Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

TRUYỀN THÔNG và dư LUẬN xã hội VAI TRÒ của các PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG đại CHÚNG đối với VIỆC HÌNH THÀNH và THỂ HIỆN dư LUẬN xã hội TRONG CUỘC đấu TRANH CHỐNG THAM NHŨNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.35 KB, 33 trang )

TRUYỀN THÔNG VÀ DƯ LUẬN XÃ HỘI
I/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
Từ khi Việt Nam thi hành chính sách đổi mới tồn diện, báo chí đã thực sự
tham gia vào cuộc đấu tranh chống tiêu cực. Tất nhiên, diện tham gia chống tiêu cực
của báo chí ở Việt Nam khơng đồng đều và chống tham nhũng là một cuộc đấu tranh
lớn, khó khăn, phức tạp và bản thân sự phát triển đất nước đã cho thấy cuộc đấu tranh
ấy chỉ có thể trở nên mạnh mẽ, đạt kết quả cao khi toàn xã hội được huy động qua
con kênh công khai hàng đầu là báo chí.
Trong những năm gần đây, nhờ báo chí phản ánh mà khơng ít vụ tham nhũng
lớn được các cơ quan chức năng của Nhà nước xử lý và xử lý tương đối rốt ráo. Đảng
và Nhà nước đã sự cơng nhận vai trị của báo chí trong chống tham nhũng – vai trị
khơng thể thay thế được trong việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội, tạo nên sức
mạnh trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Và đến lượt mình, dư luận xã hội lại
có tác động rất lớn trong việc điều hòa các mối quan hệ xã hội, trong việc kiểm soát
xã hội cũng như việc uốn nắn các hành vi xã hội tạo hiệu quả cao cho cuộc đấu tranh
chống tham nhũng.
Làm rõ vai trị của các phương tiện truyền thơng đại chúng trong cuộc đấu
tranh chống tiêu cực – nhìn từ góc độ xã hội học truyền thông đại chúng – là một
hướng tiếp cận mới để có thể phân tích cơ chế tác động, sức mạnh của báo chí và rút
ra những bài học kinh nghiệm có ý nghĩa thực tiễn trong hoạt động báo chí cũng như
trong cơng tác tư tưởng và trong công cuộc xây dựng và phát triển hơm nay
II/ VAI TRỊ CỦA CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THƠNG ĐẠI
CHÚNG ĐỐI VỚI VIỆC HÌNH THÀNH VÀ THỂ HIỆN DƯ LUẬN XÃ HỘI
TRONG CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG
II.1/ PGS. TS Mai Quỳnh Nam, trong một cơng trình nghiên cứu đã giới thiệu
“cách hiểu phổ biến nhất” về truyền thông: “Đó là hoạt động chuyển tải và chia sẻ
thơng tin. Q trình này diễn ra liên tục, trong đó tri thức, tình cảm và kỹ năng liên
1


kết với nhau. Đây là một quá trình phức tạp qua nhiều khâu. Các khâu này chuyển đổi


tương đối linh hoạt để hướng tới sự thay đổi nhận thức và hành vi của các cá nhân và
các nhóm”.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự ra đời của phương tiện truyền
thơng hiện đại là sự hình thành hệ thống các kênh thông tin đại chúng như một thiết
chế xã hội quan trọng của xã hội hiện đại. Truyền thông đại chúng (mass media) ngày
nay được hiểu như là tồn bộ những kỹ thuật lan truyền thơng tin tới những nhóm xã
hội lớn, mà chủ yếu bằng báo in, điện ảnh, phát thanh, truyền hình, internet hoặc các
phương tiện khác như sách, áp phích…
Vai trị và chức năng của truyền thông đại chúng trong đời sống xã hội đã được
chứng minh từ lâu. Thế nhưng, dưới cái nhìn của xã hội học, cơ chế tác động qua lại
giữa truyền thơng đại chúng và dư luận xã hội có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt trong
việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội.
Dư luận xã hội – theo góc độ xã hội học – là sự thể hiện tâm trạng xã hội, phản
ánh sự đánh giá của các nhóm xã hội lớn, của cơng chúng nói chung về các hiện
tượng, sự kiện xã hội, đại diện cho lợi ích của các nhóm xã hội mà những lợi ích này
có tính cấp thiết trên cơ sở các quan hệ xã hội đang tồn tại.
Dư luận xã hội là cầu nối giữa ý thức xã hội và hành động xã hội. Vì vậy, với
việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội, các phương tiện truyền thông mới có thể
làm tốt chức năng “tổ chức tập thể, cổ động tập thể”, mới góp phần tạo nên động lực
tinh thần, tạo nên sức mạnh cho các hành động xã hội.
II.2/ Khác với truyền thông liên cá nhân, với truyền thông đại chúng, thông tin
từ hệ thống này được truyền đến số đơng cơng chúng một cách nhanh chóng (có khi
đồng thời với sự kiện, hiện tượng), đều đặn và gián tiếp. Hệ thống truyền thông đại
chúng vừa phải hướng tới các đối tượng cơng chúng nói chung và các nhóm cơng
chúng cụ thể. Hoạt động hệ thống truyền thơng đại chúng ln chịu sự tác động từ hai
phía: Phía thứ nhất: là các thiết chế xã hội mà phương tiện đó là cơng cụ (như các tờ
báo của các tổ chức chính trị, xã hội). Và phía thứ hai là cơng chúng của báo chí.
2



Với đặc điểm này, việc hình thành hoặc thể hiện dư luận trên hệ thống truyền
thông đại chúng trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng cũng gặp những hệ lụy. Ví
dụ: Báo chí chống tiêu cực, tham nhũng sẽ tạo sức ép lên những cơ quan, đơn vị, cá
nhân có hiện tượng tham nhũng, thậm chí đụng đến những người có chức, có quyền.
Rất nhiều trường hợp khi tổ chức, cá nhân có tiêu cực, tham nhũng bị báo chí phanh
phui do sợ dư luận xã hội và sợ pháp luật “rờ” tới mình nên họ tìm cách để tác động
đến các cơ quan quản lý cấp trên, cá nhân lãnh đạo cấp trên của cơ quan báo chí để
tạo sức ép hoặc tác động theo hướng ngăn cấm báo chí chống tiêu cực, tham nhũng.
Nhưng ngược lại, việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội trong quá trình
đấu tranh chống tham nhũng thường xuất phát từ nhu cầu của cơng chúng báo chí –
truyền thơng. Nếu khơng có sự phát hiện và “áp lực” từ phía cơng chúng báo chí thì
những vụ tiêu cực nổi cộm như Epco Minh Phụng, Vũ Xuân Trường, Năm Cam,
Thuỷ cung Thăng Long, Lã Thị Kim Oanh… khó được đưa lên cơng luận và cũng từ
sức mạnh của dư luận nó đã đi đến việc xử lý triệt để.
Sự tác động của các nhóm cơng chúng đến các phương tiện truyền thơng đại
chúng hết sức khác nhau, do những khác biệt về địa vị xã hội, quyền lợi giai cấp, về
các nhân tố tâm lý và về cường độ giao tiếp với các phương tiện truyền thông đại
chúng. Một người nông dân khơng thể có cơ hội đọc báo nhiều như một cơng chức.
Một người dân miền núi sẽ khó có điều kiện bắt được nhiều kênh truyền hình như
một người ở các thành phố trung tâm. Một học sinh ở nông thơn sẽ khó có cơ hội tiếp
cận internet tốt hơn một sinh viên ở thành phố. Nhu cầu nắm bắt thơng tin của các
nhóm cơng chúng, các nhóm xã hội khác nhau là rất khác nhau. Một vụ tham nhũng ở
một cơng ty cụ thể nào đó của một tỉnh cụ thể nào đó sẽ thu hút sự quan tâm cao của
chính cơng nhân của cơng ty đó, người dân của tỉnh đó hơn là một người dân bình
thường ở tỉnh khác. Và tất nhiên, sự khác biệt ấy xuất phát từ mối quan tâm khác
nhau giũa họ – những nhóm cơng chúng khác nhau. Tuy nhiên, tham nhũng ảnh
hưởng đến sự tồn vong của đất nước, tham nhũng ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi
của người dân và cán bộ, cơng chức lương thiện, trong sạch. Vì lẽ đó, có một điểm
chung trong đại đa số cơng chúng thuộc nhiều nhóm xã hội khác nhau là ln muốn
3



