Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu tại Công ty VINAGIMEX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (622.82 KB, 86 trang )











LUẬN VĂN:

Một số giải pháp nâng cao hiệu
quả nhập khẩu tại Công ty
VINAGIMEX




Lời mở đầu

Trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay, kinh tế thị trường là một tất yếu
không thể tránh và không nên tránh của bất kì quốc gia nào, dù quốc gia đó đi theo
con đường TBCN hay XHCN. Điều cốt yếu ở đây là phải vận dụng kinh tế thị
trường sao cho đạt hiệu quả cao nhất, hạn chế tối đa những điểm bất cập mà kinh tế
thị trường mang lại, có như vậy mới có thể phát triển bền vững. Cùng với quá trình
phân công lao động ngày càng sâu sắc hơn, Thương mại quốc tế đã và đang góp
phần tích cực cho sự ơphát triển phồn thịnh của mỗi quốc gia, đặc biệt đối với Việt
Nam. Muốn đạt được mục tiêu mà đảng và Nhà nước đề ra là đưa nước ta trở thành
một nước công nông nghiệp phát triển vào năm 2020, toàn dân, toàn xã hội và trước
hết là các doanh nghiệp trong cũng như ngoài quốc doanh phải luôn hoàn thiện


mình, không ngừng vươn lên để thực hiện mục tiêu đó.
Tuy nhiên, nước ta vẫn còn đang bươc knhững bước đầu tiên của quá trình
đổi mới nền kinh tế, do vậy, những vấp ngã cũng như sự thiếu vững vàng là không
thể tránh khỏi. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp quốc doanh vẫn còn mang nặng
dáng dấp của cơ chế quản lí kinh tế kế hoạch hoá tập trung trì trệ, bảo thủ, công tác
quản lí doanh nghiệp còn yếu kém. Hơn nữa, khi Nhà nước còn đang thực hiện cơ
chế chuyển đổi nền kinh tế sang cổ phần hoá và tư nhân hoá thì cơ hội cũng nhiều
lên và khó khăn cũng càng thêm chồng chất.
Nhưng điều đáng mừng là chúng ta đã bắt đầu nhìn thấy những mảng sáng
của một nền kinh tế mới. Các doanh nghiệp quốc doanh đã dần nhận ra được những
mặt yếu kém của mình và đang nỗ lực khắc phục, hoàn thiện cơ chế quản lí, nâng
cao hiệu quả hoạt động của mình. Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp và chuyển giao
công nghệ Việt Nam - VINAGIMEX - là một trong những công ty đi tiên phong
trong vấn đề này. VINAGIMEX hoạt động rất mạnh trong lĩnh vực nhập khẩu, do
đó, việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của hoạt động này là rất cần thiết.

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác nhập khẩu trong quan hệ
thương mại quốc tế, với kiến thức sau bốn năm học tập tại trường và thời gian thực
tập tại công ty VINAGIMEX được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo khoa Thương
mại và các cán bộ trong công ty, em đã cảm thấy đủ tự tin để nghiên cứu (mot so
bien phap nang cao hieu qua hoat dong kinh doanh nhap khau tai cong ty
vinagimex). Để hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình với các vấn đề nghiên cứu
như sau:
1. Về mặt lí thuyết, hoạt động nhập khẩu bao gồm những nội dung gì ?
2. Thực trạng hoạt động nhập khẩu tại công ty VINAGIMEX có điểm gì nổi
bật ? Những điểm mạnh và yếu trong hoạt động nhập khẩu của công ty?
3. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu để
thực hiện mục tiêu phương hướng phát triển công ty.
Do trình độ lí luận cũng như kinh nghiệm thực tế còn chưa vững và hạn chế,
bài viết của em không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong các thầy cô giáo, các cán

bộ nhân viên của VINAGIMEX giúp đỡ để em hoàn thiện đề tài.













Chương I.
Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu.
I. Bản chất kinh tế của Thương mại quốc tế và vấn đề kinh doanh xuất
nhập khẩu.
1. Bản chất kinh tế của Thương mại quốc tế.
1.1. Khái niệm.
Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua
buôn bán nhằm mục đích kinh tế tối đa. Trao đổi hàng hoá là một hình thức của các
mối quan hệ kinh tế xã hội va phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giưã những người sản
xuất kinh doanh hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Thương mại quốc tế là lĩnh
vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động
quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước.
Ngày nay, Thương mại quốc tế không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn
bán mà là sự phụ thuộc tất yếu giữa các quốc gia vào phân công lao động quốc tế.
Vì vậy phải coi trọng Thương mại quốc tế như là một tiền đề một nhân tố phát triển
kinh tế trong nước trên cơ sở lựa chọn một cách tối ưu sự phân công lao động và

chuyên môn hoá quốc tế.
Bí quyết thành công trong chiến lựoc phát triển kinh tế của nhiều nước là mở
rộng thị trường quốc tế và tăng nhanh xuất khẩu sản phẩm hàng hoá qua chế biến có
hàm lượng kĩ thuật cao.
Thương mại quốc tế một mặt, phải khai thác được mọi lợi thế của đất nước
phù hợp với xu thế phát triển và quan hệ kinh tế quốc tế. Mặt khác phải tính đến lợi
thế tương đối có thể được theo quy luật chi phí cơ hội. Phải luôn luôn tín toán cái có
thể thu được so với cái giá phải trả khi tham gia vào buôn bán và phân công lao
động quốc tế để có đối sách thích hợp. Vì vậy, để phát triển Thương mại quốc tế có
hiệu quả lâu dài cần phải tăng cưòng khả năng liên kết kinh tế sao cho mối quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn.

