Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Đánh giá khả năng lan truyền đặc tính kháng kháng sinh của các chủng vi khuẩn Vibrio spp. phân lập từ tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.35 KB, 10 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG LAN TRUYỀN ĐẶC TÍNH KHÁNG KHÁNG
SINH CỦA CÁC CHỦNG VI KHUẨN Vibrio spp. PHÂN LẬP TỪ TÔM
THẺ CHÂN TRẮNG (Litopenaeus vannamei) THƯƠNG MẠI
Truyện Nhã Định Huệ1*, Nguyễn Hoàng Nam Kha1

TÓM TẮT
Trong nghiên cứu này, các chủng Vibrio spp. đã được phân lập từ tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus
vannamei) thương mại đã được kiểm tra tình trạng kháng kháng sinh và thử nghiệm chuyển gen kháng
kháng sinh. Kết quả kháng kháng sinh cho thấy tỷ lệ kháng với chloramphenicol (0,0 %), nalidixic
acid, tetracycline, gentamicin (3,3%); ciprofloxacin (12,0%), trimethoprim/sulfamethoxazole
(18,0%), streptomycin (46,7%), kanamycin (80%), ampicillin (92,0%). Kết quả chuyển gen kháng
kháng sinh bằng phương pháp tiếp hợp trong phịng thí nghiệm giữa các chủng Vibrio spp. phân lập
từ tôm (vi khuẩn cho) và E. coli trên người (vi khuẩn nhận) thì chưa thành cơng.
Từ khố: Kháng kháng sinh, Litopenaeus vannamei, Vibrio spp.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngành công nghiệp nuôi tôm đã phát
triển rất mạnh trong suốt thời gian qua, đặc biệt
là tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei),
và tôm thẻ chân trắng đã trở thành mặt hàng
xuất khẩu quan trọng của nước ta. Theo Tổng
cục thuỷ sản, năm 2021 sản lượng nuôi tôm thẻ
chân trắng tăng so với năm 2020 và đạt mức 655
nghìn tấn. Bên cạnh sự phát triển, ngành tơm
cịn đối mặt tình trạng dịch bệnh xảy ra ngày
càng nhiều hơn và mang lại khơng ít hậu quả
nghiêm trọng. Vibrio spp. không những là vi
khuẩn gây bệnh trên động vật thủy sản mà cịn
có thể gây ngộ độc thực phẩm ở người (Nguyễn


Thu Tâm và ctv., 2014). Thuốc kháng sinh vẫn
còn là biện pháp điều trị bệnh vi khuẩn phổ
biến. Tình trạng kháng kháng sinh của vi khuẩn
Vibrio spp. đã được báo cáo trên người và trên
động vật, kể cả động vật thuỷ sản (Nguyễn Thu
Tâm và ctv., 2014; Hồ Khánh Duy và ctv., 2019;
Nguyễn Công Tráng và ctv., 2019). Trước tình
hình diễn biến bệnh ngày càng phức tạp, việc sử

dụng kháng sinh khơng đúng quy định, khơng
kiểm sốt dẫn đến tình trạng vi khuẩn kháng
thuốc kháng sinh và đa kháng thuốc (Nguyen và
ctv., 2005; Tu và ctv., 2008), từ đó gây khó khăn
cho việc chữa trị bệnh, gây áp lực lên xuất khẩu
(Nguyễn Quốc Thịnh và ctv., 2020).
Theo một số báo cáo của Aoki và Takahashi,
1987; Prescott và ctv., 2000; Tu và ctv., 2008, vi
khuẩn có khả năng truyền ngang các gen kháng
thuốc giữa các dịng cùng lồi và khác lồi với
nhau thơng qua tiếp hợp; nguy cơ truyền gen
kháng thuốc sang vi khuẩn gây bệnh ở người
rất cao, đây là mối đe dọa rất lớn đối với cộng
đồng. Có rất nhiều tài liệu đã chứng minh, động
vật thủy sản có thể là nguồn vi khuẩn cộng sinh
đa kháng kháng sinh, có thể lan truyền sang các
vi khuẩn cộng sinh hay gây bệnh trong thủy vực
và cả trên người (Heuer và ctv., 2009; Marshall
và Levy, 2011). Các nghiên cứu về vi khuẩn
kháng kháng sinh trên thực phẩm thường chưa
đánh giá về khả năng lan truyền các đặc tính

kháng kháng sinh sang vi khuẩn trên người.

Khoa Thuỷ sản, Trường Đại học Nông Lâm Tp. Hờ Chí Minh
* Email:
1

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021

41


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Vì vậy, mục đích của nghiên cứu này là
đánh giá khả năng khả năng lan truyền của các
đặc tính kháng kháng sinh bằng phương pháp
tiếp hợp của các chủng vi khuẩn Vibrio spp.
phân lập từ tôm thẻ chân trắng thương mại.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Phương pháp kiểm tra vi khuẩn và
kháng sinh đồ
Một trăm năm mươi chủng Vibrio spp. đã
được phân lập từ tôm thẻ chân trắng thương
mại tại Chợ đầu mối Bình Điền Tp. HCM.
Các chủng này được cấy trên môi trường thạch
chọn lọc CHROMagarTM Vibrio (Chromagar
Microbiology, Pháp). Khuẩn lạc đặc trưng
đã được kiểm tra tính di động, nhuộm gram,
thử oxidase, catalase và định danh bằng bộ
kit NKIDS 14 GNR (Nam Khoa, Biotek). Sáu

