TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA: LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ
---------o0o--------
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VẬN DỤNG PHÂN
TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ
VỚI CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Đức Hiếu
Mã sinh viên
: 2114410064
Lớp tín chỉ
: TRI 114.8
Giảng viên hướng dẫn
: TS. Đào Thị Trang
Hà Nội, Tháng 4 năm 2022
0
0
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA: LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ
---------o0o--------
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VẬN DỤNG PHÂN
TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ
VỚI CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Đức Hiếu
Mã sinh viên
: 2114410064
Lớp tín chỉ
: TRI 114.8
Giảng viên hướng dẫn
: TS. Đào Thị Trang
Hà Nội, Tháng 4 năm 2022
0
0
MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................... 2
NỘI DUNG....................................................................................................................... 4
I:
PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN.........................................4
1.
Phép biện chứng..................................................................................................4
1.1 Khái niệm............................................................................................................4
1.2 Các hình thức cơ bản của phép biện chứng.....................................................4
2.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.....................................................................5
2.1 Khái niệm............................................................................................................5
2.2 Nội dung nguyên lý.............................................................................................6
3.
Ý nghĩa phương pháp luận.................................................................................6
3.1 Quan điểm toàn diện..........................................................................................6
3.2 Quan điểm lịch sử - cụ thể.................................................................................6
II: MỐI LIÊN HỆ GIỮA XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VỚI
CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ............................................................7
1.
Nền kinh tế độc lập tự chủ.................................................................................7
2.
Hội nhập kinh tế quốc tế....................................................................................8
3.
Mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế..............................................................................................................8
4.
Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế......................................................................................................................... 11
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................14
0
0
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế tồn cầu hố quốc tế hoá hiện nay, các quốc gia trên thế giới ở mức độ
này hay mức độ khác đều tuỳ thuộc lẫn nhau, có quan hệ qua lại với nhau. Vì thế nước
nào đóng cửa với thế giới là đi ngược lại xu thế của thời đại và khó tránh khỏi bị rơi vào
lạc hậu, trái lại mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế tuy có phải trả giá nhất định song đó là
yêu cầu tất yếu hướng tới sự phát triển của mỗi nước, mỗi quốc gia.
Đứng trước yêu cầu ngày càng cấp bách đó, Đại hội Đảng IX đã đưa ra văn kiện về
vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên bên
cạnh đó Đảng và Nhà nước ta cũng nhận rõ được mặt tích cực và mặt tiêu cực của quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế và đưa ra biện pháp khắc phụcmặt tiêu cực đó là phải kết
hợp giữa hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Trước vấn đề cập nhật của thời đại này, em quyết định chọn đề tài “Phép biện
chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” để tìm hiểu rõ những
phương pháp, sự vận dụng sáng tạo của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng đổi
mới đất nước là hoàn toàn đúng đắn.
Để đạt được sự phát triển đồng đều về kinh tế giữa các nước trên thế giới thì khơng
cịn con đường nào khác là con đường hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là
nền tảng cho các nước tăng cường hiểu biết lẫn nhau và hợp tác thông qua đối thoại, đồng
thời cải thiện quan hệ chính trị giữa các quốc gia, thúc đẩy các nước trên thế giới cùng phát
triển và mục đích cao hơn đó là đem lại cuộc sống đầy đủ, đồn kết hịa bình cho toàn thể
nhân loại.
Tuy nhiên nhiệm vụ đặt ra với mỗi quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay là xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Do xu thế hội nhập kinh tế quốc tế dẫn
đến sự tùy thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng gia tăng nên các nước trên thế giới đều rất
coi trọng khả năng độc lập tự chủ về kinh tế nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng của quốc gia
trong cuộc cạnh tranh kinh tế gay gắt và để xác lập vị thế nhất định trên trường quốc tế.
0
0
Như vậy xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế có mối
quan hệ biện chứng với nhau. Dựa vào nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, em sẽ phân tích
mỗi liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế. Em
mong sẽ nhận được sự nhận xét, chỉ bảo từ thầy cô.
Với mục đích và nhiệm vụ như trên, tiểu luận kết cấu như sau:
I.
II.
PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
MỐI LIÊN HỆ GIỮA XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ
VỚI CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
0
0
NỘI DUNG
I: PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
1.