Quan hệ kinh tế trong một nước là những mối quan hệ giữa những ngưòi
tham gia vào quá trình sản xuất và lưu thông trên cơ sở phân công lao động và
chuyên môn hoá trong nước. Quan hệ Thương mại quốc tế thể hiện sự phân công
lao động và chuyên môn hoá quốc tế ở trình độ kĩ thuật cao và qui mô lớn. Nó được
phát triển trong một môi trường khác hoàn toàn các quan hệ kinh tế trong nước về
phương cách giao dịch buôn bán, về luật pháp, về nghiệp vụ…
Thị trường thế giới và thị trường dân tộc là những phạm trù kinh tế khác
nhau. Vì vậy các quan hệ kinh tế diễn ra giữa các chủ thể trong kinh doanh Thương
mại quốc tế mang tính chất kinh tế xã hội hết sức phức tạp, không thể cho phép nghĩ
rằng cứ buôn bán trong nước được có nghĩa là buôn bán với nước ngoài cũng thành
công.
1.2. Nguồn gốc và lợi ích của Thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các nước thông qua
mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội phản ánh sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa những ngưòi sản xuất hàng hoá riêng biệt của từng quốc gia.
Thương mại quốc tế có tính chất sống còn vì một lí do cơ bản là ngoại
thuơng mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng của một nước. Thương mại quốc tế
cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có

thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng của sản xuất trong nước khi thực hiện chế
độ tự cung tự cấp, không buôn bán.
Tiền đề xuất hiện sự trao đổi là phân công lao động xã hội. Với tiến bộ khoa
học kĩ thuật, phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng, số sản phẩm và dịch vụ để
thoả mãn nhu cầu con người này càng một dồi dào, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nứoc ngày càng tăng.
Thương mại quốc tế và chuyên môn hoá tăng nhanh đã đặt ra câu hỏi lí do để
buôn bán là gì ?
Trước hết, thương mại xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên của sản
xuất giữa các nước, nên chuyên môn hoá một số mặt hàng có lợi thế và nhập khẩu

các mặt hàng khác từ nước ngoài mà sản xuất trong nước kém lợi thế thì chắc chắn
đem lại lợi nhuận lớn hơn.
Sự khác nhau về điều kiện sản xuất ít nhất cũng giải thích được sự hình
thành nên Thương mại quốc tế giữa các nước trong kinh doanh các mặt hàng như
dầu lửa, lương thực, dịch vụ du lịch… Song như chúng ta đã biết, phần lớn số lượng
Thương mại thuộc các mặt hàng không xuất phát từ điều kiện tự nhiên vốn có của
sản xuất. Mỹ sản xuất được ôtô tại sao lại phải nhập khẩu ôtô từ Nhật Bản? Làm sao
nước ta với xuất phát điểm thấp và chi phí sản xuất hầu như lớn hơn tất cả các mặt
hàng của các cường quốc kinh tế lại có thể vẫn duy trì thương mại với các nước đó.
Nhà kinh tế học David Ricardo đã trả lời những câu hỏi này. Năm 1817 ông
đã chứng minh được rằng chuyên môn hoá quốc tế có lợi cho tất cả các nước và gọi
kết quả đó là Qui luật lợi thế tương đối (hay Lí thuyết về lợi thế so sánh).
Qui luật này khẳng định nếu mỗi quốc gia chuyên môn hoá sản xuất các mặt
hàng mà nước đó có lợi thế tương đối hay có hiệu quả sản xuất cao nhất thì thương
mại có lợi cho cả hai nước.
Chúng ta bắt đầu với việc chỉ ra những lợi ích của Thương mại quốc tế do sự
chênh lệch giữa các quốc gia về chi phí cơ hội. Theo đó Chi phí cơ hội của một mặt
hàng là số lượng những mặt hàng khác người ta phải từ bỏ để sản xuất hoặc kinh
doanh thêm một đơn vị mặt hàng đó.

Giả sử một nền kinh tế khép kín có những nguồn lực nhất định có thể làm ra
máy video và áo sơmi. Càng dùng nhiều nguồn lực vào việc làm ra máy video thì
càng có ít nguồn lực làm ra áo sơmi. Chi phí cơ hội của máy video là lượng áo sơmi
bị hi sinh do dùng vào các nguồn lực vào việc làm ra các máy Vvideo.
Chi phí cơ hội cho ta biết chi phí tương đối để làm ra các mặt hàng khác
nhau. Sự chênh lệch giưã các nước về chi phí tương đối trong sản xuất quyết định
phương thức thương mại quốc tế. Phương thức đó được minh hoạ bằng qui luật lợi
thế tưong đối.

Qui luật lợi thế tương đối nói rằng, các nước hay cá nhân nếu chuyên môn
hoá trong việc sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà họ làm ra với chi phí tương
đối thấp hơn thì sẽ có lợi ích kinh tế lớn hơn.
Qui luật này có thể được giải thích bằng ví dụ sau:










M

An
h
- Yêu cầu lao động
cho một đơn vị sản phẩm
(Giờ/đơn vị sản phẩm)

+ Máy Video
+ áo Sơmi
- Tiền lương theo giờ
chi phí lao động cho một
đơn vị sản phẩm
+ Máy Video
+ áo Sơmi