được thông tin về các vụ tham nhũng và muốn cung cấp thông tin, nhập cuộc vào đấu
tranh chống tham nhũng trên báo chí, góp phần tạo ra dư luận xã hội.
Mối quan hệ giữa báo chí và cơng chúng trong quá trình hình thành và thể hiện
dư luận xã hội mang tính chất biện chứng. Một mặt các phương tiện truyền thông đại
chúng nhằm thỏa mãn tối đa những nhu cầu ngày càng tăng của công chúng. Mặt
khác, bản thân công chúng lại đặt ra các yêu cầu mới đối với hoạt động của hệ thống
này. Sự trưởng thành trong mối quan hệ ấy thể hiện tính tích cực chính trị xã hội của
bản thân hệ thống báo chí và của cơng chúng báo chí.
Khơng có thực tiễn phong phú, đa dạng; khơng có địi hỏi bức thiết của đời
sống, truyền thơng đại chúng khó có sự đổi mới, tìm tịi để tăng cường chất và lượng
thơng tin. Và ngược lại, từ sự nỗ lực của các phương tiện truyền thông đại chúng,
cường độ dư luận xã hội, sự định hướng dư luận xã hội được tăng cường và tạo ra
những hiệu quả xã hội nhất định.
Quan sát quá trình đấu tranh chống tham nhũng trên báo chí những năm qua,
có thể thấy sự nỗ lực của các phương tiện truyền thơng đại chúng trong việc hình
thành và thể hiện dư luận xã hội. Ví dụ: Trong 10 vụ tham nhũng điển hình nêu ra sau
đây, nếu khơng có sự lên tiếng của hàng loạt cơ quan báo chí, nếu khơng có các diễn
đàn để người dân, cán bộ – cơng chức cùng tham gia đóng góp ý kiến, khó có thể
phanh phui ra được vì tính chất phức tạp của nó. Cơng chúng báo chí nước ta dễ dàng
nhớ rất rõ 10 vụ tham nhũng đó vì nó gắn liền với một tâm trạng xã hội chung: coi
tham nhũng là một quốc nạn làm ảnh hưởng đến sự tồn vong của đất nước:
1. Vụ mua bán lòng vòng 4.000 tấn thép đường dây 500 kV, chiếm đoạt hơn 3
tỷ đồng. Hậu quả là bộ trưởng năng lượng bị phạt 3 năm tù, 1 thứ trưởng, 2 phó tổng
giám đốc, 2 phó chánh giám đốc… vào trại giam.
2. Vụ cố ý làm trái, tham ô tại Công ty dệt Nam Định, gây thiệt hại hàng chục
tỷ đồng. 23 người bị truy tố, trong đó có 2 tổng giám đốc, 1 kế toán trưởng.
3. Vụ cố ý làm trái, tham ô 14 tỷ đồng trong dự án xây dựng khách sạn Bàn Cờ
tại số 86 Nguyễn Thái Học, Hà Nội. Phó chủ tịch UBND quận 3 (TP HCM) cùng

giám đốc Cơng ty Vật tư quận 3 và kế tốn trưởng khách sạn Bàn Cờ… đã lợi dụng

4


sự lỏng lẻo của cơ quan để rút tiền thông qua việc chi tiêu mua sắm vật tư xây dựng
khách sạn Bàn Cờ.
4. Vụ đưa và nhận hối lộ, vi phạm các quy định về quản lý và sử dụng đất đai,
cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng… của
Phạm Huy Phước (giám đốc Công ty Tamexco và các đối tượng liên quan. Tổng số
tiền bị thất thoát gần 100 tỷ đồng.
5. Vụ tham ô tài sản nhà nước của một số cán bộ thuộc trạm kiểm soát liên hợp
Đồng Bành, Lạng Sơn, do Lưu Văn Nhịp là trạm trưởng. 24 bị cáo được đưa ra xét
xử, trong đó có cục phó cục thuế Lạng Sơn.
6. Vụ lập quỹ trái phép, tham ô tại Công ty ắc quy Vĩnh Phúc gây thiệt hại gần
17 tỷ đồng.
7. Vụ tham ô, cố ý làm trái do Lã Thị Kim Oanh (giám đốc Công ty Tiếp thị
đầu tư thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nơng thơn) chủ mưu, làm thất thốt hơn
100

tỷ

đồng.

Cùng

bị

phạt




với

Kim Oanh là 2 nguyên thứ trưởng, 2 nguyên vụ trưởng của Bộ Nông nghiệp và phát
triển nông thôn.
8. Vụ cố ý làm trái, tham ơ tại Xí nghiệp xây dựng cơng trình giao thơng, thuộc
Cơng ty vật tư vận tải và xây dựng cơng trình giao thơng, Bộ Giao thơng vận tải.
Bằng thủ đoạn lập chứng từ thanh quyết toán khống, họ đã gây thiệt hại 26 tỷ đồng,
trong đó tham ô 15 tỷ.
9. Vụ tham ô trong thi công 8 cơng trình tại tỉnh Thanh Hố, Nghệ An do Phạm
Đức Tạo (phó giám đốc xí nghiệp xây dựng số 2, thuộc Công ty xây dựng công
nghiệp số 1) tổ chức.
10. Vụ cán bộ xã Thuận Hưng, huyện Thốt Nốt, Cần Thơ, lập hồ sơ quyết tốn
khống cơng trình điện, làm đường giao thông nông thôn… để tham ô gần 3 tỷ đồng
và 340 chỉ vàng.
Theo thống kê, trong những năm từ 1993-2004, cảnh sát kinh tế điều tra gần
177.000 vụ tội phạm và vi phạm về kinh tế, trong đó gần 10.000 vụ tham nhũng, gây
thiệt hại hơn 7.500 tỷ đồng. Có gần 30% trong số vụ việc này được báo chí phanh
phui và tạo dư luận yêu cầu xử lý nghiêm túc.
5


Dư luận xã hội được hình thành dưới sự tác động của các phương tiện truyền
thông đại chúng thông qua các kênh thuộc hệ thống này và bằng con đường giao tiếp,
bằng hoạt động thảo luận trao đổi về nội dung các thông tin mà công chúng tiếp thu
được để hình thành nên dư luận xã hội. Giao tiếp là một dạng cơ bản của con người,
để thực hiện các mối liên hệ xã hội. Các quan hệ xã hội được hình thành từ đó. Mối
liên hệ này càng được củng cố thì dư luận xã hội càng trở nên chín chắn.
Câu chuyện lịng hồ Trị An (Đồng Nai) được bắt đầu từ những bức xúc của

người dân trong khu vực khi họ bị cán bộ đuổi đi và sau đó giành đất để san ủi, lấp
thêm lịng hồ và biến thành trang trại. Những người dân thấp cổ bé miệng này không
dám lên tiếng ngay, nhưng khi ngày càng có nhiều cán bộ cấp huyện, cấp tỉnh tiếp tục
lấn chiếm đất lòng hồ, họ bắt đầu viết đơn nặc danh để phản ánh từ năm 1998. Những
cán bộ thủy sản, những cán bộ nhà máy thủy điện Trị An cũng bắt đầu nhận thấy phải
chính thức kiến nghị. Và những bài báo đầu tiên của báo chí địa phương (cụ thể là
báo Đồng Nai và Đài phát thanh – truyền hình Đồng Nai) đã được nhân dân chuyền
tay nhau đọc, chuyền băng nhau xem như một sự đồng tình cao. Tuy nhiên, báo đài
Đồng Nai lại bị chỉ đạo phải ngưng ngay vụ phản ánh về lòng hồ Trị An. Người dân
khi được sự hưởng ứng của báo đài địa phương thì cảm thấy có sức mạnh của cơng
luận, có sức mạnh của dư luận nên quyết tâm đấu tranh. Vụ việc tiếp tục được Đài
Truyền hình Việt Nam, báo điện tử Vietnamnet và nhiều tờ báo ở thành phố Hồ Chí
Minh đã vào cuộc. Cường độ dư luận dâng cao hơn. Người dân nói chung, độc giả,
khán giả nói riêng bình luận cho nhau nghe về hình thức tham nhũng của các cán bộ
Đồng Nai từ tỉnh đến huyện. Trước áp lực của dư luận, UBND tỉnh Đồng Nai phải
thành lập đoàn thanh tra. Tuy nhiên, kết luận thanh tra khơng làm vừa lịng những
người dân. Và một lần nữa, báo chí lại vào cuộc. Báo điện tử Vietnamnet và báo Tuổi
trẻ online có sáng kiến “mời độc giả của mình góp ý kiến về việc giải quyết hậu quả
vụ lấn chiếm lòng hồ Trị An”, thế là hàng trăm ý kiến từ các nơi trên thế giới, trong
đó có kiều bào, du học sinh, và những người nước ngồi, góp ý. Lại một lần nữa, vụ
“xẻ thịt lòng hồ Trị An” được dư luận quan tâm bằng sự thể hiện dư luận trên báo chí
với phạm vi rộng hơn, cường độ lớn hơn. Thủ tướng Phan Văn Khải đã trực tiếp chỉ
đạo cho Thanh tra chính phủ vào cuộc. Đến nay, vụ việc dù chưa giải quyết ổn thoả
6


