Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.63 KB, 29 trang )

CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

MỤC LỤC

Lời mở đầu .
Chương I. Lý luận chung về mâu thuẫn .
1. Khái quát chung về quy luật mâu thuẫn .
2. Nội dung của quy luật mâu thuẫn .
3. Một số loại mâu thuẫn .
4. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật mâu thuẫn .
Chương II. KTTT và mâu thuẫn biện chứng trong nền KTTT ở Việt
nam.
1. Khái quát chung về KTTT.
2. KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
3. Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình chuyển sang KTTT ở Việt
Nam.
Chương III. Một số giải pháp cho nền KTTT ở Việt Nam hiện nay.
Kết luận.
Tài liệu tham khảo và các từ viết tắt

LỜI MỞ ĐẦU
Quy luật mâu thuẫn là một quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng
duy vật, nó vạch ra nguồn gốc bên trong của sự vận động và phát triển, nó chỉ ra
1


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

nguyên nhân của sự thay đổi cái này thành cái khác, đồng thời nó tác động đến
tất cả quy luật và phạm trù của phép biện chứng. Phép biện chứng duy vật
khẳng định rằng: mọi sự vật và hiện tượng trong tự nhiên đều tồn tại mâu thuẫn


bên trong. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi sự vật và hiện tượng của
giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy con người. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự
vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi một sự vật có thể có nhiều mâu
thuẫn và sự vật trong cùng một lúc có rất nhiều mặt đối lập. Mâu thuẫn này mất
đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành...
Ở nước ta hiện nay việc phát hiện ra các cơ hội và thách thức; thuận lợi
và nguy cơ là trung tâm điểm của việc phát hiện và giải quyết mâu thuẫn, thực
hiện chiến lược phát triển đất nước. Bên cạnh đó, việc phát hiện và giải quyết
hàng loạt các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là một nội dung quan trọng trong việc xây
dựng các chính sách kinh tế xã hội. Nước ta đã trải qua hơn 20 năm đổi mới,
chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đã đưa lại hiệu quả và đã tạo
nên những thành tựu to lớn đưa nước ta vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Tuy nhiên, nền KTTT định hướng XHCN là một nền kinh tế quá
độ với điểm xuất phát và bản chất của chế độ cũ nên nó không tránh khỏi những
mâu thuẫn quá độ của nó. Những mâu thẫn đó luôn chứa đựng những mặt tiêu
cựu mang tính nội tại và kìm hãm, gây trở ngại cho công cuộc đổi mới và phát
triển kinh tế đòi hỏi phải được giải quyết. Giải quyết được những mâu thuẫn đó
sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển một cách vững chắc và ổn định theo đúng định
hướng đã đặt ra.
Qua thời gian nghiên cứu bộ môn Triết học và tình hình phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt nam, nhận thấy tầm
quan trọng của phép biện chứng về mẫu thuẫn và những mâu thuẫn thực tế đang
xảy ra trong nền kinh tế nước ta hiện nay cũng như những vướng mắc trong các
vấn đề chính trị xã hội có liên quan đến quá trình đổi mới và phát triển kinh tế,
được sự giúp đỡ tận tình của cô giáo PGS.TS Dương Thị Liễu và thầy giáo
2



CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

PGS.TS Phạm Văn Sinh, tôi đã quyết định chọn đề tài : ''Phép biện chứng về
mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong quá trình
phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt nam" cho bài tập tiểu luận
của mình.
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Phụ lục tham khảo thì bài tập này trình bày
theo 3 chương sau :
Chương I

: Lý luận chung về mâu thuẫn.

Chương II : KTTT và mâu thuẫn biện chứng trong nền KTTT ở Việt
nam.
Chương III : Giải pháp cho nền KTTT ở Việt Nam hiện nay.
Mặc dù đã rất nhiều cố gắng nhưng do thời gian cùng vốn kiến thức còn
hạn chế nên việc hoàn thành bài tập không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất
định. Tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo đóng góp của cô giáo và các bạn để có
thể bổ xung nâng cao vốn kiến thức của mình.

3


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ MÂU THUẪN.
1. Kháí quát chung về quy luật mâu thuẫn .
a. Các khái niệm chung.
-Mâu thuẫn: từ trước đến nay đã có nhiều hình thức định nghĩa khác nhau
về mâu thuẫn, nhưng ta chỉ xét trên cơ sở khái niệm của phép biện chứng duy

vật: Mâu thuẫn là mối liên hệ thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
-Mặt đối lập: là sự khái quát những mặt, những thuộc tính, những khuynh
hướng ...trái ngược nhau trong một chỉnh thể làm nên sự vật và hiện tượng,
chúng luôn có xu hướng loại trừ nhau nhưng lại là điều kiện tồn tại của nhau.
-Thống nhất của các mặt đối lập :Nghĩa là các mặt đối lập nương tựa vào
nhau, tạo ra sự phù hợp, cân bằng nhưng liên hệ phụ thuộc, quy định và ràng
buộc, mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của chính
mình và ngược lại.
-Đấu tranh của các mặt đối lập: là sự bài trừ gạt bỏ phủ định lẫn nhau,
chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập.
b. Vị trí và vai trò của quy luật:
-Quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng
duy vật và là hạt nhân của phép biện chứng duy vật.
-Quy luật chỉ ra nguồn gốc bên trong, động lực của mọi sự vận động và
phát triển của thế giới khách quan.
2. Nội dung của quy luật mâu thuẫn:
a. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Để hiểu được nội dung quy luật, trước hết cần nắm đươc khái niệm ''mặt
đối lập''. Khái niệm mặt đối lập trong quy luật mâu thuẫn là sự khái quát những
mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng… phát triển trái ngược nhau
nhưng chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, chúng vừa thống nhất với nhau lại
vừa đấu tranh tiêu diệt lẫn nhau. Trong đó thống nhất là tương đối, tạm thời còn
đấu tranh là vĩnh viễn tuyệt đối. Chính những mặt như vậy nằm trong sự liên hệ,
tác động qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Do đó cần phải phân
4