30

5
6
USD


18
0USD
30



60
6
2
bảng



12
0 bảng
12


USD

b
ảng


Giả thiết rằng các công nhân Mỹ kiếm được 6USD một giờ và các công nhân
Anh là 2 bảng một giờ. Hai dòng cuối của bảng trên cho thấy chi phí lao động cho
một đơn vị của hai loại hàng ở mỗi nước. Nếu không có thương mại quốc tế thì mỗi
nước sẽ sản xuất cả hai loại hàng và các chi phí lao động cho một đơn vị sản phẩm
này là giá trị nội địa của mỗi sản phẩm bán ra.
Chú ý rằng đối với cả hai sản phẩm, yêu cầu lao động cho một đơn vị sản
phẩm ở Mỹ là thấp hơn một cách tuyệt đối so với yêu cầu này ở Anh. Nhưng lao
động ở Mỹ hiệu quả hơn một cách tương đối về máy video so với áo sơmi. Còn số
giờ lao động nhiều gấp đôi ở Anh so với Mỹ để sản xuất ra một máy video, nhưng
chỉ cần 6/5 số giờ lao động nhiều hơn để sản xuất ra một áo sơmi. Và chính những
chênh lệch tương đối về năng suất này là cơ sở cho thương mại quốc tế.
Tuy nhiên, lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo chỉ đề cập đến mô
hình đơn giản giữa hai nước, hai hàng hoá và một nguồn lực đầu vào là lao động. Vì
thế mô hình của David Ricardo chưa giải thích được một cách rõ ràng nguồn gốc
của thương mại quốc tế trong nền kinh tế hiện đại. Hai nhà kinh tế học người Thuỵ
Điển đã bổ sung bằng một mô hình mới, trong đó hai ông đề cập đến hai yếu tố đầu
vào là lao động và vốn với những giả thiết của mô hình như sau: Có hai quốc gia
cùng sản xuất hai loại hàng hoá Xvà Y bằng hai yếu tố sản xuất là Lao động và Vốn

với cùng một kĩ thuật công nghệ như nhau. Hàng hoá X là loại hàng hoá sử dụng
nhiều lao động và hàng hoá Y là hàng hoá sử dụng nhiều vốn và ở cả hai quốc gia,

không có sự chuyên môn hoá trong sản xuất. Đồng thời thị trường hàng hoá và thị
trường các yếu tố sản xuất là các thị trường cạnh tranh hoàn hảo, có sự dịch chuyển
linh hoạt của các yếu tố sản xuất trong phạm vi của một quốc gia nhưng không có
sự dịch chuyển trong phạm vi quốc tế. Trong mô hình hai ông cũng không xét đến
các chi phí vận tải, thuế nhập khẩu hoặc những trở ngại khác cho hoạt động thương
mại quốc tế tự do và giả định rằng tài nguyên được sử dụng triệt để ở cả hai quốc
gia.
Với những giả định như trên mô hình của Hécher- Ohlin phát biểu: Một nước
xuất khẩu loại hàng hoá mà việc sản xuất ra nó cần sử dụng nhiều yếu tố rẻ và
tương đối sẵn có của nước đó và nhập khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất ra nó
cần nhiều yếu tố đắt và tương đối khan hiếm ở nước đó. Một cách vắn tắt, một nước
tương đối giàu lao động sẽ xuất khẩu hàng hoá sử dụng nhiều lao động và nhập
khẩu các hàng hoá sử dụng nhiều vốn.
Theo các giả thiết đã trình bày ở trên, quốc gia thứ nhất sẽ xuất khẩu hàng
hoá X, vì sản xuất hàng hoá X sử dụng nhiều lao động, mà lao động lại là yếu tố
tương đối rẻ và phong phú ở quốc gia thứ nhất. Đồng thời quốc gia thứ hai sẽ xuất
khẩu hàng hoá Y vì sản xuất hàng hoá Y sử dụng nhiều yếu tố vốn là yếu tố tương
đối sẵn có ở nước thứ hai.
Về bản chất học thuyết của Hecsher- Ohlin căn cứ vào sự khác biệt về tính
phong phú và giá cả tương đối của các yếu tố sản xuất, là nguyên nhân dẫn đến sự
khác biệt về giá cả tương đối của hàng hoá giữa các quốc gia trước khi có thương
mại để giải thích nguồn gốc của thương mại quốc tế. Sự khác biệt về giá cả tưong
đối của các yếu tố sản xuất và giá cả tương đối của hàng hoá sau đó sẽ được chuyển
thành sự khác biệt về giá cả tuyệt đối của hàng hoá. Sự khác biệt về giá cả tuyệt đối
của hàng hoá giữa hàng hoá của hai nước là nguyên nhân trực tiếp của Thương mại
quốc tế.


2. Một số vấn đề kinh doanh xuất nhập khẩu.
Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó
không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán
phức tạp có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy
sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng
cao mức sống của nhân dân, xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh dễ đem lại
hiệu quả đột biến nhưng có thể gây thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống
kinh tế khác từ bên ngoài mà chủ thể trong nước tham gia xuất nhập khẩu không dễ
dàng khống chế đuợc.
Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ
mang lại nhiều lợi ích, song cũng có một số điểm bất lợi. Muốn có hiệu quả cao
phải phát triển những thuận lợi và hạn chế tác hại.
Những thuận lợi của xuất nhập khẩu đem lại có thể thấy rõ ràng. Bên cạnh
đó, xuất nhập khẩu còn có nhiều hạn chế:
- Cạnh tranh dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh bán hàng xuất nhập khẩu.
Nếu không có sự kiểm soát của Nhà nước một cách chặt chẽ và kịp thời sẽ gây các
thiệt hại khi buôn bán với nước ngoài. Các hiện tượng xấu về kinh tế xã hội: buôn
lậu, trốn thuế, ép giá… dễ phát triển.
- Cạnh tranh sẽ dẫn đến thôn tính lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế bằng các
biện pháp không lành mạnh như phá hoại cản trở công việc của nhau. Việc quản lí
không chỉ đơn thuần tính toán về hiệu quả kinh tế mà còn phải chú trọng tới văn hoá
và đaọ đức xã hội.
Xuất nhập khẩu là việc mua bán hàng hoá với nước ngoài nhằm phát triển
sản xuất, kinh doanh và đời sống. Song mua bán ở đây có những nét riêng phức tạp
hơn trong nước như giao dịch với người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn
khó kiểm soát, mua bán qua trung gian chiếm tỉ trọng lớn, đồng tiền thanh toán
bằng ngoại tệ mạnh, hàng hoá vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu các quốc gia
khác nhau phải tuân theo các tập quán quốc tế cũng như địa phương.

