Phần I
CAN THIỆP SỚM CHO TRẺ KHUYẾT TẬT,
CÁC NGUYÊN TẮC CỦA CAN THIỆP SỚM
I. Khái niệm chung
Can thiệp sớm là những chỉ dẫn ban đầu và các dịch vụ dành cho trẻ và gia
đình trẻ khuyết tật trước tuổi tiểu học nhằm kích thích và huy động sự phát triển tối
đa ở trẻ, tạo điều kiện và chuẩn bị tốt cho trẻ tham gia vào hệ thống giáo dục bình
thường và cuộc sống sau này.
Can thiệp sớm là việc trợ giúp nhằm vào tất cả các trẻ em có nguy cơ hoặc
đã bị khuyết tật. Việc trợ giúp này bao gồm toàn bộ giai đoạn từ chẩn đoán trước
khi sinh cho đến lúc trẻ đến tuổi đi học; việc phát hiện và chẩn đoán sớm cho đến
lúc hướng dẫn. Can thiệp sớm có liên quan đến cả đứa trẻ lẫn cha mẹ, gia đình và
mạng lưới rộng lớn. Tuy nhiên, cho tới nay, chúng ta vẫn chưa coi trọng việc chẩn
đoán trước khi sinh là một bộ phận không thể tách rời của can thiệp sớm.
II. Các nguyên tắc cơ bản
1. Mọi trẻ đều có khả năng học tập
Trẻ khiếm thính hay khiếm thị vẫn có trí tuệ bình thường. Mục tiêu giáo dục
đặt ra cho trẻ khuyết tật cũng giống như cho trẻ bình thường. Công việc của trẻ
khuyết tật cũng giống như công việc của trẻ bình thường, trừ những công việc đòi
hỏi trẻ phải có khả năng nghe bình thường hoặc khả năng nhìn tốt. Ví dụ, một
người mù không thể lái xe ô tô được; trẻ chậm phát triển trí tuệ phát triển chậm hơn
(và có những hạn chế do khuyết tật gây ra), nhưng vẫn có thể học được. Ngày nay,
học tập đã trở thành quyền lợi của trẻ em bình thường cũng như trẻ khuyết tật.
2. Trẻ khuyết tật cũng phải học các kỹ năng mà trẻ bình thường học và sử dụng
Trẻ khuyết tật trước hết là một đứa trẻ, sự phát triển của trẻ khuyết tật
cũng tuân theo tiến trình, quy luật như trẻ bình thường, tuy nhiên có chậm hơn
ở những khía cạnh nhất định. Trẻ khuyết tật càng học được nhiều kỹ năng như
ở trẻ bình thường thì chúng càng có khả năng tham gia vào nhiều hoạt động
hơn trong gia đình cũng như xã hội, trẻ khuyết tật càng dễ dàng được chấp
nhận hơn trong cộng đồng nếu như những hành vi của chúng càng giống trẻ
bình thường. Vì vậy, trẻ khuyết tật cần phải học các kỹ năng như trẻ bình thường.
3. Những năm đầu tiên rất cần thiết để trẻ học tập
Năm năm đầu tiên trong cuộc đời một con người là những năm tháng rất quan
trọng, đây là thời gian mà nền tảng cho cuộc sống được hình thành. Một nền tảng tốt
tạo cho đứa trẻ cơ hội có một cuộc sống hạnh phúc và có ý nghĩa, đồng thời để chúng
1
trở thành một thành viên có ích cho xã hội. Những năm này rất quan trọng đối với trẻ
và đặc biệt quan trọng đối với trẻ khuyết tật.
Việc bắt đầu can thiệp càng sớm càng tốt là rất cần thiết. Bắt đầu diễn ra từ
khi cha mẹ trẻ cho rằng trẻ có vấn đề, điều này có thể hạn chế những vấn đề về giáo
dục và cư xử sau này trong cuộc sống của trẻ.
4. Cha mẹ là những người quan trọng nhất đối với sự phát triển của trẻ
Với việc can thiệp sớm, các giáo viên cần phải cung cấp tri thức, hướng dẫn
phụ huynh cách chăm sóc, giáo dục trẻ. Phụ huynh không chỉ là người tiếp xúc với
trẻ nhiều hơn giáo viên hoặc chuyên gia mà còn là người hiểu trẻ, chăm sóc trẻ
bằng cả tình yêu thương ruột thịt của mình.