nhưng Thanh tra đã có kết luận và một số cán bộ đã phải nhận kỷ luật. Kết luận của
Thanh tra Chính phủ: “Lịng hồ Trị An đang bị lấn chiếm bởi 43 trường hợp xây dựng
chuồng trại nuôi lợn với tổng diện tích 10.576m2. Từ lâu, tất cả chất thải từ các
chuồng trại này đều trực tiếp xả ra hồ mà chưa có trường hợp nào bị chính quyền địa

phương xử lý. Hàng loạt các bờ đập đã được kiên cố hóa tạo thành những ao lớn, nhỏ
trong lịng hồ. Chiều dài các bờ đập từ 30m đến 600m. Có chân đập rộng tới 40m,
mặt bờ đập rộng phổ biến từ 8 – 12m.
Đoàn thanh tra cho biết trong số 234 trường hợp vi phạm hơn 577ha diện tích
mặt nước hồ Trị An có 27 cán bộ, viên chức và 2 tập thể cơ quan nhà nước vi phạm
với diện tích hơn 260ha. Đặc biệt, có 6 cán bộ cấp tỉnh, trong đó có 3 cán bộ là
Thường vụ Tỉnh ủy Đồng Nai đương nhiệm. Số cán bộ vi phạm ở cấp thấp hơn bao
gồm 11 cán bộ chủ chốt của huyện, xã (chưa kể 6 cán bộ đã nghỉ hưu), gồm Bí thư,
Phó bí thư Huyện ủy, ngun Chủ tịch UBND huyện (nay là Chủ tịch HĐND huyện);
Trưởng và Phó trưởng Cơng an huyện, Cơng an kinh tế huyện. Hai cán bộ xã đương
nhiệm vi phạm là Chủ tịch HĐND xã và Chi hội trưởng Hội Chữ thập đỏ xã.
Câu chuyện xà xẻo lòng hồ Trị An – một hồ nước nhân tạo phục vụ cho cơng
trình thủy điện được đánh giá là cơng trình thế kỷ của thập niên 80 trước đây với sự
hy sinh sức người sức của không sao kể xiết và với sự giúp đỡ lớn lao của Liên Xơ –
đã chạm vào tình cảm thiêng liêng của người dân cả nước và trên thế giới. Cuộc đấu
tranh chống tham nhũng xung quanh câu chuyện này vì thế đã tạo được sự quan tâm
của đại đa số công chúng. Không phải ngẫu nhiên mà hiện trên internet, số trang
web Việt Nam còn lưu bài viết về vụ việc này là 942 khi chúng tôi tìm kiếm. Cùng
với báo in, phát thanh, truyền hình từ địa phương đến Trung ương, báo điện tử (hoặc
báo trực tuyến) đã góp một phần khá lớn trong việc hình thành và thể h
iện dư luận xã hội qua một vụ việc chống tham nhũng tuy chưa phải là điển hình.
Nhưng với đặc trưng của mình, báo điện tử đã vươn dài phạm vi hình thành và thể
hiện dư luận, tạo ra hiệu quả truyền thơng lớn! Đây có thể coi là sự kiện báo chí
chống tham nhũng khá tiêu biểu cho việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội và
cũng là sự kiện báo chí “nổi đình đám” vào cuối năm 2004.

7


Cơ chế hình thành và thể hiện dư luận xã hội thông qua tác động của các

phương tiện truyền thông đại chúng phụ thuộc vào đặc thù của mỗi phương tiện
truyền thơng. Bên cạnh yếu tố loại hình báo chí, phạm vi tác động (vật lý) cịn có các
yếu tố về dân số – xã hội và địa lý được lấy làm cơ sở cho hoạt động xuất bản và phát
hành báo chí.
Và khơng chỉ có việc đấu trang chống tham nhũng, các phương tiện truyền
thông đại chúng hướng đến việc hình thành dư luận xã hội về tất cả các vấn đề trong
đời sống xã hội vì những mục đích nhất định. Hình thành dư luận xã hội và thể hiện
dư luận xã hội trên các phương tiện truyền thơng đại chúng cũng được hình thành
song song, có mối quan hệ hữu cơ lẫn nhau. Để thực hiện được vai trị đó, hệ thống
truyền thơng đại chúng cần phải:
– Làm tăng cường và phát triển dân chủ hóa trong các mặt của đời sống xã hội.
Tổ chức và động viên nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý xã hội.
Ví dụ: Trong cơng cuộc chống tham nhũng, các phương tiện truyền thơng có
một biện pháp kép để thực hiện chức năng giám sát. Nó khơng chỉ đưa tin (và điều
tra) các vụ tham nhũng để hỗ trợ các cơ quan và tổ chức chống tham nhũng mà còn
nâng cao nhận thức của quần chúng về tham nhũng, nguyên nhân, hậu quả và các giải
pháp xử lý tham nhũng.
Lâu nay ở Việt Nam, các phương tiện truyền thông trong hầu hết các trường
hợp, chỉ thông tin về các vụ tham nhũng đã được các ngành chức năng công bố.
Những trường hợp các phương tiện truyền thông phát hiện một cách độc lập và công
khai các vụ tham nhũng cũng có nhưng cịn ít, do đó chức năng giám sát chủ yếu của
phương tiện truyền thông là giúp đỡ các cơ quan và tổ chức chống tham nhũng khác,
kể cả thúc đẩy việc điều tra của các tổ chức có thẩm quyền, tăng cường tính hiệu quả
của các cơ quan nhà nước, góp phần hình thành dư luận về các hoạt động tham
nhũng, tạo áp lực thay đổi luật pháp và các qui định thuận lợi cho tham nhũng… Mặt
khác, các cơng cụ kỹ thuật, các thể loại báo chí hiện đại ngày nay đã cho phép người
dân cùng tham gia trên diễn đàn báo chí một cách dân chủ nếu Ban biên tập bản lĩnh
để tạo ra môi trường như thế. Ví dụ: các hình thức chính luận phát thanh – truyền
8



hình (tọa đàm trực tiếp) cho phép người khán, thính giả tham gia chương trình qua
điện thoại bày tỏ ý kiến của mình; các dạng chương trình diễn đàn trên báo trực
tuyến… Các thể loại phỏng vấn dư luận và đăng ý kiến phản hồi của người dân trên
báo in v.v… Tất nhiên, đây là những cơng cụ khó sử dụng địi hỏi bản lĩnh chính trị
và nghiệp vụ “cao tay” của Ban biên tập.
– Thông tin cho nhân dân về tình trạng của dư luận xã hội trên các vấn đề đang
tạo nên mối quan tâm chung của toàn thể xã hội, nhất là các vấn đề có tính chất cấp
thiết.
Chủ thể của các vụ tham nhũng thường là những người có chức vụ trong các
cơ quan quản lý kinh tế, doanh nghiệp nhà nước, nhưng những năm gần đây, nhiều
người tham nhũng khi đang giữ chức vụ rất cao trong cơ quan quản lý nhà nước. Đã
có những Ủy viên TW Đảng, Bộ trưởng, thứ trưởng, chủ tịch và phó chủ tịch tỉnh
cùng hàng trăm vụ trưởng, tổng giám đốc… đã bị xử lý hình sự. Hàng trăm cán bộ
trung, cao cấp liên quan tham nhũng, buôn lậu đã bị xử lý hành chính. Tất nhiên, với
những vụ việc tham nhũng, những người dân bình thường khó có cơ hội để biết được
nếu khơng có thơng tin từ các phương tiện truyền thơng đại chúng. Vì thế, q trình
thơng tin, q trình hình thành dư luận và tổ chức dư luận cũng là quá trình tạo ra
định hướng dư luận và tạo ra những tác động tích cực. Bản chất của sự hình thành dư
luận có sự tương tác giữa các nhóm xã hội lớn. Vì thế, thơng tin cho nhân dân về tình
trạng của dư luận xã hội trên các vấn đề đang tạo nên mối quan tâm chung của toàn
thể xã hội, đặc biệt là trong những vụ việc tham nhũng cụ thể sẽ tạo nên hiệu quả rất
cao.
– Tác động lên các thiết chế xã hội và đề xuất các phương án hành động.
Bên cạnh việc nêu lên các thông tin liên quan đến các vụ việc tham nhũng cũng
như hình thành và thể hiện dư luận, các cơ quan truyền thông đại chúng cần phải biết
kiến nghị, yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc. Ví dụ, vụ tiêu cực
của trọng tài bóng đá Việt Nam gần đây, nhiều tờ báo đã đưa ra các đề xuất chung
quanh việc làm trong sạch bóng đá Việt Nam rất hữu hiệu.
9