Hoạt động xuất nhập khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều

khâu từ điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất nhập khẩu, thương
nhân giao dịch, các bước tiến hành giao dịch đàm phán, kí kết hợp đồng, tổ chức
thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá chuyển đến cảng chuyển giao quyền sở
hữu cho người mua, hoàn thành các thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ này phải
được nghiên cứu đầy đủ, kĩ lưỡng, đặt chúng trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ
nắm bắt những lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất, phục vụ đầy đủ kịp thời
cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.
Đối với người tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trước khi bước vào nghiên
cứu, thực hiện các khâu nghiệp vụ phải nắm bắt được các thông tin về nhu cầu hàng
hoá, thị hiếu, tập quán tiêu dùng, khả năng mở rộng sản xuất, tiêu dùng trong nước,
giá cả, xu hướng biến động của nó. Những điều đó phải trở thành nếp thường xuyên
trong tư duy mỗi nhà kinh doanh xuất nhập khẩu để nắm bắt được những cơ hội
trong kinh doanh Thương mại quốc tế.

II. Nhập khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế.
1. Tính tất yếu khách quan của hoạt động nhập khẩu.
Lịch sử đã chứng minh không một quốc gia nào có thể phát triển một cách
đơn độc mà phải hoà mình vào nền kinh tế chung- nền kinh tế toàn cầu. Đó chính là
sự tham gia vào thương mại quốc tế mà xuất khẩu và nhập khẩu là mặt rất quan
trọng. Thương mại quốc tế đã tồn tại đâu đó, ẩn dưói hình thức này hay hình thức
khác kể từ những giai đoạn đầu loài người hình thành và phát triển ngày càng hoàn
thiện cùng vời sự phát triển của nhân loại, của thế giới và đến thời đại bây giờ, đến
những năm đầu của thiên niên kỉ thứ III, thương mại quốc tế hơn bao giờ hết đã
khẳng định vai trò của mình.
Thương mại quốc tế làm cho các quốc gia ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn
về mọi mặt, làm cho con người ngày càng thoả mãn tốt hơn các nhu cầu vật chất và
tinh thần của mình. đó là lí do giải thích tại sao từ nhiều thiên niên kỉ trước các đội

thuyền buôn của vương quốc Anh, Tây ban nha, Bồ đào nha… buôn bán khắp năm
châu bốn bể để mua các sản vật quí như: Gấm vóc, lụa là, trầm hương, đồi mồi… và

xuất đi các vật phẩm tiêu dùng như: Gương lược, công cụ sản xuất… Trong hoạt
động này thì cả hai bên mua và bán đều có lợi, đều thoả mãn được nhu cầu tiêu
dùng của mình tốt hơn. Và điều này lại một lần nữa khẳng định sự phụ thuộc lẫn
nhau của các quốc gia trên thế giới.
Hơn nữa, bất kì một quốc gia nào cũng không chỉ xuất khẩu hoặc nhập khẩu
mà phải tiến hành song song. Vì vậy, vị thế của nhập khẩu là không thể chối cãi.
Tuy nhiên, vị thế của nó ra sao thì lại phụ thuộc vào tình hình kinh tế cũng như
đường lối, chính sách, pháp luật của từng nước.
2. Vai trò của nhập khẩu đối với nền kinh tế.
Nằm trong qui luật tất yếu khách quan của Thương mại quốc tế, bản thân
nhập khẩu đã có vai trò hết sức to lớn đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia. Nhập
khẩu đảm bảo cung cấp và thoả mãn tốt nhất nhu cầu của nền kinh tế trong nước.
Ngoài ra nhập khẩu còn trực tiếp hay gián tiếp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thông
qua việc thiết lập các mối quan hệ bạn hàng hay hiện đại hoá các ngành nghề, trang
thiết bị sản xuất hàng xuất khẩu.
Đối với các nước đang phát triển thì vai trò của hoạt động nhập khẩu là hết
sức quan trọng. Nhập khẩu là tác nhân thúc đẩy quá trình tăng trưởng phát triển
kinh tế. Đặc biệt là việc nhập khẩu vật tư nguyên liệu phục vụ cho sản xuất tại các
nước này, do điều kiện khách quan lịch sử để lại, hầu hết các quốc gia đều có trình
độ phát triển tương đối thấp, có sở hạ tầng, trình độ lao động chưa phát triển. Do
vậy, trong điều kiện hiện nay để phát triển kinh tế, tất cả các nước đang phát triển
đều phải đầu tư trang thiết bị, hiện đại hoá sản xuất. Thông qua nhập khẩu bao gồm
cả nhập khẩu máy móc, thiết bị là con đường duy nhất để các nước này đạt được
điều đó. Qua hoạt động nhập khẩu, năng lực sản xuất của quốc gia được tăng cường
và mở rộng, tận dụng được nguồn nhân công dồi dào. Hơn nữa hoạt động nhập
khẩu tuân theo qui luật chuyển dịch cơ cấu đầu tư. Các nước NICs tiếp nhận công

nghệ sản xuất đồ điện tử từ Mỹ, Nhật vào những năm 1980- 1990, công nghệ may
mặc, giày da chuyển từ NICs sang Việt Nam, Mãlai, Thái lan… ngoài ra sự thất bại
của chiến lược thay thế nhập khẩu ở các nước NICs thời kì đầu công nghiệp hoá đã

