tiến sĩ lịch sử của Nguyễn Thị Hoài Phơng (2002):
Phong trào cánh tả ở Liên bang Nga từ năm 1991 đến nay và mối quan hệ với
ĐCS Việt Nam đã phân tích khá rõ một số nhân tố chủ yếu tác động đến hoạt

động của cánh tả Nga và quan hệ giữa ĐCS Việt Nam với cánh tả Nga thời kỳ
sau chiến tranh lạnh.
Chủ đề đoàn kết, tập hợp lực lợng giữa các ĐCS - CN ở một số khu vực
thế giới đợc đề cập đến trong những bài viết nh: Quan điểm của một số ĐCS-
CN ở khu vực EU về vấn đề tập hợp lực lợng hiện nay (Vũ Văn Hoà, Nguyễn
7
Thị Quế, T/c Thông tin Khoa học xã hội, 11/2003); PTCS các nớc TBPT sau
chiến tranh lạnh(Nguyễn Văn Lan, T/c Cộng sản, số 21/2004) PTCS ở các
nớc TBPT trớc các vấn đề lý luận chính trị đặt ra trong thời kỳ sau chiến tranh
lạnh (Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Thị Quế, T/c Lý luận chính trị, 11/2004),
Về xu hớng vận động của PTCS ở các nớc TBPT (Nguyễn Hoàng, T/c Xây
dựng Đảng, 10/2004); Chủ đề này cũng là nội dung chủ yếu của loạt bài viết
trong Hội thảo khoa học Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trong giai
đoạn hiện nay: một số vấn đề đặt ra (Học viện CTQG Hồ Chí Minh, năm
2005). Đoàn kết quốc tế và vấn đề phối hợp hành động chung của các ĐCS-
CN trong PTCSQT còn đợc phản ánh trên một số khía cạnh trong các luận án
tiến sĩ nh: Đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân trong điều kiện chủ
nghĩa t bản phát triển - Đặc điểm và xu thế của tác giả Nguyễn Thế lực
(1994), Mối quan hệ của Quốc tế cộng sản với Đảng Cộng sản Việt Nam
của Hồ Tố Lơng (2001), Phong trào công nhân các nớc t bản phát triển từ
cuối thập niên 80 thế kỷ XX đến nay của Nguyễn Văn Lan (2002)Những
công trình, bài viết trên chỉ ra những tiến triển trong việc phục hồi, củng cố
mối liên hệ giữa các ĐCS-CN, nhấn mạnh yêu cầu cảnh giác cách mạng, đấu
tranh vạch trần và làm thất bại âm mu chống CNXH trên lĩnh vực t tởng, lý
luận; đồng thời cố gắng làm rõ đâu là mặt thuận, đâu là những khó khăn, hạn
chế và bất cập trong việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế của GCCN và các ĐCS
sau sự sụp đổ chế độ XHCN ở Đông Âu, Liên Xô.
Một trong số nội dung đợc các nhà nghiên cứu trong nớc quan tâm là đ-
ờng lối đối ngoại hoà bình, hữu nghị, tình đoàn kết quốc tế thuỷ chung trong
sáng của ĐCS Việt Nam với các ĐCS anh em và bè bạn quốc tế trong quá

trình lãnh đạo cách mạng gần 8 thập niên qua. Có thể thấy nội dung này qua
một số công trình nghiên cứu: Kiên định đờng lối đổi mới Việt Nam vững b-
ớc tiến vào thế kỷ XXI của nguyên Chủ tịch nớc Trần Đức Lơng (Nxb
CTQG, Hà Nội. 2002), Việt Nam đất nớc con ngời (Nxb CTQG, Hà Nội
2005), Đổi mới và phát triển ở Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn
của GS,TS Nguyễn Phú Trọng (Nxb CTQG, Hà Nội 2006), Quá trình đổi mới
8
t duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay của tập thể tác giả PGS,TS Tô Huy
Rứa - GS,TS Hoàng Chí Bảo - PGS,TS Trần Khắc Việt (Nxb CTQG, Hà Nội.
2006).
Đáng chú ý, đã có không ít bài viết đề cập chủ nghĩa quốc tế vô sản
trong t tởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh, làm rõ sự vận dụng, phát triển
sáng tạo của ĐCS Việt Nam và Hồ Chí Minh trong điều kiện cụ thể của cách
mạng Việt Nam, nh: T tởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh (Phan Ngọc
Liên, Nxb CTQG, Hà Nội. 1997), Tìm hiểu t tởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
quốc tế (Lê Văn Yên, Nxb Lao động, Hà Nội. 1999), Ngoại giao Hồ Chí
Minh lấy chí nhân thay cờng bạo(Nguyễn Phúc Luân, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội. 2003),
Những bài viết, những công trình nghiên cứu nêu trên đã tiếp cận quá
trình tập hợp lực lợng giữa các ĐCS-CN ở nhiều góc độ và với mức độ khác
nhau. Tuy nhiên, số công trình nghiên cứu một cách hệ thống toàn diện,
chuyên sâu về quá trình tập hợp lực lợng trong PTCSQT từ năm 1991 đến
2005 cha nhiều. Hơn nữa, chủ đề này cũng cha trở thành đối tợng nghiên cứu
độc lập của một công trình khoa học nào ở trong cũng nh ngoài nớc, đặc biệt
trên quy mô một luận án tiến sĩ lịch sử. Đây vừa là vấn đề lý luận cơ bản, rất
quan trọng, vừa là vấn đề chính trị thực tiễn cấp thiết đối với tất cả các ĐCS-
CN, nhất là đối với Đảng ta - một ĐCS cầm quyền đang nỗ lực học tập, nghiên
cứu nâng cao trình độ nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, T tởng Hồ Chí
Minh, về CNXH, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới theo định hớng
XHCN.