Một ví dụ khác: Báo chí góp phần đắc lực trong việc vạch trần những tập thể,
cá nhân có hành vi tham nhũng để toàn dân giám sát, đánh giá và lựa chọn trong các
cuộc bầu cử. Hoặc trong các phiên họp của Quốc hội, nhiều đại biểu đã lấy các bài
báo có nội dung chống tiêu cực, tham nhũng để chất vấn các Bộ trưởng và thành viên
của Chính phủ. Riêng năm ngối, Thủ tướng Chính phủ đã có 141 bút phê vào các bài
báo, Văn phịng Chính phủ đã làm 141 công văn gửi đi và nhận được gần một nửa số
lượng văn bản trả lời. Hầu hết các bài báo đó đều đúng sự thật, giúp Chính phủ có
thêm thơng tin để chỉ đạo xử lý. Gần đây, Thủ tướng Chính phủ thường xuyên nhắc
nh᦬t;br /> ??i thời hạn mà các cơ quan có trách nhiệm phải trả lời những vấn đề báo
chí đã nêu.
– Hình thành dư luận xã hội về một vấn đề nào đó nhằm thúc đẩy hoặc hạn chế
sự phát triển của thực tế đó.
Trong hội nghị tổng kết thực hiện cơng tác đấu tranh chống tham nhũng diễn ra
vào cuối năm 2004, báo cáo của Bộ Công an cho thấy, thiệt hại về vật chất do các vụ
tham nhũng gây ra tăng dần. Năm 1993 là gần 320 tỷ đồng, năm 2004 tăng hơn gấp
đôi, 712 tỷ đồng. Những năm 1990, thiệt hại trung bình 1 vụ khoảng 0,71 tỷ đồng.
Nhưng 10 năm sau con số thiệt hại này là 0,81 tỷ. Tham nhũng xảy ra phổ biến trong
lĩnh vực đầu tư, xây dựng cơ bản. Phần lớn các cơng trình đều xảy ra thất thốt 1020% tài sản do tham ơ, cố ý làm trái. Hiện tượng này xảy ra ở tất cả các khâu, từ lập
và chạy dự án, thiết kế, dự toán, duyệt kế hoạch cấp vốn, đấu thầu, tư vấn, giám sát,
nghiệm thu, quyết tốn cơng trình. Vì lẽ đó, nhiều dự án chất lượng xây dựng kém,
chưa nghiệm thu đã hư hỏng, xuống cấp. Trong đó có cơng trình trọng điểm
như đường liên cảng A5, một số hạng mục phục vụ SEA Games 22.
Thông qua việc tổ chức thông tin từ các phương tiện truyền thông đại chúng,
người dân đã bắt đầu hình thành dư luận về khả năng xảy ra tham nhũng ở những
ngành “nhạy cảm”. Từ một người nông dân khi tham gia ý kiến về xây dựng đường
giao thông nông thôn đến một công chức trong cơ quan hành chính sự nghiệp khi
đóng góp về việc xây dựng cơ bản ở đơn vị đều có thể “đề cao cảnh giác” để có cơ
chế phản vệ trước khả năng tiêu cực, tham nhũng có thể xảy ra.

10


– Xây dựng lòng tin, thế giới quan và ý thức quần chúng.
Đây là yêu cầu có ý nghĩa quan trọng của cơ quan truyền thơng đại chúng, bởi
vì hình thành và thể hiện dư luận xã hội không chỉ có những vụ việc tiêu cực mà phải
biết tạo ra dư luận xã hội về sự công minh của pháp luật, sự tồn tại của cái tốt, cái
đẹp, những giá trị nhân văn. Đó là 2 mặt xây và chống trong chức năng truyền thơng.
Ví dụ: Hiện nay, ở nơng thơn, tình trạng tham nhũng của cán bộ chính quyền
cơ sở diễn ra phức tạp. Nổi lên là tình trạng vi phạm các quy định về quản lý đất đai.
Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người lao động. Đây là nguyên
nhân dẫn đến khiếu kiện đông người vượt cấp, kéo dài và lây lan diện rộng. Hoặc một
lĩnh vực khác cũng xảy ra tham nhũng là hoạt động tư pháp. Trong các vụ án được
phanh phui, nhiều cán bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ngay tại các cơ quan trung ương
cũng có hành vi nhận hối lộ, thiếu tinh thần trách nhiệm, cố ý làm trái… với mục đích
bảo kê, tiếp tay cho hoạt động tội phạm. Việc nguyên viện phó VKSND Tối
cao Phạm Sĩ Chiến hầu tòa trong vụ án Năm Cam và đồng bọn là ví dụ. Thế nhưng
bên cạnh việc thông tin về những vụ việc tham nhũng như thế, báo chí cần phải xây
dựng lịng tin cho người dân về những cách giải quyết hợp luật, hợp tình của chính
quyền: kẻ sai trái phải bị trừng trị, người bị oan phải được mình oan, đền bù v.v…
-Điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong xã hội và làm tăng cường tính tích
cực chính trị của quần chúng.
Khi các phương tiện truyền thơng phân tích thủ đoạn của kẻ xấu và sự trừng
phạt dành cho họ, ví dụ như một kẻ rải đinh trên đường hay một luật sư lừa đảo, một
kẻ tham nhũng bị ra toà… sẽ làm cho những kẻ khác khơng cịn cơ hội hay phải chùn
tay trước khi làm điều xấu. Trong trường hợp này, người được lợi ích là những người
có thể bị hại nếu điều xấu xảy ra. Đó là ngoại tác tích cực, vì lợi ích này vượt ra ngồi
phạm vi những người trực tiếp mua báo. Khi báo chí phản ánh những trở ngại khơng
đáng có đối với doanh nghiệp sẽ góp phần làm cho mơi trường kinh doanh trở nên
thuận lợi hơn, nền kinh tế phát triển nhanh hơn. Người lao động, người tiêu dùng, và


11


nhà đầu tư đều có thể được lợi, tuy khơng phải ai trong họ cũng tham gia mua báo.
Đó là ngoại tác tích cực.
Khi các truyền thơng đại chúng biểu dương những nhân tố tích cực, thì sẽ hình
thành dư luận xã hội về những con người, những tấm gương, những hành vi được
biểu dương và điều đó sẽ góp phần làm tăng cường tính tích cực chính trị của quần
chúng.
Việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội trên các phương tiện truyền thơng
đại chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hình thành dư luận xã hội cũng là để thể
hiện dư luận xã hội và thể hiện dư luận xã hội nhằm tăng cường cường độ, phạm vi,
định hướng dư luận xã hội. Báo chí nói riêng, các phương tiện truyền thơng đại chúng
thời gian qua đã có nhiều cách thể hiện dư luận xã hội hết sức sáng tạo. Nhưng nhìn
chung, các hình thức thể hiện dư luận xã hội chủ yếu như sau:
1. Phản ánh trực tiếp: Bằng cách cho đăng phát các ý kiến của người đọc,
người nghe, xem hoặc các lời phát biểu của đại diện các tầng lớp công chúng trên các
trang báo hoặc trên sóng phát thanh và truyền hình.
Ví dụ: Trong 4 năm thực hiện luật thuế giá trị gia tăng, cơng an đã phát hiện
140