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

biệt rằng mỗi mâu thuẫn phải có hai mặt đối lập nhưng không phải bất kỳ mặt

đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Bởi vì trong các sự vật hiện tượng của
thế giới khách quan, không phải chỉ tồn tại trong hai mặt đối lập mà trong cùng
một thời điểm mỗi sự vật có thể cùng tồn tại nhiều mặt đối lập, có những mặt
đối lập là tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật có liên hệ khăng khít với
nhau, tác động qua lại với nhau nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều
nhau, bài trừ, phủ định và chuyển hóa lẫn nhau mới tạo thành mâu thuẫn. Ví dụ
như lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của phương thức sản xuất, chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học …Mâu thuẫn là một chỉnh
thể trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh với nhau.
* Sự thống nhất nhất của các mặt đối lập.
Trong một mâu thuẫn, hai mặt đối lập có quan hệ thống nhất với nhau. Sự
''thống nhất'' trong quy luật mâu thuẫn có nghĩa là hai mặt đối lập liên hệ với
nhau, ràng buộc nhau quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề cho sự
tồn tại của mình và ngược lại. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo
thành sự vật thì nhất định không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy sự thống nhất
của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ
sự vật, hiện tượng nào. Sự thống nhất này do những đặc điểm riêng của bản
thân sự vật tạo nên. Ví dụ, trong xã hội tư bản, giai cấp vố sản và giai cấp tư sản
là hai mặt đối lập thống nhất với nhau, nếu không có giai cấp vô sản tồn tại với
tư cách là một giai cấp bán sức lao động cho nhà tư bản thì cũng không có giai
cấp tư sản tồn tại với tư cách là một giai cấp mua sức lao động của giai cấp vô
sản để bóc lột giá trị thặng dư.
Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, ''đồng
nhất'' với nhau. Vì vậy ''đồng nhất'' và ''thống nhất" trong trường hợp này là
đồng nghĩa với nhau. Song khái niệm ''đồng nhất'' còn có một nghĩa khác đó là
sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các măt đối lập. Như vậy, theo quan điểm của phép
biện chứng, sự đồng nhất không tách rời với sự khác nhau, sự đối lập. Mỗi sự
vật vừa là bản thân nó, vừa là một cái khác với bản thân nó,trong sự đồng nhất
đã bao hàm sự khác nhau, sự đối lập.
5



CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Trong một mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập diễn ra có giới
hạn, có khởi đầu, có kết thúc. Giới hạn đó chính là sự tồn tại của vật. Vì thế nó
chỉ là hiện tượng tương đối tạm thời nhưng sự thống nhất giữa các mặt đối lập
đã tạo ra mâu thuẫn, tạo ra địa bàn cho sự đấu tranh giữa chúng và đấu tranh
giữa các mặt đối lập.
Trong nền kinh tế thị trường, nếu khống có sự thống nhất giữa quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất, tích lũy và tiêu dùng, giữa cung và cầu, giữa
chính sách kinh tế và chính sách xã hội … thì khó có thể thúc đẩy nền kinh tế
phát triển . Nghiên cứu về tính thống nhất giữa các mặt đối lập giúp chúng ta có
một thế giới quan đúng đắn trong việc nhận thức thực tiễn và áp dung trong viêc
xây dựng nền kinh tế đất nước.
* Sự đấu tranh của các mặt đối lập.
Tính thống nhất của các mặt đối lập mà ta xem xét ở trên chỉ là đặc tính
tạm thời, còn sự đấu tranh giữa chúng mới là cái thương xuyên diễn ra. Khái
niệm "đấu tranh" giữa các mặt đối lập có nghĩa là các mặt đối lập bài trừ phủ
định nhau. Sự bài trừ, phủ định nhau trong thế giới vật chất được thể hiện dưới
những dạng khác nhau, cùng tồn tại trong một sự vật thống nhất như một chỉnh
thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên ngoài nhau mà điều chỉnh chuyển hóa
lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật.Ví dụ :Sự đấu tranh
giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản được diễn ra dưới dạng xung đột với
nhau về nhiều mặt rất gay gắt và quyết liệt, chỉ có thể thông qua cách mạng xã
hội bằng nhiều hình thức, kể cả bạo lực mới giải quyết được mâu thuẫn này một
cách căn bản.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp. Quá trình ấy
có thể chia ra từng giai đoạn. Mỗi giai đọan lại có những đặc điểm riêng của nó.
Khi mới xuất hiện mâu thuẫn hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ xung khắc gay

gắt, mà được biểu hiện ở sự khác nhau của hai mặt đối lập-giai đoạn hình thành
mâu thuẫn. Song không phải bất cứ sự khác nhau nào của các mặt cũng là mâu
thuẫn. Chỉ có hai mặt khác nhau nào liên hệ hữu cơ với nhau trong một chỉnh

6


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

thể và có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau thì mới hình thành bước đầu
của mâu thuẫn.
Khi xung đột trở nên gay gắt, có điều kiện chín muồi, thì hai mặt đối lập
sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới
ra đời. Sự vật mới là một thể thống nhất mới của hai mặt đối lập và quá trình
đấu tranh lại diễn ra, sự chuyển hóa cuối cùng lại được thực hiện và một sự vật
mới hơn lại hình thành làm cho sự vật không thể tồn tại một cách vĩnh viễn. Vì
thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, là động lực bên trong của sự
vận động và phát triển.
Với tư cách là hai trạng thái đối lập trong mối quan hệ qua lại giữa hai
mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quan hệ chặt chẽ
với nhau. Sự thống nhất có tính tam thời, tương đối, nghĩa là nó tồn tại trong
trạng thái đứng yên tương đối của các sự vật và hiện tượng. Còn sự đấu tranh
của mối quan hệ có tính tuyệt đối, nghĩa là nó phá vỡ sự ổn định dẫn đến sự
chuyển hóa về vật chất của các mặt đối lập gắn liền với sự tự thân vận động, tự
thân phát triển diễn ra không ngừng của các sự vật và hiên tượng trong thế giới
vật chất.
b. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập.
Sự chuyển hóa cuối cùng giữa hai mặt đối lập là sự kiện quan trọng nhất
trong quá trình vận động giải quyết mâu thuẫn của sự vật. Nếu như đấu tranh
giữa các mặt đối lập không dẫn đến sự chuyển hóa cuối cùng thì mâu thuẫn

chưa được giải quyết, sự vật vẫn là nó. Chuyển hóa của các mặt đối lập chính là
lúc mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời, đó chính là
qúa trình diễn biến rất phức tạp với nhiều hình thức phong phú khác nhau. Do
đó, không nên hiểu sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập một cách đơn
giản là sự đổi chỗ cơ giới mà cần phải hiểu được cả hai mặt đối lập đều cùng
vận động, phát triển lên một tính chất và trình độ mới, mâu thuẫn của sự cũng
có tính chất mới vì thế đòi hỏi phải có những biện pháp mới để giải quyết mâu
thuẫn nhằm thúc đẩy sự vật phát triển.

