Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

thực trạng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển ngành nghề truyền thống ở tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.78 KB, 37 trang )

ĐỀ TÀI
Thực trạng và những giải pháp
chủ yếu nhằm phát triển ngành
nghề truyền thống ở tỉnh Hà Nam
1
II. C I M VÀ PHÂN LO I LÀNG NGH TRUY N TH NGĐẶ ĐỂ Ạ Ề Ề Ố 8
T ng s lao ngổ ố độ 14
II. TH C TR NG PHÁT TRI N NGÀNH NGH TRUY N TH NG T NH HÀ Ự Ạ Ể Ề Ề Ố Ở Ỉ
NAM 16
Ph ng h ng ch y uươ ướ ủ ế 27
Ki n ngh c a sinh viênế ị ủ 35
2
LỜI NÓI ĐẦU
Ngành nghề truyền thống là những nghề đã có từ lâu đời, với nhiều sản
phẩm nổi tiếng. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, ngành nghề
nông thôn nói chung và ngành nghề truyền thống nói riêng có vai trò rất quan
trọng, chúng là một bộ phận cơ bản của công nghiệp nông thôn. Các ngành
nghề nông thôn có khả năng thu hút nhiều lao động góp phần tích cực giải
quyết tình trạng thất nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động nhất là vùng
nông thôn.
Hà Nam là một tỉnh thuần nông, dân số nông thôn chiếm khoảng 90%
và trên 80% lực lượng lao động của cả tỉnh. Tuy nhiên, ngành nghề truyền
thống lại tập trung chủ yếu ở nông thôn. Trong quá trình phát triển kinh tế nói
chung của toàn tỉnh, ngành nghề nông thôn có đóng góp đáng kể. Nhưng mặc
dù trong mấy năm gần đây Nhà nước đã có những chính sách tích cực, tỉnh
cũng tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất đầu tư phát triển ngành nghề nông
thôn trong tỉnh, đặc biệt là ngành nghề truyền thống. Vì vậy trong mấy năm
gần đây ngành nghề nông thôn trong tỉnh đã đạt được những thành tựu đáng
kể, góp phần xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho người nông dân. Tuy
nhiên, các ngành nghề ở tỉnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Sự sống còn của
các ngành nghề truyền thống trong tỉnh vẫn hết sức bấp bênh, trôi nổi theo cơ


chế thị trường đầy biến động. Do đó, chưa tạo điều kiện để thu hút hết lực
lượng lao động cũng như sử dụng hết khả năng tay nghề của người thợ, nhằm
phát huy tối đa tiềm năng kinh tế vốn có của tỉnh.
Việc phát triển các ngành nghề nông thôn nói chung và ngành nghề
truyền thống nói riêng có ý nghiã vô cùng quan trọng, không chỉ về mặt kinh
tế, mà còn có ý nghĩa to lớn về mặt ổn định chính trị - xã hội.
Để góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội thực hiện CNH -
HĐH mà cụ thể là phát triển các ngành nghề truyền thống ở Hà Nam, cần phải
nghiên cứu, đánh giá những kết quả đạt được trong thời gian qua, và đưa ra
những giải pháp hữu hiệu. Phát triển nông thôn tỉnh Hà Nam, nhận thức được
lợi ích to lớn, thiết thực của ngành nghề nông thôn, trăn trở của người nông
dân, cộng với sự mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào công
cuộc phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, em mạnh dạn lựa chọn đề tài:
“Thực trạng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển ngành nghề
truyền thống ở tỉnh Hà Nam”.
Kết cấu của đề tài:
+ Lời nói đầu
+ Phần I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển các ngành nghề truyền
thống ở nông thôn nước ta.
+ Phần II: Thực trạng phát triển ngành nghề truyền thống ở tỉnh Hà Nam
3
+ Phần III. Một số giải pháp chủ yéu nhằm phát triển ngành nghề truyền
thống ở tỉnh Hà Nam
+ Kết luận và kiến nghị.
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN CÁC
NGÀNH NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở NÔNG THÔN NƯỚC TA
I. VỊ TRÍ CỦA NGÀNH NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRONG PHÁT
TRIỂN KINH TẾ NÔNG THÔN Ở NƯỚC TA
Ngành nghề thủ công Việt Nam xuất hiện rất sớm, đa dạng và phong
phú, bao gồm các nghề: gốm, chạm khắc gỗ, khảm xà cừ, sơn ta, đúc đồng,

dệt lụa, dệt thổ cẩm, đục đá, chạm bạc, mây giang đan, thêu ren trong đó có
nhiều lang nghề khá nổi tiếng như: gốm Hương Canh (Vĩnh Phúc), Thổ Hà
(Bắc Giang), Phù Lãng (Bắc Ninh), đúc đồng Đại Bái (Bắc Ninh), khảm trai
Chuông Tre (Hà Tây), mây tre đan Hà Tây, sơn Phú Xuyên (Ninh Bình),
chiếu cói Phát Diệm (Ninh Bình), chạm bạc Đồng Sâm (Thái Bình), khắc gỗ
Kim Thiều, Phù Khê (Bắc Ninh)
1. Khái niệm làng nghề
Nông thôn Việt Nam đã gắn liền với các thôn làng và các làng nghề.
Chúng là đặc trưng trong truyền thống kinh tế văn hoá của xã hội nông thôn
Việt Nam.
Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm chính thống về "làng
nghề".Có thể cho rằng, làng nghề là một thiết chế gồm hai yếu tố cấu thành là
"làng" và "nghề". Làng là một địa vực, một không gian lãnh thổ nhất định, ở
đó tập hợp những người dân cư quần tụ lại cùng sinh sống và sản xuất. Các
làng nghề gắn bó với các ngành nghề phi nông nghiệp, các ngành nghề thủ
công ở trong các thôn làng.
Vậy có thể quan niệm làng nghề là làng ở nông thôn có một hoặc một số
nghề thủ công nghiệp tách hẳn ra khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập.
Thu nhập từ các nghề đó chiếm trên 50% tổng giá trị sản lượng của địa
phương (thôn, làng). Có từ 50% số hộ và số lượng trở lên trong tổng số hộ và
số lượng lao động trong làng làm các ngành nghề tiểu thủ công ngiệp.
Tuy nhiên định nghĩa trên chỉ là một thước đo tương đối về mặt định
lượng. Khi phân loại làng nghề ta thấy có làng nhiều nghề, làng nghề truyền
thống, làng một nghề, làng nghề mới
4
Làng nghề truyền thống là những làng nghề xuất hiện từ lâu đời trong
lịch sử và còn tồn tại đến ngày nay, là những làng nghề tồn tại hàng trăm
năm, thậm chí hàng ngàn năm có liên quan chặt chẽ đến yếu tố truyền thống
và kinh nghiệm dân gian được tích luỹ lại qua nhiều thế hệ.
Làng nghề mới là những làng nghề xuất hiện do sự phát triển lan toả của

các làng nghề truyền thống trong những năm gần đây(những năm cách mạng),
đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Ngày nay, khái niệm làng nghề không chỉ bó hẹp ở những làng chỉ có
những người chuyên làm những ngành nghề thủ công nghiệp, mà khái niệm
làng nghề cần được hiểu là những làng có ngành nghề phi nông nghiệp chiếm
ưu thế về số hộ, số lao động và thu nhập so với nghề nông.
2. Vai trò của ngành nghề - làng nghề truyền thống trong phát triển
nông thôn
Hiện nay khu vực nông thôn nước ta vẫn chiếm gần 80% dân số của cả
nước và trên 70% lao động xã hội, là nơi sản xuất lương thực, thực phẩm cho
nhu cầu cơ bản của nhân dân, cung cấp nông sản, nguyên liệu cho công
nghiệp và xuất khẩu. Tuy nhiên, ở nông thôn nước ta cũng là nơi chiếm 90%
số người đói nghèo trong cả nước.
Bảng : dân số nứơc ta phân theo khu vực thành thị và nông thôn (nghìn
người )
Năm Thành thị Nông thôn
1990 12880.3 53136.4
1994 14425,6 56398,9
1996 15419,9 57736,5
1998 17464,6 57991,7
2002 20022,1 59705,3
2004 21737,2 60294,5
2005 22336,8 60769,5
2006 22792,6 61344,2
Nguồn: Niên gíam thống kê CHXHCN Việt Nam, NXB Thống kê 2007)
(SGK địa lý 12 – NXB giáo dục)
Trong khi đó quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, lao động nông
nghiệp chuyển dần sang làm công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề phụ. Do đó
5
phát triển ngành nghề truyền thống có vai trò rất quan trọng trong quá trình