vụ

với

số

tiền




dấu

hiệu

vi

phạm hơn 400 tỷ đồng. Hầu hết các vụ việc đều có sự tiếp tay của cán bộ nhà nước.
Thủ đoạn phổ biến là lợi dụng chính sách khuyến khích xuất khẩu hàng hóa là nơng
sản, lâm sản… để lập chứng từ khống về việc thu mua, chế biến, vận chuyển hàng
hóa xuất khẩu, rồi móc nối với một số cán bộ hải quan lam thủ tục khống để được
hoàn thuế VAT. Khi những vụ việc như thế được phát hiện, các báo có thể lấy ý kiến
của những doanh nhân làm ăn chân chính, những nhà chun mơn, những cán bộ
ngân hàng uy tín để nêu lên thì hiệu quả dư luận xã hội về vụ việc này được người
dân bình thường đồng cảm rõ nét hơn.
Trong các trường hợp này không cần có lời bình của các ban biên tập. Các tác
giả tham gia vào các trang báo, các chương trình trên khơng phải là người trong các
tịa sọan, các ban biên tập. Ý kiến khách quan tạo ra hiệu quả dư luận xã hội tốt hơn.
Hình thức thể loại vox-pop (phỏng vấn dư luận) của báo chí phương Tây hiện đang
12


du nhập vào phát thanh – truyền hình Việt Nam là một ví dụ. Tất nhiên, nhìn hình
thức nó có vẻ khách quan, song việc chọn lọc các ý kiến, tỷ lệ các ý kiến trái ngược
nhau đều có “bàn tay đạo diễn” phía sau vì mục đích truyền thơng nhất định.
2. Cho in trên báo hoặc phát trên sóng phát thanh – truyền hình các bài phát
biểu của các nhà báo cộng tác với đại diện của các tầng lớp nhân dân hoặc các tổ
chức đoàn thể xã hội về một chủ đề nào đó, kèm theo lời bình luận của các cộng tác
viên hoặc ban biên tập.

Ví dụ, hiện nay, theo điều tra, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
đang là vấn đề nhức nhối hiện nay. Từ năm 2002 đến nay, chỉ 77% doanh nghiệp kinh
doanh có lãi hoặc hịa vốn. Cịn lại là thua lỗ, trong đó một số đã phá sản. “Căn bệnh”
này, theo chẩn đoán của cơ quan chức năng là do khi thực hiện các hợp đồng kinh tế
thường có sự móc nối giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân để
chuyển lợi nhuận vào túi tư nhân, ăn chia với nhau. Nếu lợi nhuận cao thì tư nhân
hưởng, thua thiệt nhà nước gánh. Do vậy, nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua
lỗ nhưng giám đốc lại giàu lên nhanh chóng. Nhiều người đã lợi dụng việc cổ phần
hóa để chuyển sở hữu nhà nước thơng qua việc định giá bất hợp lý trong mua bán cổ
phần, gây thiệt hại nghiêm trọng tài sản nhà nước. Thí dụ điển hình cho những tiêu
cực trên là chương trình 1 triệu tấn đường với tổng mức đầu tư 10.500 tỷ đồng, trong
quá trình đầu tư đã vi phạm quy chế đấu thầu, nhập thiết bị cũ, lạc hậu dẫn đến nợ
q hạn khơng có khả năng trả 10.000 tỷ đồng. Những vụ tham nhũng điển hình như
thế này cần có những ý kiến bình luận của các chuyên gia, các đại diện nơng dân
trồng mía chẳng hạn, các nhà đầu tư v.v… kèm theo các ý kiến phân tích, bình luận
của ban biên tập thì việc thể hiện dư luận xã hội trong đấu tranh chống tham nhũng về
vấn đề đó có sức nặng hơn…
3. Trên cơ sở nghiên cứu, tập hợp, phân tích các ý kiến về một vấn đề nào đó,
các nhà báo viết bài rồi cho in hoặc là phát trên sóng phát thanh truyền hình.
Ví dụ: Tham nhũng ở lĩnh vực tài chính xảy ra nhiều tại ngân hàng thương mại
quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần nhưng đây là vấn đề mà không phải
người bình thường nào cũng có thể hiểu ngay được do tính chất chun mơn của nó.
13


Nhà báo (người làm truyền thơng) có thể nghiên cứu, phân tích để thể hiện nó một
cách rõ ràng cho đối tượng mình thấy được. Chẳng hạn hình thức tham nhũng chủ
yếu là cán bộ ngân hàng được các doanh nghiệp móc nối, hối lộ nên đã cho vay trái
nguyên tắc, vượt quá khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Hoặc người của ngân
hàng thông đồng với người đi vay để nhận hồ sơ thế chấp không hợp lệ, hồ sơ giả…

Những việc làm trên làm thất thoạt cho nhà nước hàng nghìn tỷ đồng v.v… Những
thơng điệp này có thể kèm theo nhiều ý kiến đại diện của xu thế dư luận xã hội, đại
diện của các nhóm xã hội v.v…
Việc thể hiện dư luận xã hội trên các phương tiện truyền thơng đại chúng nói
chung và thể hiện dư luận xã hội trong công cuộc đấu tranh chống tham nhũng nói
riêng đều dựa trên u cầu: Thơng tin đưa ra công luận phải dẫn đến sự tranh luận
của quần chúng, nghĩa là các thơng tin đó trở thành điểm khởi đầu cho sự đánh giá
của dư luận xã hội đều có các tính chất sau:
– Nó phản ánh được lợi ích của xã hội.
– Nó có tính cấp bách
– Nó tạo nên sự tranh luận
Q trình hình thành dư luận xã hội có sự địi hỏi cao ở tính thống nhất rất
phức tạp của các đối tượng cơng chúng. Các yếu tố quan niệm chung về định hướng
giá trị, bề dày của kinh nghiệm chính trị, tính tích cực chính trị xã hội, trình độ học
vấn của cơng chúng là các nhân tố quan trọng để tập hợp các cá nhân vào dòng chảy
của các phương tiện truyền thông đại chúng, và qua hệ thống này thể hiện ý kiến của
cá nhân họ và của nhóm xã hội mà bản thân họ là một thành viên.
Sự trùng khớp càng cao giữa ý kiến của nhóm với ý kiến chung của xã hội là
nhân tố quan trọng để tạo nên mối liên kết xã hội nhằm đảm bảo tính chất bền vững
của dư luận xã hội.
Tính chất chân thực của nội dung thông tin được phát trên các phương tiện
truyền thơng đại chúng có ý nghĩa quyết định đối với việc hình thành dư luận xã hội.
Uy tín của nguồn tin cũng phụ thuộc nhiều nhất vào tính chân thực của thơng tin, vì
đây là nhân tố sẽ xác định thái độ của công chúng đối với chủ đề
14


mà các phương tiện thông tin đại chúng khơi gợi và đề xuất, từ đó mà tạo nên mối
liên hệ xã hội trên cơ sở những lợi ích chung để tiến hành thảo luận và đánh giá. Mức
độ chín muồi trong sự đánh giá của dư luận xã hội về một chủ đề nào đó sẽ là cơ sở

để tạo nên hành động xã hội của các nhóm dân cư, các tầng lớp xã hội. Điều đó có
nghĩa là dư luận xã hội được hình thành và trở nên bền vững không bởi các tác động
của phưong tiện truyền thông đại chúng sẽ được bộ lộ ra ở cả hai cấp độ: lời nói và
việc làm. Hiệu quả của dư luận xã hội sẽ được đo bằng sự ảnh hưởng trên cả hai cấp
độ đó.
Các giai đọan của sự hình thành dư luận xã hội dưới tác động của các phương
tiện truyền thông đại chúng diễn ra quan các bước sau.
– Công chúng làm quen với các vấn đề được các phương tiện truyền thơng gợi
ý hoặc đề xuất.
– Kích thích lợi ích xã hội về vấn đề đó. Hoạt động này thường được làm bằng
cách đăng bài của các chun gia am hiểu về lĩnh vực đó. Việc trình bày các quan
điểm khác nhau trong cách nhìn nhận, đánh giá sẽ tạo nên cơ sở cho việc tranh luận.
– Tiến hành tranh luận trên phạm vi đại chúng
Giai đọan làm quen với các vấn đề xã hội đang trở thành mối quan tâm chung
có ý nghĩa như là sự khởi đầu vì dù vấn đề có quan trọng đến đâu thì các phương tiện
thơng tin đại chúng cũng khơng thể hoạt động hiệu quả khi vấn đề đó khơng được các
cá nhân, các nhóm xã hội quan tâm.
Lợi ích xã hội là những nhân tố chi phối sâu sắc nhất đến sự hình thành dư luận
xã hội. Lợi ích các nhân thường nhạy bén nhất trong sự hình thành ý kiến cá nhân. Ý
kiến nhóm được coi là đơn vị đầu tiên hình thành nên chất của dư luận xã hội. Do đó,
con đường vận động từ ý kiến cá nhân qua ý kiến nhóm để hình thanh dư luận xã hội
là một quá trình biện chứng. Sự phát triển các tầng ý kiến này sẽ quy định cường độ
của dư luận xã hội về một hiện tượng xã hội nào đó.
Từ những cơ sở lý luận xã hội trên đây, có thể lý giải được q trình hình thành
dư luận xã hội trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng trên báo chí cũng xuất phát từ
cơ chế “kích thích lợi ích xã hội” của nhiều nhóm xã hội. Đứng trước một vụ tham
nhũng, bất cứ người nào cũng cảm thấy tổn thương, mất mát và cảm thấy bị ảnh
15