7


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Các hình thức chuyển hoá của các mặt đối lập là rất đa dạng, thông
thường có 3 hình thức chuyển hóa :
- Sự chuyển đổi vị trí của các mặt đối lập, đồng thời tính chất của mỗi
mặt đối lập đều có sự thay đổi. Thí dụ, tính chất thống trị giai cấp được thay đổi
qua các cuộc cách mạng xã hội, tư cách người mua và người bán trong nền kinh
tế thị trường.
- Các mặt đối lập thủ tiêu lẫn nhau trong quá trình chuyển hoá và xác lập
mặt đối lập mới. Thí dụ có hai giả thuyết khoa học cũ đều mất đi và xác lập giả
thuyết mới.
- Các mặt đối lập thâm nhập chuyển hoá lẫn nhau và cùng phát triển. Thí
dụ như vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế…
Như vậy, từ những phân tích trên cho ta thấy trong thế giới hiện thực bất
kỳ một sự vật- hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt,
những thuộc tính có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau. Sự đấu tranh và
chuyển hoá của các mặt đối lập trong những điều kiện cụ thể tạo thành mâu
thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn

được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới hình thành, sự vật mới lại nảy sinh
các mặt đối lập và mâu thuẫn mới. Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển
hóa, phủ định lẫn nhau để trở thành sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các sự vật,
hiện tượng trong thế giới khách quan thường xuyên phát triển và biến đổi không
ngừng. Vì vậy mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi sự phát triển, Lênin
từng nói :"Sự phát triển là một cuộc "đấu tranh" giữa các mặt đối lập".
3. Một số loại mâu thuẫn.
Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi lĩnh vực của thế giới với những
hình thức rất đa dạng. Tính đa dạng của mâu thuẫn do tính đa dạng của các mối
liên hệ trong sự vận động và phát triển của thế giới vật chất quy định. Mỗi loại
mâu thuẫn đều có những đặc điểm riêng và có vai trò khác nhau đối với sự phát
triển của sự vật.
a. Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.

8


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa các yếu tố cấu thành một sự vật
nhất định. Mâu thuẫn này bao giờ cũng là nhân tố quyết định bản chất và xu thế
vận động của chính bản thân sự vật. Ví dụ như mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất trong phương thức sản xuất nhất định.
Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa mặt đối lập của sự vật này với
mặt đối lập của sự vật khác. Ví dụ mâu thuẫn giữa lực lượng cách mạng của
quốc gia này với bọn phản cách mạng trong một quốc gia khác.
Việc phân chia mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài cần có quan
điểm lịch sử cụ thể và tuỳ phạm vi phân tích. Mâu thuẫn bên trong có vai trò
quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật. Còn
mâu thuẫn bên ngoài có vai trò hỗ trợ. Mâu thuẫn bên ngoài muốn phát huy tác

dụng nhất định phải thông qua mâu thuẫn bên trong. Không thông qua mâu
thuẫn bên trong, tư nó mâu thuẫn bên ngoài không thể phát huy được vai trò của
mình. Tuy nhiên mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài lại vận động
trong sự tác động lẫn nhau. Mỗi bước giải quyết mâu thuẫn này cũng là điều
kiện để giải quyết mâu thuẫn kia. Chẳng hạn, trong công cuộc xây dựng và phát
triển nước ta hiện nay, việc giải quyết những mâu thuẫn bên trong của đất nước
là điều kiện quyết định để giải quyết những mâu thuẫn bên ngoài trong quá trình
hợp tác giữa các quốc gia.
b. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
Mâu thẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự
phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật. Nó tồn tại gắn liền với sự vật từ khi
sự vật sinh ra đến khi sự vật kết thúc.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện
nào đó của sự vật, nó quy định sự vận động và phát triển của một mặt nào đó
của sự vật. Mâu thuẫn cơ bản đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự
vật.Trong quá trình phát triển của mình, mâu thuẫn cơ bản là cơ sở hình thành
và chi phối các mâu thuẫn khác trong sự vật. Khi mâu thuẫn cơ bản được giải
quyết thì sự vật sẽ thay đổi về chất. Còn mâu thuẫn không cơ bản thì tồn tại bao
giờ cũng gắn liền với mâu thuẫn cơ bản. Ví dụ, mặc dù bị các quy luật cơ bản
9


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

của nền kinh tế chi phối nhưng mâu thuẫn giữa sức phát triển nhanh của công cụ
sản xuất và công nghệ tiên tiến với sự cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên là
nguyên liệu trực tiếp ở từng khu vực, có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển
của sản xuất. Mâu thuẫn không cơ bản chỉ xuất hiện cùng với mâu thuẫn cơ bản
khi sự vật hình thành, mà trong quá trình vận động, mâu thuẫn cơ bản có thể
làm nảy sinh mâu thuẫn không cơ bản. Bởi vậy trong hoạt động thực tiễn, việc

phân tích và nhận thức đúng hai loại mâu thuẫn này có ý nghĩa rất quan trọng,
đặc biệt là trong hoạt động kinh tế.
c. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi bật lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn
phát triển của mọi sự vật.
Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định đối
với quá trình phát triển của sự vật.
Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu cũng có thể chuyển hoá cho
nhau trong quá trình phát triển của sự vật. Việc xác định đúng từng loại mâu
thuẫn sẽ cho phép con người tìm được những giải pháp phù hợp, tối ưu để giải
quyết mâu thuẫn, tạo diều kiện thúc đẩy sự vật phát triển.
d. Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, những tập đoàn
người, những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Ví dụ như mâu
thuẫn giữa giai cấp phong kiến với giai cấp nông dân, mâu thuẫn giữa giai cấp
vô sản và giai cấp tư sản.
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những những lực lượng,
khuynh hướng xã hội mà lợi ích về căn bản là nhất trí với nhau. Ví dụ mâu
thuẫn giữa các tầng lớp nông dân, giữa các bộ phận công nhân khác nhau, giữa
lao động trí óc và lao động chân tay, giữa thành thị và nông thôn… ở nước ta
hiện nay.
Phân biệt mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đố kháng có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn
đối kháng theo nguyên tắc chung chỉ được giải quyết thông qua các cuộc cách
10