phát triển nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
Sự phát triển ngành nghề truyền thống nông thôn trong những năm qua
đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đã khẳng định vai trò
tác dụng tích cực của nó trong quá trình phát triển đất nước nói chung, phát
triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn nói riêng.
Thứ nhất: Phát triển làng nghề truyền thống thu hút nhân lực, tạo thêm
việc làm cho người lao động, thúc đẩy quá trình phân công lao động ở nông
thôn.
Giải quyết việc làm cho người lao động là vấn đề bức xúc số một hiện
nay, bởi dân số và lao động gia tăng nhanh, diện tích canh tác trên đầu người
thấp và ngày càng thu hẹp, khả năng thu hút lao động hiện rất thấp, tỷ lệ thất
nghiệp và bán thất nghiệp cao. Hơn nữa, khu vực nông thôn hiện nay đang sử
dụng khoảng 70% lực lượng lao động xã hội nhưng khoảng hơn 1/4 thời gian
lao động của họ chưa được sử dụng.
Bảng 01:tỉ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn.
Tỷ lệ sử
dụng TGLĐ
năm 1996
(%)
Tỷ lệ sử
dụng TGLĐ
năm 2004
(%)
Tỷ lệ sử
dụng TGLĐ
năm 2005
(%)
Tăng/giảm tỉ
lệ sd TGLĐ
năm 2005 so

2004 (%)
Cả nước 72,21 79,1 80,65 1,55
Đồng bằng sông
Hồng
75,69 80,21 78,75 -1,46
Đông bắc 78,68 80,31 1,63
Tây bắc 79,01 77,42 78,44 1,02
Bắc trung bộ 73,35 76,13 76,45 0,32
Duyên hải Nam
trung bộ
70,69 79,11 77,81 -1,3
Tây nguyên 74,98 80,60 81,61 1.01
Đông nam bộ 61,76 81,34 82,90 1,56
Đồng bằng SCL 68,16 78,37 80,00 1.63
Nguồn : kết quả điều tra lao động, việc làm các năm của bộ Lao động
thương binh xã hội ( giáo trình “ kinh tế nông nghiệp” trang 112 – năm 2007”
Vì vậy phát triển làng nghề truyền thống có vai trò rất quan trọng trong
việc đóng góp vào việc giải quyết, tạo việc làm cho người lao động
6
Ngoài ra sự phát triển của các làng nghề - ngành nghề truyền thống còn
kéo theo sự phát triển của nhiều ngành nghề dịch vụ khác, tạo được nhiều
việc làm cho người lao động.
Thứ hai: Phát triển làng nghề - ngành nghề truyền thống góp phần tăng
thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống dân cư nông thôn.
Với sự phát triển ngành nghề truyền thống ở nông thôn, thu nhập của người
nông dân ngày càng được nâng cao từ sản xuất hàng hoá ngành nghề, đã thu
hút một bộ phận lớn nông dân chuyển hẳn sang hoạt động ngành nghề phi
nông nghiệp.
Bảng 02:Thu nhập bình quân lao đông/tháng ở một số làng nghề (2005)
Đơn vị: VN đồng

ST
T
Ngành nghề Thu nhập bình quân
1 Lao động làng gốm (Bát Tràng) 630 000
2 Thợ điêu khắc gỗ (Hà Tây) 900 000
3 Thợ chạm bạc (Thái Bình) 720 000
4 Thợ thêu ren (Thanh Liêm - Hà Nam) 680 000
Nguồn: Kết quả điều tra ngành nghề nông thôn 2005
Thứ ba:Sự phát triển các làng nghề - ngành nghề truyền thống đã thúc
đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, góp phần tăng trưởng
(GDP).
Bảng 03: Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước.
Đơn vị: %
Năm 2000 2002 2003 2005 2007 2010
(ước tính)
GDP 100 100 100 100 100 100
Nông nghiệp 24,53 22,99 21,8 20,89 19,34 15 – 16%
Công nghiệp 36,73 38,55 39,97 41,03 41,90 43 – 44%
Dịch vụ 38,74 38,46 38,23 38,10 38,76 40 – 41%
Nguồn: Số liệu kinh tế - xã hội tổng cục thống kê
Phát triển làng nghề - ngành nghề truyền thống nông thôn góp phần tăng
trưởng GDP, tạo ra khối lượng hàng hoá đa dạng và phong phú phục vụ tiêu
dùng và xuất khẩu, là một trong những nội dung quan trọng đối với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng giảm dần tỷ
trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp - dịch vụ trong nề kinh tế
quốc dân.
7
Thứ tư: Phát triển làng nghề truyền thống đã góp phần gia tăng giá trị
sản phẩm của các địa phương. Sự phát triển các làng nghề, ngành nghề truyền
thống đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội ở địa

phương, mà trước hết là giá trị sản phẩm của địa phương tăng đáng kể.
Thứ năm: Các làng phát triển góp phần huy động vốn nhàn rỗi trong
dân, cũng như khai thác tốt các nguồn lực sẵn có tại địa phương.
Đối với các hộ gia đình, thông thường họ tận dụng. Như vậy, mức huy
động nhàn rỗi trong dân mới chỉ đạt khoảng 36% trong tổng lượng vốn hiện
có. Ngành nghề nông thôn phát triển là một biện pháp rất tốt nhằm huy động
những nguồn vốn này vào sản xuất.
Thứ sáu: Về giá trị văn hoá. Như ta đã biết mỗi làng nghề là một cộng
đồng dân cư sinh sống tạo thành làng quê hay phường hội. Đó cũng đồng thời
là một cộng đồng văn hoá, có phong tục, tập quán, tín ngưỡng (đền miếu thờ
cúng), nếp sống, lao động sản xuất vừa có nét chung văn hoá dân tộc, vừa
mang nét riêng của mỗi làng.
II. ĐẶC ĐIỂM VÀ PHÂN LOẠI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
1. Đặc điểm của làng nghề truyền thống
Làng nghề là cả một môi trường kinh tế - xã hội và văn hoá. Nó bảo lưu
những tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền từ đời này sang đời khác, hun
đúc ở các thế hệ nghệ nhân tài hoa và những sản phẩm độc đáo mang bản sắc
riêng. Sản phẩm của các làng nghề truyền thống là những sản phẩm văn hoá,
có giá trị mỹ thuật cao. Do đó, phát triển các làng nghề góp phần đắc lực vào
việc giữ gìn các giá trị văn hoá của dân tộc Việt Nam trong quá trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá.
Làng nghề truyền thống có thể có một nghề hoặc vài nghề truyền thống.
Nếu làng có vài nghề thì có một nghề chính và tên nghề đó được gọi tên làng
nghề. Sản phẩm của làng nghề có quy trình công nghệ nhất định, được truyền
từ thế hệ này sang các thế hệ khác.
Trong các làng nghề truyền thống, trước đây chủ yếu là dậy nghề theo
phương thức truyền nghề mà trước tiên là trong phạm vi gia đình. Nhìn
chung, các nghề được bảo tồn trong từng gia đình của các làng, xã mà ít được
phổ biến ra bên ngoài, bởi vì ở một số nơi quy định truyền nghề rất chặt chẽ.
Tuy nhiên, từ sau khi thực hiện cải cách công thương nghiệp (1957 - 1960)