chủng vi khuẩn E. coli, có nguồn gốc từ mẫu
phân người, được cung cấp từ Phịng thí nghiệm
Bệnh học Thuỷ Sản, khoa Thuỷ Sản, trường Đại
học Nông Lâm Tp. HCM, vi khuẩn được cấy
ria trên môi trường chọn lọc CHROMagar E.
coli (Chromagar Microbiology, Pháp). Kiểm tra

xác nhận vi khuẩn E. coli bằng cách khảo sát
tính di động, nhuộm Gram, kiểm tra catalase,
oxidase, nuôi cấy trên môi trường thạch Eosin
Methylene Blue Agar (EMB, Himedia, Ấn Độ)
và định danh bằng bằng bộ kit NKIDS 14 GNR.
Các chủng vi khuẩn E. coli này được sử dụng
trong phương pháp tiếp hợp.
Các chủng vi khuẩn được kiểm tra kháng
sinh đồ theo phương pháp khuếch tán đĩa
kháng sinh của Viện Tiêu chuẩn Lâm sàng và
Xét nghiệm (CLSI, 2012). Cụ thể, khuẩn lạc vi
khuẩn được nuôi cấy trên thạch Tryptone soya
agar (TSA) sẽ được huyền phù vào nước muối
sinh lý đến khi đạt được độ đục tương đương
ống McFarland 0,5. Cấy trang 100μl dịch khuẩn
lên đĩa thạch Mueller Hinton Agar (MHA). Đặt
các đĩa giấy tẩm kháng sinh (Nam Khoa Biotek)
lên mặt thạch. Sau 20-24 giờ ủ ở 300C, đo kích
thước đường kính vịng vơ khuẩn và so sánh với
tiêu chuẩn của CLSI, từ đó kết luận độ nhạy/
kháng/trung gian của kháng sinh với vi khuẩn
(Bảng 1).


Bảng 1. Kích thước đường kính vịng vơ khuẩn theo tiêu chuẩn của CLSI.
Kháng sinh

Ký hiệu

Hàm lượng
(μg)

Đường kính
vịng vơ khuẩn (mm)
Nhạy

Trung bình

Kháng

Doxycycline

DOX

30

≥ 16

13-15

≤ 12

Tetracycline


TET

30

≥ 19

15-18

≤ 14

Nalidixic acid

NAL

30

≥ 19

12-18

≤ 13

Ciprofloxacin

CIP

5

≥ 21


16-20

≤ 15

Trimethoprim/
sulfamethoxazole

SXT

1,25/23,75

≥ 10

11-15

≤ 16

Chloramphenicol

CHL

30

≥ 15

16-20

≤ 21

Gentamicin


GEN

10

≥ 15

14-13

≤ 12

Streptomycin

STR

10

≥ 15

12-14

≤ 15

Kanamycin

KAN

30

≥ 18


14-17

≤ 13

Ampicillin

AMP

10

≥ 17

14-16

≤ 13


42

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Dựa vào các kết quả kiểm tra kháng sinh
đồ, các chủng Vibrio spp. (được phân lập từ
tôm thẻ chân trắng thương mại) và E. coli (có
nguồn gốc từ mẫu phân người) đã được chọn
lựa. Cụ thể: chọn các chủng Vibrio spp. có khả

năng kháng với ciprofloxacin, nhạy cảm với
tetracycline) và các chủng E. coli có khả năng
kháng với tetracycline, nhạy cảm ciprofloxacin.
Các chủng vi khuẩn này đều được kiểm tra
tính kháng kháng sinh một lần nữa trước khi
tiến hành kiểm tra khả năng lan truyền đặc tính
kháng kháng sinh bằng phương pháp tiếp hợp
trải trên mặt thạch.
2.2. Phương pháp kiểm tra khả năng lan
truyền đặc tính kháng kháng sinh
Đánh giá khả năng lan truyền các đặc tính
kháng kháng sinh bằng phương pháp tiếp hợp
trải trên mặt thạch dựa trên phương pháp chuẩn
đã được mơ tả bởi Van và ctv. (2007), Nguyen
(2012), Nguyễn Hồng Nam Kha và Truyện
Nhã Định Huệ (2019). Vi khuẩn chuyển là các
chủng vi khuẩn Vibrio spp. (có khả năng kháng
với ciprofloxacin, nhạy cảm với tetracycline)
và vi khuẩn nhận là các chủng E. coli (có khả
năng nhạy cảm với tetracycline, kháng với
ciprofloxacin). Đầu tiên, từng chủng vi khuẩn
(gồm chủng chuyển, chủng nhận) được cấy vào
từng ống 10ml canh Luria Bertani (LB) (có chứa

kháng sinh phù hợp), ủ 18-20 giờ ở 370C. Pha
loãng các ống canh LB theo hệ số 10; lần lượt
rót 100µl chủng chuyển và 100µl chủng nhận
vào đĩa thạch LB (đĩa có chứa ciprofloxacin và
tetracycline với nồng độ được chọn); trang đều,
ủ đĩa ở 370C trong 18-20 giờ. Khuẩn lạc phát

triển sẽ được phân lập và kiểm tra lại đặc tính
kháng kháng sinh.
III. KẾT QUẢ
3.1. Tính kháng và đa kháng kháng sinh
của các chủng Vibrio spp.
Tổng cộng có 150 chủng vi khuẩn Vibrio
spp. được kiểm tra xuất hiện khuẩn lạc đặc trưng
khi cấy trên thạch CHROMagarTM Vibrio, có
khả năng di động, gram âm, oxidase dương tính,
catalase dương tính, kết quả định danh bằng
bộ kit NKIDS 14 GNR cho kết quả khẳng định
là Vibrio spp. Kết quả kháng sinh đồ cho thấy
kanamycin và ampicillin có tỷ lệ kháng lần lượt
là từ 80% và 92%; streptomycin có tỷ lệ kháng
là 46,7%; ciprofloxacin là 12%; trimethoprim/
sulfamethoxazole là 18%; tetracycline, nalidixic
acid, gentamicin đều có tỷ lệ kháng là 3,3%;
đặc biệt, các chủng Vibrio spp. nhạy cảm hoàn
toàn với doxycycline và chloramphenicol. Tỷ lệ
kháng kháng sinh của các chủng Vibrio spp. với
mười loại kháng sinh thử nghiệm được thể hiện
tại Bảng 2.