Phép biện chứng
1.1 Khái niệm
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới
thành
hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc
phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Với nghĩa như vậy , phép biện chứng
thuộc về biện chứng chủ quan, đồng thời nó cũng đối lập với phép siêu hình –
phương
pháp tư duy về sự vật, hiện tượng của thế giới trong trạng thái cô lập và bất biến.
Trong chủ nghĩa Mác – Lênin, khái niệm biện chứng dùng để chỉ những mối liên
hệ, tương tác, chuyển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện
tượng quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Theo Ph.Ăngghen, “ Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong tồn bộ giới
tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh
sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên…”
1.2 Các hình thức cơ bản của phép biện chứng
Trong quá trình phát triển, phép biện chứng có ba hình thức cơ bản là phép biện
chứng chất phác cổ đại, phép biện chứng duy tâm (cổ điển Đức) và phép biện chứng duy
vật.
Phép biện chứng chất phác cổ đại là một nội dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết
học của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Tiêu biểu cho những tư tưởng biện chứng
của triết học Trung Quốc là “biến dịch luận” và “ngũ hành luận” của Âm dương gia.
Trong triết học Ấn Độ, biểu hiện rõ nét nhất của tư tưởng biện chứng là triết học phật
0
0
giáo, với các phạm trù “vô ngã”, “vô thường”, ‘nhân duyên”… Đặc biệt, triết học Hy Lạp
cổ đại đã thể hiện một cách sâu sắc tinh thần của phép biện chứng tự phát.
Tiếp đến, phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ Kant và hoàn
thiện ở Hégel. Các nhà triết học cổ điển Đức đã trình bày những tư tưởng cơ bản nhất của
phép biện chứng duy tâm một cách có hệ thống. Các nhà triết học duy tâm Đức, mà đỉnh
cao nhất là Hégel, đã xây dựng phép biện chứng duy tâm với hệ thống phạm trù, qui luật
chung, có logic chặt chẽ của ý thức, tinh thần. Tính chất duy tâm trong phép biện chứng
cổ điển Đức, cũng như trong triết học Hégel là hạn chế cần phải vượt qua. Mác và
Ăngghen đã khắc phục hạn chế đó để sáng tạo nên phép biện chứng duy vật. Đó là giai
đoạn phát triển cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học, là sự kế thừa trên
tinh thần phê phán đối với phép biện chứng cổ điển Đức.
Cuối cùng, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin là
phép biện chứng được xác lập trên nền tảng thế giới quan duy vật khoa
học. Trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin có sự
thống nhất giữa nội dung thế giới quan duy vật biện chứng và phương
pháp luận biện chứng duy vật, do đó nó khơng dừng lại ở sự giải thích
thế giới mà cịn là cơng cụ để nhận thức và cải tạo thế giới.
2.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Trên cơ sở kế thừa các giá trị về tư tưởng biện chứng trong kho tàng lý luận của
nhân loại, đồng thời khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên thế kỷ
XIX (khoa học về các quá trình, về nguồn gốc, về mối liên hệ và sự phát triển) phép biện
chứng duy vật đã phát hiện ra nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật và hiện
tượng trong thế giới, coi đây là đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật.
2.1 Khái niệm
Mối liên hệ: Là sự quy định lẫn nhau , tác động lẫn nhau giữa các yếu tố trong cùng
một sự vật hoặc giữa các sự vật hiện tượng của nhau.
0
0
Mối liên hệ phổ biến: Là những mối liên hệ tồn tại một cách phổ biến cả trong tự
nhiên xã hội và tư duy. Mối liên hệ phổ biến mang tính chất bao qt, nó tồn tại thơng
qua những mối liên hệ đặc thù của sự vật, nó phản ánh tính đa dạng và tính thống nhất
của thế giới.
2.2 Nội dung nguyên lý
Triết học Mác khẳng định mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều nằm trong mối
liên hệ phổ biến, khơng có sự vật hiện tượng nào tồn tại một cách biệt lập mà chúng tác
động đến nhau ràng buộc quyết định và chuyển hoá lẫn nhau. Các mối liên hệ trong tính
tổng thể của nó quy định sự tồn tại vận động, biến đổi của sự vật. Khi các mối liên hệ
thay đổi tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi sự vật.