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án:
Mục đích của luận án là làm rõ quá trình tập hợp lực lợng trong
PTCSQT từ năm 1991 đến 2005, đồng thời dự báo triển vọng tập hợp lực lợng
trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI. Trên cơ sở đó, luận án khẳng định tính
đúng đắn và sự cần thiết phải đổi mới nhận thức, vận dụng sáng tạo những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về tập hợp lực lợng, đoàn kết
9
quốc tế - một nội dung cốt lõi chủ nghĩa quốc tế của GCCN trong giai đoạn
cách mạng hiện nay.
Nhiệm vụ của luận án: Luận án nêu ra và giải quyết những nhiệm vụ
chủ yếu sau:
Trình bày khái lợc quá trình tập hợp lực lợng trong phong trào cộng sản
quốc tế thời kỳ trớc năm 1991.
Phân tích quá trình tập hợp lực lợng trong PTCSQT từ năm 1991- 2005,
trong đó tập trung đi sâu luận bàn ở mức cần thiết những nét chính về hai ph-
ơng thức tập hợp lực lợng điển hình của PTCSQT đặt trong bối cảnh quốc tế
mới. Thông qua đó có thể thấy, sự đa dạng phong phú về nội dung, các phơng
thức tập hợp lực lợng mới trong phong trào nhng lại có sự thống nhất về mục
tiêu chung, linh hoạt, mềm dẻo sách lợc về lợi ích giai cấp, dân tộc, nhân loại.
Phân tích những vấn đề đặt ra của quá trình tập hợp lực lợng trong
PTCSQT, dựa trên những căn cứ khoa học và thực tiễn, luận án dự báo triển
vọng tập hợp lực lợng trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI.
Nêu rõ những đóng góp chủ yếu của ĐCS Việt Nam cả về lý luận và
thực tiễn đối với quá trình tập hợp lực lợng, đoàn kết quốc tế trong PTCSQT từ
năm 1991 đến 2005, đồng thời đề xuất một số kiến nghị trên lĩnh vực này.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Về thời gian: Quá trình tập hợp lực lợng trong PTCSQT đợc luận án
nghiên cứu chủ yếu từ sau khi chế độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ
năm 1991 đến 2005. Các dự báo về khuynh hớng vận động của quá trình này

đợc giới hạn trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI.
Về nội dung: Khi nghiên cứu quá trình tập hợp lực lợng trong phong
trào cộng sản quốc tế ở diện rộng, luận án tập trung trọng điểm vào một số
khu vực nh châu Âu, Mỹ Latinh Luận án dành một phần thoả đáng cho việc
phân tích quá trình tập hợp lực lợng trong PTCSQT thời kỳ trớc 1991. Thời kỳ
này có thể phân chia một cách tơng đối thành 2 giai đoạn: giai đoạn đầu gắn
với hoạt động lãnh đạo của Mác, Ăngghen và của Lênin; giai đoạn thứ hai tập
trung chủ yếu vào những năm chiến tranh lạnh. Phần trọng tâm của luận án
10
dành cho việc luận bàn về quá trình tập hợp lực lợng trong phong trào cộng
sản quốc tế: lựa chọn hai phơng thức tiêu biểu về tập hợp lực lợng trong bối
cảnh quốc tế mới đó là Diễn đàn Sao Paulô và Aten để làm rõ mục tiêu, nội
dung, lực lợng tham gia, cấp độ, quy mô và những phơng thức tập hợp lực l-
ợng chủ yếu của phong trào. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu nội dung của ch-
ơng 2, luận án phân tích những vấn đề đặt ra hiện nay và dự báo triển vọng
của quá trình tập hợp lực lợng trong PTCSQT, nêu những đóng góp của ĐCS
Việt Nam đối với quá trình này.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu của luận án
Luận án thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, t tởng
Hồ Chí Minh và đờng lối, quan điểm, những nhận định đánh giá của ĐCS Việt
Nam về chủ nghĩa quốc tế của GCCN, về đoàn kết quốc tế, phối hợp và tập
hợp lực lợng trong PTCSQT. Tác giả coi đây là nguồn cung cấp những căn cứ
lý luận, khoa học và thực tiễn giúp cho việc định hớng t tuởng khi nghiên cứu
đề tài luận án.
Về phơng pháp nghiên cứu, luận án sử dụng phơng pháp luận cơ bản
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; hệ thống ph-
ơng pháp luận sử học mác xít, thống nhất giữa phơng pháp nghiên cứu lịch sử
và lôgíc. Các phơng pháp khác nh phân tích tổng hợp, quy nạp, so sánh, đối
chiếu, thống kê , đợc vận dụng thích hợp đối với việc nghiên cứu từng nội
dung cụ thể.

Mọi nhận định, đánh giá trong luận án sẽ đợc xây dựng trên cơ sở phân
tích, khái quát những dữ kiện thực tế, những văn kiện, t liệu gốc đợc thông
qua tại các đại hội, hội nghị, các hội thảo, diễn đàn quốc tế do các ĐCS - CN
tổ chức từ những năm 90 thế kỷ XX đến nay, đồng thời luận án kế thừa một
cách có chọn lọc những kết quả của các công trình khoa học đã công bố liên
quan đến đề tài luận án.
6. Những đóng góp mới của luận án
Luận án trình bày có hệ thống quá trình tập hợp lực lợng trong PTCSQT
từ năm 1991 đến 2005 đặt trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến nhanh
11
chóng, phức tạp và khó lờng, so sánh lực lợng thế giới có phần bất lợi cho
PTCSQT hiện nay.
Trên cơ sở những cứ liệu khoa học và thực tiễn mới, luận án khẳng định
vai trò, vị trí hết sức quan trọng của tập hợp lực lợng và sự phối hợp hành động
chung giữa các ĐCS - CN trong tiến trình cách mạng thế giới vì mục tiêu giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Luận án chứng minh rằng, trong điều kiện lịch sử hiện nay, phơng thức tập
hợp lực lợng trong PTCSQT phải đa dạng và hết sức linh hoạt theo từng chủ đề
cụ thể, phơng thức tập hợp lực lợng dới dạng hình thành một trung tâm chỉ đạo
phong trào nh trớc đây là không có cơ sở thực tế và không thể thực hiện đợc
cho dù không ít đảng cộng sản hiện vẫn mong muốn một phơng thức tập hợp
lực lợng nh vậy. Luận án phân tích làm rõ sự cần thiết phải đổi mới nhận thức
và thực hành chủ nghĩa quốc tế của GCCN trong giai đoạn hiện nay. Luận án
chỉ rõ, mặc dù quá trình tập hợp lực lợng trong PTCSQT thời kỳ sau chiến
tranh lạnh gặp không ít khó khăn thách thức lớn và còn nhiều hạn chế, song
khuynh hớng vận động tích cực của nó vẫn ngày càng đợc củng cố, tăng cờng
trong thập hai niên đầu thế kỷ XXI. Luận án cũng nêu lên những đóng góp
chủ yếu của ĐCS Việt Nam đối với đoàn kết quốc tế và tập hợp lực lợng trong
PTCSQT.
7. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