phương thức dạy nghề và truyền nghề trở nên đa dạng và phong phú hơn.
8
Làng nghề truyền thống là một cụm dân cư sinh sống tạo thành làng quê
hay phường hội. Đó chính là cộng đồng nhỏ về văn hoá. Những phong tục,
tập quán, đền thờ, miếu mạo của mỗi lang xã vừa có nét chung của văn hoá
dân tộc, vừa có nét riêng của mỗi làng quê, làng nghề. Các sản phẩm của làng
nghề truyền thống làm ra là sự kết tinh, sự giao lưu và phát triển các giá trị
văn hoá, văn minh của dân tộc.
Các làng nghề có đặc điểm là thường yêu cầu vốn đầu tư không lớn
nhưng có khả năng thu hút nhiều lao động, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội
cao.
Làng nghề gắn bó chặt chẽ không tách rời với nông nghiệp nông thôn
về lao động, nguyên liệu, thị trường Ở nông thôn gần như 100% người làm
làng nghề đều có đất nông nghiệp, có thể do họ canh tác hoặc phần lớn là cho
thuê hoặc nhượng cho người khác canh tác. Trong điều kiện toàn cầu hoá nền
kinh tế thế giới như hiện nay, sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ, nếu phải
xem xét để tìm ra được những sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường
quốc tế của những nước đang phát triển như Việt Nam thì trên hết phải kể đến
sản phẩm của các làng nghề thủ công truyền thống.
2.Phân loại ngành nghề - làng nghề truyền thống.
2.1.Nhóm ngành nghề truyền thống
*Nhóm 1: Chế biến nông - lâm - thuỷ sản: bao gồm các ngành nghề sau:
Làm nón, dệt chiếu, thợ mộc, bánh đa nem, tương, chế biến gỗ, bún bánh, đậu
phụ, chế biến gỗ, rượu
*Nhóm 2: Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và xây dựng: Bao gồm
các ngành nghề chủ yếu sau: dệt, thêu, mây giang đan, bao manh, gốm sứ, sơn
mài, chạm khắc gỗ, thảm, chạm mạ vàng bạc, đúc đồng, dệt tơ tằm, dệt vải
các loại, sừng, hàn, rèn
*Nhóm 3: Ngành nghề khác: Bao gồm một số nghề như sau: dịch vụ
thương mại mại, vận tải

2.2.Làng nghề truyền thống
Làng nghề truyền thống ở Việt Nam có thẻ được phân chia thành một số
loại làng nghề chủ yếu như sau:
*Làng nghề chế biến nông sản thực phẩm.
Đây là những làng nghề chế biến ra những sản phẩm mà nguyên liệu
chủ yếu là từ nông nghiệp. Như làng nghề làm bún bánh, làm đậu, làng nghề
9
tương bần Đặc điểm của làng nghề này là vốn đầu tư thấp, thu hút ít lao
động, nguyên liệu sẵn có tại từng địa phương.
*Làng nghề dệt may.
Đây là làng nghề mang tính chất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
Nguyên liệu là sản phẩm của ngành công nghiệp ở địa phương hoặc ở
vùng khác, một phần phải nhập khẩu.
*Làng nghề thủ công mỹ nghệ.
Bao gồm một số nghề như: mây giang đan, thêu, thảm
*Nhóm các làng nghề khác
Việc phân loại như trên chỉ mang tính chất tương đối, bởi lẽ một số
nghề có thể vừa thuộc nhóm ngành nghề này, lại vừa thuộc nhóm khác. Một
số nghề đối với địa phương cơ sở được coi là nghề truyền thống nhưng trên
phạm vi vĩ mô thì có thể chưa được coi là làng nghề truyền thống.
III. SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH NGHỀ VÀ
LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở NƯỚC TA.
Xuất phát từ vai trò của ngành nghề và làng nghề trong việc phát triển
kinh tế nông thôn, đồng thời với thực tế đang diễn ra ở khu vực nông thôn và
trên cơ sở lý luận về khu vực nông thôn.
Làng nghề truyền thống là một bộ phận của tiểu thủ công nghiệp với
những trình độ khác nhau được phân bố ở nông thôn, gắn bó chặt chẽ với kinh
tế nông thôn (đặc biệt là nông nghiệp), vừa là điều kiện vừa là kết quả của quá
trình tập trung hoá và phân công lao động ở nông thôn.
Việc phát triển các làng nghề truyền thống là nội dung rất quan trọng

trong việc phát triển kinh tế lãnh thổ của khu vực nông thôn và xây dựng
nông thôn mới.
Đồng thời ta thấy thực tế ở khu vực nông thôn hiện nay nổi lên một số
vấn đề sau:
Lao động ở nông thôn đang dư thừa rất lớn, đồng thời thời gian sử dụng
lao đọng ở nông thôn rất thấp: Năm 2005 tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở
nông thôn mới đạt 80,65% tổng quỹ thời gian lao động. Trong khi đó quỹ đất
nông nghiệp rất thấp (trung bình 0,1 ha/người) và ngày càng bị thu hẹp
nhường chỗ cho những khu dân cư, khu đô thị Vì vây, cần phải phát triển
các ngành nghề phụ một cách mạnh mẽ nhằm sử dụng quĩ thời gian nhàn dỗi
của nông dân.
10
Thu nhập của người lao động làm nông nghiệp rất thấp. Ta thấy, bình
quân đất nông nghiệp là 0,1 ha/người, mà thu nhập của 1 ha đất làm nông
nghiệp là 15 triệu đồng/năm. Như vậy, thu nhập của 1 lao động làm nông
nghiệp bình là 1,5 triệu đồng/người/năm. Do đó cần thiết phải phát triển
ngành nghề nông thôn nói chung và ngành nghề truyền thống nói riêng nhằm
tăng thu nhập cho người dân.
Khu vực nông thôn hiện nay thì hầu như vùng nào cũng có ngành nghề
phụ; mà đội ngũ lao động thì rất dồi dào. Đó là điều rất thuận lợi cho phát
triển ngành nghề nông thôn. Thực tế đã cho thấy ở những làng nghề nào phát
triển được nghề truyền thống thì ở đó người dân ai cũng đủ việc làm, có thu
nhập cao, đời sống ổn định và được cải thiện, bộ mặt nông thôn ngày càng
được thay đổi nhanh chóng, xóm làng ngày càng văn minh và tươi đẹp.
Tóm lại, sự phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp dưới hình thức
các làng nghề sẽ tạo ra thu nhập cao, ổn định đời sống dân cư làng nghề, qua
đó thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ ruộng đất. Với tình trạng ruộng đất manh
mún như hiện nay, nếu không thực hiện được quá trình tích tụ tập trung ruộng
đất thì sẽ không đưa được nền nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá. Quá trình
chuyển đổi nông nghiệp nông thôn sang sản xuất hàng hoá đòi hỏi phải tạo ra

những cơ sở vững chắc cho sự tích tụ và tập trung ruộng đất. Để là tất yếu
khách quan phải đẩy mạnh phát triển làng nghề truyền thống.
11
PHẦN II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH NGHỀ
TRUYỀN THỐNG Ở TỈNH HÀ NAM
I. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN – KINH TẾ – XÃ HỘI CỦA TỈNH HÀ
NAM CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH NGHỀ
TRUYỀN THỐNG.
1. Đặc điểm tự nhiên.
Hà Nam nằm ở vị trí cửa ngõ phía Nam của thủ đô Hà Nội ( trung tâm
chính trị thương mại du lịch, khoa học kỹ thuật văn hoá cả nước), cách Hà
Nội gần 60 km trên đường giao thông xuyên Bắc-Nam làm cho Hà Nam có
điều kiện thuận lợi về giao lưu kinh tế văn hoá giữa hai miền Nam-Bắc và các
tỉnh trong khu vực Đồng bằng sông Hồng, nhất là thủ đô Hà Nội.
Về Giáp ranh, tỉnh Hà Nam giáp các tỉnh sau:
+ Phía Bắc giáp tỉnh Hà Tây (nay là Hà nội mới).
+ Phía Đông giáp tỉnh Hưng Yên và Thái Bình.
+ Phía Nam giáp tỉnh Nam Định và Ninh Bình.
+ Phía Tây giáp tỉnh Hoà Bình.
Về vị trí địa lý:
Từ 20°21′ đến 20°43′ vĩ độ Bắc
Từ 105°40′ đến 106°10′ kinh độ Đông.
Về giao thông:
Hà Nam có vị trí rất thuận lợi về giao thông
Đường bộ có các tuyến: Quốc lộ 1A, quốc lộ 21A, quốc lộ 21B, quốc lộ
38, đường sắt Bắc-Nam chạy qua.
Đường sông: Có sông Hồng, sông Đáy, sông Châu, sông Nhuệ chảy qua
giúp cho Hà Nam rất thuận lợi về giao lưu kinh tế-văn hoá xã hội với cả nước
và vùng Đồng bằng sông Hồng.
Trong tương lai, Quốc lộ 1A đực nâng cấp, tuyến hành lang kinh tế