Ở Việt Nam, ông bà, cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình có vai trò
quan trọng trong việc giáo dục trẻ, đặc biệt là trẻ khuyết tật.
5. Mỗi trẻ và mỗi gia đình đều khác nhau
Một đặc trưng cơ bản trong giáo dục đặc biệt là tính cá thể hoá cao. Ngay
với trẻ bình thường thì mỗi đứa trẻ là một con người riêng biệt. Mỗi trẻ có tiền đề
phát triển khác nhau, có tốc độ phát triển, có khả năng lĩnh hội, có đặc điểm khí
chất… khác nhau. Do vậy không thể có một cách chăm sóc giáo dục giống nhau
cho mọi đứa trẻ, ngay cả đối với trẻ ở cùng một nhóm khuyết tật. Mặt khác, trình
độ hiểu biết của mỗi gia đình khác nhau, mức độ quan tâm đến con cái khác nhau
và mỗi gia đình có hoàn cảnh và điều kiện khác nhau, do đó chúng ta không thể xây
dựng một chương trình can thiệp sớm cho mọi đối tượng. Can thiệp sớm tập trung
vào nhu cầu của trẻ và gia đình trẻ, mỗi trẻ cần có một chương trình cá nhân riêng,
chương trình này phải được xây dựng trên cơ sở khả năng, nhu cầu của trẻ và phải
phù hợp với quan điểm giáo dục của phụ huynh, nhu cầu và khả năng của gia đình.
III. Ý nghĩa của can thiệp sớm
1. Ý nghĩa đối với trẻ
Can thiệp sớm có thể ngăn ngừa những nhân tố nguy hiểm tới đứa trẻ hay
những nguyên nhân dẫn đến sự chậm phát triển hoặc rối loạn chức năng. Điều này
có thể đạt được bằng cách giúp cho trẻ có được sự kích thích và tác động qua lại
một cách đúng đắn với môi trường xung quanh ở ngay giai đoạn đầu của sự phát
triển của trẻ.
Can thiệp sớm để đồng thời thực hiện chức năng chữa bệnh.
Can thiệp sớm sẽ giảm các ảnh hưởng của những bệnh mãn tính và khuyết
tật chức năng lâu dài. Có thể ngăn cản sự chậm phát triển cũng như các khuyết tật
khác gia tăng.
2. Ý nghĩa đối với cha mẹ
2
Can thiệp sớm là những phương pháp hiệu quả để giúp cha mẹ cư xử với đứa
trẻ khuyết tật của họ. Chương trình can thiệp sớm chủ động lôi cuốn cha mẹ vào
quá trình can thiệp cho trẻ nên họ có thể tự phát hiện ra khả năng và năng lực của
chính mình về khả năng để xử lý, hướng dẫn và điều trị chăm sóc trẻ.
Can thiệp sớm giúp cha mẹ không cần phải căng thẳng về vấn đề tình cảm
của mình, do đó góp phần quan trọng vào quá trình chấp nhận. Can thiệp sớm làm
cho giảm bớt hay loại trừ sự bất lực của nhiều cha mẹ trong việc xử lý các vấn đề
của trẻ, cải thiện mối quan hệ cha mẹ và đứa con, mối quan hệ về mặt tình cảm
được cân bằng hơn và tránh được một số công việc chăm sóc trẻ không cần thiết.
Can thiệp sớm sẽ tránh được việc cha mẹ không cung cấp thông tin. Những
thông tin này liên quan đến:
- Việc chẩn đoán, nguyên nhân khuyết tật và dự đoán tiến triển của bệnh.
- Kiến thức về sự phát triển bình thường và cần phải thúc đẩy sự chậm phát
triển hoặc điều chỉnh sự phát triển không bình thường như thế nào.
- Hệ thống hỗ trợ của xã hội mà họ được hưởng.