Trong điều kiện CNXH hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào và phong
trào cộng sản quốc tế đang đứng trớc khó khăn thử thách lớn, luận án góp
phần tìm hiểu, làm rõ thêm quá trình tập hợp lực lợng trong PTCSQT giai
đoạn từ năm 1991 đến 2005. Từ đó, luận án khẳng định hơn bất kỳ khi nào,
vấn đề tập hợp lực lợng, đoàn kết quốc tế trong giai đoạn hiện nay càng trở
nên cấp bách, có ý nghĩa sinh tử đối với PTCSQT để phong trào có thể phục
hồi và tiếp tục phát triển.
Kết quả nghiên cứu đạt đợc của luận án có thể đóng góp vào việc tìm
hiểu một cách cơ bản, hệ thống về quá trình tập hợp lực lợng trong PTCSQT
hơn một thập niên sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, trên cơ sở đó thấy rõ hơn
12
vai trò động lực, sức mạnh to lớn của tập hợp lực lợng, đoàn kết quốc tế trong
quá trình thực hiện sứ mệnh lịch thế giới của GCCN. Từ đây, luận án có thể
góp phần củng cố thêm niềm tin trong cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với
việc thực hiện đờng lối quốc tế của Đảng ta trong tình hình mới, tiếp tục đẩy
mạnh hơn nữa công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận nh Nghị quyết
Đại hội X của Đảng đề ra. Đồng thời, luận án có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn Lịch sử PTCS-
CNQT, công tác giáo dục lý luận chính trị trong hệ thống trờng Đảng, Trung
tâm bồi dỡng chính trị cấp huyện cũng nh ở một số cơ sở giáo dục của Nhà n-
ớc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội ở nớc ta hiện nay.
8. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ
lục, luận án có kết cấu gồm 3 chơng với 8 tiết.
13
Chơng 1
Khái lợc quá trình tập hợp lực lợng
trong phong trào cộng sản quốc tế
thời kỳ trớc năm 1991
Sự kết hợp lý luận của CNXH khoa học với phong trào công nhân đã

dẫn đến hình thành các chính đảng của giai cấp vô sản - giai cấp công nhân
trên thế giới, đây là một nguyên lý mang tính phổ biến đợc luận giải một cách
khoa học trong học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Do sứ mệnh
lịch sử của GCCN quy định, các chính đảng của nó có nghĩa vụ đoàn kết, tập
hợp lực lợng rộng rãi, lãnh đạo cuộc đấu tranh cho những quyền lợi chính
đáng cụ thể trớc mắt, đồng thời cho cả mục tiêu chiến lợc lâu dài của GCCN
là giải phóng giai cấp, giải phóng toàn nhân loại khỏi ách áp bức, bóc lột, bất
công, xây dựng một xã hội mới trong đó con ngời có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Sự tơng đồng về mục tiêu đấu
tranh đã tập hợp, đoàn kết các chính đảng của GCCN lại thành phong trào
chính trị - xã hội rộng lớn. PTCSQT ra đời chính từ kết quả của quá trình tập
hợp lực lợng, thống nhất đó. Sức mạnh nội tại của phong trào tự nó đa phong
trào trở thành lực lợng cách mạng tiên phong, đóng vai trò hết sức quan trọng
trong lịch sử phát triển của thế giới đơng đại. Thắng lợi có ý nghĩa lịch sử
vạch thời đại của Cách mạng Tháng Mời Nga là thành quả vĩ đại không chỉ
của GCCN và nhân dân lao động Nga, mà còn là thắng lợi chung của GCCN
quốc tế trong tiến trình hiện thực hoá sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của họ qua
các thời kỳ cách mạng trớc đó.
1.1. Hoạt động phối hợp của phong trào cộng sản quốc tế
thời kỳ Mác - ăngghen, Lênin và Quốc tế Cộng sản
1.1.1. Đặc điểm phong trào công nhân quốc tế và những phơng thức
tập hợp lực lợng đầu tiên của phong trào thời kỳ Mác - Ăngghen
Cơ sở xã hội chủ yếu của các ĐCS-CN trên thế giới là giai cấp vô sản
(GCVS) - GCCN, vì thế, khi nghiên cứu quá trình tập hợp lực lợng trong
14
PTCSQT, không thể không nghiên cứu quá trình ra đời, hình thành và phát
triển của giai cấp này. Đây là một quá trình lịch sử lâu dài từ tầng lớp vô sản
đầu tiên đến vô sản công trờng thủ công và giai cấp vô sản hiện đại.
Vào thế kỷ thứ XIV- XV, chế độ phong kiến trở lên suy tàn, quan hệ sản
xuất TBCN bắt đầu hình thành ở một số nớc châu Âu, làm xuất hiện lao động