đường 21: Sơn Tây-Hoà Mạc-Xuân Mai-Miếu Môn được hình thành, cầu Yên
Lệnh thông sang Hưng Yên được xây dựng… sẽ tạo nhiều thuận lợi cho Hà
Nam giao lưu với các trung tâm kinh tế, văn hoá của cả nước và vùng Đồng
bằng sông Hồng, các tỉnh phía Tây Bắc- Bắc Bộ.
Hà Nam là một tỉnh vừa có đồi núi (tập trung ở hai huyện Kim Bảng và
Thanh liêm) và đồng bâừng, có trữ lượng tài nguyên khoáng sản lớn chủ yếu
là đá vôi với trữ lượng 7,4 tỷ m
3
, chất lượng tốt (đạt yêu cầu làm xi măng mác
12
cao), dễ khai thác, gần thị trường tiêu thụ, ngoàI ra còn nhiều mỏ sét, nhiều đá
quý… rất thuận lợi cho việc phát triển công nghiệp sản xuất vật liệu xây
dựng.
Hà Nam có nhiều dãy núi đá vôi với các hang động, cảnh quan đẹp,
nhiều khu di tích lịch sử, đền chùa, gần khu du lịch chùa Hương (huyện Mỹ
Đức-Hà Tây)… nên có tiềm năng rất lớn cho phát triển cho ngành du lịch.
Khi du lịch phát triển cũng sẽ tạo đIều kiện cho ngành nghề, du lịch phát
triển.
Tỉnh Hà Nam có 5 huyện: Kim Bảng, Lý Nhân, Duy Tiên, Bình Lục, và
Thị xã Phủ Lý- Trung tâm kinh tế – chính trị – văn hoá của tỉnh. Toàn tỉnh có
116 xã, phường.
Tổng diện tích tự nhiên là 84 950 ha. Dân số thành thị chiếm 9,0%, dân
số nông thôn chiếm 91,0%. Mật độ dân số khoảng 950 người/km
2
.
Hà Nam là một tỉnh có truyền thống sản xuất nông nghiệp từ lâu đời,
năng suất lúa đạt cao. Nguồn nguyên liệu cho phát triển ngành nghề rất phong
phú như: lương thực thực phẩm, đay
Do nhiều thuận lợi về điều kiện tự nhiên, giao thông nên các hoạt
động sản xuất phi nông nghiệp ở Hà Nam đã phát triển từ rất lâu đời, có nhiều

ngành nghề đang phát triển rất mạnh, trong mấy năm qua các ngành nghề
truyền thống đã đóng phóp to lớn vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội của
địa phương.
2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
2.1. Phương hướng sản xuất - Cơ cấu sản xuất.
Hà Nam là một tỉnh nông nghiệp.Trong mấy năm qua nền kinh tế có
bước phát triển khá, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm từ 6 - 10%,
tuy nhiên vẫn chưa thoát khỏi tình trạng trì trệ lạc hậu.
Bảng 04: Tỷ trọng các ngành trong GDP toàn tỉnh (theo giá hiện hành)
ĐV:(%)
Cơ cấu GDP 1997 2000 2002
Nông nghiệp 40,02 37,03 35,93
Công nghiệp 28,62 30,75 32,48
Dịch vụ 31,36 32,22 31,59
Nguồn: Niêm giám thống kê tỉnh Hà Nam
13
Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của tỉnh đã giảm đáng kể 4,09% trong
5 năm từ khi tách tỉnh(1997). Công nghiệp tăng rất chậm, chỉ tăng 3,86%
trong 5 năm, Điều này chứng tỏ quá trình chuyển dịch cơ cấu của tỉnh diễn ra
rất chậm.Vì vậy, trong thời gian tới cần phải có các biện pháp đẩy mạnh tốc
độ phát triển công nghiệp thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hưiứng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2.2. Dân số - Lao động.
Trong cơ cấu lao động, lao động nông chiếm tỷ lệ 76% thể hiện một nền
sản xuất thấp kém. Dân số tập trung quá nhiều ở nông thôn (chiếm trên 90%
dân số) và không ngừng tăng lên, trong khi diện tích đất canh tác thấp và ngày
càng giảm, hậu quả là tình trạng thất nghiệp trầm trọng.
B ng 05: C c u lao ng 3 khu v c c a H Nam.ả ơ ấ độ ự ủ à
Đơn
vị

1997 2000 2002
Tổng số lao động LĐ 306 258 388 903 410 708
- Nông nghiệp % 83,30 81,45 76,00
- Công nghiệp % 7,80 8,20 12,30
- Dịch vụ % 8,90 10,35 11,70
Nguồn: Niên giấm thống kê tỉnh Hà Nam
Lao động nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn là một thách thức trên con
đường phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Để thực hiện thành công sự nghiệp
công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn thì phải từng bước thực
hiện chuyển dịch cơ cấu lao động ngay tại vùng nông thôn, phải chú trọng
phát triển công nghiệp nông thôn mà trước hết là tạo điều kiện cho các ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp, thủ công nghiệp phát triển.
Tuy nghiên, lực lượng lao động của tỉnh Hà Nam khá dồi dào, trẻ, cần
cù chịu khó là tiềm năng cho phát triển các ngành kinh tế của tỉnh nói chung
và ngành nghề nông thôn nói riêng.
2.3. Cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thật.
Tỉnh Hà Nam là một trong những tỉnh sớm hoàn thiện hệ thống đường
giao thông nông thôn. Hiện nay, 100% số xã có đường ô tô đến tận trung tâm
xã, 100% số xã có điện lưới quốc gia. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống lưới điện,
đường giao thông nông thôn đang xuống cấp trầm trọng.
14
Tỉnh Hà Nam là một trong những tỉnh được Nhà nước công nhận phổ
cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở sớm so với cả nước. Trình độ dân trí
cao thì khả năng tiếp thu công nghệ mới, thay đổi mẫu mã có nhiều sản thuận
lợi, đáp ứng nhu cầu về chất lượng sản phẩm ngày càng tăng của quá trình hội
nhập kinh tế.
2.4. Phong tục, tập quán.
Hà Nam là một trong các tỉnh thuộc khu vực kinh tế Đồng bằng sông
Hồng. Do đó có những nét chung về phong tục tập quán cổ truyền của cả
vùng. Cũng là vùng mang đặc trưng của nền văn hoá lúa nước, dân số chủ yếu