Bảng 2. Tính kháng kháng sinh của các chủng Vibrio spp.
Tỷ lệ (%)
Nhóm
Kháng sinh
kháng sinh
Nhạy
Trung bình

Doxycycline
92,7
7,3
Tetracyclines
Tetracycline
77,3
19.3
Ciprofloxacin
22
66
Quinolones
Nalidixic acid
75,3
21,3
Trimethoprim
Tổng hợp folic acid
63,3
18,7
/sulfamethoxazole
Florfenicol
Chloramphenicol
88,7
11,3
Kanamycin
4,7
15,3
Aminoglycosides
Streptomycin
6
47,3

Gentamicin
78,7
18
Beta Lactamase
Ampicillin
4
4
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021

Kháng
0
3,3
12
3,3
18
0
80
46,7
3,3
92
43


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Kết quả kiểm tra sáu chủng E. coli (có EMB; kết quả định dang bằng bộ kit NKIDS 14
nguồn gốc từ mẫu phân người) đều có khả năng GNR đều cho kết quả là E. coli. Tính kháng
di động, gram âm, catalase dương tính, oxidase kháng sinh của các chủng E. coli được thể hiện
âm tính, có màu xanh đặc trưng và tím ánh kim qua Bảng 3
khi mọc trên đĩa thạch CHROMagar E. coli và

Bảng 3. Tính kháng kháng sinh của các chủng E. coli.
Nhóm
Nhạy
Trung bình
Kháng
Kháng sinh
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
kháng sinh
Doxycycline
16,7
0
83,3
Tetracyclines
Tetracycline
16,7
0
83,3
Nalidixic acid
83,3
0
16,7
Quinolones
Ciprofloxacin
100
0
0
Trimethoprim
83,3

0
16,7
Tổng hợp folic acid
/sulfamethoxazole
Florfenicol
Chloramphenicol
83,3
0
16,7
Kanamycin
100
0
0
Aminoglycosides
Streptomycin
16,7
0
83,3
Gentamicin
83,3
0
16,7
Beta Lactamase
Ampicillin
83,3
0
16,7
Dựa vào kết quả kháng sinh đồ, đã chọn
Sáu chủng E.coli có kết quả kháng kháng
sinh cho thấy doxycycline, tetracycline và được 18 chủng Vibrio spp. có khả năng kháng

streptomycin có tỷ lệ kháng là 83,3%; Nalidixic với ciprofloxacin, nhạy cảm với tetracycline
acid, trimethoprim / sulfamethoxazole, và 5 chủng E.coli có khả năng kháng với
chloramphenicol, gentamicin, ampicillin tetracycline, nhạy cảm ciprofloxacin. Các chủng
có tỷ lệ kháng là 16,7%; Ciprofloxacin và này đều được kiểm tra lại tính kháng kháng
kanamycin nhạy cảm hồn tồn với các chủng sinh, kết quả kháng kháng sinh của các chủng
vi khuẩn được chọn được trình bày tại Bảng 4
E.coli kiểm tra.
Bảng 4. Tính kháng kháng sinh của các chủng Vibrio spp. và E. coli được chọn.
Tỷ lệ % Vibrio spp.
Tỷ lệ % E. coli
Nhóm kháng sinh
Kháng sinh
Kháng
Nhạy
Kháng
Nhạy
Tetracyclines
Quinolones
Tổng hợp folic acid
Florfenicol
Aminoglycosides
Beta Lactamase
44

Doxycycline
Tetracycline
Nalidixic acid
Ciprofloxacin

0

0
0
100

100
100
100
0

100
100
0
0

0
0
100
100

Trimethoprim
/sulfamethoxazole

22,2

77,8

20

80


Chloramphenicol
Kanamycin
Streptomycin
Gentamicin
Ampicillin

0
83,3
50
0
94,4

100
16,7
50
100
5,6

20
0
100
20
20

80
100
0
80
80


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

3.2. Kết quả đánh giá khả năng lan
Kết quả kháng sinh đồ của các chủng vi
khuẩn được chọn cho thấy các chủng Vibrio truyền đặc tính kháng kháng sinh
Lần lượt từng chủng Vibrio spp., E. coli
spp. hoàn toàn kháng với ciprofloxacin, nhạy
với tetracycline; ngược lại, các chủng E. coli được bắt cặp để đánh giá khả năng lan truyền
hoàn toàn nhạy với ciprofloxacin, kháng với các đặc tính kháng kháng sinh bằng phương
pháp tiếp hợp trải trên mặt thạch.
tetracycline.
Bảng 5. Kết quả đánh giá khả năng truyền đặc tính kháng kháng sinh.
Nguồn gốc chủng
Chủng vi khuẩn kiểm tra
Kết quả kháng sinh đồ
VS3, VS4, VS7, VS16,
Vibrio spp. tôm
(chủng nhận)