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

mạng xã hội. Còn mâu thuẫn không đối kháng, xu hướng phát triển của nó ngày

càng dịu đi. Mâu thuẫn này được giải quyết vẫn phải tuân thủ nguyên tắc là
thông qua đấu tranh nhưng bằng phương pháp hoà bình.
Trên đây là những nội dung và phân tích những nội dung cơ bản của quy
luật mâu thuẫn, đó chính là cơ sở lý luận cho việc vận dụng quy luật này vào
việc xây dựng những nguyên tắc chung trong quá trình xây dựng và phát triển
kinh tế.
4. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật mâu thuẫn .
- Xuất phát từ mâu thuẫn là hiện tượng khách quan phổ biến nên muốn
phát hiện bản chất của mọi sự vận động và phát triển thì cần phải phân tích
được mâu thuẫn vốn có của sự vật, xác định được những xu hướng vận động đối
lập của mỗi sự vật mà ta phân tích, đồng thời phân tích xu hướng đối lập ấy
trong tính thống nhất biện chứng của nó.
- Xuất phát từ vai trò của đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc,
động lực của mọi sự vận động phát triển nên về nguyên tắc chỉ có thể giải quyết
mâu thuẫn thông qua sự đấu tranh của các mặt đối lập. Tuy nhiên biện pháp giải
quyết mâu thuẫn rất đa dạng.. Khi đấu tranh giải quyết mâu thuẫn của sự vật cần
có những quan điểm lịch sử cụ thể.

11


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

CHƯƠNG II: KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ MÂU THUẪN BIỆN
CHỨNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM.
1. Khái quát chung về KTTT.
Trước hết ta tìm hiểu một số khái niệm :Khái niệm kinh tế hàng hóa, thị
trường, cơ chế thị trường.
+Kinh tế hàng hóa :Là kiểu tổ chức kinh tế- xã hội mà trong đó sản phẩm
sản xuất ra để bán, để trao đổi trên thị trường".

+Thị trường :Trong nền sản xuất, mọi sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đều
được mua bán trên thị trường. Thị trường là một tập hợp tất yếu và hữu cơ của
toàn bộ quá trình sản xuất và lưu thông hành hóa. Nó ra đời và phát triển cùng
với sự ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa.
- Thị trường gắn liền với địa điểm nhất định, trên đó diễn ra những quá
trình trao đổi, mua bán hàng hóa.
- Sản xuất hàng hóa phát triển, lượng sản phẩm hàng hóa lưu thông trên
thị trường ngày càng dồi dào, phong phú, thị trường được mở rộng, khái niệm
thị trường được hiểu đầy đủ hơn. Đó là lĩnh vực trao đổi hàng hóa thông qua
tiền tệ làm vật môi giới.
- Ngày nay các nhà kinh tế học thống nhất với nhau khái niệm về thị
trường như sau :Thị trường là một quá trình mà trong đó người bán và người
mua tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và sản lượng.
+Cơ chế thi trường :là cơ chế tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hóa dưới sự
tác động khách quan của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó giải
quyết những vấn đề cơ bản của nền kinh tế.
Từ đó ta có khái niệm:" Nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản
của nó do thị trường quyết định, vận động theo cơ chế thị trường gọi là "nền
kinh tế thị trường"".
* Đặc điểm của nền KTTT.
12


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Có thể nói, KTTT là kinh tế hàng hóa phát triển ở giai đoạn cao. KTTT là
một loại hình mà trong đó, các mối quan hệ kinh tế giữa con người với con
người được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua- bán, trao
đổi hàng hóa- tiền tệ. Trong KTTT, các quan hệ hàng hóa- tiền tệ phát triển, mở
rộng, bao quát nhiều lĩnh vực, có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và

người tiêu dùng. Do nảy sinh và hoạt động một cách khách quan trong những
điều kiện lịch sử nhất định, KTTT phản ánh trình độ văn minh và sự phát triển
của xã hội, là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã
hội tiến lên. Tuy nhiên, KTTT cũng có những khuyết tật tự thân, đặc biệt là tính
tự phát mù quáng, sự cạnh tranh lạnh lùng, dẫn đến sự phá sản, thất nghiệp,
khủng hoảng chu kỳ...
KTTT trước hết là kinh tế hàng hóa, với đặc trưng phổ biến của nó là
người sản xuất làm ra sản phẩm với mục đích để bán, để trao đổi chứ không
phải để tự tiêu dùng, hay sản phẩm dư thừa ngẫu nhiên như trước.
KTTT là nền kinh tế có sự đa dạng về hình thức sở hữu, về thành phần
kinh tế, về hình thức phân phối.
KTTT được sử dụng như một công cụ, một phương tiện để phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kih tế phục vụ lợi ích của đa số nhân dân lao động
nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
KTTT là nguồn lực tổng hợp to lớn về nhiều mặt có khả năng đưa nền
kinh tế vượt qua khỏi thực trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hóa phát triển
kể cả trong điều kiện vốn, ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp.
KTTT luôn vận động, phát triển tái sinh, do đó để nâng cao hiệu lực quản
lý của Nhà nước, các chính sách kinh tế vĩ mô phải thường xuyên được bổ xung
hoàn thiện.
KTTT gắn liền với Nhà nước pháp quyền và Nhà nước sẽ quản lý chủ
yếu bằng pháp luật.
2.Kinh tế thi trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam.
a. Sự cần thiết khách quan phải phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở
Việt nam.
13


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688


Lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống của nhân loại đã và đang trải
qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất và phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất.
Đó là thời đại kinh tế tự nhiên, tự cung- tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hóa mà
giai đoan cao của nó được gọi là KTTT.
Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế- xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó
là phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ ban đầu là sử dụng những tặng vật
của tự nhiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào
tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con
người.
Kinh tế hàng hóa, bắt đầu bằng kinh tế hàng hóa đơn giản, ra đời từ khi
chế độ Cộng sản nguyên thủy tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự phân
công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau
về tư liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung- tự cấp sang kinh tế
hàng hóa là đánh dấu bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời
đại văn minh của nhân loại.
KTTT là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa và có những đặc
trưng cơ bản như: phát triển kinh tế hàng hóa, mở rộng thị trường, tự do kinh
doanh, tự do thương mại, tự định giá cả, đa dạng hóa sở hữu, phân phối do quan
hệ cung cầu... đó là cơ chế hỗn hợp "có sự điều tiết vĩ mô" của Nhà nước để
khắc phục những khuyết tật của nó.
Cho đến đầu những năm 90, về cơ bản, trong nền kinh tế nước ta, sản
xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên, hiện vật, tự cung- tự
cấp còn chiếm ưu thế. Xã hội Việt Nam, về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của
văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Việt Nam vẫn là
một nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Phát triển trở thành nhiệm vụ,
mục tiêu số một đối với toàn Đảng, toàn dân ta trong bước đường đi tới. Muốn
vậy phải phát triển kinh tế hàng hoá, phát triển nền KTTT, thực hiện công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
b.Một số đặc điểm chung của nền KTTT ở Việt Nam.