hưởng (gián tiếp hay trực tiếp). Bởi tham nhũng là “góp phần” làm nghèo đất nước, là
kéo lùi lịch sử, là nguy cơ của sự tồn vong cả dân tộc. Tất nhiên, trong những vụ việc
cụ thể, tác động hình thành dư luận xã hội trong từng nhóm xã hội cụ thể có khác
nhau. Lại ví dụ về vụ tiêu cực xà xèo lòng hồ Trị An, người dân địa phương cảm thấy
lợi ích trực tiếp của mình bị thiệt hại do việc nuôi heo, nuôi cá trên hồ ảnh hưởng đến
nguồn nước, hoặc mình bị mất đất mất nhà trong khi cán bộ thì có hàng chục hec-ta
đất để làm giàu, những người từng một thời cống hiến sức thanh xn trên cơng trình
thủy điện Trị An thì cảm thấy bị xúc phạm, những người dân phía Nam thì cảm thấy
hậu quả của vụ việc xa hơn như sản lượng điện của Trị An bị giảm. Và những người
dân bình thường yêu nước thì thấy vụ việc làm ảnh hưởng đến kỷ cương phép nươc
cần được nghiêm trị v.v… Khó có thể phân tích hết các lợi ích của cơng chúng truyền
thơng khi được tiếp cận và kích thích bởi những thông tin liên quan tới vụ việc này,
thế nhưng, tất cả có một điểm chung là đều thấy rõ đó là một sự sai trái, sự vi phạm,
sự thách thức pháp luật và dư luận xã hội nên đồng tình lên án. Quá trình lên án, tranh
luận từ truyền thông liên cá nhân đến truyền thông đại chúng đã góp phần hình thành
và thể hiện dư luận xã hội. Và đến lượt nó, dư luận xã hội về vụ việc này đã tác động
đến cơ quan chức năng, đến từng thành viên có liên quan, đến từng đối tượng truyền
thơng cụ thể để họ có những hành động cụ thể…
Sự hình thành dư luận xã hội diễn ra liên tục và chứa đầy các yếu tố tự phát.
Nhưng đây là một q trình có quy luật. Mặc dù sự phát triển của dư luận xã hội được
xác định bởi các quy luật khách quan, song để dư luận xã hội được hình thành có
định hướng thì phải có hoạt động điều khiển.
Trong một xã hội phát triển có định hướng thì quá trình hình thành dư luận xã
hội theo con đường tự phát tất yếu phải chịu tác động bởi sự điều hành có ý thức của
hoạt động quản lý và tổ chức xã hội.
Sự hình thành dư luận xã hội thông qua các phưong tiện thông tin đại chúng có
mối liên hệ ngược (feedback). Nghĩa là các phương tiện này không chỉ tạo nên dư
luận xã hội, mà đến lượt nó, dư luận xã hội cũng có tác động trở lại đến hoạt động
của hệ thống truyền thơng đại chúng. Vì trong lĩnh vực thơng tin đại chúng sự phân
chia giữa những người tham gia truyền thông (nguồn tin – chủ thể tác động) và người

16


nhận (khách thể tác động) là rất tương đối vì cả hai phía của tác động này đều là chủ
thể và khách thể của tác động thông tin một các một chiều.
III. KẾT LUẬN:
Với cơ chế hình thành và thể hiện dư luận xã hội, từ chức năng định hướng dư
luận cho tới tính chính xác, tính trung thực trong thông tin được đưa ra của các cơ
quan truyền thông đại chúng trong đấu tranh chống tiêu cực là những vấn đề hết sức
quan trọng. Từ thực tiễn truyền thông đại chúng mà cụ thể là báo chí ở Việt Nam
những

năm

gần

đây,



thể

khẳng

định

rằng,

báo


chí

đã

có những đóng góp hết sức quan trọng vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống
tiêu cực. Khơng có sự tham gia tích cực của báo chí thì kết quả đã không thể đạt được
như hiện nay, đành rằng kết quả ấy còn xa mới đáp ứng được yêu cầu của Đảng và
của nhân dân. Báo chí khơng chỉ tham gia phát hiện mà trong nhiều trường hợp cịn
góp phần thôi thúc các cơ quan phải khẩn trương giải quyết các vụ việc.
Hiệu quả của việc chống tiêu cực trên báo chí chính nhờ biết khai thác tốt cơ
chế “hình thành và thể hiện dư luận xã hội”.
Để thực hiện tốt vai trị của các phương tiện truyền thơng đại chúng trong cuộc
đấu tranh chống tham nhũng còn đòi hỏi một số vấn đề khác đang đặt ra như : báo chí
phải độc lập về tài chính (sự hỗ trợ tài chính của nhà nước dẫn đến việc đưa các tin
tức thuận lợi về chính phủ đương nhiệm và giảm bớt vai trị giám sát của phương tiện
truyền thơng (*); hoặc quyền tiếp cận thơng tin của báo chí cần được luật pháp bảo vệ
tốt hơn nữa. (Nhiều sự vụ liên quan đến các quan chức cao cấp, báo chí tự điều tra
nhưng những bài báo không được đăng, chỉ mang tính tham khảo nội bộ, được
chuyển lên lãnh đạo cao hơn để xem xét và xác minh chứ không công bố rộng rãi
trước công luận). Tuy nhiên, những vấn đề liên quan đến cơ chế sẽ dần được hoàn
thiện, bởi Đảng và Nhà nước luôn yêu cầu và tạo điều kiện cho các cơ quan truyền
thông đại chúng phải góp phần tích cực trong việc đấu tranh chống tham nhũng (**).
Vấn đề đặt ra hiện nay là nhiều vụ việc đấu tranh chống tham nhũng trên các phương
tiện truyền thơng đại chúng chưa tạo được hiệu quả cao vì chưa tạo được phạm vi và
cường độ dư luận xã hội lớn. Chính vì thế, việc nghiên cứu xã hội học truyền thông
đại chúng, đặc biệt là nghiên cứu dư luận xã hội làm cơ sở cho công tác truyền thông
17


nói chung và cơng tác đấu tranh chống tham nhũng trên báo chí cần được đặt ra nhiều

hơn nữa trong thời gian tới.
——————————————————–
(*) Tại Trung Quốc, nhiều cơ quan báo chí được cổ phần hóa. Nhà nước vẫn
giữ sở hữu chi phối đối với báo chí. Trung quốc chưa có loại hình báo chí tư nhân.
Tuy nhiên, do nhiều tờ báo được niêm yết trên thị trường chứng khoán, nên tư nhân
cũng được khuyến khích mua cổ phần, tức là tham gia sở hữu một phần đối với tờ
báo. Thậm chí, đối với truyền hình, tư nhân được phép đầu tư vào một kênh, nắm giữ
tối đa 49% cổ phiếu của kênh đó (chứ khơng phải là của tồn bộ đài truyền hình). Tư
nhân cũng có thể cộng tác với một số tờ báo để xuất bản các bài báo của riêng mình.
(**) Điều 95 của Dự thảo Luật Phịng, chống tham nhũng quy định vai trò và
trách nhiệm của báo chí trong việc đấu tranh phịng chống tham nhũng, nhằm nêu
cao vai trò của nhà báo và cơ quan báo chí trong đấu tranh chống tiêu cực, tham
nhũng. Dự thảo Luật phịng chống tham nhũng cũng thế chế hố chủ trương chính
sách của Nhà nước trong việc khuyến khích các cơ quan báo chí đưa tin phản ánh
các vụ việc tham nhũng và hoạt động phòng, chống tham nhũng của các cơ quan, tổ
chức. Đây sẽ là căn cứ pháp lý quan trọng giúp cho báo chí chống tham nhũng ngày
càng hiệu quả hơn.