làm thuê TBCN. Quá trình tích luỹ nguyên thuỷ TBCN đa đến một xã hội có hai
tập đoàn nguời có lợi ích cơ bản hoàn toàn đối lập nhau: một bên bao gồm những
ngời giầu có, sở hữu t liệu sản xuất, t liệu sinh hoạt đó là GCTS; còn bên kia gồm
những ngời nghèo khổ, chỉ sở hữu một tài sản quan trọng duy nhất là sức lao
động của chính mình và có thể tự do bán nó cho nhà t bản để kiếm sống. Họ
chính là những ngời vô sản đầu tiên. Từ cuối thế kỷ XVI, cùng với sự ra đời, phát
triển kiểu tổ chức sản xuất công trờng thủ công TBCN, GCVS công trờng thủ
công đợc hình thành. Ban đầu, hoạt động sản xuất của họ bị phân tán, cách làm
ăn còn mang nặng t tởng sản xuất nhỏ, cha bị cột chặt vào guồng máy sản xuất
TBCN. Với đặc điểm này, GCVS công trờng thủ công cha trở thành một lực lợng
ổn định, độc lập trong xã hội.
Cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ thứ XIX
tạo ra bớc nhảy vọt trong đời sống kinh tế, chính trị xã hội - yếu tố thúc đẩy
phơng thức sản xuất TBCN phát triển mạnh mẽ, đánh dấu bớc chuyển căn bản
của CNTB sang giai đoạn đại công xởng và GCVS hiện đại ra đời. Việc sử
dụng máy móc vào sản xuất, làm phá sản hàng loạt những ngời sản xuất nhỏ,
tầng lớp những ngời lao động khác cũng bị nền đại công nghiệp đánh bại và bị
đẩy vào hàng ngũ GCVS. Giai cấp này nhanh chóng trở thành một lực lợng xã
hội to lớn.
Nghiên cứu GCVS giai đoạn này, trong tác phẩm Những nguyên lý của
chủ nghĩa cộng sản, Ăngghen nêu định nghĩa về GCVS nh sau:
Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ có thể sống
dựa vào việc bán sức lao động của mình, chứ không phải sống dựa
vào lợi nhuận của bất cứ số t bản nào. Đó là một giai cấp mà hạnh
phúc và đau khổ, sống và chết, toàn bộ sự sống còn của họ đều
phụ thuộc vào yêu cầu về lao động, tức là vào tình hình chuyển
15
biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những sự biến động
của cuộc cạnh tranh không gì ngăn cản nổi. Nói tóm lại, giai cấp
vô sản hay là giai cấp của những ngời vô sản là giai cấp lao động

thế kỷ XIX [96, tr. 456].
Sự phát triển nhanh của nền đại công nghiệp làm cho GCVS ngày càng
tăng về số lợng và trở thành một tầng lớp xã hội ổn định, chiếm vị trí đặc biệt
trong hệ thống sản xuất TBCN. Với ý nghĩa đó, GCVS hiện đại là con đẻ của
nền đại công nghiệp. Nếu ở thời kỳ công trờng thủ công, sự ngăn cách giữa
ngời có t liệu sản xuất và công nhân cha sâu sắc, thì đến thời kỳ đại công
nghiệp, ranh giới đó đã phân rõ thành hai cực đối lập nhau. Với điều kiện sản
xuất công nghiệp, GCVS ngày càng trở thành một tập đoàn ngời tập trung và
sự giác ngộ giai cấp của họ cũng tăng lên. Họ đã bắt đầu nhận thức đợc rằng,
kẻ thù đích thực của họ là GCTS. Thông qua máy móc, GCTS bóc lột lao động
làm thuê, nhng chính máy móc ngày càng làm cho điều kiện sinh hoạt của họ
giống nhau. Đó chính là điều kiện khách quan của quá trình hình thành GCVS
hiện đại và quyết định tính chất cách mạng của nó.
Trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau, cuộc đấu tranh của GCVS
chống GCTS bắt đầu ngay từ lúc mới ra đời và từng bớc trở thành trục của
vòng xoáy cách mạng. Những cuộc đấu tranh này diễn ra từ những công nhân
riêng lẻ, đến công nhân cùng một phân xởng, một ngành sản xuất, một địa ph-
ơng chống lại những chủ t bản trực tiếp bóc lột họ, có thể nói đó là những
cuộc đấu tranh tự phát và có tính chất thuần tuý kinh tế. Đấu tranh kinh tế là
giai đoạn phát triển tất yếu, có tính chất quy luật của PTCN trong thời kỳ đầu.
Biểu hiện của cuộc đấu tranh kinh tế trớc hết là phong trào phản đối tình trạng
lơng thực, thực phẩm đắt đỏ và giá trị tiền lơng thực tế của công nhân giảm
sút. Phong trào diễn ra đầu tiên ở nớc Anh vào những năm 90 của thế kỷ
XVIII, đã thu hút đợc sự tham gia đông đảo của công nhân mỏ, công nhân cơ
khí và công nhân dệt gia công tại nhà. Phong trào lan rộng sang nớc Pháp vào
cuối thế kỷ XVIII đến những năm 40 của thế kỷ XIX. Nối tiếp cuộc đấu tranh
này là phong trào đập phá máy móc, đốt phá công xởng, chống lại việc sử
dụng máy móc vào sản xuất diễn ra ở nớc Anh vào những năm 1811- 1817.
16
Lúc đó, do cha thấy nguyên nhân sâu xa của tình trạng bần cùng, GCCN chỉ

thấy kẻ trực tiếp làm cho họ khổ và tranh cớp việc làm của họ là máy móc. Vì
vậy, công nhân tự phát nổi dậy đập phá máy móc với hy vọng giữ đợc việc
làm và có đồng lơng khá hơn.
Cùng với phong trào đấu tranh đòi tăng lơng, giảm giờ làm và đấu tranh
đập phá máy móc, bãi công cũng là một hình thức đấu tranh kinh tế trong thời
kỳ đầu của PTCN. Có thể nói, đây là một hình thức đấu tranh có tầm quan
trọng hơn cả so với các hình thức mà GCVS đã sử dụng trớc đó. Phong trào
bãi công đồng loạt diễn ra vào cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX ở các
nớc châu Âu và Mỹ. Yêu sách chủ yếu của phong trào bãi công là vấn đề tiền
lơng: tăng lơng, trả lơng đúng hạn, rút ngắn hoặc giữ nguyên giờ lao động, bãi
bỏ tiền phạt và mọi hình thức khấu trừ tiền lơng Bãi công - hình thức đấu
tranh đợc xem là nhân tố thúc đẩy và phát triển những mầm mống giác ngộ ý
thức giai cấp của GCVS. Theo Ăngghen, bãi công còn là trờng học của công
nhân ở đây họ đợc huấn luyện để chuẩn bị đi vào cuộc đấu tranh vĩ đại đã trở
thành không thể tránh khỏi đợc, bãi công là bản tuyên ngôn của các đội ngũ
của giai cấp công nhân tuyên bố tham gia phong trào công nhân vĩ đại [94, tr.
607].
Khẳng định quan điểm của Ăngghen về hình thức đấu tranh bãi công,
Lênin nhấn mạnh thêm: bãi công còn là một trong những cuộc xung đột vĩ
đại giữa giai cấp vô sản đang hình thành với kẻ thù của nó [81, tr.218] là
một trong những biểu hiện sâu sắc nhất và mạnh mẽ nhất [80, tr. 291] của
cuộc đấu tranh giai cấp của GCCN.
Đấu tranh bãi công mà GCCN sử dụng chống lại giai cấp t sản với yêu
sách về kinh tế, dần dần đợc giai cấp công nhân tăng cờng kết hợp với đấu
tranh chính trị. Đây là đặc điểm ngày càng rõ nét trong sự phát triển các cuộc
bãi công của công nhân.
Sự phát triển rộng rãi của phong trào bãi công đánh dấu một giai đoạn
mới của cuộc đấu tranh giai cấp của GCCN trong quá trình trởng thành. Bản
năng giai cấp vốn có của họ đã phát triển thành lập trờng giai cấp, giác ngộ và
chỉ cho giai cấp này thấy rõ sức mạnh của mình là ở đoàn kết và biết tổ chức