tập trung ở khu vực nông thôn làm nông nghiệp. Văn hoá của các làng nghề
với các thể chế cộng đồng chứa đựng những quan hệ huyết thống, láng giềng,
nghề nghiệp với các phong tục tập quán, tín ngưỡng, lễ hội mang đậm những
sắc thái riêng, đã tạo nên bản sắc truyền thống văn hoá phong phú của dân
tộc. Mỗi làng nghề đều thờ phục một thành hoàng làng hoặc ông tổ nghề.
Làng nghề mây giang đan Ngọc Động hiện có đền thờ ông tổ của nghề, nơi
đây cũng là nơi các hộ tham gia sản xuất tập chung.
Tóm lại: Hà Nam là một tỉnh có vị trí rất thuận lợi cho phát triển, giao
lưu kinh tế nói chung và phát triển ngành nghề nông thôn phát triển. Hà Nam
có hệ thống đường giao thông rất thuận lợi cho việc mở rộng thị trường tiêu
thụ, rất thuận lợi cho việc cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất ngành nghề.
Hà Nam hiện nay vẫn là một tỉnh lao động chủ yếu làm nông nghiệp, do
đó tỷ lệ lao động thất nghiệp vẫn cao: khoảng 6% - 10%/năm. Đặc biệt là tỷ lệ
sử dụng thời gian lao động ở nông thôn mới đạt 80,65% (2005), nên thời gian
nhàn rỗi của người dân là rất nhiều. Do đó việc thu lao động vào sản xuất
ngành nghề là rất thuận lợi.Đây là một thuận lợi rất lớn cho phát triển ngành
nghề phi nông nghiệp.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi thì việc phát triển ngành nghề
truyền thống ở Hà Nam hiện đang gặp khó khăn rất lớn, về cơ sở hạ tầng hiện
đang xuống cấp rất trầm trọng mà chưa được tu sửa.
Lực lượng lao động tuy dồi dào nhưng chưa được đào tạo nghề một
cách đầy đủ.
Vấn đề ô nhiễm môi trường cũng đang là một khó khăn nổi lên đối với
các làng nghề.
15
II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở
TỈNH HÀ NAM
Nghiên cứu thực trạng ngành nghề và làng nghề có ý nghĩa rất quan
trọng, bởi từ đó có thể định hướng chính xác, tìm ra nguyên nhân, các cơ chế
và quy luật vận động, các mối quan hệ sinh thái, xã họi, kinh tế cho sự hình

thành, phát triển và biến đổi của các nghề, các trung tâm sản xuất hàng thủ
công. Nó sẽ giúp cho chúng ta những căn cứ để suy nghĩ, tính toán và từ đó
có cơ sở để hoạch định chính sánh phát triển làng nghề và ngành nghề trong
bối cảnh đổi mới mở cửa, đẩy nhanh nhịp độ phát triển nền kinh tế, xã hội
theo hướng công nghiệp hiện đại.
1. Số lượng và quy mô làng nghề tỉnh Hà Nam
Hiện nay, Hà Nam có tổng cộng là 40 làng nghề, trong đó có 16 làng
nghề truyền thống và 24 làng nghề mới.
Xét trên tiêu chí chủng chủng ngành nghề, ở Hà Nam bao gồm các
ngành nghề chủ yếu sau:
+ Làng nghề chế biến nông sản thực phẩm
+ Làng nghề dệt may
+ Làng nghề thủ công mỹ nghệ
+ Làng nghề cơ khí
Trong đó làng nghề thủ công mỹ nghệ chiếm 65% tổng số làng nghề
hiện có ở tỉnh, đây là nhóm làng nghề đang phát triển rất mạnh mẽ trong toàn
tỉnh và sản phẩm của các làng nghề này đang rất được ưa chuộng trên thị
trường đặc biệt là thị trường nước ngoài. Làng nghề chế biến nông sản thực
phẩm cũng chiếm tới 20% tổng số làng nghề trong tỉnh, làng nghề dệt may
chiếm 12,5%, làng nghề cơ khí chiếm 2,5% (chỉ có một làng nghề) .
Nếu chia theo nhóm nghề ta có như sau: Mây giang đan,Thêu ren,Sản
xuất bánh đa nem, Chế biến lương htực phẩm, Cơ khí, Làm trống, Sừng,
Nghề dệ, may, ươm tơ …
Trong đó thì chỉ có một số làng nghề là làng nghề truyền thống, còn lại
là làng nghề mới. Nổi bật nhất và hiệh đang phát triển mạnh là những làng
nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống như: dệt lụa Nha Xá (Duy Tiên), mây
giang đan Ngọc Động (Duy Tiên), thêu ren Thanh Hà (Thanh Liêm)… ngoài
ra một số làng nghề hiện nay đang hoạt động cầm chừng, sản xuất mang tính
chất gìn giữ nghề truyền thống do gặp một số khó khăn trong sản xuất, đặc
16

biệt là khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, trong tổng số nghề
ở Hà Nam thì làng nghề phát triển tốt chiếm khoảng 35%, khá 40% còn lại là
hoạt động cầm chừng. Trong một số làng nghề trước đây chỉ có một nghề thì
nay có nhiều nghề thể hiện sự tìm tòi, năng động trong nền kinh tế thị trường
nhằm hạn chế những rủi ro trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ngành nghề nông thôn tỉnh Hà nam chủ yếu là hình thức hộ gia đình
kiêm ngành nghề : chiếm tới 88,12% tổng số cơ sở, hộ tham gia hoạt động
ngành nghề nông thôn. Hộ chuyên hoạt động sản xuất sản xuất ngành nghề
còn chiếm tỷ lệ nhỏ: 10, 3%. Hộ chuyên hoạt động sản xuất ngành nghề chủ
yếu thuộc các làng nghề truyền thống, như làng nghề mây giang đan Ngọc
Động (Duy Tiên), làng nghề thêu ren Thanh Hà (Thanh Liêm), làng nghề sản
xuất bánh đa nem Nguyên Lý (Lý Nhân), làng nghề lụa Nha Xá (Duy Tiên)
Tuy nhiên, ở các làng nghề truyền thống này thì đa số hộ gia đình vẫn làm
nông nghiệp kiêm hoạt động ngành nghề. Đây là đặc thù của vùng nông thôn
Việt Nam nói chung và Hà Nam nói riêng.
Trong vài năm gần đây cơ cấu, tổ chức sản xuất của một số ngành nghề
đã thay đổi. Khác với trước kia, các hộ ngành nghề đều là xã viên hợp tác xã
ngành nghề, và các hợp tác xã đứng ra tiêu thụ sản phẩm cho toàn làng nghề.
Hiện nay, ở một số làng nghề đã xuất hiện các doanh nghiệp tư nhân, công ty
trách nhiệm hữu hạn, các cơ sở tư nhân làm đầu mối thu gom sản phẩm và
giao mẫu hàng cho các họ gia đình. Các hộ gia đình tham gia sản xuất ngành
nghề làm vệ tinh cho các doanh nghiệp, cơ sở cùng phát triển. Một số nghề
trruyền thốmg mà sản phẩm đang được người tiêu dùng ưa chuộc thì không
những các hộ trong làng nghề tham gia sản xuất mà đã có xu hướng mở rộng
ra các xã khác, vùng khác.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có một cơ sở lớn nào đứng ra làm đầu mối thu
gom sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm cho các hộ trong toàn làng nghề. Đó là khó
khăn lớn nhất đối với làng nghề, nó đã ảnh hưởng đến việc tiêu thụ, thu nhập
của hộ sản xuất ngành nghề.
Tóm lại, cơ cấu ngành nghề nông thôn nói chung ngành nghề truyền

thống nói riêng ở tỉnh Hà Nam vẫn còn nhỏ lẻ, đa số vãn là hộ gia đình ngành
nghề kiêm làm nông nghiệp.
2. Lao động và chuyên môn, kĩ thuật của lao động ngành nghề
truyền thống
17
Trung bình diện tích canh tác trên nhân khẩu toàn tỉnh là 448 m
2
/nhân
khẩu. Đặc biệt ở một số địa còn rất thấp như ở Thanh Hà (Thanh Liêm) diện
tích canh tác bình quân là 346 m
2
/nhân khẩu; ở Ngọc Động (Duy Tiên) diện
tích canh tác chỉ là 324 m
2
/nhân khẩu; ở Nguyên Lý (Lý Nhân) bình quân 342
m
2
/nhân khẩu.
Cũng chính vì diện tích canh tác thấp (chưa đạt 1 sào Bắc Bộ trên một
đầu người) nên lực lượng lao động ngành nghề nông thôn rất lớn.
Lực lượng lao động ngành nghề tập trung chủ yếu ở hình thức hộ gia
đình làm nông nghiệp kiêm hoạt động ngành nghề (chiếm 73,3% tổng lao
động ngành nghề), các thành viên trong gia đình tham gia sản xuất ngành
nghề trong những lúc nông nhàn; hộ chuyên ngành nghề ở tỉnh hiện vẫn
chiếm tỷ lệ nhỏ (9,5% tổng lao động ngành nghề). Theo loại ngành nghề thì
lực lượng lao động ngành nghề nông thôn tập trung ở hai nhóm chính là sản
xuất tiểu thủ công nghiệp- công nghiệp (chiếm 50%) và chế biến lương thực
thực phẩm (chiếm 16%).
Như vậy, sự phát triển của ngành nghề truyền thống ở tỉnh đã tạo ra
hàng nghìn chỗ làm việc cho người nông dân những lúc nông nhàn, giải quyết