14


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung-quan
liêu- bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là nội dung, bản
chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế nước ta trong hiện nay và
tương lai. Nền KTTT và phát triển nền KTTT theo định hướng XHCN ở Việt
Nam có những đặc trưng cơ bản sau :
-Nền KTTT định hướng XHCN mà nước ta xây dựng là nền KTTT hiện
đại với tính chất xã hội hiện đại. Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong
tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta chuyển sang phát triển
kinh tế hàng hóa, KTTT, thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn KTTT hiện đại.
Bởi vậy, chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế
hàng hóa giản đơn và giai đoạn KTTT tự do mà đi thẳng vào phát triển KTTT
hiện đại. Mặt khác, thế giới vẫn đang nằm trong thời đại quá độ từ CNTB lên
CNXH, cho nên sự phát triển kinh tế- xã hội nước ta phải theo định hướng
XHCN là cần thiết khách quan và cũng là nội dung yêu cầu của sự phát triển rút
ngắn. Sự nghiệp "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh" vừa là
mục tiêu, vừa là nội dung, nhiệm vụ của việc phát triển KTTT định hướng
XHCN ở nước ta.
-Nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai
trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong một số lĩnh vực, một số khâu quan trọng
có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Nền kinh tế
hàng hóa, nền KTTT phải là một nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở
hữu. Nền KTTT mà chúng ta sẽ xây dựng là nền KTTT hiện đại, cho nên cần có
sự tham gia bởi "Bàn tay hữu hình" của nhà nước trong việc điều tiết, quản lý
nền kinh tế đó. Đồng thời, chính nó sẽ bảo đảm sự định hướng phát triển của

nền KTTT. Việc xây dựng kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo là sự khác biệt
có tính chất bản chất giữa KTTT định hướng XHCN với KTTT TBCN. Tính
định hướng XHCN của nền kinh tế ở nước ta đã quy định kinh tế Nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, bởi lẽ, mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương
ứng với nó. Kinh tế nhà nước tạo cơ sở cho chế độ xã hội mới- chế độ XHCN.
15


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

-Nhà nước quản lý nền KTTT theo định hướng XHCN ở nước ta là nhà
nước pháp quyền XHCN, là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Thành tố quan
trọng mang tính quyết định trong nền KTTT hiện đại là nhà nước tham gia vào
các quá trình kinh tế. Nhà nước ta là nhà nước "của dân, do dân và vì dân", nhà
nước công nông, nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sảnViệt Nam. Nó có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi
mới để bảo đảm giữ vững định hướng XHCN trong việc phát triển nền KTTT
hiện đại ở nước ta.
-Cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị
trường với sự tham gia quản lý, điều tiết của Nhà nước. Mọi hoạt động sản xuấtkinh doanh trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị trường. Điều đó có
nghĩa là nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta vận động theo những quy luật
nội tại của nền KTTT nói chung, thị trường có vai trò quyết định đối với việc
phân phối các nguồn lực kinh tế. Việc quản lý Nhà nước nhằm hạn chế, khắc
phục những "thất bại của thị trường", thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo
mà bản thân thị trường không thể làm được.Vai trò quản lý của Nhà nước trong
nền KTTT hết sức quan trọng. Sự quản lý của Nhà nước bảo đảm cho nền kinh
tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả, đặc biệt là bảo đảm sự công bằng và tiến
bộ xã hội. Không có ai ngoài nhà nước có thể giảm bớt được sự chênh lệch giữa
giàu- nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp,
giữa các vùng của đất nước. Tuy vậy, sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế

phải phù hợp với thị trường.
-Mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, trên cơ
sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là nội dung quan
trọng của nền KTTT ở nước ta. Quá trình phát triển của KTTT đi liền với xã hội
hóa nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hóa trên cơ sở phát triển của KTTT là
không có biên giới quốc gia về phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng
quan trọng của KTTT hiện đại là việc mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài.
Xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế với những khu vực hóa và toàn cầu hóa
đang ngày càng phát triển và trở thành xu thế tất yếu trong thời đại của cuộc
16


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

cách mạng khoa học- công nghệ hiện nay. Tranh thủ thuận lợi và cơ hội, tránh
nguy cơ tụt hậu xa hơn và vượt qua thách thức là yêu cầu nhất thiết phải thực
hiện. Để phát triển trong điều kiện của KTTT hiện đại, Việt Nam không thể
đóng cửa, khép kín nền kinh tế trong trạng thái tự cung- tự cấp mà phải mở của,
hội nhập với nền kinh tế thế giới trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không
ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia.
-Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời với việc bảo đảm công bằng xã
hội cũng là một nội dung rất quan trọng trong nền KTTT ở nước ta. Phát triển
trong công bằng được hiểu là những chính sách phát triển phải bảo đảm sự công
bằng xã hội, là tạo cho mọi tầng lớp nhân dân đều có thể tham gia vào quá trình
phát triển va được hưởng những thành quả tương xứng với sức lực, khả năng và
trí tuệ họ bỏ ra, là giảm bớt chênh lệch giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân cư
giữa các vùng. Khác với nhiều nước, chúng ta phát triển KTTT nhưng chủ
trương bảo đảm công bằng xã hội, thực hiện sự thống nhất giữa tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội, trong tất cả các giai đoạn của sự phát triển kinh tế ở

nước ta. Mức độ bảo đảm công bằng xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển,
khả năng và sức mạnh kinh tế của quốc gia.
Đại hội IX khẳng định :"Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất
quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN,
đó là nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN"
Chủ trương xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN thể
hiện tư duy, quan niệm của đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đó là mô hình kinh tế tổng quát
của nước ta trong thời kì quá độ lên CNXH.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đại hội IX Đảng ta một lần nữa
khẳng định "Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi
mới đã chứng minh tính đúng đắn của cương lĩnh được thông qua tại đại hội VII
của Đảng đồng thời giúp đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về con đường đi
17