chỉ ra rằng, để khai thác các lợi thế thì trong chừng mực nào đó lại phụ thuộc vào
nhập khẩu.
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển lại trong thời kì công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước, do vậy hoạt động nhập khẩu đóng vai trò hết sức quan trọng.
Trong vòng hơn mười năm qua (1991- 2002) kinh tế Việt Nam luôn duy trì ở mức
tăng trưởng cao, sản xuất công nghiệp luôn tăng trưởng ở mức 15% dến 17%/năm.
Bên cạnh đó Việt Nam còn là một nước nông nghiệp nên nhu cầu phân bón, máy
móc nông nghiệp khá cao. Kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này chiếm tỷ trọng lớn
trong kim ngạch nhập khẩu của nước ta. Như vậy hoạt động nhập khẩu của nước ta
trong vòng hơn mười năm qua đã hoàn thành tốt vai trò của mình.
Xét cho cùng, mặc dù luôn hướng tới mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu song
cũng phải khẳng định vai trò của hoạt động nhập khẩu. Do vậy, nên có một cách
nhìn nhận khoa học đối với hoạt động nhập khẩu và Nhà nước cần có chính sách,
biện pháp quản lí hợp lí tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu nhằm đẩy
mạnh sản xuất bằng các chính sách thuế, hạn ngạch phù hợp.
3. Vai trò của nhập khẩu đối với doanh nghiệp.
Trong thời điểm hiện nay vơí chính sách khuyến khích xuất khẩu của nhà
nước hầu hết các doanh nghiệp trong nước chú trọng đến xuất khẩu do vậy dẫn đến
đánh giá không đúng vai trò của nhập khẩu. Công ty VINAGIMEX với tính chất và
đặc điểm kinh doanh của mình thì nhập khẩu đóng vai trò rất lớn trong sự phát triển.
Thực tế cho thấy trong những năm gần đây kim ngạch nhập khẩu của công ty luôn
tăng lên và đã đem lại cho công ty nguồn doanh thu, lợi nhuận tăng lên rõ rệt. Nhận
thức được điều đó cán bộ ban lãnh đạo công ty luôn đề ra những chiến lược kinh
doanh nhập khẩu phù hợp và có khả năng thích ứng cao với mọi biến động của thị
trường. Đồng thời, với bất kì một nhà kinh doanh nào thì mục tiêu lợi nhuận cũng

được đặt lên hàng đầu, đó là nguyên tắc bất di bất dịch trong kinh doanh buôn bán
làm ăn. Trong khi đó một khi mà lợi ích của công ty phù hợp với lợi ích của quốc
gia thì nâng cao vai trò của lĩnh vực kinh doanh nhập khẩu là vấn đề rất đúng đắn.
Chúng ta sẽ làm rõ vấn đề này trong các phần sau.


III. Nội dung hoạt động kinh doanh nhập khẩu ở doanh nghiệp.
Hoạt động nhập khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều
khâu từ nghiên cứu thị trường, lựa chọn hàng hoá nhập khẩu, đối tác giao dịch, tiến
hành đàm phán kí kết hợp đồng, tổ chức thực hiện và thanh toán hợp đồng. Để đạt
được hiệu quả cao trong kinh doanh cần phải nghiên cứu kĩ từng khâu và mối quan
hệ giữa chúng trong qui trình nhập khẩu nhằm xây dưng một qui trình nhập khẩu có
hiệu quả cao hơn.

1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu.
Nghiên cứu thị trường nhập khẩu là việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất kì
doanh nghiệp nào muốn tham gia vào thương mại quốc tế. Nghiên cứu thị trường
nhập khẩu là qúa trình điều tra nhu cầu và khả năng nhập khẩu cho một sản phẩm
cụ thể hay một nhóm sản phẩm trên thị trường nào đó. Quá trình nghiên cứu thị
trường là quá trình thu thập thông tin về các loại hàng hoá dịch vụ, các nguồn cung
ứng, khả năng dự trữ, số liệu về mua bán… Từ đó so sánh, phân tích, rút ra kết luận
cần thiết cho công tác xâm nhập thị trường.
Trong quá trình chuẩn bị giao dịch, vấn đề nghiên cứu thị trường để có một
hệ thống thông tin về thị trường đầy đủ, chính xác, kịp thời sẽ làm cơ sở cho doanh
nghiệp có những quyết định đúng đắn đáp ứng được tình thế của thị trường. Đồng
thời, hệ thống thông tin không những làm cơ sở để doanh nghiệp lựa chọn được các
đối tác giao dịch thích hợp mà còn là cơ sở cho quá trình giao dịch, đàm phán, kí
kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng sau này có hiệu quả.
1.1. Nghiên cứu thị trường trong nước.
Đây chính là việc nghiên cứu thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu. Có nghiên
cứu thị trường trong nước một cách kĩ lưỡng chặt chẽ thì doanh nghiệp mới nắm bắt
được thông tin về nhu cầu, giá cả, chất lượng của hàng hoá, dịch vụ từ đó đề ra các
hướng cho hoạt động nhập khẩu. Quá trình nghiên cứu thị trường này bao gồm các
bước sau:
1.1.1. Nhận biết mặt hàng nhập khẩu.

Mục đích của việc nghiên cứu thị trường mặt hàng nhập khẩu là để tìm ra
mặt hàng nhập khẩu mà nhu cầu trong nước đang cần nhưng phải phù hợp với mục
tiêu và lợin nhuận của doanh nghiệp. Muốn biết mặt hàng nào đang được khách
hàng và người tiêu dùng trong nước đang cần, đang là nhu cầu thiết yếu của thị
trường trong nước thì phải tiến hành nghiên cứu khảo sát trên các khía cạnh sau:
- Về mặt hàng, phẩm chất, kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu…