17
thì mới có thể giành đợc thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống GCTS. Về vấn
đề này, Mác nhận định: Sự đoàn kết ngày càng rộng rãi của những ngời lao
động hơn là sự thành công tức thời. Còn Lênin khẳng định:
Bãi công dạy cho công nhân thấy rõ đâu là sức mạnh của mình,
nó tập cho công nhân thói quen nghĩ đến tất cả bọn chủ, đến toàn
bộ giai cấp các nhà t bản và đến toàn bộ giai cấp công nhân, chứ
không phải chỉ nghĩ đến chủ của mình và đến các đồng chí gần
gũi nhất [78, tr.372].
Cuộc đấu tranh của GCCN ngày càng mở rộng, thì ý thức về lợi ích giai
cấp càng đợc nâng cao, điều đó đợc thể hiện trớc hết ở chủ trơng hình thành
các tổ chức đầu tiên của GCCN. Công nhân đã thành lập ra các hội nh: hội thợ
bạn, hội hữu ái hoặc những hội mang tính chất nghề nghiệp để bảo vệ quyền
lợi hàng ngày của họ. Sự hình thành các tổ chức hội nói trên là giai đoạn đặc
biệt quan trọng trong sự phát triển của PTCN, là bớc tiến trong hành động
cách mạng của GCCN từ chỗ hành động một cách tự phát, tản mạn đến hoạt
động thống nhất, có tổ chức, biết đoàn kết để chống lại sự bóc lột của giai cấp
thống trị.
Từ những bài học kinh nghiệm rút ra trong hoạt động của các hình thức
tổ chức hội đã có, GCCN lập ra một hình thức tổ chức mới của mình, đó là tổ
chức công đoàn, còn gọi là nghiệp đoàn. Nghiệp đoàn trở thành trung tâm
đoàn kết GCCN trong những bớc đi ban đầu. Dần dần các nghiệp đoàn cùng một
ngành nghề và hoạt động trong cùng một địa phơng đã có sự phối hợp trong cuộc
đấu tranh chống chủ xởng. Lúc đầu, sự liên hiệp là ngẫu nhiên, nhng càng về
sau, do giác ngộ của GCCN đợc nâng lên, sự liên hợp ấy lại trở thành thờng
xuyên và tất yếu. Các tổ chức công đoàn của GCCN không ngừng phát triển cả
về quy mô và phạm vi hoạt động, ngày càng đóng vai trò tích cực trong cuộc đấu
tranh của GCCN chống lại sự áp bức, bóc lột của chủ t bản.
Từ cuối thế kỷ thứ XVIII đến những năm 40 thế kỷ XIX, các cuộc đấu
tranh của GCCN diễn ra mạnh mẽ và mang tính chất quần chúng rộng rãi. Từ

những yêu sách thuần tuý về kinh tế, GCCN đã bắt đầu hớng tới mục tiêu
chính trị. Liên tiếp trong các năm 1831-1834, công nhân dệt thành phố Lyông
18
(Pháp) tiến hành hai cuộc khởi nghĩa chống lại chủ t bản. Khẩu hiệu ban đầu
đặt ra là vì lợi quyền kinh tế: Sống có việc làm hay chết trong đấu tranh, thì
ngay sau đó, năm 1834 khẩu hiệu này đợc thay bằng khẩu hiệu đấu tranh cho
mục tiêu chính trị Nền cộng hoà hay là chết. Năm 1844, công nhân dệt
thành phố Xilêdi (Đức) vùng lên đấu tranh, tiến hành đập phá máy móc, đốt
kho tàng, nhà xởng của nhiều chủ t bản. Cuộc khởi nghĩa Xilêdi không đơn
thuần là một cuộc đấu tranh chống áp bức, mà thực chất là một cuộc đấu tranh
chống CNTB và mở đầu cho phong trào đấu tranh rộng rãi của GCCN Đức. ở
Anh, phong trào Hiến chơng diễn ra suốt từ năm 1835 - 1850 đòi cải cách chế
độ tuyển cử và dân sinh, phong trào mang tính chính trị đầu tiên của GCCN
Anh trực tiếp tiến công vào chính quyền t sản.
Tuy nhiên, xét trên mọi phơng diện, những cuộc đấu tranh độc lập đầu
tiên của GCCN nửa đầu thế kỷ XIX vẫn mang nặng tính tự phát, mục tiêu đấu
tranh còn dừng lại ở lợi ích kinh tế trớc mắt. Những yêu sách chính trị tuy đã
nêu ra nhng so với những yêu sách kinh tế còn mờ nhạt. Xét về đối tợng đấu
tranh, quy mô và lực lợng đấu tranh của PTCN thời kỳ khởi đầu còn nhiều hạn
chế, tuy tăng về số lợng, song chất lợng cha cao. Nguyên nhân chủ quan của
hạn chế này là do GCCN cha có chính đảng độc lập lãnh đạo, vì thế mà PTCN
vẫn cha vợt ra khỏi giới hạn tự phát. GCCN cha nhận rõ đợc bản chất bóc lột
của GCTS, cha phân biệt đợc đâu là kẻ thù chính của mình, cha thấy rõ vai trò
của một giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử toàn thế giới xoá bỏ CNTB, xây
dựng CNXH và cuối cùng là CNCS.
Mặc dầu vậy, những cuộc đấu tranh đầu tiên có tính chất điển hình của
GCCN đã giáo dục, rèn luyện chính họ từng bớc nâng cao tinh thần giác ngộ
giai cấp, rèn luyện ý chí và phơng pháp đấu tranh, là cơ sở để họ nhận thức rõ
sức mạnh đoàn kết của giai cấp trong cuộc đấu tranh chống GCTS và chế độ
TBCN. Bài học lịch sử rút ra từ những cuộc đấu tranh độc lập đầu tiên của