VS17, VS18, VS19, VS20,
VS28, VS29, VS36, VS37,

Kháng CIP,
Nhạy TET

VS39, VS40, VS56, VS57, VS60
E. coli người

(chủng cho)

EN13, EN111, EN113, EN115, EN119

Kháng TET,
Nhạy CIP

VS3’, VS4’, VS7’, VS16’,
Vibrio spp.
tái phân lập

VS17’, VS18’, VS19’, VS20’, VS28’, VS29’,
VS36’, VS37’, VS39’, VS40’, VS56’, VS57’,
VS60’

Từ các kết quả của Bảng 5 có thể thấy các
chủng Vibrio spp. tái phân lập khơng thể hiện
tính kháng với kháng sinh tetracycline, như vậy
kết quả chuyển gen trong phịng thí nghiệm
bằng phương pháp tiếp hợp giữa vi khuẩn cho
là Vibrio spp. phân lập từ tôm thẻ sang vi khuẩn
nhận là E. coli có nguồn gốc từ mẫu phân người
là chưa thành công.
IV. THẢO LUẬN
Tetracycline và doxycycline là kháng sinh
thuộc nhóm tetracyclines. Nhóm này có phổ
hoạt động rất rộng, có khả năng ức chế vi khuẩn
ở nồng độ rất thấp, diệt khuẩn ở nồng độ cao.
Tetracyclines là nhóm kháng sinh duy nhất được
FDA cho phép sử dụng trong nuôi trồng thủy

sản. Vibrio spp. phân lập từ mẫu nước nuôi và
động vật thủy sản nuôi thương phẩm cho thấy
tỷ lệ kháng tetracycline là 20,6% (Huỳnh Ngọc
Trưởng và ctv., 2015). Trong mẫu nước ao nuôi
tôm thương phẩm tại Bạc Liêu, Hồ Khánh Duy
và ctv. (2019) đã phân lập các chủng Vibrio spp.
thể hiện tính kháng khá cao với doxycyclin là
71%. Theo Nguyễn Thu Tâm và ctv. (2014), các

Kháng CIP,
Nhạy TET

chủng Vibrio được phân lập từ mẫu tôm thực
phẩm (tôm bạc Penaeus merguiensis, tôm sú
P. monodon, tôm rảo đất P. ensis được bán ở
một số chợ thuộc quận Ninh Kiều, thành phố
Cần Thơ), đều nhạy cảm với doxycycline tỷ lệ
100%. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ kháng kháng
sinh của các chủng vi khuẩn Vibrio spp. đối với
tetracycline là 3,3% và doxycycline là 0%. Theo
Lê Hồng Phước và ctv. (2018), tetracycline và
doxycycline là kháng sinh đã được sử dụng
nhiều trong phòng và trị bệnh trong nuôi tôm
sú và tôm chân trắng ở Việt Nam. Tuy nhiên,
theo Bùi Kim Tùng và ctv. (2001), tetracycline
là nhóm kháng sinh thường dùng để trị các bệnh
hơ hấp ở người (như brucella, mycoplasma) vì
vậy chỉ nên sử dụng khi thật cần thiết để hạn chế
sự kháng thuốc.
Ciprofloxacin thế hệ thứ hai của nhóm

quinolones, nhưng ciprofloxacin lại nằm trong
danh mục kháng sinh cấm sử dụng trong sản
xuất, kinh doanh động vật thủy sản từ năm 2016
(Bộ NN & PTNT). Trong nghiên cứu này, tỷ lệ
kháng nalidixic acid là 3,3% và ciprofloxacin là

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021

45


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

12%. Nhưng từ số liệu của nghiên cứu này có
thể thấy, ciprofloxacin vẫn cịn được sử dụng
trong ni tơm thẻ chân trắng tại các trang trại
nuôi tôm. Tương tự theo điều tra Lê Hồng Phước
và ctv. (2018), ciprofloxacin vẫn được sử dụng
nhiều trong hệ thống nuôi tôm thẻ chân trắng và
tôm sú tại Hải Phòng, Quảng Nam, Ninh Thuận,
Cà Mau, Bạc Liêu. Năm 2019, Nguyễn Công
Tráng và ctv. (2019) cũng đã phân lập được V.
parahaemolyticus từ bùn, nước ao, nước sông
và tôm bệnh tại các vùng nuôi tôm thẻ chân
trắng ở Bạc Liêu cho thấy tỷ lệ kháng kháng
sinh ciprofloxacin kháng 13,3%. Theo Cục kiểm
định thuốc Châu Âu (EMEA, 2006), quinolones
là nhóm kháng sinh quan trọng dùng điều trị
bệnh nhiễm trùng nguy hiểm cho con người và
động vật, nếu lạm dụng những kháng sinh trong