việc làm tại chỗ cho nông dân mà không phải dời quê hương ra các đô thị lớn
kiếm việc làm những lúc nông nhàn.
Có thể nói các làng nghề đã có những đóng góp tích cực trong việc nâng
cao đời sống văn hoá, tình thần của người dân mà trực tiếp là những lao động
nghề. Về trình độ chuyên môn kỹ thuật do hầu hết các nghề là đơn giản nên
lao động chủ yếu không được đào tạo hoặc chỉ được học tập qua những lớp
ngắn hạn. Các làng nghề truyền thống chủ yếu đào tạo bằng phương thức
truyền nghề.
Tuy nhiên, do các làng nghề phát triển ngày càng mạnh một số lao động
đã tách ra tham gia vào đội ngũ lao động quản lý. Một số trong những người
này đã qua các lớp trung cấp, một số có trình độ đại học. Mặc dù vậy, trình độ
lao động nhìn chung vẫn còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát
triển.
Thực tế cho thấy lao động ngành nghề nông thôn tỉnh Hà Nam phần lớn
chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật, đặc biệt là lao động sản xuất nghề
truyền thống như mây giang đan, thêu ren….
Tổng số lao động đã tăng lên nhưng số lao động không có chuyên môn
kỹ thuật ( lao động tự học) vẫn chiếm phần lớn. Điều này có nghĩa là phần lớn
lao động ngành của tỉnh là tự học, tự nâng cao tay nghề trong quá trình sản
18
xuất. Việc mở rộng các lớp đào tạo chuyên môn kỹ thuật ngành nghề hoặc cử
lao động đi học ở các trung tâm đào tạo nghề của tỉnh, Trung Ương còn hạn
chế. Số lao động là công nhân kỹ thuật, thợ giỏi, thợ cả, nghệ nhân còn chiếm
tỷ lệ nhỏ chưa đáp ứng đủ cho quá trình đẩy mạnh phát triển ngành nghề một
cách nhanh chóng. Các nghệ nhân, thợ giỏi người có trình độ cao đẳng, đại
học trong sản xuất ngành nghề truyền thống của tỉnh hầu như rất ít…
Nhìn chung, chất lượng lao động ngành nghề truyền thống của tỉnh còn
thấp, thiếu lực lượng lao động có tay nghề cao,đặc biệt là lao động quản lý có
trình độ cao. Năng lực đội ngũ lao động quản lý trong các cơ sở ngành nghề
có nhiều hạn chế, còn thiếu những hiểu biết về kinh tế thị trường. Trong thời

gian tới cần phải có những biện pháp nâng cao chất lượng lao động, nhất là
những người quản lý trong các cơ sở chuyên ngành nghề, có như thế thì
ngành nghề nông thôn nói chung và ngành nghề truyền thống nói riêng mới
có thể phát triển vững chắc được.
3. Vốn đầu tư cho sản xuất ngành nghề.
Vốn là yếu tố quan trọng đảm bảo cho các làng nghề, ngành nghề truyền
thống hoạt động được trong cơ chế thị trường. Nhu cầu về vốn cho sản xuất ở
các làng nghề đòi hỏi ngày càng lớn. Trước đây, vốn của các hộ sẳn xuất
kinh doanh trong các làng nghề rất nhỏ bé, thường là vốn tự có của các hộ gia
đình hoặc vay mượn bà con họ hàng, láng giềng, nên quy mô sản xuất không
được mở rộng. Ngày nay, trong trong điều kiện của nền kinh tế thị trường
cạnh tranh khốc liệt, nhu cầu về vốn đã khác trước, đòi hỏi các hộ, cơ sở sản
xuất kinh doanh trong các làng nghề phải có lượng vốn khá lớn để đầu tư cải
tiến công nghệ, đưa thiết bị máy móc tiên tiến vào một số khâu, công đoạn,
khâu công việc có thể thay thế kỹ thuật lao động thủ được. Nhằm nâng cao
năng suất lao động, chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
So với các làng nghề trong cả nước ở Hà Nam mức vốn đầu tư không
lớn. Hầu như ở Hà Nam ngành nghề đều có mức đầu tư thấp như: mây giang
đan, thêu làm nón nhưng đối với các cơ sở thì mức đầu tư tương đối cao
đối với các nghề này.
Tỷ lệ hộ/cơ sở phải đi vay vốn chiếm từ 25 - 60% trong đó, đối với cơ
sở chuyên ngành nghề tỷ lệ vay ngân hàng đạt tỷ lệ cao 76,9% so với 28,53%
hộ chuyên và 21,52% hộ kiêm. Như vậy, tỷ lệ vốn vay từ ngân hàng còn rất
thấp đối với hộ gia đình hoạt động ngành nghề, nguồn vốn từ các chương
trình Nhà nước không đáng kể, mặc dù phát triển ngành nghề nông thôn là
19
một chương trình kinh tế lớn của Hà Nam song xem ra còn thiếu những biện
pháp cụ thể như hỗ trợ vốn cho người sản xuất.
Yêu cầu về vốn đầu tư ban đầu cho các ngành nghề ở Hà Nam thường
không lớn, đây là một thuận lợi cho việc phát triển các làng nghề. Tuy nhiên,

để sản phẩm của các ngành nghề có chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh
trên thị trường thì chúng ta phải đầu tư nhiều hơn nhất là đầu tư đổi mới công
nghệ, xây dựng nhà xưởng.
Trong số vốn đầu tư cho trang thiết bị sản xuất không tính đầu tư cho
nhà xưởng ở các hộ vì hầu hết ở các làng nghề người ta lấy nhà ở làm nơi sản
xuất. Như vậy, vốn đầu tư cho sản xuất ngành nghề nông thôn của các hộ gia
đình chủ yếu là vốn lưu động.
Như vậy, để tham gia sản xuất ngành nghề nào đó trong tỉnh thì hộ
không phải huy động lượng vốn lớn. Trung bình mỗi hộ có khoảng 300 000
đồng- 1 triệu đồng là có thể tham gia sản xuất một nghề nào đó cho một cơ
sở. Đây là một thuận lợi nhất lớn cho việc phát triển ngành nghề truyền thống
của tỉnh Hà Nam.
Tóm lại, hiện nay ngành nghề truyền thống của tỉnh Hà Nam đang gặp
khó khăn về vốn để mở rộng sản xuất, lượng vốn hiện vẫn chưa đủ đáp ứng
yêu cầu phát triển mạnh ngành nghề. Do đó tỉnh cần có những biệp pháp hỗ
trợ về vốn cho các cơ sở, hộ gia đình nhằm tạo động lực thúc đẩy sự phát triển
mạnh mẽ của ngành nghề truyền thống trong toàn tỉnh.
4. Sản phẩm, thị trường của sản xuất ngành nghề.
4.1 Sản phẩm.
Sản phẩm của ngành nghề nông thôn tỉnh Hà Nam khá phong phú đa
dạng, đáp ứng theo yêu cầu của thị trường. Các sản phẩm của ngành nghề chủ
yếu đã ở dạng thành phẩm, có thể đem tiêu thụ ngay đến tay người tiêu dùng
tong và ngoài nước.
Thực tế hiện nay cho thấy một số sản phẩm chủ yếu của ngành nghề
truyền thống ở Hà Nam là: sản phẩm mây, giang đan; sản phẩm thêu ren,
bánh đa nem; sừng mỹ nghệ, may mặc quần áo, khăn mặt, khăn bông, bún
bánh, rượu, sen hồng, sen trắng, dũa cưa, gốm sứ; hương đen, giường tủ, ươm
tơ, dệt lụa, thảm đay; đậu phụ, làm nón, làm lông ni giả, làm trống, làm cót
ngoài ra còn có một số loại sản phẩm khác. Trong đó hiện nay phát triển nhất
là: thêu ren và mây giang đan với những chủng loại mặt hàng rất phong phú