GCCN cho thấy, để giành đợc thắng lợi trớc GCTS thì tất yếu phải tiến hành
đấu tranh với trình độ cao hơn trên cơ sở nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn
về đối tợng, mục tiêu, về tổ chức lãnh đạo và lực lợng đấu tranh, từ đó sáng
tạo ra những hình thức đấu tranh mới thích hợp. Nhận thức đó giúp GCCN
19
đoạn tuyệt với các cuộc đấu tranh tự phát chuyển sang đấu tranh ngày càng
mang tính tự giác. Tuy nhiên, để đoạn tuyệt với các hình thức đấu tranh mang
tính bản năng ngày đầu hình thành, GCCN cần khai thác những điều kiện
khách quan và chủ quan cần thiết.
Trớc hết, PTCN phải có học thuyết cách mạng, hệ t tởng chính trị cách
mạng - khoa học soi đờng. Đây là vũ khí lý luận của GCCN, vũ khí này giúp
GCCN có thế giới quan, nhân sinh quan cộng sản, công cụ để nhận biết sự vận
động của thế giới và cải tạo thế giới; đồng thời nhận thức đúng đắn, đầy đủ
hơn về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của GCCN.
GCCN phải có chính đảng tiên phong đợc tổ chức chặt chẽ, tập hợp
những ngời triệt để cách mạng nhất, giác ngộ nhất trong GCCN, đại biểu cho
lợi ích căn bản của GCCN. Đảng tiên phong đợc trang bị lý luận cách mạng và
khoa học đóng vai trò ngời khởi xớng và lãnh đạo tổ chức thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị của Đảng vì nhân dân lao động, giáo dục giác ngộ, đoàn
kết quần chúng hành động cách mạng một cách tự giác.
PTCN dới sự lãnh đạo của chính đảng tiên phong, phải xây dựng đợc c-
ơng lĩnh chính trị đúng đắn phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn cách mạng trong
từng thời kỳ đấu tranh.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khủng hoảng kinh tế diễn ra hầu
hết các nớc TBCN ở châu Âu, mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt. Cao trào
cách mạng 1848-1849 đã nổ ra, điển hình là các cuộc cách mạng ở Pháp và
Đức. Sự trởng thành của GCCN và PTCN đã làm xuất hiện đội ngũ những ngời
u tú, đại biểu cho mình.
Với trí tuệ thiên tài và lập trờng cách mạng kiên định, triệt để, Mác và
Ăngghen đã chắt lọc và kế thừa những t tởng tiến bộ của triết học cổ điển

Đức, kinh tế chính trị học Anh, CNXH không tởng Pháp thế kỷ thứ XIX và
những thành tựu rực rỡ trong khoa học tự nhiên để làm cuộc cách mạng vĩ đại
trong khoa học xã hội - sáng lập ra CNXH khoa học - học thuyết cách mạng,
khoa học của GCCN. Mác và Ăngghen đã dành nhiều thời gian hoạt động của
mình nhằm đoàn kết những ngời tiên tiến trong phong trào vô sản, đấu tranh
cho việc thành lập một chính đảng triệt để cách mạng, thực sự độc lập trên cơ
20
sở những nguyên lý của CNXH khoa học về đảng của GCVS. Để thành lập
một chính đảng nh vậy, cần phải tuyên truyền rộng rãi t tởng cộng sản chủ
nghĩa, củng cố mối quan hệ với những công nhân tiên tiến và những đại biểu
của tầng lớp trí thức cách mạng, nhằm tạo ra sự thống nhất về quan điểm và
phơng thức hành động.
Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng của GCCN các nớc, đặc biệt là ở châu
Âu nh Anh, Pháp, Đức , Mác và Ăngghen cho rằng cần phải có một bộ phận
tuyên truyền sâu rộng hệ t tởng cách mạng, khoa học trong GCCN, coi trọng
hình thức trao đổi, học hỏi kinh nghiệm hoạt động của các tổ chức công nhân
các nớc. Đầu năm 1846, Uỷ ban Thông tin cộng sản đầu tiên đợc thành lập ở
Bruy-xen và sau đó đợc thành lập ở nhiều nơi khác. Mục đích của uỷ ban là
xác lập sự tiếp xúc thờng xuyên giữa những ngời XHCN Đức, Pháp và Anh để
thảo luận những vấn đề lý luận, phê phán các hệ thống không tởng và xây
dựng sự thống nhất quan điểm. Ngoài những chức năng t tởng, các Uỷ ban
Thông tin cộng sản còn có nhiệm vụ tổ chức nhất định: phát hiện và đoàn kết
các lực lợng có thể, làm hạt nhân cho đảng vô sản quốc tế.
Để tiến tới thành lập đảng vô sản, ngay từ thời kỳ đầu của PTCN, cuộc
đấu tranh t tởng và việc thành lập Uỷ ban Thông tin cộng sản ở các nớc trở
thành một nhiệm vụ cấp thiết, thông qua đó nhiều tổ chức công nhân đã có b-
ớc trởng thành. Điều này thể hiện rõ nhất ở sự chuyển biến của Đồng minh
những ngời chính nghĩa, một tổ chức của GCCN tại thành phố Luân Đôn. Quá
trình hoạt động, Đồng minh nhận thấy phải lập ra một chính đảng vững mạnh
và đề nghị Mác và Ăngghen trực tiếp tham gia chỉ đạo, soạn thảo Cơng lĩnh,