3.
Ý nghĩa phương pháp luận
Từ những nghiên cứu về nguyên lý của mối liên hệ phổ biến có thể rút ra ý nghĩa về
phương pháp luận như sau:
3.1 Quan điểm toàn diện
Quan điểm toàn diện địi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực
hiện cần phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các
yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật, hiện tượng và trong sự tác động qua lại giữa sự vật,
hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức
đúng về sự vật, hiện tượng và xử lý có hiệu quả các vấn đề của đời sống thực tiễn. Như
vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận thức và
thực tiễn.
3.2 Quan điểm lịch sử - cụ thể
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống
trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận
thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác định rõ vị trí, vai
trị khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để từ đó có được
0
0
những giải pháp đứng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vậy,
trong nhận thức và thực tiễn không những cần phải tránh và khắc phục quan điểm phiến
diện, siêu hình mà cịn phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.
I:
MỐI LIÊN HỆ GIỮA XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VỚI
CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.
Nền kinh tế độc lập tự chủ
Một nền kinh tế độc lập tự chủ theo cách hiểu thông thường và truyền thống là một
nền kinh tế phát triển toàn diện, có khả năng tự thỏa mãn những nhu cầu mọi mặt của đời
sống xã hội, của an ninh, quốc phòng và q trình tái sản xuất ; khơng bị lệ thuộc vào bên
ngoài cả từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, để có thể vận hành một cách bình
thường và bảo đảm được nền tảng cho việc duy trì an ninh quốc gia. Một nền kinh tế như
vậy nhìn chung chỉ tồn tại trong điều kiện các quốc gia có đầy đủ mọi nguồn tài nguyên
thiên nhiên, điều kiện địa lý, khí hậu lý tưởng, quy mơ thị trường quốc gia đủ lớn, trình
độ phát triển cao về khoa học – cơng nghệ và khơng cần phải có quan hệ kinh tế với nhau
mà vẫn có thể tự tồn tại, phát triển được.
Độc lập, tự chủ về kinh tế trước hết và quan trọng nhất là về đường lối, chính sách,
luật pháp kinh tế được xây dựng thành hệ thống hồn chỉnh đặt trên căn bản lợi ích dân
tộc hướng vào mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh”;
trên cơ sở đó xây dựng nền kinh tế ngày càng hiện đại thích ứng với xu thế tồn cầu hóa
và hội nhập quốc tế, có năng lực cạnh tranh cao, đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội ngày
càng lớn.
Độc lập, tự chủ về chính trị là điều kiện tiền đề xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ. Ngược lại, độc lập, tự chủ về kinh tế là điều kiện bảo đảm độc lập, tự chủ về chính
trị, bởi một quốc gia đói nghèo, thường xuyên phải dựa vào viện trợ quốc tế, thì khó có
thể giữ vững được độc lập, tự chủ về chính trị
Trong thời đại nay, độc lập tự chủ về kinh tế khơng cịn được hiểu là một nền kinh
tế khép kín, tự cung tự cấp, mà được đặt trong mối quan hệ biện chứng với mở cửa, hội
0
0
nhập, chủ động tham gia sự giao lưu, hợp tác và cạnh tranh quốc tế trên cơ sở phát huy
tối đa nội lực và lợi thế so sánh quốc gia.
4.
Hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập quốc tế những thập niên qua là thuật ngữ xuất hiện khá nhiều trong đời
sống kinh tế - chính trị ở nước ta. Hội nhập quốc tế được hiểu như quá trình mở cửa tham
gia đời sống kinh tế - chính trị quốc tế, cũng như quá trình thế giới đến với Việt Nam,
nghĩa là chúng ta vươn ra gắn bó sâu, rộng với thế giới và ngược lại.
Hội nhập được triển khai trên nhiều lĩnh vực, trong đó hội nhập kinh tế là lĩnh vực
có sự phát triển sơi động hơn cả. Hội nhập kinh tế quốc tế được xem là sự phát triển cao
của phân công lao động quốc tế; là quá trình phối hợp mang tính chất liên quốc gia giữa
các nước độc lập, có chủ quyền trong một hay nhiều hiệp định kinh tế - thương mại.