nhóm quinolones có thể tạo ra các dịng kháng
thuốc vĩnh viễn do đột biến nhiễm sắc thể. Do
đó, cần phải kiểm soát chặt chẽ việc lưu hành
thuốc ciprofloxacin trong nuôi trồng thủy sản và
thận trọng khi sử dụng nalidixic acid để tránh
tình trạng kháng thuốc của vi khuẩn gây nên
nhiều hậu quả nghiêm trọng.
Trimethoprim/sulfamethoxazole là đại diện
cho nhóm ức chế tổng hợp folic acid. Sự kết
hợp này có tác dụng hiệp đồng, làm giảm sự
xuất hiện kháng thuốc và ức chế hai giai đoạn
kế tiếp nhau trong quá trình tổng hợp acid folic
của vi khuẩn (Lê Đăng Hà, 2011). Trong
nghiên cứu này, tỷ lệ kháng trimethoprim/
sulfamethoxazole là 18%. Theo Serrano (2005),
kháng sinh này thường sử dụng để điều trị bệnh
nhiễm khuẩn gram âm trong nuôi trồng thủy sản
ở các nước châu Á. Tại Việt Nam, trimethoprim/
sulfamethoxazole thường được sử dụng để điều
trị bệnh do nhiễm V. parahaemolyticus trong
các hệ thống nuôi tôm thẻ và tôm sú (Lê Hồng
Phước và ctv., 2018).
Chloramphenicol là kháng sinh thuộc
nhóm flophenicol và là kháng sinh bị cấm
sử dụng trong sản xuất, kinh doanh thủy sản
46

(Bộ NN & PTNT, 2009). Tuy nhiên, trong
báo cáo điều tra của Lê Hồng Phước và ctv.
(2018), chloramphenicol vẫn được sử dụng để

trị bệnh do V. parahaemolyticus tại Nghệ An.
Theo Nguyễn Công Tráng và ctv. (2019), V.
parahaemolyticus phân lập từ bùn, nước ao,
nước sông và tôm bệnh tại các vùng nuôi tôm
thẻ chân trắng của tỉnh Bạc Liêu cho thấy tỷ lệ
kháng chloramphenicol là 0%. Tương tự, trong
nghiên cứu này, các chủng Vibrio spp. hoàn toàn
nhạy cảm với chloramphenicol. Điều này cho
thấy người ni đã có ý thức hơn về việc sử
dụng kháng sinh cấm trong ni tơm. Do đó,
cơ quan quản lý cần tiếp tục tuyên truyền tác
hại của các kháng sinh bị cấm sử dụng đối với
sức khoẻ của người tiêu dùng, đồng thời quản lý
chặt chẽ các loại thuốc lưu hành trên thị trường.
Nhóm kháng sinh aminoglycosides có cơ
chế tác động vào q trình tổng hợp protein
ở ribosome với đại diện là streptomycin và
kanamycin có tỉ lệ kháng lần lượt là 46,7%
và 80%. Theo Bùi Kim Tùng và ctv. (2001),
streptomycin, gentamicin ít hấp thụ qua đường
tiêu hóa nên thường có thể sử dụng qua đường
tiêm trong y học và thú y, do đó hạn chế sử dụng
trong nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, số liệu của
nghiên cứu này có lẽ các loại kháng sinh trên
vẫn được sử dụng khá thường xuyên. Điều này
trùng khớp với điều tra của Lê Hồng Phước và
ctv. (2018), streptomycin và gentamicin vẫn cịn
được sử dụng trong ni tơm sú và tơm thẻ chân
trắng. Theo Tolmasky (2000), vi khuẩn lờn với
một kháng sinh trong nhóm aminoglycoside này

có thể nhạy cảm với một kháng sinh khác cùng
nhóm, vi khuẩn kháng nhanh với streptomycin
có thể là do các plasmid trung gian, vì vậy, có
thể giải thích tại sao tỷ lệ kháng giữa các kháng
sinh trong nhóm là khác nhau.
Tỷ lệ kháng kháng sinh ampicillin khá cao
92% đối với các chủng Vibrio spp. phân lập
được trong nghiên cứu này. Ampicillin là kháng
sinh thuộc nhóm betalactam, có tác động sát

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

khuẩn trên cả vi khuẩn gram dương và gram âm.
Kết quả nghiên cứu này tương tự với nghiên cứu
của Dang và ctv. (2006), tỷ lệ kháng kháng sinh
ampicillin của các chủng Vibrio spp. phân lập
từ tôm giống tại Ninh Thuận và trại nuôi tôm
thương phẩm tại Long An, Bạc Liêu là 100%;
và lần lượt là 100%, 88%, 100% trong nước ao
nuôi tôm thương phẩm tại Long An, Bến Tre
và Bạc Liêu; và 100% ở các chủng Vibrio spp.
phân lập từ tôm tự nhiên. Tương tự, các chủng
vi khuẩn Vibrio phân lập từ tôm ni tại Bến Tre
đều có tỷ lệ kháng với ampicillin là 100%. Từ
các kết quả có thể thấy, ampicillin đang bị lạm
dụng trong điều trị bệnh khuẩn trên tôm nuôi.
Sự kháng thuốc của vi khuẩn có hai loại

là đề kháng tự nhiên và đề kháng đáp ứng
(Bùi Kim Tùng và ctv., 2001; Prescott và ctv.,
2000). Nhiều nghiên cứu cho thấy, plasmid
được xem là nhân tố quan trọng gây nên
hiện tượng đa kháng thuốc ở vi khuẩn, do
chúng mang các gen mã hóa cho việc kháng
lại nhiều nhóm kháng sinh như β-lactam,
macrolide, trimethoprim/ sulfamethoxazole,
aminoglycosides, tetracycline và fenicol
(Nikaido, 2009; Prescott và ctv., 2000). Tình
trạng kháng thuốc sẽ trở nên nghiêm trọng khi
giữa các vi khuẩn cùng lồi và khác lồi trong
mơi trường có khả năng trao đổi plasmid thơng
qua tiếp hợp. Nhiều nghiên cứu đã xác định có
sự trao đổi plasmid kháng thuốc kháng sinh
trên một số loài vi khuẩn gây bệnh trên cá ở cả
môi trường nước biển và nước ngọt như Vibrio
anguillarum, Vibrio salmonicida, Aeromonas
salmonicida, A. hydrophila và Edwardsiella
tarda (Aoki và Takahashi, 1987). Sự kháng
thuốc trên vi khuẩn trong thủy sản còn là một
mối đe dọa lớn đối với cộng đồng vì chúng
có thể truyền gen kháng thuốc sang vi khuẩn
gây bệnh ở người thông qua tiếp hợp (Tu và
ctv., 2009; Phạm Thanh Hương và ctv., 2010).
Trước năm 1998, hầu như tất cả các nghiên
cứu về đặc tính kháng với quinolones (như