Điều lệ, thành lập cơ quan báo chí chuẩn bị cho việc cải tổ, đổi mới lại Đồng
minh. Đại hội cải tổ Đồng minh những ngời chính nghĩa thành Đồng minh
những ngời cộng sản, đợc tiến hành vào tháng 6/1847 tại Luân Đôn. Đại hội
thông qua Điều lệ mới với mục đích là: Đánh đổ giai cấp t sản, giai cấp vô
sản nắm địa vị thống trị, thủ tiêu xã hội cũ xã hội t sản dựa trên sự đối kháng
giai cấp và xây dựng một xã hội mới không giai cấp và không có chế độ t
hữu [144, tr. 243]. Điều lệ mới nêu những nguyên tắc tổ chức, quy chế làm
21
việc, những tiêu chuẩn kết nạp hội viên. Đề cập lý do của việc đổi tên, Đại hội
nhấn mạnh:
Còn chúng ta có sự khác biệt không phải ở chỗ chúng ta muốn sự
chính nghĩa nói chung - điều này thì mỗi ngời đều có thể khẳng định
về mình - mà là ở chỗ chúng ta chống lại chế độ xã hội hiện hữu và
chống lại chế độ t hữu, ở chỗ chúng ta muốn có chế độ cộng đồng tài
sản, ở chỗ chúng ta là những ngời cộng sản [99, tr.588].
Đại hội lần thứ nhất quyết định thay khẩu hiệu Tất cả mọi ngời đều là
anh em bằng lời kêu gọi do Mác, Ăngghen nêu ra: Vô sản tất cả các nớc
đoàn kết lại. Khẩu hiệu là lời hiệu triệu, thể hiện nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa quốc tế vô sản, đoàn kết thống nhất về mặt t tởng, hành động của GCCN
chống CNTB trên phạm vi toàn thế giới.
Đồng minh những ngời cộng sản là tổ chức công nhân quốc tế đầu tiên
lấy CNXH khoa học làm nền tảng t tởng, kim chỉ nam cho hành động, đó là
cơ sở cho việc kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác với PTCN. Đại hội II của
Đồng minh đợc tổ chức từ ngày 29-11 đến 08-12-1847 tại Luân Đôn với sự
tham dự của Mác, Ăngghen và đại biểu của PTCN ở nhiều nớc châu Âu. Đại
hội đã thảo luận nhiều vấn đề quan trọng và giao cho Mác, Ăngghen dự thảo
Cơng lĩnh dới hình thức một bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Đại hội
thông qua Điều lệ, khẳng định mục đích, tôn chỉ hoạt động của Đồng minh
nh đã đề ra, đánh dấu quá trình thành lập một tổ chức cộng sản đầu tiên đã đ-
ợc hoàn thành.

Thực tiễn phát triển PTCN đặt ra những yêu cầu mới về lý luận. Trớc
tình hình đó Mác và Ăngghen đã hoàn thành dự thảo Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản vào đầu năm 1848. Lần đầu tiên, Tuyên ngôn đợc xuất bản đúng vào
thời điểm Cách mạng tháng 2 năm 1848 ở Pháp bùng nổ. Tuyên ngôn cũng đ-
ợc dịch ra tiếng nớc ngoài để phổ biến trong PTCNQT. Tuyên ngôn là tác
phẩm đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa Mác, trở thành Cơng lĩnh soi sáng con
đờng cách mạng của GCCN toàn thế giới.
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản phân tích một cách khoa học, chứng minh
một cách thuyết phục sứ mệnh lịch sử của GCCN là đấu tranh thủ tiêu sự áp bức,
22
bóc lột, lật đổ CNTB, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại, xây dựng một xã
hội văn minh, hiện đại trong đó con ngời thật sự làm chủ trên mọi phơng diện, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Tuyên ngôn chỉ ra con đờng, phơng pháp
tiến hành cách mạng để giành thắng lợi cho GCCN, đặc biệt chỉ ra nhân tố có ý
nghĩa quyết định thắng lợi sứ mệnh lịch sử của GGCN đó là việc giai cấp này
phải tự tổ chức thành giai cấp thống trị, phải trở thành giai cấp tiên phong và lãnh
đạo cách mạng. GCCN bớc đầu phải dùng bạo lực cách mạng đập tan nhà nớc t
sản, thiết lập nên nhà nớc của GCCN và nhân dân lao động. Sau đó, dùng chính
quyền của nhân dân làm công cụ để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Ăngghen viết: Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy - đó là sứ mệnh lịch
sử của giai cấp vô sản hiện đại [93, tr. 56].
Ngoài những nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi sứ mệnh lịch sử
thế giới của GCCN là vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản, Mác và Ăngghen
cho rằng, còn một yếu tố đặc biệt quan trọng là vấn đề đoàn kết, tập hợp lực l-
ợng trong PTCNQT. Đây là vấn đề vừa có tính sách lợc trớc mắt vừa là nhiệm
vụ có ý nghĩa chiến lợc lâu dài, đồng thời còn là nguyên tắc trong việc thể
hiện thái độ đối với từng giai cấp và các trào lu chính trị - xã hội khác nhau.
Trong khi cùng đấu tranh chung với GCTS để chống phong kiến tại các nớc
chế độ phong kiến cha bị đánh đổ, thì những ngời cộng sản không đợc phút
nào quên nhiệm vụ giáo dục cho GCCN hiểu rõ sự đối kháng giữa GCCN và