Hội nhập kinh tế là sự gắn kết nền kinh tế của một nước vào các tổ chức hợp tác
kinh tế khu vực và tồn cầu, trong đó các thành viên quan hệ với nhau theo các nguyên
tắc, quy định chung. Sau chiến tranh thế giới thứ hai đã xuất hiện các tổ chức như Liên
Minh Châu Âu, Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại (GATT). Từ những năm 1990 trở lại đây, tiến trình này phát triển mạnh cùng
với xu thế tồn cầu hố đời sống kinh tế, thể hiện ở sự xuất hiện của nhiều tổ chức kinh tế
khu vực và toàn cầu.
5. Mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế
Đây là mối liên hê khách quan, nảy sinh và ngày càng sâu đậm trong quá trình đổi
mới, phát triển đất nước và hội nhập với thế giới. Đó là mối liên hệ biện chứng, tác động
qua lại lẫn nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn.
Thứ nhất, độc lập, tự chủ là cơ sở, tiền đề để chủ động, tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế.
0
0
Độc lập, tự chủ không phải là biệt lập với thế giới, đứng ngoài hội nhập quốc tế.
Độc lập là quyền tự quyết của quốc gia, dân tộc. Tự chủ là năng lực thực hiện quyền tự
quyết ấy trên thực tế. Độc lập, tự chủ được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị,
kinh tế, văn hóa, quốc phịng, an ninh, đối ngoại, v.v. Đó là khát vọng của nhân dân ta,
trải qua bao đấu tranh gian khổ mới giành được, để trở thành một dân tộc, một quốc gia
có tên trên bản đồ thế giới. Song, trong bối cảnh tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng
hiện nay, thì hầu hết các quốc gia, dân tộc đều tích cực tham gia vào q trình này, nhằm
thu hút, tạo nguồn lực để xây dựng, phát triển đất nước. Đó là mặt tích cực của hội nhập
quốc tế. Tuy nhiên, tác động tiêu cực của nó là gia tăng sự phụ thuộc, thậm chí khơng giữ
được độc lập, tự chủ, nhất là đối với các nước nhỏ, tiềm lực yếu so với các nước lớn. Do
đó, giữ vững độc lập, tự chủ không chỉ bao gồm việc khắc phục sự lệ thuộc, chống sự áp
đặt, chi phối, mà đòi hỏi phải nêu cao và chủ động trong hội nhập quốc tế.
Độc lập, tự chủ là nhân tố đóng vai trò quyết định trong mối quan hệ với hội nhập
quốc tế. Thực tiễn đổi mới cho thấy, nhờ giữ vững độc lập, tự chủ mà chúng ta đã tự
quyết định được lộ trình, bước đi, cách thức, nội dung, biện pháp, đối tác, lĩnh vực phát
triển; phát huy được những lợi thế, hạn chế những thách thức, tác động tiêu cực trong sự
nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế. Từ hội nhập kinh tế, nước ta đã từng bước hội nhập
toàn diện vào khu vực và quốc tế, quan hệ đối ngoại được mở rộng, ngày càng đi vào
chiều sâu, hiệu quả, góp phần tạo ra thế và lực mới của đất nước.
Có độc lập, tự chủ thì mới phân tích, xử lý thơng tin một cách đúng đắn để có
những giải pháp thiết thực, đồng bộ, hữu hiệu trước sự thay đổi mau lẹ của tình hình thế
giới và khu vực, v.v. Từ những cơ sở đó, để tham gia hội nhập quốc tế, trước hết mỗi
quốc gia, dân tộc phải là một “chủ thể” - đó chính là quyền độc lập, tự chủ của mình.
Khơng có độc lập, tự chủ thì khơng thể nói tới hội nhập, chứ chưa nói tới chủ động, tích
cực.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế góp phần tăng cường khả năng giữ vững độc lập,
tự chủ của đất nước.
0
0
Ở đất nước Việt Nam ta, quan điểm về hội nhập quốc tế được hình thành, phát triển
trong hơn 30 năm đổi mới, là một trong những nội dung lớn của đường lối đổi mới đất
nước của Đảng, nước ta. Do đó, chúng ta đã phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, nâng cao vị thế Việt Nam, tạo được sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế
trong giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để
phát triển đất nước.