nalidixic acid hay ciprofloxacin) đều kết luận
do đột biến và chưa có bằng chứng về khả

năng lan truyền. Cho đến năm 1998, một gen
kháng quinolone có liên quan đến plasmid
(plasmid-mediated quinolone resistance,
qnrA) được phát hiện trên E. coli và một vài
vi khuẩn gram âm khác có khả năng truyền
đặc tính kháng với quinolones (MartínezMartínez và ctv., 1998). Hiện tại, ba nhóm cơ
chế kháng quinolones liên quan đến plasmid
đã được phát hiện: Qnr proteins (A, S, B, C,
D, VC và các biến thể), gen biến đổi enzyme
aminoglycoside acetyltransferase Aac(6’)Ib-cr, và bơm (efflux pumps) QepA, OqxAB
(Cattoir và Nordmann, 2009). Trong nghiên
cứu của Nguyen (2012), E. coli phân lập từ
cá tra có thể chuyển gen kháng CHL sang vi
khuẩn E. coli phân lập từ mẫu phân người
qua phương pháp tiếp hợp. Tương tự, E. coli
phân lập từ tôm mại trong một số chợ và
siêu thị tại Tp. Hồ Chí Minh có thể truyền
đặc tính kháng kháng sinh sang vi khuẩn E.
coli phân lập từ mẫu phân người qua phương
pháp tiếp hợp (Nguyễn Hoàng Nam Kha và
Truyện Nhã Định Huệ, 2018). Tại Việt Nam,
nghiên cứu về khả năng lan truyền của gen
kháng quinolone chưa được công bố nhiều,
đặc biệt hầu như không thấy trong các nghiên
cứu liên quan đến thực phẩm thủy sản. Vì vậy,
khả năng lan truyền các đặc tính kháng kháng
sinh vẫn có thể xảy ra, đồng thời kết quả
nghiên cứu này cũng đặt ra một định hướng
tiếp theo về đánh giá khả năng lan truyền gen
từ vi khuẩn phân lập trên động vật thủy sản.

Tuy kết quả chuyển gen trong nghiên cứu này
là chưa thành công, nhưng việc đề nghị hạn
chế sử dụng kháng sinh, sử dụng kháng sinh
hợp lý, đúng quy trình trong ni trồng thủy
sản vẫn rất cần thiết khi các chủng vi khuẩn
phân lập từ tôm kháng có tỷ lệ kháng cao với
nhiều loại kháng sinh thử nghiệm như trong
nghiên cứu này.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021

47


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Tỷ lệ kháng kháng sinh của 150
chủng Vibrio spp. như sau: doxycycline,
chloramphenicol là 0%; tetracycline, gentamicin
là 3,3%; ciprofloxacin là 12%; trimethoprim/
sulfamethoxazole là 18%; streptomycin 46,7%;
kanamycin 80%; ampicillin 92%. Kết quả
chuyển gen trong bằng phương pháp tiếp hợp
giữa vi khuẩn cho là Vibrio spp. phân lập từ tôm
thẻ sang vi khuẩn nhận là E. coli phân lập trên
người là chưa thành cơng.
Cần có cơ chế quản lý và kiểm soát chặt
chẽ việc mua bán kháng sinh, đặc biệt là sự lưu
hành các loại kháng sinh nằm trong danh mục

kháng sinh cấm sử dụng. Đồng thời, cơ quan
chức năng thường xuyên hướng dẫn quy trình
sử dụng thuốc hợp lý trong điều trị bệnh cho
động vật thủy sản, khuyến cáo người dân các
tác hại của việc lạm dụng, sử dụng bừa bãi, và
sai nguyên tắc. Bên cạnh đó, cần có thêm những
nghiên cứu nhằm thay thế kháng sinh trong nuôi
trồng thủy sản để phá vỡ các rào cản trong sản
xuất xuất khẩu thủy sản, không gây ảnh hưởng
đến sức khỏe cộng đồng, hướng tới phát triển
thủy sản bền vững.
LỜI CẢM ƠN
Tác giả trân trọng cảm ơn cô Võ Thị Trà An
đã hỗ trợ chủng đối chứng E. coli ATCC25922
và các bạn sinh viên Khưu Nhật Thành, Đỗ Thị
Bảo Như, Trần Nguyễn Thanh Thư, Nguyễn
Ngọc Trâm, Trần Thị Bích Trâm, Trương Thị
Mai Thanh, Lâm Thuý Đăng lớp DH17NY khoa
Thủy Sản trường Đại học Nông Lâm Tp. HCM
đã hỗ trợ cho nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2012.
“Thông tư số 10/2016/TT-BNNPTNT - Danh
mục thuốc thú y được phép lưu hành, cấm sử
dụng ở Việt Nam”
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2009.
“Thông tư số 15/2009/TT-BNN - Danh mục hóa
chất, kháng sinh cấm sử dụng trong sản xuất,
kinh doanh thủy sản”