GCTS để ngay sau khi thủ tiêu xong giai cấp phong kiến là có thể tiến hành
cuộc đấu tranh chống GCTS. Để làm đợc điều đó GCCN thế giới cần tập hợp
lực luợng, thống nhất hành động cách mạng trên cơ sở khẩu hiệu Vô sản tất
cả các nớc đoàn kết lại.
Kể từ khi Tuyên ngôn của Đảng cộng sản ra đời, GCCN đợc tiếp thêm
nguồn sức mạnh mới trong cuộc đấu tranh chống GCTS, điều này đợc thể
hiện rõ qua cao trào cách mạng 1848 - 1849 ở châu Âu. Cách mạng tháng
Hai năm 1848 - cuộc khởi nghĩa vũ trang của quần chúng vô sản Pháp
giành thắng lợi, chế độ quân chủ bị lật đổ, nền cộng hoà đợc thành lập. Tuy
nhiên, ngay sau đó, chính phủ do GCTS nắm quyền đã phản bội lại GCCN,
dùng nhiều thủ đoạn chống lại công nhân. GCCN Pháp vào tháng 6/1848 lại
23
một lần nữa vùng lên, dựng chiến luỹ, khởi nghĩa vũ trang, song vì thiếu sự
lãnh đạo của chính đảng cộng sản nên cuộc khởi nghĩa bị thất bại. Tại Đức,
phong trào đấu tranh của công nhân diễn ra liên tục ngay từ đầu năm cho
đến giữa năm 1848. Tháng 3/1848, Đồng minh những ngời cộng sản đứng
ra tổ chức cuộc biểu tình ở Cơ-lơn với yêu sách đòi dân sinh, dân chủ.
PTCN ngày một lớn mạnh và phát triển rộng ở Béc-lin và ở nhiều thành phố
khác, tuy cuối cùng bị thất bại.
Phong trào đấu tranh cách mạng 1848-1849 của giai cấp vô sản ở châu
Âu cho dù bị thất bại, song nó là tiền đề, động lực thúc đẩy các cuộc cách
mạng tiếp theo. Cách mạng 1848 - 1849 đã giúp cho GCCN rút ra những bài
học có ý nghĩa lịch sâu sắc. Qua thực tiễn đấu tranh cách mạng GCCN nhận
thức đầy đủ hơn về bản chất các giai cấp trong xã hội, từ đó có thể xác định đ-
ợc mối quan hệ đâu là bạn, đâu là đồng minh chiến lợc, đâu là kẻ thù trớc mắt
và lâu dài. Khi xác định đợc đúng đối tợng thì cũng xác định đợc các hình
thức tập hợp, liên minh các lực lợng dân chủ tiến bộ, đặc biệt với giai cấp
nông dân. Linh hoạt, sáng tạo, đa dạng hoá các phơng pháp và hình thức đấu
tranh nh bãi công, khởi nghĩa vũ trang, trong đó cách mạng bạo lực phải đợc
xem nh là một biện pháp tất yếu dùng để đập tan nhà nớc t sản và các thế lực

phản động khác. Đấu tranh cách mạng là hoạt động thực tiễn tôi luyện GCCN
không ngừng giác ngộ và trởng thành, nâng cuộc đấu tranh từ tự phát lên tự
giác.
Sau cao trào cách mạng 1848 - 1849 ở châu Âu, PTCN ở các nớc trong
khu vực gặp nhiều khó khăn, bị đàn áp dã man, nhiều ngời cộng sản bị chính
phủ t sản giết hại. Mác và Ăngghen bị trục xuất ra khỏi nớc Đức. Trong hoàn
cảnh đó Đồng minh những ngời cộng sản lại bị chia rẽ, phân liệt, bè phái, do
đó năm 1852, theo đề nghị của Mác, Đồng minh những ngời cộng sản tuyên
bố tự giải tán. Ra đời và hoạt động trong khoảng thời gian không dài 5 năm kể
từ năm 1847 - 1852, Đồng minh trở thành một hình mẫu đầu tiên của việc xây
dựng chính đảng của GCCN cả về chính trị, t tởng và tổ chức. Đồng minh đã
giáo dục, rèn luyện nhiều ngời cộng sản u tú cho PTCNQT trong các giai đoạn
tiếp theo.
24
Tuy nhiên, sau khi Đồng minh những ngời cộng sản giải tán, sự phát
triển phong trào đấu tranh của GGCN đòi hỏi GCCN phải xây dựng phát triển
tình đoàn kết, kiên quyết đấu tranh khắc phục tình trạng bè phái, chia rẽ trong
nội bộ GCCN, thiết lập một tổ chức quốc tế mới. Hội nghị thành lập tổ chức
quốc tế mới đợc khai mạc ngày 28-9-1864 tại hội trờng Xanh-Mác-tin (Luân
Đôn - Anh). Tham dự có nhiều đại biểu đại diện cho những ngời cộng sản,
công nhân các nớc, Mác và Ăngghen cùng tham gia và và chủ trì hội nghị. Hội
nghị quyết định thành lập Hội Liên hiệp công nhân quốc tế (Quốc tế I) - tổ chức
chính trị quốc tế của GCCN.
Dới sự lãnh đạo của Quốc tế I, công nhân các nớc đã thành lập chi bộ và
liên chi bộ làm hạt nhân, trung tâm lãnh đạo PTCN theo cơng lĩnh của Quốc tế.
Tại Pháp, từ năm 1864 đến 1870 thành lập đợc 25 chi bộ; ở Thuỵ sỹ, đến năm
1869 đã thành lập đợc 30 chi bộ; ở Bỉ, con số này lên đến 60; đặc biệt ở Tây Ban
Nha, chỉ trong khoảng 6 năm (1864-1870) đã thành lập đợc 150 chi bộ Với t
cách là ngời sáng lập, lãnh đạo Quốc tế I, Mác và Ăngghen luôn theo sát phong
trào, tắm mình trong thực tiễn phong trào cách mạng của GCCN, kịp thời chỉ đạo

phong trào. Vào những thập niên cuối của thế kỷ XIX, chủ nghĩa Mác đợc phổ
biến rộng rãi trong GCCN, đã thúc đẩy PTCN và công đoàn phát triển mạnh mẽ
dẫn tới hình thành các đảng XHCN ở các nớc.
Đảng vô sản ra đời sớm nhất là Đảng Công nhân XHCN Đức năm 1875
(hợp nhất giữa Đảng Công nhân dân chủ - xã hội và Tổng hội Công nhân toàn
nớc Đức), một đảng có uy tín lớn trong công nhân và nhân dân lao động Đức.
Đảng đã sáng tạo ra nhiều phơng thức đấu tranh mới và bớc đầu đã giành đợc
thắng lợi trong đấu tranh nghị trờng. Tiếp đó, các đảng, tổ chức XHCN lần lợt
ra đời ở Bồ Đào Nha, Mỹ, Tây Ban Nha, Nga, Bỉ , Na Uy, Thuỵ sĩ, áo, Anh,
Hà Lan, Nam T, Italia Sự xuất hiện các đảng này là một bớc tiến quan trọng
trong PTCS-CNQT, chứng tỏ GCCN ở các nớc đã thực sự trở thành một giai
cấp độc lập về chính trị, t tởng, tổ chức.
Quốc tế I hoạt động qua 5 kỳ Đại hội, mỗi kỳ Đại hội đã từng bớc đạt
đợc những mục tiêu đề ra. Đại hội lần thứ I vào năm 1866 tại Giơnevơ (Thuỵ
25

×