Một số vấn đề về Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội
*
*

*

18


Nguyễn Bùi Khiêm

Về phương diện lý thuyết, truyền thông đại chúng là một trong những khái

niệm cơ bản, chiếm vị trí trung tâm, nền tảng trong hệ thống lý luận báo chí – truyền
thơng nói chúng.
Theo PGS TS Nguyễn Văn Dững, truyền thơng đại chúng, nhìn từ phương tiện
chuyền tải thông điệp , là hệ thống các kênh truyền thông hướng tác động vào đông
đảo công chúng xã hội để thơng tin và chia sẻ tư tưởng, tình cảm và kính nghiệm…
nhằm lơi kéo, thuyết phục, tập hợp và tổ chức đông đảo dân cư tham gia giải quyết
các vấn đề kinh tế - xã hội đã và đang đặt ra.[1]. Đối tượng tác động của truyền thông
đại chúng là đơng đảo cơng chúng. Đó là tính chất cơng khai.Tính chất này tiềm ẩn
một sức mạnh to lớn, kể cả sự bùng nổ xã hội. Cơng khai là nói cho nhiều người cùng
biết, cùng hiểu để thống nhất nhận thức, tiến tới thống nhất hành vi. Những sự kiện
và vấn đề được xã hội hóa thơng qua các phương tiện truyền thơng đại chúng liên
quan đến nhiều người, có mối quan hệ xã hội rộng lớn, được nhân dân quan tâm,
mong đợi và có khả năng xâm nhập, lan tỏa nhanh trong cộng đồng. Do đó, có thể nói
sự kiện hay thơng điệp xã hội hóa thơng quan các phương tiện truyền thông đại chúng
nhằm ưu tiên thỏa mãn nhu cầu, thị hiếu và lợi ích của đơng đảo cơng chúng và vì sự
phát triển chung.
Theo PGS. TS Mai Quỳnh Nam, truyền thông là hoạt động chuyển tải và chia
sẻ thơng tin. Q trình này diễn ra liên tục, trong đó tri thức, tình cảm và kỹ năng
liên kết với nhau. Đây là một quá trình phức tạp qua nhiều khâu. Các khâu này
chuyển đổi tương đối linh hoạt để hướng tới sự thay đổi nhận thức và hành vi của các
cá nhân và các nhóm. Theo Mr Nam, truyền thơng là một q trình liên tục, phức
tạp và nhiều khâu, trong đó tri thức, tình cảm và kỹ năng có mối liên kết chặt chẽ
với nhau. Ý này hình như có vẻ mới mẻ đúng khơng ạ.

19


Theo Mr Dững, truyền thông đại chúng bao gồm báo chí và các kênh truyền
thơng khác như sách, điện ảnh, các phương tiện nghe nhìn, pano, ap phich…; cịn Mr
Nam, các kênh thông tin đại chúng như một thiết chế xã hội quan trọng của xã hội

hiện đại. Truyền thông đại chúng được hiểu như là toàn bộ những kỹ thuật lan truyền
thơng tin tới những nhóm xã hội lớn, mà chủ yếu bằng báo in, điện ảnh, phát thanh,
truyền hình, internet hoặc các phương tiện khác như sách, áp phích…
Vai trị và chức năng của truyền thơng đại chúng trong đời sống xã hội đã
được chứng minh từ lâu. Từ phương diện xã hội học, cơ chế tác động qua lại giữa
truyền thông đại chúng và dư luận xã hội có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt trong
việc hình thànhvà thể hiện dư luận xã hội.
Dư luận xã hội – theo góc độ xã hội học – là sự thể hiện tâm trạng xã hội,
phản ánh sự đánh giá của các nhóm xã hội lớn, của cơng chúng nói chung về các
hiện tượng, sự kiện xã hội, đại diện cho lợi ích của các nhóm xã hội mà những lợi
ích này có tính cấp thiết trên cơ sở các quan hệ xã hội đang tồn tại. Dư luận xã hội là
cầu nối giữa ý thức xã hội và hành động xã hội. Vì vậy, với việc hình thành và thể
hiện dư luận xã hội, các phương tiện truyền thông mới có thể làm tốt chức năng “tổ
chức tập thể, cổ động tập thể” theo quan điểm của Mr Lenin, từ đó góp phần tạo nên
động lực tinh thần, tạo nên sức mạnh cho các hành động xã hội.
Với truyền thông đại chúng, thông tin từ hệ thống này được truyền đến số đơng
cơng chúng một cách nhanh chóng (có khi đồng thời với sự kiện, hiện tượng), đều
đặn và gián tiếp. Hệ thống truyền thông đại chúng vừa phải hướng tới các đối tượng
cơng chúng nói chung và các nhóm cơng chúng cụ thể. Hoạt động hệ thống truyền
thơng đại chúng ln chịu sự tác động từ hai phía: Phía thứ nhất: là các thiết chế xã
hội mà phương tiện đó là cơng cụ (như các tờ báo của các tổ chức chính trị, xã
hội); thứ hai, là cơng chúng của báo chí.
Sự tác động của các nhóm cơng chúng đến các phương tiện truyền thông đại
chúng hết sức khác nhau, do những khác biệt về địa vị xã hội, quyền lợi giai cấp, về
các nhân tố tâm lý và về cường độ giao tiếp với các phương tiện truyền thơng đại
chúng. Một người nơng dân khơng thể có cơ hội đọc báo nhiều như một công chức.
20


Một người dân miền núi sẽ khó có điều kiện bắt được nhiều kênh truyền hình như

một người ở các thành phố trung tâm. Một học sinh ở nông thôn sẽ khó có cơ hội tiếp
cận internet tốt hơn một sinh viên ở thành phố. Nhu cầu nắm bắt thông tin của các
nhóm cơng chúng, các nhóm xã hội khác nhau là rất khác nhau. Và tất nhiên, sự khác
biệt ấy xuất phát từ mối quan tâm khác nhau giũa họ – những nhóm cơng chúng khác
nhau. Mối quan hệ giữa báo chí và cơng chúng trong q trình hình thành và thể hiện
dư luận xã hội mang tính chất biện chứng. Một mặt, các phương tiện truyền thông đại
chúng thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của công chúng; mặt khác, bản thân công
chúng lại đặt ra các yêu cầu mới đối với hoạt động của hệ thống này. Sự trưởng thành
trong mối quan hệ ấy thể hiện tính tích cực chính trị xã hội của bản thân hệ thống báo
chí và của cơng chúng báo chí. Khơng có thực tiễn phong phú, đa dạng và khơng có
địi hỏi bức thiết của đời sống thì truyền thơng đại chúng khó có sự đổi mới, tìm tịi
để tăng cường chất và lượng thông tin. Ngược lại, từ sự nỗ lực của các phương tiện
truyền thông đại chúng, cường độ dư luận xã hội, sự định hướng dư luận xã hội được
tăng cường và tạo ra những hiệu quả xã hội nhất định.
Giao tiếp là một hoạt động cơ bản của con người để thực hiện nhu cầu liên hệ
xã hội. Các quan hệ xã hội được hình thành từ đó. Mối liên hệ này càng được củng cố
thì dư luận xã hội càng trở nên chín chắn. Dư luận xã hội được hình thành dưới sự tác
động của các phương tiện truyền thông đại chúng thông qua các kênh thuộc hệ thống
này và bằng con đường giao tiếp, bằng hoạt động thảo luận trao đổi về nội dung các
thông tin mà cơng chúng tiếp thu được để hình thành nên dư luận xã hội.

21


Cơ chế hình thành và thể hiện dư luận xã hội thông qua tác động của các
phương tiện truyền thông đại chúng phụ thuộc vào đặc thù của mỗi phương tiện
truyền thơng. Bên cạnh yếu tố loại hình báo chí, phạm vi tác động (vật lý) cịn có các
yếu tố về dân số – xã hội và địa lý được lấy làm cơ sở cho hoạt động xuất bản và phát
hành báo chí. Các phương tiện truyền thơng đại chúng hướng đến việc hình thành dư
luận xã hội về tất cả các vấn đề trong đời sống xã hội vì những mục đích nhất định.