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

lên CNXH ở nước ta. Chúng ta một lần nữa khẳng định: Cương lĩnh là ngọn cờ
chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam từng bước quá độ
lên CNXH định hướng cho mọi hoạt động của Đảng Cộng sản Việt nam hiện
nay và trong những thập kỉ tới.Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất
nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh".
3. Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình chuyển sang KTTT ở Việt
Nam.
a. Mâu thuẫn giữa phát triển KTTT và mục tiêu xây dựng con người
XHCN.
Trong công cuộc xây dựng XHCN, yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ

quan trọng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải
vật chất và văn hóa. Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất,
phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lựu của sự nghiệp xây
dựng xã hội mới, là mục tiêu của CNXH.Từ một nước nông nghiệp, lạc hậu đi
lên CNXH, chúng ta phải bắt đầu từ con người, lấy con người làm điểm xuất
phát. Một trong những điều kiện đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng con
người trong giai đoạn hiện nay là đời sống sinh hoạt vật chất. Nhưng nhu cầu về
vật chất và tinh thần phong phú của con người chỉ có thể được thỏa mãn trong
một nền kinh tế vững vàng, ổn định, phát triển cao, có tốc độ tăng trưởng nhanh.
Việc tiến hành sự nghiệp trồng người hôm nay gắn bó một cách chặt chẽ với
quá trình mở rộng, hoàn thiện KTTT kết hợp với mở cửa giao lưu quốc tế. Đại
hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định : "Giáo dục- đào tạo là quốc sách hàng đầu,
phát triển giáo dục- đào tạo là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con
người- yếu tố cở bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững".
KTTT là một loại hình kinh tế mà trong đó các mối quan hệ kinh tế giữa
con người với con người được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua
việc mua- bán, trao đổi hàng hóa- tiền tệ. Trong KTTT, các quan hệ hàng hóa18


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

tiền tệ phát triển, mở rộng, bao quát trên nhiều lĩnh vực, có ý nghĩa phổ biến đối
với người sản xuất và tiêu dùng. Do nảy sinh và hoạt động một cách khách quan
trong những điều kiện lịch sử nhất định, KTTT phản ánh trình độ văn minh, và
sự phát triển của xã hội, là nhân tố phát triển sức sản xuất , tăng trưởng kinh tế ,
thúc đẩy xã hội tiến lên.
Bên cạnh những tác động tích cực, KTTT cũng có nhiều khuyết tật, hạn
chế gây ra những tác động xấu. Việc quá đề cao lợi ích cá nhân, bất chấp lợi ích

tập thể và lợi ích xã hội là một nguy cơ lớn. Lợi nhuận kích thích sản xuất,
nhưng mặt khác, lợi nhuận cũng tự phát đẩy con người tới những hành vi phá
hoại môi trưòng sống và làm tha hóa đạo đức, nhân phẩm. Sự cạnh tranh trên
thương trường làm cho con người năng động hơn, sáng tạo hơn nhưng nhiều khi
cũng làm mất đi lòng nhân ái, vị tha, biến con người thành những cỗ máy chỉ
biết tính toán môt cách sòng phẳng, lạnh lùng, thiếu nhân tính. Quan hệ hàng
hóa - tiền tệ làm sống động thị trường nhưng cũng làm xói mòn nhân cách và hạ
thấp phẩm giá của con người. Ngoài ra đi kèm với KTTT là hàng loạt tệ nạn xã
hội để đưa đến những rối loạn, khủng hoảng cho gia đình, hạt nhân , tế bào của
xã hội. Nạn cờ bạc, rượu chè, ma tuý, buôn lậu, hối lộ, tham nhũng… là những
căn bệnh trầm kha không dễ khắc phục trong KTTT.
Những phân tích trên đây cho thấy, KTTT và mục tiêu xây dựng con
người XHCN là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay.
Đây chính là hai mặt đối lập của một mâu thuẫn xã hội. Giữa KTTT và quá
trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất, vừa có sự đấu tranh. KTTT vừa
tạo ra những điều kiện để xây dựng, phát huy nguồn lực con người, vừa tạo ra
những độc tố đầu độc, hủy hoại con người.
Việc giải quyết những mâu thuẫn trên đây là việc làm không đơn giản.
Đối với nước ta, mâu thuẫn giữa KTTT và quá trình xây dựng con người được
giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN. Đại hội Đảng IX cũng xác định: ''Xây dựng đội ngũ cán bộ,
trước hết can bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp vững vàng về chính trị, gương

19


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt
động thực tiễn, gắn bó với nhân dân''.

b. Mâu thuẫn giữa phát triển KTTT và định hướng XHCN .
Một trong những luận điểm rất quan trọng phản ánh tư duy mới của Đảng
được thể hiện trong văng kiện Đại hội Đảng VI là :''Chính sách cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần". Từ đó, Đảng đã từng bước xác định chủ trương xây dựng ở
nước ta một nền KTTT theo đinh hướng XHCN. Trải qua thực tiễn đổi mới,
chính sách, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của Nhà nước, theo đinh hướng XHCN đã đưa lại hiệu quả, góp phần
lớn vào sự thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
KTTT trước hết là kinh tế hàng hóa với đặc trưng phổ biến của nó là
những người sản xuất làm ra sản phẩm với mục đích để bán (để trao đổi), chứ
không phải để tự tiêu dùng, hay sản phẩm dư thừa ngẫu nhiên như trước. Ngày
nay, khi KTTT hiện đại đã phát triển một cách phổ biến thì đặc trưng căn bản
đó không những không mất đi mà còn được bổ sung, làm phong phú thêm bởi
các hình thức và nội dung của quan hệ trao đổi và vai trò can thiệp của Nhà
nước vào quá trình đó.
Như vậy KTTT phát triển từ sơ khai đến hiện đại là một công trình sáng
tạo của loài người trong quá trình sản xuất và trao đổi, đó là trình độ văn minh
mà nhân loại đã đạt được. Do đó, mọi quan niệm cho rằng KTTT là phát minh
riêng của CNTB là không có căn cứ :việc đồng nhất KTTT với CNTB để rồi né
tránh, hoặc sử dụng nó như một công cụ tạm thời, hoặc coi việc áp dụng cơ chế
thị trường có nghĩa là mặc nhiên chấp nhận con đường TBCN… đều có thể dẫn
đến những sai lầm đáng tiếc. Ngay trong văn kiện Đại hội VIII, Đảng ta đã
khẳng định : "Sản xuất hàng hóa là thành tựu, văn minh của nhân loại", chúng ta
không chỉ kiên định "Không bỏ qua kinh tế hàng hóa" như văn kiện Đại hội VI
đã nêu, mà còn khẳng định KTTT còn tồn tại khách quan cho đến khi CNXH
được xây dựng. Trong dự thảo văn kiện Đại hội IX lại tiếp tục khẳng
định :"Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính

20



CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thi
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN".
c. Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.
Lợi ích là sự tồn tại hiện thực trong quan hệ giữa người với người trong
đời sống xã hội. Nó không phải là sản phẩm thuần túy của ý thức, mà là sản
phẩm của ý thức phản ánh những điều kiện khách quan- cái quyết định ý thức
và hành động của con người. Do đó, không thể tách lợi ích ra khỏi con người và
đời sống xã hội của con người.
Xã hội là một hệ thống lớn được tạo nên từ những cá nhân cụ thể. Nói
cách khác, do lợi ích và thông qua việc thực hiện lợi ích mà các cá nhân mới tập
hợp, liên kết lại với nhau, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, và do đó tạo thành
xã hội. Để có được sự tăng trưởng kinh tế, bất kỳ một chính sách kinh tế nào
cũng đều phải quan âm đến lợi ích cá nhân. Bất cứ ai bỏ vốn ra kinh doanh hay
học tập rèn luyện để có trình độ chuyên môn và nghề nghiệp cao mà chẳng
nhằm mục đích thu lợi cho cá nhân và thỏa mãn nhu cầu của cá nhân mình.
Trong điều kiện cơ chế thị trường, mỗi con người cụ thể có những nhu
cầu riêng, không ai giống ai, có thể phù hợp hay không phù hợp, phát triển
không theo hướng tích cực mà theo hướng tiêu cực, hướng chủ nghĩa cá nhân.
Từ đó xuất hiện mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Việc giải
quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội có vai trò và ý nghĩa
to lớn. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần tránh sai lầm khi
thấy sự thống nhất mà không thấy sự khác biệt giữa các mặt lợi ích hoặc chỉ
thấy sự khác biệt mà không thấy sự thống nhất giữa chúng. Sự phát triển xã hội
và lịch sử nói chung chỉ có thể diễn ra bình thường, lành mạnh, đi đúng quy
luật, khi mỗi cá nhân nhận thức tự giác về mối quan hệ cá nhận- xã hội xét trên
phương diện lợi ích. Trong các loại lợi ích, lợi ích riêng của cá nhân có vai trò
to lớn, vì nó đáng ứng nhu cầu hưởng thụ chính đáng của con người. Lợi ích cá

nhân mang tính chất trực tiếp, cụ thể còn lợi ích chung của tập thể, xã hội mang
tính gián tiếp. Do vậy, trong bất cứ thời đại nào, mỗi cá nhân bao giờ cũng hành
động vì lợi ích của bản thân mình. Chính vì vậy lợi ích cá nhân đóng vai trò là
21


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

cơ sở, động lực trực tiếp kích thích tính tích cực của con người. Còn lợi tập thể
và xã hội thể hiện vai trò, động lực của mình thông qua lợi ích của mỗi cá nhân.
Mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội chỉ có thể được thực hiện đúng
đắn khi quan hệ lợi ích cá nhân và xã hội được giải quyết một cách hài hòa. Đó
là quá trình mà lợi ích của cá nhân này không xâm phạm đến lợi ích của cá nhân
khác và của toàn xã hội.
Trong các xã hội có giai cấp bóc lột thống trị thì bất cứ giai cấp thống trị
nào cũng mưu toan vĩnh viễn hóa đặc quyền lợi ích của chúng cho nên cái gọi là
"lợi ích chung, lợi ích xã hội" thực chất là lợi ích của giai cấp thống trị. Tuyệt
đại đa số nhân dân lao động bị áp bức bóc lột, buộc phải phục vụ cho cái gọi là
''lợi ích chung'' đó. Dĩ nhiên, lợi ích cá nhân trong tình hình đó bị hạn chế, bị
chà đạp, thậm chí bị tước đoạt . Bởi vậy, không thể có cơ sở dung hòa mối quan
hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng.
Trong chế độ XHCN, chế độ nhân dân lao động làm chủ, mỗi cá nhân là
một thành viên của tập thể, giữ một vị trí nhất định, và do đó cũng đóng góp
một phần công lao vào thành tựu chung của toàn xã hội . Vì vây, dưới chế đọ
XHCN ''lợi ích chung của tập thể được đảm bảo thì lợi ích riêng của cá nhân
mới có điều kiện được thỏa mãn''.
Khi mà CNXH chưa được xây dựng một cách hoàn chỉnh thì giữa lợi ích
cá nhân và lợi ích chung nhiều khi vẫn còn nhiều mâu thuẫn, thậm chí xung
đột. Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nếu không giải quyết tốt sẽ
xảy ra bất công xã hội . Nếu gợi ích cá nhân bị vi phạm thì xã hội sẽ mất đi một

động lực của sự phát triển , ngược lại, nếu chỉ có cá nhân có lợi còn lợi ích xã
hội bị vi phạm thì nạn nhân của sự bất công lại là cộng đồng xã hội. Cả hai lợi
ích này lại thống nhất trong lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc. Nếu vì lý do nào đó
mà chúng bị tổn hại thì quốc gia dân tộc cũng bị ảnh hưởng trực tiếp mà sẽ thể
hiện rõ nhất của nó là khủng hoảng về lợi ích, về nhận thức của mỗi cá nhân và
cộng đồng, sẽ ảnh hưởng đến quá trình xây dựng nền kinh tế ở nước ta.
Sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong
tính thống nhất của nó là lợi ích quốc gia tất yếu sẽ dẫn đến sự đấu tranh chuyển
22