- Về tình hình tiêu dùng mặt hàng đó ra sao, phải hiểu rõ về tập quán tiêu
dùng, thị hiếu và qui luật biến động của quan hệ cung cầu để có thể đáp ứng nhu
cầu của thị trường một cách tốt nhất.
- Dự đoán về chu kì sống của sản phẩm: Doanh nghiệp phải tìm hiểu được
mặt hàng mình định nhập khẩu (có thể là thành phẩm hoặc nhập khẩu nguyên liệu
để sản xuất hàng hoá tiêu thụ trong nước) đang ở giai đoạn nào trong chu kì sống
của mặt hàng đó để có quyết định chính xác nhằm nâng cao doanh số cũng như hiệu
quả kinh doanh.
Tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu là bao nhiêu? Thương mại quốc tế do các
nước có hệ thống tiền tệ khác nhau nên việc xác định tỷ suất ngoại tệ hàng nhập
khẩu là cần thiết để xem xét kinh doanh có hiệu quả hay không. Tỷ suất ngoại tệ
hàng nhập khẩu là tổng số bản tệ thu được khi bỏ ra một đồng ngoại tệ. Nếu tỷ suất
này lớn hơn tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và đồng ngoại tệ thì việc nhập khẩu
có lãi và ngược lại sẽ bị thua lỗ.
1.1.2. Nghiên cứu dung lượng thị trường và các yếu tố ảnh hưởng đến
dung lượng thị trường.
Dung lượng thị trường là một khối hàng hoá được giao dịch trên phạm vi
một thị trường nhất định trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Đối
với đơn vị kinh doanh nhập khẩu, nghiên cứu dung lượng thị trường cần xác định
khả năng cung cấp của thị trường bao gồm việc xem xét đặc điểm, tính chất, khả
năng sản xuất hàng thay thế, khả năng lựa chọn mua bán.
Dung lượng thị trường là không cố định, nó thay đổi tuỳ theo diễn biến của
từng giai đoạn nhất định. Các yếu tố ảnh hưởng tới dung lượng của thị trường có thể

chia làm ba loại sau:
Thứ nhất là các yếu tố làm dung lượng biến đổi có tính chất chu kì. Đó là sự
vận động của tình hình kinh tế và tính chất thời vụ trong sản xuất lưu thông và tiêu
dùng.

Thứ hai là các nhân tố ảnh hưởng lâu dài tới sự biến động của thị trường bao
gồm những tiến bộ khoa học công nghệ, các chính sách của Nhà nước và các tập
đoàn tư bản tài chính lũng đoạn, thị hiếu tập quán tiêu dùng, ảnh hưởng của khả
năng sản xuất hàng thay thế.
Thứ ba là nhân tố ảnh hưởng tạm thời tới dung lượng thị trường như biến
động về kinh tế, chính trị, thiên tai của quốc gia chiếm tỷ trọng lớn trong tổng mức
cung và cầu về hàng hoá nhập khẩu hay hiện tượng đầu cơ tích trữ gây đột biến về
cung cầu.
Khi phân tích sự ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến động của dung
lượng của thị trường cần phải đánh gía đúng mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố,
xác định nhân tố nào có quyết định xu hướng vận động của thị trường trong thời
gian nghiên cứu, từ đó xác định chính xác nhu cầu nhập khẩu mặt hàng đã lựa chọn.
1.1.3. Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh.
Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh cũng nắm vững thông tin số lượng các đối thủ
cạnh tranh trong mặt hàng kinh doanh, tình hình hoạt động, tỷ trọng thị trường, thế
mạnh, điểm yếu của các đối thủ. Đặc biệt cần nghiên cứu kĩ các chiến lược kinh
doanh và khả năng thay đổi chiến lược kinh doanh của đối thủ cạnh tranh. Trong
thời gian tới để đưa ra các phương án đối phó tối ưu, hạn chế các điểm mạnh và tận
dụng các điểm yếu của đối thủ để vượt lên trên.
1.1.4. Nghiên cứu sự vận động của môi trường kinh doanh.
Môi trường kinh doanh bao gồm môi trường tự nhiên, văn hoá xã hội, chính
trị, pháp luật…Môi trường kinh doanh có tác động rất lớn và chi phối hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp cần phải tiến hành nghiên cứu sự vận động của nó để
nắm bắt quy luật vận động của môi trường kinh doanh để có biện pháp, chính sách
phòng ngừa có hiệu quả.

1.2. Nghiên cứu thị trường ngoài nước.
Đối với những đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu việc nghiên cứu thị trường
ngoài nước có ý nghĩa quan trọng. Trong việc nghiên cứu đó nắm vững những nội

dung về tình hình chính trị, pháp luật, điều kiện Thương mại nói chung, thái độ
quan điểm của nước xuất khẩu, điều kiện tín dụng, vận tải, giá cước… Ngoài ra cần
phải nghiên cứu dung lượng thị trường và giá cả trên thị trường quốc tế.
1.2.1. Nguồn cung cấp trên thị trường quốc tế.
Doanh nghiệp cần nắm vững được tình hình các nguồn cung cấp trên thị
trường quốc tế mà doanh nghiệp khả năng giao dịch rồi từ đó nghiên cứu các đặc
điểm thị trường các nước trên các phương diện:
- Thái độ và quan điểm của các nước cung cấp thể hiện qua các chính sách
ưu tiên xuất khẩu hay hạn chế xuất khẩu.
- Tình hình chính trị quốc gia đó có ổn định hay không, có tác động đến
nguồn cung cấp mặt hàng đó như thế nào ?
- Về vị trí địa lí có thuận tiện cho giao dịch mua bán, có đem lại hiệu quả
kinh doanh hay không, có tiết kiệm chi phí vận chuyển, bảo hiểm trong quá trình
nhập khẩu của doanh nghiệp ?
1.2.2. Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường quốc tế.
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời thể hiện một
cách tổng hợp các hoạt động kinh tế trên thị trường thế giới. Giá cả không những
phản ánh mà còn điều tiết mối quan hệ cung cầu hàng hoá. Việc xác định đúng đắn
giá cả trong nhập khẩu có ý nghĩa to lớn với hiệu quả Thương mại quốc tế, cụ thể sẽ
làm giảm lượng ngoại tệ chi ra. Vì vậy giá cả là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu
quả của hoạt động ngoại thương.
Giá cả trong hoạt động xuất nhập khẩu là giá cả quốc tế. Do vậy để đạt được
hiệu quả cao trong kinh doanh trên thị trường quốc tế và để giá cả thực sự trở thành
đòn bẩy trong ngoại thương, phải có biện pháp tính toán giá cả một cách chính xác,
khoa học, phải nắm vững được xu hướng vận động của giá cả trên thị trường quốc
tế. Nghiên cứu giá cả bao gồm việc nghiên cứu giá cả của từng mặt hàng tại từng

thời điểm trên thị trường, xu hướng biến động và nhân tố ảnh hưởng đến giá cả.
2. Lựa chọn đối tác.