Hình thành dư luận xã hội và thể hiện dư luận xã hội trên các phương tiện truyền
thơng đại chúng cũng được hình thành song song, có mối quan hệ hữu cơ lẫn nhau.
Để thực hiện được vai trị đó, hệ thống truyền thơng đại chúng cần phải:
- Tăng cường và phát triển dân chủ hóa trong các mặt của đời sống xã hội. Tổ
chức và động viên nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý xã hội.
- Thơng tin tới cơng chúng về tình trạng của dư luận xã hội trên các vấn đề
đang tạo nên mối quan tâm chung của toàn thể xã hội, nhất là các vấn đề có tính chất
cấp thiết.
- Tác động lên các thiết chế xã hội và đề xuất các phương án hành động.
- Làm hình thành dư luận xã hội về một vấn đề nào đó nhằm thúc đẩy hoặc hạn
chế sự phát
- Xây dựng lòng tin, thế giới quan và ý thức quần chúng.
- Điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong xã hội và làm tăng cường tính tích
cực chính trị của quần chúng.
Việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội trên các phương tiện truyền thơng
đại chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hình thành dư luận xã hội cũng là để thể
hiện dư luận xã hội và thể hiện dư luận xã hội nhằm tăng cường cường độ, phạm vi,
định hướng dư luận xã hội. Báo chí nói riêng, các phương tiện truyền thông đại chúng
thời gian qua đã có nhiều cách thể hiện dư luận xã hội hết sức sáng tạo. Nhưng nhìn
chung, các hình thức thể hiện dư luận xã hội chủ yếu như sau:
22


1. Phản ánh trực tiếp: Bằng cách cho đăng phát các ý kiến của người đọc,
người nghe, xem hoặc các lời phát biểu của đại diện các tầng lớp công chúng
trên truyền thông.
2. Đăng tải các bài phát biểu của đại diện các tầng lớp nhân dân hoặc các tổ
chức đồn thể xã hội về một chủ đề nào đó, kèm theo lời bình luận cơ quan báo chí.
3. Trên cơ sở nghiên cứu, tập hợp, phân tích các ý kiến về một vấn đề nào đó,
các nhà báo viết bài rồi cho phát hành.

Việc thể hiện dư luận xã hội trên các phương tiện truyền thơng đại chúng nói
chung và thể hiện dư luận xã hội trong công cuộc đấu tranh chống tham nhũng nói
riêng đều dựa trên yêu cầu: Thông tin đưa ra công luận phải dẫn đến sự tranh luận
của quần chúng, nghĩa là các thông tin đó trở thành điểm khởi đầu cho sự đánh giá
của dư luận xã hội đều có các tính chất sau:
- Nó phản ánh được lợi ích của xã hội.
- Nó có tính cấp bách
- Nó tạo nên sự tranh luận
Q trình hình thành dư luận xã hội có sự địi hỏi cao ở tính thống nhất rất
phức tạp của các đối tượng công chúng. Các yếu tố quan niệm chung về định hướng
giá trị, bề dày của kinh nghiệm chính trị, tính tích cực chính trị xã hội, trình độ học
vấn của công chúng là các nhân tố quan trọng để tập hợp các cá nhân vào dòng chảy
của các phương tiện truyền thông đại chúng, và qua hệ thống này thể hiện ý kiến của
cá nhân họ và của nhóm xã hội mà bản thân họ là một thành viên. Sự trùng khớp càng
cao giữa ý kiến của nhóm với ý kiến chung của xã hội là nhân tố quan trọng để tạo
nên mối liên kết xã hội nhằm đảm bảo tính chất bền vững của dư luận xã hội.
Các giai đọan của sự hình thành dư luận xã hội dưới tác động của các
phương tiện truyền thông đại chúng diễn ra quan các bước sau.
- Công chúng làm quen với các vấn đề được các phương tiện truyền thông gợi
ý hoặc đề xuất.
23


- Kích thích lợi ích xã hội về vấn đề đó. Hoạt động này thường được làm bằng
cách đăng bài của các chuyên gia am hiểu về lĩnh vực đó. Việc trình bày các quan
điểm khác nhau trong cách nhìn nhận, đánh giá sẽ tạo nên cơ sở cho việc tranh luận.
- Tiến hành tranh luận trên phạm vi đại chúng
Sự hình thành dư luận xã hội diễn ra liên tục và chứa đầy các yếu tố tự phát.
Nhưng đây là một q trình có quy luật. Mặc dù sự phát triển của dư luận xã hội được
xác định bởi các quy luật khách quan, song để dư luận xã hội được hình thành có

định hướng thì phải có hoạt động điều khiển. Trong một xã hội phát triển có định
hướng thì quá trình hình thành dư luận xã hội theo con đường tự phát tất yếu phải
chịu tác động bởi sự điều hành có ý thức của hoạt động quản lý và tổ chức xã hội.
Sự hình thành dư luận xã hội thông qua các phưong tiện thông tin đại chúng
có phản hồi (feedback). Nghĩa là các phương tiện này không chỉ tạo nên dư luận xã
hội, mà đến lượt nó, dư luận xã hội cũng có tác động trở lại đến hoạt động của hệ
thống truyền thông đại chúng. Vì trong lĩnh vực thơng tin đại chúng sự phân chia
giữa những người tham gia truyền thông (nguồn tin – chủ thể tác động) và người
nhận (khách thể tác động) là rất tương đối vì cả hai phía của tác động này đều là chủ
thể và khách thể của tác động thông tin một các một chiều.

Dư luận xã hội và truyền thơng (phần 3)

Sự hình thành và thay đổi của dư luận xã hội
Khơng có vấn đề làm thế nào điểm tổng hợp (những người được tổ chức bởi
hầu hết các thành viên của một công chức quy định) kết hợp lại vào ý kiến công
chúng, kết quả có thể tự tồn tại. Nhà khoa học chính trị Pháp là Alexis de
Tocqueville cho rằng khi một ý kiến đã bắt rễ trong số người dân chủ và thành lập
chính nó trong tâm trí của số lượng lớn của cộng đồng, nó sau đó vẫn cịn tồn tại của
chính nó và được duy trì mà khơng cần nỗ lực, vì khơng có ai tấn cơng nó.

24


Năm 1993, ý kiến nhà nghiên cứu người Đức là Elizabeth Noelle-Neumann đã
nhận định đặc trưng hiện tượng này như là một "xoắn ốc của sự im lặng", lưu ý rằng
những người nhận thức mà họ nắm giữ một cái nhìn dân tộc thiểu số sẽ ít có khuynh
hướng để thể hiện nó ở nơi cơng cộng.
1. Các thành phần của cơng luận: thái độ và giá trị
Có bao nhiêu người thực sự hình thành ý kiến về một vấn đề nhất định, cũng

như các loại ý kiến chúng hình thành, phụ thuộc một phần vào những tình huống trực
tiếp của mình, điwwù đó phụ thuộc một phần vào các yếu tố môi trường xã hội chung
hơn, và một phần kiến thức từ trước, thái độ của họ, và các giá trị khác. Bởi vì thái độ
và giá trị đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của công luận, các học giả
của đối tượng tự nhiên quan tâm đến bản chất của các hiện tượng này, cũng như trong
cách thức đánh giá sự biến thiên và cường độ của họ.
Nhà phân phân tích chính trị người Mỹ là Robert Worcester đã đưa ra quan
điểm về giá trị, ông cho rằng gía trị là "thủy triều sâu tâm trạng công cộng, chậm thay
đổi, nhưng mạnh mẽ", ngược lại, "các gợn sóng trên bề mặt của cơng chúng ý thức nông và dễ dàng thay đổi" và cuối cùng, thái độ là "các dòng bên dưới bề mặt, sâu
hơn và mạnh mẽ hơn". Theo Worcester, nghệ thuật của sự hiểu biết ý kiến công
chúng không chỉ phụ thuộc vào các đo lường quan điểm của người dân mà còn
vào sự hiểu biết các động lực đằng sau những quan điểm.
Khơng có vấn đề họ được tổ chức cách mạnh mẽ, thái độ có thể thay đổi nếu
các tổ chức cá nhân họ biết tình tiết mới quan điểm rằng thách thức suy nghĩ trước đó
của mình. Điều này đặc biệt có khả năng khi mọi người tìm hiểu của một vị trí trái
được tổ chức bởi một cá nhân mà phán xét họ tơn trọng. Khóa học này ảnh hưởng,
được gọi là "lãnh đạo ý kiến", thường được sử dụng bởi những người của công chúng
như là một phương tiện để lôi kéo mọi người xem xét lại và hồn tồn có thể thay đổi
của họ quan điểm của.
Một số nhà nghiên cứu ý kiến đã cho rằng khái niệm tiêu chuẩn kỹ thuật của
thái độ không phải là hữu ích cho sự hiểu biết ý kiến cơng chúng, bởi vì nó là khơng
25


×