đa dạng.
20
Mặc dù chủng loại sản phẩm ngành nghề rất phong phú đa dạng nhưng
chất lượng sản phẩm chưa cao; một số nghề chưa có sản phẩm mạng tính
nghệ thuật, truyền thống và đòi hỏi tay nghề của người thợ. Như sản phẩm
gốm sứ, mây giang đan, thêu ren vẫn là những sản phẩm rất giản đơn chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng số lượng sản phẩm của ngành nghề đó.
Nhìn chung chất lượng sản phẩm là do trình độ của người lao động
quyết định trực tiếp vì hầu hết ngành nghề ở Hà Nam là nghề thủ công, tiếp
đến là yếu tố công nghệ, thiết bị (mẫu mã hàng hoá) cũng có ảnh hưởng trực
tiếp đến chất lượng sản phẩm.
Vậy, nhìn chung sản phẩm của ngành nghề nông thôn tỉnh Hà Nam tuy
phong phú, đa dạng nhưng chất lượng sản phẩm không cao, nhiều sản phẩm
của làng nghề truyền thống nhưng lại rất giản đơn, chưa mang được tính nghệ
thuật, truyền thống. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới việc cạnh tranh trên thị
trường đối với sản phẩm cùng loại của điạ phương khác. Nhiều khi các cơ sở
chỉ chạy theo những hợp đồng mua bán sản phẩm trước mắt mà không nghĩ
tới những sản phẩm có chất lượng cao, đòi hỏi tính nghệ thuật cao, độ tinh
xảo của bàn tay người thợ và mang nét đặc trưng của nghề truyền thống, của
làng nghề. Đây là một hạn chế rất lớn vì để phát triển lâu dài và bền vững thì
cần phải hướng tới những sản phẩm đó. Vì vậy, các cấp, các ngành của tỉnh
phải có các biện pháp khuyến khích, tìm thị trường tiêu thụ cho những sản
phẩm này, giúp các làng nghề phát triển manh mẽ hơn.
4.2.Thị trường tiêu thụ
Việc tiêu thụ sản phẩm cho ngành nghề truỳen thống ở tỉnh Hà Nam chủ
yếu được thông qua các cơ sở lớn tập trung ở các làng nghề truyền thống. Đây
là những người có vốn, có tay nghề giỏi, có kinh nghiệm buôn bán đứng ra
thu gom sản phẩm rồi chuyển đến nơi tiêu thụ hoặc chuyển đến đầu mối tiêu
thụ lớn hơn. Hầu hết các sản phẩm của ngành nghề như: thêu ren, mây giang
đan, sừng mỹ nghệ hầu hết được sản xuất theo các hợp đồng xuất khẩu, các

cơ sở chưa chủ động được nguồn hàng xuất khẩu. Còn hầu hết các ngành
nghề khác chủ yếu là tiêu thụ trong nước.
Sau khi thị trường Đông Âu, Nga gặp khủng hoảng sản phẩm làn ra
được ứ đọng không tiêu thụ được, nhưng gần đây đã khai thông được một số
thị trường lớn: Nhật, Pháp, Đài Loan, Xingapo, Hồng Công tuy vậy lượng
hàng hoá xút khẩu còn nhỏ bé. Nhìn chung thị trường trong nước cũng như thị
trường xuất khẩu chưa thật sự ổn định, rất ít mặt hàng tạo ra được ưa thế cạnh
tranh lớn trên thị trường thị trường quốc tế. Hơn nữa chúng ta lại chưa có
21
được một chiến lược thị trường lâu dài, các đơn vị sản xuất hoạt động theo
kiểu “chộp giật”, thiếu chủ động trong việc tìm kiếm mở rộng thị trường.
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế như hiệh nay, đời sống của người dân
nhất là ở các thành thị sẽ tăng nhanh, yêu cầu về chất lượng, hình dáng mẫu
mã sản phẩm ngày càng cao. Cùng với sức ép cạnh tranh của các sản phẩm
công nghiệp thành thị và hàng ngoại nhập thị trường của các làng nghề có
nguy cơ bị thu hẹp, vì vậy các làng nghề phải nhanh chóng nghiên cứu, xây
dựng chiến lược thị trường lâu dài. Chú ý khai thác các thị trường ngách mà
công nghiệp đô thị còn để lại để có thể phát triển mạnh mẽ các loại nghề.
III. NHỮNG ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÁC LÀNG NGHỀ, NGÀNH
NGHỀ Ở NÔNG THÔN HÀ NAM
1. Những thành công đã đạt được và kinh nghiệm rút ra từ sự phát
triển các ngành nghề, ngành nghề ở tỉnh Hà Nam
Từ sự phân tích hình hình phát triển ngành nghề ở nông thôn Hà Nam
trong những năm qua ta thấy. Ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở Hà Nam
phát triển tương đối ổn định, năm sau cao hơn năm trước trong một khoảng
thời gian dài. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, giúp đỡ của các cấp các ngành, các
hoạt động sản xuất ngành nghề truyền thống được khuyến khích phát triển
mạnh mẽ.
Làng nghề tồn tại và phát triển đã góp phần không nhỏ vào việc nâng
cao đời sống của nhân dân trong tỉnh, đặc biệt là nâng cao thu nhập của người

nông dân. Những chỉ tiêu kinh tế xã hội mà các làng nghề đã đạt được, khẳng
định vai trò to lớn của làng nghề trong việc đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tiến lên thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Số lao động ngành nghề nói chung, ở
trong các làng nghề nói riêng không ngừng tăng lên. Các ngành nghề ở nông
thôn Hà Nam đã góp phần huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân để
đầu tư sản xuất. Chúng khai thác tốt các nguồn lực sẵn có ở địa phương, để
tạo thành những sản phẩm có chỗ đứng trên thị trường.
Đạt được những kết quả trên là do các yếu tố sau.
- Cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp đã quán triệt sâu sắc, nhận thức
rõ vai trò, vị trí phát triển nghề và làng nghề trong mối quan hệ chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, nên đã tích cực xây dựng các chương
trình, các dự án phát triển sản xuất, huy động mọi tiềm lực, tạo điều kiện cho
các làng nghề phát triển.
22
- Vốn đầu tư cho cho một chỗ làm việc trong các làng nghề thấp hơn
nhiều so với các doanh nghiệp lại tận dụng được cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
có của địa phương và mỗi gia đìmh. Sự liên kết, hợp tác sản xuất, tiêu thụ
giữa doanh nghiệp và các hộ trong các làng nghề được tăng cường, có tác
động tích cực tới tìm kiếm thị trường, kể cả xuất khẩu.
- Sức ép ngày càng tăng của việc giải quyết công ăn việc làm, tăng thu
nhập cho dân cư, tình trạng mất đất canh tác trong khi dân số ngày càng tăng
chính là động lực bên trong quan trọng nhất, thôi thúc người lao động và gia
đình họ tìm kiếm việc làm, thậm chí họ chấp nhận mức tiền công rất thấp chỉ
4000-5000 đ/ngày
- Đạt được kết quả đó phải kể đến sự mạnh dạn đầu tư dám nghĩ, dám
làm năng động bươn trải tìm kiếm thị trường của một số gia đình cũng như cơ
sở làm nghề. Chính họ là người có đóng góp lớn vào việc khôi phục và phát
triển các ngành nghề truyền thống ở mỗi địa phương
- Ngoài ra sự phát triển của làng nghề trong những năm qua còn do tốc