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

hóa giữa chúng. Phương thức của sự chuyên hóa mà chúng ta sẽ tác động vào
chính là phương pháp giải quyết mâu thuẫn .
Để giải quyết mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, về cơ bản
phải kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lơi ích xã hội , đồng thời phải
chống lại những biểu hiện tiêu cực của chủ nghĩa cá nhân. Trong việc đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân, chúng ta cần phân biệt rõ lợi ích cá nhân chính đáng
với chủ nghĩa cá nhân. Lợi ích cá nhân chính đáng là cái tích cực , là một động
lực của sự phát triển xã hội , vì nó không những không đi ngược lại lợi ích
chung mà nó còn là tiền đề để thực hiện lợi ích chung. Còn chủ nghĩa cá nhân là
cái tiêu cực vì nó là khuynh hướng, lối sống của những người đặt lợi ích cá
nhân, gia đình lên trên cả lợi ích tập thể, lợi ích xã hội .
Nhận thức đúng về lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội là trách nhiệm đạo
đức của mỗi con người trong xã hội hiện nay.
d. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất .
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN ở nước ta hiện nay, vấn đề LLSX- QHSX là một vấn đề hết sức

phức tạp được Đảng ta đặc biệt quan tâm. LLSX và QHSX là hai mặt của
phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện
chứng lẫn nhau hình thành quy luật phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người- quy
luật về sự phù hợp QHSX với tính chất và trình độ của LLSX. Quy luật này
vạch rõ sự phụ thuộc khách quan của QHSX vào trình độ phát triển của LLSX,
cũng như sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX trong quá trình sản xuất
và phát triển xã hội. Theo đó LLSX là nội dung của phương thức sản xuất còn
QHSX là hình thức xã hội của nó, LLSX quyết định QHSX.
Ở nước ta, giai đoạn đầu của thời kỳ qua độ, khi thành phần kinh tế
XHCN chưa chiếm vị trí độc tôn, khi các thành phần kinh tế khác có nhiều khả
năng góp phần làm cho sản xuất phát triển, thì một số yếu tố trong QHSX vượt
lên LLSX và hướng vào việc tạo ra cơ sở vật chất- kỹ thuật ban đầu. Ở đây, phải
kể đến yếu tố chủ quan của việc Đảng lãnh đạo, Nhà nước phát động tính tích
23


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

cực xã hội của quần chúng bằng những lợi ích vật chất và tinh thần yêu nước
vốn có của họ. Tuy nhiên, không thể cho rằng những yếu tố tiên tiến của QHSX
mãi là tiền đề thúc đẩy sự phù hợp giữa LLSX và QHSX, chúng chỉ tác động
tích cực trong một thời gian ngắn.
Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất ở nước ta là một vấn đề cần được
quan tâm. Sự lớn mạnh của LLSX tất yếu dẫn tới mâu thuẫn với chế độ sở hữu
tư nhân TBCN, mà mục tiêu của KTTT ở Việt Nam là phải dựa trên chế độ sở
hữu xã hội về tư liệu sản xuất, tức là sự làm chủ của người lao động đối với
những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Sở hữu xã hội cũng tức là sở hữu
Nhà nước, muốn vậy kinh tế Nhà nước phải phát triển mạnh để thâu tóm nền
kinh tế.
Quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, phân phối sản phẩm ở nước ta

còn nhiều bất cập. Tổ chức quản lý sản xuất là điều kiện thiết yếu cho sự phát
triển của sản xuất. Một nền sản xuất muốn phát triển không chỉ dựa trên những
cơ cấu tổ chức quản lý lỗi thời, chồng chéo. Ở nước ta hiện nay, qua quá trình
đổi mới đã xây dựng được một hệ thống chính sách mà bao quát ở tầm vĩ mô thì
nó đã giải quyết được những vấn đề chính của KTTT: định hướng XHCN, phát
triển thành phần kinh tế Nhà nước, tiến tới sở hữu toàn dân, bảo đảm sự công
bằng xã hội...
Trong quá trình xây dựng nền KTTT hiện nay ở Việt Nam, mâu thuẫn
giữa LLSX tiên tiến với QHSX lạc hậu kìm hãm nó diễn ra gay gắt- quyết liệt
và cần được giải quyết. Muốn giải quyết mâu thuẫn này, ta phải nhận biết được
nguyên nhân và kết quả của sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập đó mà ìm ra
phương thức thích hợp để tác động vào sự đấu tranh và chuyển hóa giữa chúng.
Mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX ở nước ta là mâu thuẫn giữa hai mặt đối
lập thống nhất trong phương thức sản xuất XHCN, việc giải quyết mâu thuẫn
này sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, dẫn đến việc chuyển hóa giữa chúng tạo nên
phương hức sản xuất mới :phương thức sản xuất Cộng sản chủ nghĩa.

24


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO NỀN KTTT Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Muốn giải quyết tốt các mâu thuẫn trong nền KTTT ở Việt nam hiện nay,
trước hết ta phải nắm được cơ sở lý luận của vấn đề, đây là những quan điểm,
chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, những vấn đề có tính tất yếu, quy
luật cần được vận dụng và giải quyết những vướng mắc trong thực tiễn cuộc
sống. Nhà nước ta là nhà nước XHCN, nhà nước của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân. Chúng ta tiến tới một xã hội có cơ sở toàn dân, sở hữu Nhà nước.

Muốn được vậy thì Nhà nước phải có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, tức là
Nhà nước phải nắm việc ''cầm lái'' con thuyền kinh tế . Để nền kinh tế nước ta
vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng
XHCN cần giải quyết những vấn đề cơ bản sau:
-Thực hiện tốt vai trò, chức năng quản lý của Nhà nước về kinh tế. Nhà
nước có chức năng cơ bản là tổ chức và xây dựng kinh tế vì vậy có chức năng
quản lý. Trong nền KTTT vai trò của Nhà nước ngày càng đặc biệt quan trọng.
Nhà nước cần tập trung vào việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính
sách tạo môi trường bình đẳng cho sự hoạt động của các thành phần kinh tế , tập
trung phát triển hệ thống giáo dục- đào tạo, phát triển tiềm lực khoa hoc- công
nghệ và xây dựng kết cấu hạ tầng, thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội,
bảo vệ môi trường.
-Phát triển hoàn thiện hệ thống tài chính, tiền tệ, tạo điều kiên cho sản
xuất hàng hóa, KTTT phát triển. Hệ thống và chính sách tài chính nước ta phải
tạo điều kiện huy động các nguồn lực trong xã hội để đầu tư phát triển làm tăng
tích lũy cả khu vực nhà nước và khu vực dân cư. Chính sách tài chính phải mở
ra các luồng bơm, hút vốn, điều hòa vốn đầu tư phù hợp trong từng thời kỳ.
Chính sách tài chính tích cực phảí có tác dụng hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng,
điều tiết sản xuất kinh doanh, điều tiết và phân phối thu nhập góp phần thực
hiện công bằng xã hội, đông thời kích thích sản xuất phát triển .
25


×