48

Bùi Kim Tùng, Bùi Kim Hoàng và Bùi Kim Tân, 2001.
“Thuốc kháng sinh”. Sở Khoa học Công nghệ và
Môi trường tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. 255 trang.
Hồ Khánh Duy, Truyện Nhã Định Huệ, Lưu Thị
Thanh Trúc, 2019. “Tình hình kháng kháng sinh
của vi khuẩn Vibrio spp. trên tơm thẻ chân trắng
(Litopenaeus vannamei)”. Tạp chí Khoa học Công nghệ Thủy sản Trường Đại học Nha Trang,
(4), tr.26-32
Lê Đăng Hà, 2011. “Bệnh Truyền Nhiễm Và Nhiệt
Đới”. NXB Khoa Học Kỹ Thuật, 949 tr
Phạm Thanh Hương, 2010. Nghiên cứu sự kháng
thuốc kháng sinh của vi khuẩn Edwardsiella
ictaluri và Aeromonas hydrophila gây bệnh trên
cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ở Đồng
bằng sông Cửu Long. Luận văn tốt nghiệp Cao
học, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.
Nguyễn Thị Đấu, Nguyễn Thùy Linh, Hồ Thị Việt
Thu, Hà Thanh Toàn, 2014. “Tỷ lệ nhiễm và sự
đề kháng kháng sinh của vi khuẩn Vibrio spp.
phân lập từ huyết heo, nghêu và phân bệnh nhân
tiêu chảy tại tỉnh Trà Vinh”. Tạp chí khoa học
Trường Đại học Cần Thơ (33), tr.61-67.
Đặng Thị Hoàng Oanh, Nguyễn Thanh Phương,
Jean Swings, Alan Teale, Stefania Berton, Mauro
Giacomini, Geert Huys, Kerry Bartie, Mohamed
Shariff, Fatimah Yussoff, Supranee Chinabut,
Temdoung Somsiri, 2005. “Xác định tính kháng

thuốc kháng sinh của vi khuẩn phân lập từ các
hệ thống nuôi thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu
Long”. Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần
Thơ (4), tr.136-144.
Đặng Thị Hoàng Oanh, Nguyễn Thanh Phương,
2012. “Các bệnh nguy hiểm trên tôm nuôi ở
Đồng bằng sông Cửu Long”. Tạp chí khoa học
Trường Đại học Cần Thơ (22c), tr.106-118.
Lê Hồng Phước, Nguyễn Diễm Thư, Hứa Ngọc
Phúc, Phạm Thị Yến, 2018. “Tình hình sử dụng
kháng sinh trong ni tơm sú và tơm chân trắng
ở Việt Nam”. Tạp chí nghề cá Đồng bằng sông
Cửu Long (11), tr.10-23.
Nguyễn Thu Tâm, Nguyễn Phúc Khánh, Phan Thị
Hồng Nhung, 2014. “Tình hình nhiễm vi khuẩn
Vibrio spp. trên tôm bạc (Penaeus merguiensis),
tôm sú (Penaeus monodon), tôm rảo đất
(Metapenaeus ensis) tại một số chợ thuộc quận
Ninh Kiều Thành phố Cần Thơ”. Tạp chí khoa
học Trường Đại học Cần Thơ (2), tr.111-115.
Nguyễn Công Tráng, Trần Thị Ngọc Lắm, Huỳnh Thị
Quỳnh Như, 2019. “Khả năng kháng kháng sinh
của vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus phân lập
từ các vùng nuôi tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
vannamei) của tỉnh Bạc Liêu năm 2019”. Tạp chí

Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản Trường Đại Học
Nha Trang (4), tr.139-147.
Nguyễn Quốc Thịnh, Masashi Maita, Trần Minh Phú,
2020. “Khảo sát tình hình sử dụng thuốc và hóa
chất trong ni tơm thẻ chân trắng (Litopenaeus
vannamei) ở tỉnh Trà Vinh”. Tạp chí khoa học
Trường Đại học Cần Thơ (2), tr.70-77.
   Huỳnh Ngọc Trưởng, Trần Thị Ngọc Thanh,
Nguyễn Tiến Dũng, 2015. “Tình hình nhiễm và
tỉ lệ kháng thuốc của Vibrio spp. phân lập từ thủy
sản và nước ni tại Tiền Giang”. Tạp chí khoa
học trường đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh 2(67), tr.157-167
Bùi Kim Tùng, Bùi Kim Hoàng và Bùi Kim Tân, 2001.
“Thuốc kháng sinh”. Sở Khoa học Công nghệ và
Môi trường tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. 255 trang.
Tài liệu tiếng Anh
Adeyemi, A., Enyinnia, V., Nwanze, R., Smith,
S., Omonigbehin, E., 2008. “Antimicrobial
susceptibility of potentially pathogenic halophilic
Vibrio species isolated from seafoods in Lagos’ ‘.
Nigeria African Journal of Biotechnology 7 (20),
3791-3794.
Aoki, T., Takahashi, A., 1987. “Class D tetracycline
resistance determinants of R-plasmids from fish
pathogens Aeromonas hydrophila, Edwardsiella
tarda and Pasteurella piscicida”. Antimicrobial
Agent and Chemotherapy 31, 1278-1280.
CLSI (Clinical and Laboratory Standards
Institute), 2012. “Performance standards for