độ phát triển chung của toàn nền kinh tế tác động lên, thị trường trong nước
được mở rộng, cơ sở hạ tầng khá hoàn chỉnh, thuận tiện cho vận chuyển
nguyên liệu, giao lưu buôn bán trong tỉnh và toàn quốc.
2. Những khó khăn và vướng mắc chủ yếu
Bên cạnh những thành tựu mà các làng nghề đã đạt được, hoạt động của
các làng nghề trong những năm qua còn gặp không ít khó khăn, yếu kém.
Mặc dù có tốc độ phát triển khá, song thiếu sự ổn định, thiếu cơ sở vững chắc
- thị trường trong nước còn nhỏ bé, thị trường quốc tế bị cạnh tranh mạnh mẽ
một phần do sản phẩm của ta chưa thật sự đặc sắc, còn đơn điệu,hơn nữa khả
năng tiếp thị, giới thiệu sản phẩm của mình với khách hàng còn kém. Nhiều
làng nghề phần lớn sản phẩm đang gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ, làm cho
sản xuất bị đình trệ cầm chừng. Do số đông dân làng nghề làm ăn tự phát nên
chưa nắm bắt nhanh được thị trường, còn hạn chế về dự báo cung- cầu vì vậy
ít làng nghề, hộ sản xuất có phương pháp điều tiết mẫu mã, chất lượng, số
lượng sản phẩm một cách nhanh chóng theo thay đổi của thị trường. Trong
các làng nghề chưa hình thành được sản phẩm mũi nhọn có tính ổn định, giá
trị cao chiếm lĩnh được thị trường. Sự phát triển mạnh của các doanh nghiệp
tư nhân, Công ty TNHH có nhiều mặt tốt song còn có tình trạng chèn ép gây
thiệt hại cho các hộ gia đình sản xuất nghề. Hơn nữa trong tỉnh chưa có sự
đồng bộ trong quản lý đối với ngành nghề tiểu thủ công nghiệp nói chung và
ngành nghề truyền thống nói riêng. Suốt một thời gian dài gần như không có
23
một cơ quan quản lý và có trách nhiệm với các làng nghề thủ công, vốn đầu tư
của Nhà nước chưa nhiều. Có thể nói, từ sản xuất đến tìm kiếm thị trường tiêu
thụ sản phẩm đều do các doanh nghiệp, tư nhân, cá thể, hoặc hộ gia đình tự lo
liệu, xoay xở. Do vậy, diễn ra tình trạng khá phổ biến là cùng một mặt hàng
hoặc sản phẩm nhưng làng nghề nào có được hợp đồng hoặc thị trường tiêu
thụ sản phẩm thì nơi đó phát triển được và ngược lại.
Một số làng nghề trong quá trình sản xuất gây ô nhiễm môi trường trầm
trọng, do công nghệ lạc hậu, hầu hết chưa có thiết bị xử lý chất thải lại sản

xuất xen kẽ với dân cư.
Những tồn tại trên là do các nguyên nhân sau:
-Chúng ta có thể thấy rằng cả nước hiện nay đã có hàng trăm Viện
nghiên cứu khoa học nhưng chưa có một Viện chuyên nghiên cứu nghề thủ
công mỹ nghệ, chưa có một trường dạy thủ công mỹ nghệ, đào tạo hoặc
nghiên cứu kinh tế, kỹ thuật phục vụ cho việc phát triển sản xuất kinh doanh
sản phẩm thủ công mỹ nghệ, tương xứng với vị trí, vai trò và tiềm năng to lớn
của chúng trong nền kinh tế quốc dân. Có thể nói, các nghề thủ công và các
làng nghề vẫn gần như nằm ngoài sự quan tâm của các chương trình khoa học
và công nghệ.
-Phần lớn các hộ ở nông thôn Hà Nam vẫn coi làm nghề tiểu thủ công
nghiệp là một nghề phụ mặc dù có nghề mang lại thu nhập chính cho kinh tế
gia đình. Quy mô sản xuất nhỏ vốn đầu tư thấp nên việc cải tiến công nghệ và
ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tiếp cận thị trường còn hạn chế.
-Một thực tế ở các làng nghề hiện nay là mặc dù thiếu vốn song họ
không giám mạnh dạn vay vốn của các tổ chức tín dụng, nguyên nhân chính
của vấn đề này là do người sản xuất chưa tìm được phương án sản xuất kinh
doanh khả thi và có lợi nhuận cao.
-Ở hầu hết các ngành tiểu thủ công nghiệp hiện có đầu tư vốn và thiết bị
nói chung còn thấp, kỹ thuật sản xuất chủ yếu là thủ công.
-Hệ thống quản lý nghề và làng nghề ở nông thôn từ cấp Bộ xuống chưa
có sự thống nhất theo ngành dọc. Rõ ràng sự không đồng bộ này sẽ gây nên
nhiều khó khăn trong việc triển khai, thực hiện các chương trình hỗ trợ phát
triển làng nghề. Sự giúp đỡ của Nhà nước bằng những giải pháp hiện có chưa
mang lại hiểu quả mong muốn. Sự chỉ đạo của các cấp quản lý còn nhiều ách
tắc
24
PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN
NGÀNH NGHỀ TRUYỀN THỐNG TỈNH HÀ NAM
I. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN

NGÀNH NGHỀ TRUYỀN THỐNG.
1.Quan điểm về phát triển ngành nghề truyền thống.
Trước hết cần đánh giá một cách đầy đủ vị trí và vai trò của ngành
nghề nông thôn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội để có chủ trương và
chiến lược phát triển đúng đắn.
Lịch sử ghi nhận tiểu thủ công nghiệp đã cùng nông nghiệp bảo đảm
mọi nhu cầu đời sống của dân tộc từ buổi bình minh dựng nước đến nay.
Những sản phẩm của ngành nghề truyền thống là bằng chứng về nền văn hoá,
văn minh của dân tộc Việt Nam, dấu ấn vinh quang của lịch sử 4000 năm
dựng nước và giữ nước. Việc xây dựng một nền công nghiệp của đất nước
không thể thiếu vị trí của tiểu thủ công nghiệp. Ngay ở những nước công
nghiệp tiên tiến như Mỹ, Anh, Pháp, Nhật vẫn hết sức coi trọng tiểu thủ
công nghiệp và tồn tại với tỷ lệ khá cao. Đối với nước ta, chúng ta bắt đầu đi
vào công nghiệp hoá - hiện đại hoá nên càng phải đặc biệt quan tâm đến tiểu
thủ công nghiệp, đến ngành nghề truyền thống bởi vì nó có thể kết hợp với
đại công nghiệp sản xuất ra một số lượng sản phẩm lớn cho nhu cầu xã hội
đáp ứng kịp thời những nhu cầu đa dạng của đời sống kinh tế thị trường, có
khả năng thu hút nhiều lao động.
Các ngành nghề nông thôn là tiền đề cho phát triển mạnh công nghiệp
nông thôn, tiểu thủ công nghiệp cần vốn đầu tư ít, thu lãi nhanh, có sức sống
linh hoạt mềm dẻo, có khả năng chuyển hướng sản xuất khi thị trường biến
động.
Phát triển làng nghề phải gắn với công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Các
ngành nghề truyền thống ở nước ta rất đa dạng, được phân bố rộng khắp các
vùng trong nông thôn, trong giai đoạn đất nước bước vào công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đòi hỏi các ngành phải từng bước đổi mới trang thiết bị áp dụng
những công nghệ tiên tiến vào sản xuất, dịch vụ.
Phát triển các làng nghề, ngành nghề truyền thống phải lấy hiệu quả
kinh tế xã hội làm thước đo. Trước hết nhằm khôi phục lại sản xuất những
ngành nghề đã bị mai một, phát triển mạnh những ngành nghề đang còn tồn

tại, duy trì và tăng số lượng các ngành nghề tăng số hộ, số lao động trên cơ sở
đó tăng sản lượng, sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu, về
25

×