Hội nhập quốc tế sẽ tạo ra tiền đề cho phát triển kinh tế, xã hội – yếu tố có ý nghĩa
quyết định đến sức mạnh tổng hợp của đất nước. Trước hết, chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế sẽ giúp chúng ta hội nhập đầy đủ, sâu, rộng hơn vào các thể chế kinh tế thế giới
và khu vực, như: Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng thế giới(WB), Quỹ
tiền tệ quốc tế(IMF), thành viên ASEAN,APEC,… Hội nhập quốc tế được mở rộng, phát
triển tất cả trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Hội nhập kinh
tế quốc tế đã giúp mở rộng thị trường, thu hút được lượng lớn vốn đầu tư, thành tựu khoa
học, công nghệ mới và các nguồn lực quan trọng khác, đóng góp tích cực vào tăng
trưởng, chuyển dịch cơ cấu, nâng cao trình độ của nền kinh tế, thu nhập, đời sống nhân
dân. Hội nhập văn hóa, xã hội đã thúc đẩy mở rộng quan hệ hợp tác, phát triển giáo dục
đào tạo, khoa học công nghệ của đất nước, quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới và làm
phong phú đời sống văn hóa đất nước bằng những sản phẩm, giá trị văn hóa của các nước
trên thế giới. Hội nhập về chính trị, quốc phịng, an ninh tạo điều kiện cho xây dựng và
tăng cường lòng tin giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới, tranh thủ
được sự ủng hộ quốc tế, góp phần vào duy trì mơi trường hịa bình, củng cố, tăng cường
tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước. Hội nhập quốc tế, do đó, đã góp phần quan
trọng vào tăng cường, nâng cao sức mạnh tổng hợp, thế và lực, uy tín quốc tế của đất
nước, yếu tố quyết định để bảo vệ, giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước.
Trong mối quan hệ biện chứng này hội nhập quốc tế và độc lập, tự chủ có mặt thống
nhất, đồng thời cũng có mặt mâu thuẫn lẫn nhau. Hội nhập quốc tế thống nhất với độc
lập, tự chủ kinh tế trên góc độ “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong
điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng”. Hội nhập quốc tế tạo nguồn lực và môi
0
0
trường để tăng tiềm lực cho nền kinh tế độc lập tự chủ. Hơn nữa, hội nhập quốc tế là cách
thức thực hiện độc lập tự chủ tốt nhất trong điều kiện tồn cầu hóa. Bởi vì trong một thế
giới mà các nền kinh tế quốc gia phụ thuộc một cách khách quan và nhau, thì hội nhập
tích cực và chủ động không những tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế quốc
gia mà còn tạo cơ hội ảnh hưởng đến luật lệ ràng buộc giữa các nước. Bên cạnh đó, trong
thời đại tồn cầu hóa, nhưng vẫn cịn có nhận thức lo ngại, do dự hội nhập quốc tế vì sợ
mất độc lập, tự chủ, bỏ lỡ cơ hội, cản trở, kìm hãm sự phát triển của đất nước; có những
quốc gia vẫn khép kín, tách biệt với thế giới để bảo vệ độc lập, tự chủ của mình. Nếu loại
bỏ những nhận thức, quan điểm cực đoan, thì một cách khách quan, những lo ngại về mất
độc lập, tự chủ của đất nước không phải là khơng có cơ sở bởi hội nhập quốc tế thật sự
tạo ra những thách thức không nhỏ đối với việc bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước.
6.
Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế
Lịch sử đất nước đã chứng minh, độc lập, tự do là khát vọng, ý chí và bản lĩnh dân
tộc Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Tuy nhiên, độc lập,
tự chủ gắn với hội nhập quốc tế là một mơ hình mới với nhiều nội dung cần làm rõ. Vậy
nên, trong Đại hội XI, Đảng ta đã chỉ rõ :
Về mặt nhận thức, Đại hội XI nhấn mạnh, đường lối xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ đi đơi với tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế được thực hiện xuyên suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Có
nghĩa là sẽ khơng có bước đảo chiều để quay về nền kinh tế khép kín tự cung, tự cấp,
thay thế hàng nhập khẩu như trước kia. Hơn nữa, hội nhập quốc tế được coi là một điều
kiện để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Chiến lược 2011-2020 nêu rõ: “Phát huy nội
lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh
thời đại là yếu tố quan trọng đế phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ”. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009 chưa kết thúc, nhiều
quốc gia có xu hướng thực hiện chính sách bảo hộ, Đại hội XI nhấn mạnh chủ trương tiếp
0
0
tục hội nhập sâu rộng của nước ta là một điểm đáng chú ý. Tầm quan trọng của xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ, đi đơi với tích cực và chủ động hội nhập quốc tế thể hiện
ngay trong Cương lĩnh 2011. Ba trong tám phương hướng cơ bản, một trong tám mối
quan hệ lớn cần phải giải quyết trong thời kỳ quá độ là mối quan hệ giữa độc lập tự chủ
và hội nhập quốc tế. Cương lĩnh 2011 cũng nhấn mạnh, không được phiến diện, cực
đoan, duy ý chí trong giải quyết mối quan hệ này và phải được giải quyết linh hoạt, mềm
dẻo theo nguyên tắc: độc lập tự chủ là nền tảng, hội nhập quốc tế vừa bổ sung, vừa làm
cho nội dung độc lập tự chủ phát triển lên một trình độ mới.
Về mặt lý luận, độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là hai mặt của mối quan hệ
biện chứng tồn tại trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta. Độc lập, tự chủ là nền tảng bởi vì
trong một thế giới còn chịu sự chi phối của kinh tế thị trường và nguyên tắc tư bản chủ
nghĩa thì các quốc gia dân tộc vẫn là các chủ thể chính trong bảo vệ quyền và lợi ích của
dân tộc trên trường quốc tế. Khơng có độc lập, tự chủ, quốc gia sẽ trở thành công cụ
trong tay các quốc gia khác, hậu quả là dân tộc bị chèn ép, bóc lột, thua thiệt.
Tuy nhiên, trong thời đại tồn cầu hóa, nếu cơ lập, bất kỳ quốc gia nào cũng bị thiệt
thịi về các phương diện mức sống, trình độ khoa học, kỹ thuật và tốc độ phát triển. Do
đó, nền kinh tế độc lập, tự chủ trong thế giới ngày nay phải là nền kinh tế có năng lực độc
lập, tự chủ trong mở rộng giao lưu kinh tế với các nước khác theo nguyên tắc thị trường.
Bởi vì mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa, kỹ thuật với các nước, nhất là với các nước
phát triển, Nhà nước, doanh nghiệp, dân cư có cơ hội học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu thành
tựu văn hóa, khoa học kỹ thuật của toàn thế giới, cơ hội mở rộng thị trường nhằm sử
dụng tốt hơn các nguồn lực vốn có của đất nước. Hội nhập cũng là con đường tối ưu để
nước ta có thể tham gia vào mạng phân cơng lao động tồn cầu trên cơ sở sử dụng lợi thế
cạnh tranh. Hội nhập cho phép nước ta thu hút ngoại lực để phát triển nhanh, đi tắt, đón
đầu, rút ngắn khoảng cách lạc hậu.
0
0
KẾT LUẬN
Từ những vấn đề nghiên cứu ở trên, chúng ta đã thấy rõ mối quan hệ biện chứng,
vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn giữa nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc
tế. Độc lập, tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả . Hội
nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết để xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ”. Chúng ta càng độc lập tự chủ thì chủ động hội nhập càng tốt . Chủ động hội nhập
càng tốt thì xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ càng hiệu quả.
Việt Nam trong quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế
quốc tế gặp phải rất nhiều khó khăn và thách thức, đòi hỏi chúng ta phải nâng cao hiệu
quả , sức cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, tham gia có hiệu quả vào
phân công lao động quốc tế. Chúng ta phải kết hợp song song giữa xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế để xây dựng nền kinh tế ngày càng vững
mạnh , đảm bảo thành cơng cho sự nghiệp cơng hóa , hiện đại hóa đất nước, thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa
xã hội.
Đồng thời mỗi sinh viên chúng ta, những chủ nhân tương lai của đất nước, cần
không ngừng phấn đấu học tập và rèn luyện để góp sức mình vào cơng cuộc xây dựng và
phát triển đất nước Việt Nam.
0
0
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác – Lênin, GS.TS. Phạm Văn Đức (chủ biên)
2. />3. />4. />5. />
0
0