Việc nghiên cứu thị trường giáp cho đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu lựa
chọn được mặt hàng, thời cơ thuận lợi, lựa chọn phương thức mua bán và điều kiện
giao dịch thích hợp. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, kết quả hoạt động kinh
doanh còn phụ thuộc vào đối tác giao dịch. Trong những điều kiện như nhau, việc
giao dịch với khách hàng cụ thể này thì thành công nhưng với khách hàng khác thì
thất bại. Vì vậy một nhiệm vụ quan trọng của đơn vịi kinh doanh là lựa chọn đối tác
giao dịch. Mục đích của việc lựa chọn này là tìm người cung ứng khả dĩ, an toàn và
có lợi. Trong quá trình lựa chọn đối tác cần nghiên cứu các vấn đề sau:
- Khả năng kĩ thuật của người cung ứng: Đây là yếu tố quan trọng quyết định
đến trình độ, mức độ chất lượng, mức độ đồng nhất, độ tin cậy và tính không khuyết
tật của hàng hoá được giao với giá cả tối ưu nhất.
- Khả năng sản xuất: Qui mô xuất khẩu của nhà cung ứng đảm bảo cung cấp
hàng hoá đúng số lượng đúng thời điểm qui định. Khi xem xét phải chú ý đến công
suất, chất lượng và điều kiện sản xuất.
- Khả năng tài chính: Tiềm lực tài chính của nguồn cung cấp có tầm quan
trọng đạc biệt để đánh giá khả năng của người cung cấp trong thực hiện hợp đồng.
- Năng lực quản lí của đối tác: Khả năng quản lí có vai trò sống còn trong
việc đảm bảo hoạt động của doanh nghiệp đặc biệt là trong việc thực hiện hợp đồng
lớn và sản phẩm phức tạp về kĩ thuật.
- Đánh giá mức độ tín nhiệm: Đánh giá khả năng tin cậy và độ tín nhiệm
chung của nguồn cung cấp trên thị trường thế giới. Ngoài ra còn phải xem xét thái
độ quan điểm kinh doanh của đối tác và tình hình chính trị của nước người cung
ứng.
Sau khi nghiên cứu doanh nghiệp cần lựa chọn một đối tác phù hợp.
3. Xây dựng phương án kinh doanh.
Việc lựa chọn phương án kinh doanh xác định được mục tiêu kinh doanh của
doanh nghiệp và chỉ đạo các bộ phận đồng bộ thực hiện các chương trình đã đựoc


hoạch định hướng tới đạt mục tiêu của doanh nghiệp. Đồng thời phương án kinh
doanh giúp doanh nghiệp giảm được rủi ro và mang lại hiệu quả trong kinh doanh.
Việc hoạch định phương án kinh doanh đã thúc đẩy các cấp quản trị hướng
tới sự suy nghĩ có hệ thống và dẫn đến sự phối hợp có nỗ lực của các doanh nghiệp
trong hoạt động kinh doanh được hoàn hảo hơn. Phương án kinh doanh cũng dẫn
đến việc triển khai các tiêu chuẩn kiểm tra thực tiễn và các biện pháp tác động làm
cho các hoạt động có hiệu quả hơn.

Quá trình xây dựng phương án kinh doanh bao gồm các bước sau:















- Phân tích để lựa chọn thị trường và mặt hàng nhập khẩu là phải phân tích
đánh giá tình hình và dự đoán sự thay đổi của môi trường kinh doanh.
- Xác định mục tiêu: Mục tiêu doanh số, lợi nhuận, tỷ suất, lãi trên vốn đầu
tư và các mục tiêu như an toàn, phát triển, thế vị đạt được từ hoạt động nhập khẩu.
- Phác thảo phương án kinh doanh:

+ Mô tả tình hình kinh doanh trên thị trường mục tiêu
+ Xác định cách thức tiến hành kinh doanh
+ Đề ra các biện pháp và tiến trình để tổ chức thực hiện
+ Dự đoán các tình huống có thể xảy ra và phương án ứng xử
+ Các phương pháp kiểm tra và đánh giá
- Lựa chọn phương án kinh doanh: Để lựa chọn được phương án kinh doanh
tối ưu vẫn phải tiến hành đánh giá các phương án đã được hoạch định trên cơ sở hệ
thống các chỉ tiêu: Doanh thu, mức lợi nhuận dự tính, tổng chi phí (chi phí nhập
khẩu hàng hoá, chi phí vận chuyển, chi phí bảo quản, giao dịch…).
Phân tích để lựa chọn thị trường và
m
ặt hàng nhập khẩu

Xác
đ
ịnh mục tiêu

Phác thảo phương
án nh
ập khẩu

Lựa chọn phương
án nh
ập khẩu


4. Giao dịch, Đàm phán và Kí kết hợp đồng.
4.1. Giao dịch.
4.1.1. Hỏi giá.
Hỏi giá là việc người mua đề nghị người bán cho biết giá cả và các điều kiện