antimicrobial sus- ceptibility testing; Twenty
Second Informational Supplement, M100-S22”,
32 (3), replaces M100- S21, 31(1). Clinical
and Laboratory Standards Institute. Retrieved
December 12, 2021, from https://www.
researchgate.net/file.PostFileLoader.html?id
=55d77c2f614325f5d38b461bvàassetKey=
AS:273836702928896@1442299165694
Chikwendu, C. I., Ibe, N. S. N., Okpokwasili, C.
G., 2014. “Multiple antimicrobial resistance in
Vibrio spp. isolated from river and aquaculture
water sources in Imo State, Nigeria”. British
Microbiology Research Journal 4 (5), 560-569.
Dang, O., T. H., Doan, P.N., Nguyen, H.T.T.,
Nguyen. P.T., 2006. “Determine the classification
and antibiotic resistance of glowing Vibrio
isolated from the post larvae of the tiger shrimp
(Penaeus monodon)”. 4, 42 – 52.
Heuer, O., E., Kruse, H., Grave, K., Collignon , P.,
Karunasagar, I., Frederick J. A., 2009. “Human
health consequences of use of antimicrobial
agents in aquaculture”. Clinical Infectious
Diseases (49), 1248-1253.

Manjusha, S., Sarita, G.B., Elyas, K.K.,
Chandrasekaran, M., 2005. “Multiple antibiotic
resistances of Vibrio isolates from coastal and
brackish water areas”. American Journal of
Biochemistry and Biotechnology 1(4), tr.193-198.
Marwa, E.A., Aly, Tamer, M., Essam, Magdy A. A..,

2012. “Antibiotic Resistance Profile of E. coli
Strains Isolated from Clinical Specimens and
Food Samples in Egypt”. International Journal
of Microbiological Research 3 (3), 176-182.
Nguyen, K., H. N., 2012. “Molecular characterisation
of antibiotic resistant bacteria isolated from
farmed catfish and humans in Vietnam”
(Unpublished Doctoral dissertation). RMIT
University, Victoria, Australia.
Nguyen P., T., Dang, O., T. H., Tu, D., T., Le, S.,
X, 2005. “Bacterial Resistance to Antimicrobials
Use in Shrimp and Fish Farms in the Mekong
delta, Vietnam”. Journal: Proceeding of the
international workshop on: Antibiotic Resistance
in Asian Aquaculture Environments.
Nikaido, H., 2009. “Multidrug resistance bacteria”.
Annual Review of Biochemistry. 78, 119-146.
Roberts, M.C., 1996. “Tetracycline resistance
determinants: mechanism of action, regulation
of expression, genetic mobility and distribution”.
FEMS Microbial Reviews, 19, 1-24.
Prescott, J.F., J.D., Baggot and R.D. Walker, 2000.
“Antimicrobial therapy in veterinary medicine’.
Iowa State University Press/Ames. 795 pp.
Serrano, P.H., 2005. “Responsible use of antibiotics
in aquaculture”. Food and Agriculture
Organization of the United Nations, Fisheries
Technical, 469 pp.
Tolmasky, M.E., 2000. “Bacterial resistance to
aminoglycosisedes and β-lactames: The Tn1331

transposon paradigm”. Frontiers in Biology
Science. 5, 20-29
Tonguthai, K., Chinabut, S., Somsiri, T.,
Chanratchakool, P., Kanchanakhan, S., 1999.
“Diagnostic procedures for finfish diseases”.
AAHRI - Aquatic Animal Health Research
Institute. Bangkok, Thailand.
Tu, D., T., Haesebrouck, F., Nguyen, T., A., Sorgeloos,
P., Baele, M., Decostere, A., 2008. “Antimicrobial
susceptibility pattern of Edwardsiella ictaluri
isolates from natural outbreaks of bacillary necrosis
of Pangasianodon hypophthalmus in Vietnam”.
Microbial Drug Resistance. 14, 311-316.
Van., H., T. T, George, M., Tran, T., L., Coloe, P.,
J., 2007.  “Antibiotic resistance in food-borne
bacterial contaminants in Vietnam”. Applied and
Environmental Microbiology 73, 7906-7911.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021

49


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

EVALUATION OF TRANSFERABILITY OF ANTIBIOTIC RESISTANCE
OF Vibrio spp. ISOLATES FROM COMMERCIAL WHITE-LEG SHRIMP
Truyen Nha Dinh Hue1*, Nguyen Hoang Nam Kha1
ABSTRACT
In this study, a collection of Vibrio spp. strains recovered from commercial white-leg shrimp

(Litopenaeus vannamei) was examined on their antibiotic resistance and the transferability of
resistance markers. Results showed different resistant levels to doxycycline, chloramphenicol
(0 %); nalidixic acid, tetracycline, gentamicin (3.3%); ciprofloxacin (12.0%), trimethoprim/
sulfamethoxazole (18.0%), streptomycin (46.7%), kanamycin (80.0%), and ampicillin (92.0%)
. Studies on transferability of antibiotic resistance by conjugation mechanism in the laboratory
among donors of Vibrio spp. from white-leg shrimp isolates to different recipients of human E. coli
isolates were not successful.
Keywords: Antibiotic resistance, Litopenaeus vannamei, Vibrio spp.

Người phản biện: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Phước Người phản biện: PGS. TS. Trần Thị Tuyết Hoa
Ngày nhận bài: 05/12/2021

Ngày nhận bài: 04/12/2021

Ngày thông qua phản biện: 20/12/2021

Ngày thông qua phản biện: 21/12/2021

Ngày duyệt đăng: 25/12/2021

Ngày duyệt đăng: 25/12/2021

Faculty of Fisheries, Nong Lam University, HCMC
* Email:
1

50

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 21 - THÁNG 12/2021




×