Thương mại cần thiết để mua bán. Mục đích cơ bản của việc hỏi giá là việc nhận
được các báo giá với thông tin đầy đủ nhất. Do đó nội dung cơ bản của một hỏi giá
là yêu cầu người bán cho biết các thông tin chi tiết về qui cách, phẩm chất, số
lượng, bao bì, điều kiện giao hàng, giá cả điều kiện thanh toán và các điều kiện
thương mại khác.
Hỏi giá không ràng buộc trách nhiệm của người hỏi giá, cho nên người hỏi
giá có thể gửi hỏi giá nhiều nơi để lựa chọn ra các báo giá tối ưu, từ đó chính thức
lựa chọn nhà cung cấp. Tuy nhiên không nên hỏi quá nhiều tạo nhu cầu giả tạo
không có lợi cho người mua.
4.1.2. Chào hàng, báo giá.
Chào hàng là một đề nghị kí kết hợp đồng mua bán hàng hoá được chuyển
cho một hay nhiều người xác định. Nội dung cơ bản của một chào hàng: Tên hàng,
số lượng, qui cách, giá cả, phương thức thanh toán, địa điểm, thời gian giao nhận
hàng cùng một số điều kiện khác như bao bì, kí mã hiệu…
Chào hàng có thể do người bán hoặc người mua đưa ra. Nếu là người mua
đưa ra gọi là chào mua hàng, nếu của người bán ra thì gọi là chào bán hàng. Báo giá
cũng là chào hàng.
4.1.3. Đặt hàng.
Đặt hàng là lời đề nghị kí kết hợp đồng thương mại của người mua cho nên
về nguyên tắc, nội dung của đơn đặt hàng phải đầy đủ nội dung cần thiết cho việc kí
kết hợp đồng. Trong thực tế, người ta chỉ đặt hàng với những khách hàng có quan
hệ thường xuyên hoặc hai bên đã kí kết những hợp đồng dài hạn và thoả thuận giao
hàng theo nhiều lần. Trong trường hợp này, nội dung chỉ nêu những điều kiện riêng
biệt đối với lần đặt hàng đó. Còn những điều kiện khác, hai bên áp dụng thao những

điều kiện của hợp đồng đã kí kết trong những lần giao dịch trước. Cả hai bên đều
phải xác định số lượng hàng cho một lần đặt hàng bao nhiêu là tối ưu nhất. Trong
khi xác định cần phải tính đến chi phí vận chuyển.

4.1.4. Hoàn giá.

Khi người nhận chào hàng không chấp nhận hoàn toàn chào hàng đó mà đưa
ra những đề nghị mới thì đề nghị mới này là hoàn giá. Khi có hoàn giá, chào hàng
trước coi như hết hiệu lực.
4.1.5. Chấp nhận.
Chấp nhận là một sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện của chào hàng.
khi đó hợp đồng được thành lập. Một chấp nhận có hiệu lực phải đảm bảo các điều
kiện như sau:
- Phải được ngưới nhận chào hàng chấp nhận
- Phải chấp nhận hoàn toàn nội dung của chào hàng
- Phải chấp nhận trong thời gian hiêu lực của chào hàng
- Chấp nhận phải được chuyển đến cho người chào hàng
4.1.6. Xác nhận.
Sau khi thống nhất với nhau các điều kiện giao dịch, hai bên ghi lại kết quả
đã đạt được rồi trao đổi cho nhau, đó là xác nhận. Xác nhận được lập thành hai bản,
được hai bên kí kết và mỗi bên giữ một bản.
4.2. Đàm phán.
Sau khi nhận được thư chào hàng hay đặt hàng và có sự trả lời của phía bên
kia, hai bên tổ chức thương lượng để đi tới một thoả thuận chung về điều kiện mua
bán.
Đàm phán Thương mại là một quá trình mà các bên tiến hành thương lượng,
thảo luận nhằm thống nhất mối quan tâm chung và những quan điểm còn bất đồng
có thể đi tới một hợp đồng Thương mại.
Trong đàm phán hợp đồng Thương mại quốc tế có ba hình thức đàm phán
đó là:
- Đàm phán qua thư tín.
- Đàm phán qua điện thoại.

- Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp.
Mỗi hình thức đàm phán đều có những ưu nhược điểm nhất định, tuỳ từng
trường hợp cụ thể mà kinh doanh có thể lựa hình thức đàm phán cho phù hợp.

4.3. Kí kết hợp đồng.
Việc giao dịch đàm phán kí kết hợp đồng nếu có kết quả sẽ dẫn tới việc ký
hợp đồng nhập khẩu. Hợp đồng nhập khẩu là hợp đồng kinh tế đặc biệt mà người
bán có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá cho người mua và người mua
có nghĩa vụ thanh toán một khoản tiền theo giá trị hợp đồng được chuyển giao theo
phương thức thanh toán quốc tế.
Hợp đồng Thương mại quốc tế là sự thoả thuận giữa các đương sự có trụ sở
kinh doanh ở các quốc gia khác nhau, theo đó một bên gọi là bên bán (bên xuất
khẩu) có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu cho bên khác gọi là bên mua (bên
nhập khẩu ) một tài sản nhất định gọi là hàng hoá. Bên mua có nghĩa vụ nhận hàng
và trả tiền.
Hình thức hợp đồng bằng văn bản là hình thức bắt buộc với đơn vị kinh
doanh xuất nhập khẩu ở nước ta. Các điều khoản là của hợp đồng do bên bán và bên
mua tự thoả thuận một cách chi tiết. Mặc dù trước đó đã có đơn hàng hoặc chào
hàng nhưng hai bên vẫn phải thiết lập một văn bản. Hợp đồng yếu tốạo cơ sở pháp
lí cụ thể cho việc trao đổi hàng hoá từ quốc gia này sang quốc gia khác và làm căn
cứ để xác định lỗi khi có tranh chấp xảy ra.
Hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu là bằng chứng bảo vệ quyền lợi và
trách nhiệm của các bên tham gia ký kết và giải quyết tranh chấp về mua bán xảy ra
giữa các bên. Hợp đồng tạo thuận lợi cho việc theo dõi, kiểm tra, thống kê việc thực
hiện hợp đồng theo quy định chung của của quản lý Nhà nước.
5. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Các bước thực hiện quy trình nhập khẩu.


Xin
giấy
phép
nhập
Mở L/C

(nếu
thanh
toán
Thuê
phương
tiện
vận
Mua
bảo
hiểm
hàng
Làm
thủ
tục
thanh

×