3. Ý nghĩa đối với gia đình
Can thiệp sớm có thể tránh cho anh chị em trong gia đình rơi vào tình thế
không thuận lợi dẫn đến kết quả là chính sự phát triển của chúng lại bị cản trở
và một số vấn đề về hành vi có thể nảy sinh. Can thiệp sớm có thể đảm bảo
rằng hệ thống gia đình biết cách tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp
với hoàn cảnh là có một đứa trẻ khuyết tật trong nhà. Can thiệp sớm làm nhẹ
gánh nặng cho gia đình là tạo ra sự giúp đỡ cho gia đình như quan tâm hàng
ngày và các phương tiện khác.
4. Ý nghĩa đối với xã hội
- Can thiệp sớm làm cho xã hội nhận biết được thực tế là còn có những
đứa trẻ bị khuyết tật, chúng cũng là một bộ phận của cộng đồng và có quyền
được giúp đỡ. Can thiệp sớm giúp mở rộng cơ hội cho trẻ em vì chúng học
được qua trường phổ thông một cách có hiệu quả hơn. Chúng có thể không
phải nhờ cậy nhiều vào quỹ công cho khuyết tật hay dựa vào phúc lợi. Khi đứa
trẻ lớn dần lên, cha mẹ không cần hướng dẫn nhiều như trước bởi vì ngay từ
đầu họ đã được hướng dẫn cách thức để họ xử lý những vấn đề của trẻ.
IV. Các giai đoạn của can thiệp sớm
Hầu hết các chương trình can thiệp sớm ở trẻ đều tiến hành theo 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Phát hiện, chẩn đoán và giới thiệu trẻ vào chương trình.
Giai đoạn 2: Thực hiện chương trình, bao gồm các hoạt động liên quan tới
việc cung cấp các dịch vụ.
3
Giai đoạn 3: Kết thúc, tập trung vào các hệ thống chuyển tiếp cho trẻ từ
chương trình can thiệp sớm tới những can thiệp tiếp theo.
1. Giai đoạn 1
* Phát hiện: là tìm tòi các dấu hiệu và tín hiệu cho thấy sự phát triển của trẻ có
nguy cơ hoặc đang tiến triển một cách không bình thường. Phát hiện bao gồm việc quan
sát các dấu hiệu, tín hiệu nói trên và các chương trình khám sàng lọc. Kết quả không
phải là một sự chẩn đoán, trẻ em được sàng lọc ra để kiểm tra tiếp. Hiện nay ở Việt
Nam, hệ thống dịch vụ khám sàng lọc cho trẻ sơ sinh hoặc chẩn đoán để phát hiện trẻ có
vấn đề hoặc nguy cơ vẫn còn thiếu. Đây là một thiệt thòi lớn cho trẻ khuyết tật. Vì như
ta đã biết, những năm tháng đầu tiên trong cuộc đời có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng
cho sự phát triển. Trẻ bị phát hiện chậm tháng nào trong những năm đầu đời này thì sự
trì hoãn trong sự phát triển chung của trẻ sau này sẽ được tính bằng cấp số nhân.
* Chẩn đoán: bao gồm việc nhận ra một khuyết tật về phát triển cùng
với các nguyên nhân được đặt ra. Việc chẩn đoán được thực hiện theo kết quả
của việc phát hiện các dấu hiệu và tín hiệu cho thấy sự lệch lạc hay có nguy cơ
về mặt phát triển. Phát hiện, chẩn đoán sớm mới có hy vọng điều trị, ngăn chặn
tật và để kịp thời tiến hành phục hồi chức năng.
Trẻ em được phát hiện qua khám sàng lọc được đưa tới các địa chỉ thích
hợp để thực hiện các chẩn đoán toàn diện và sâu hơn. Trước khi tham gia vào
chương trình giáo dục đặc biệt, trẻ em được đánh giá chẩn đoán và đánh giá
toàn diện về các nhu cầu giáo dục của chúng. Mục đích chính của quá trình này
là để xác định trẻ bị khuyết tật như thế nào và nếu có thể cũng xác định phạm
vi, cách thức giáo dục và dịch vụ cần thiết để can thiệp. Quá trình đánh giá đó
phải đa dạng và do nhiều nguồn, phải được kết luận bằng nhóm chuyên gia đa
chức năng. Các thành viên của nhóm này phải đa dạng tuỳ theo đặc điểm riêng
của mỗi trẻ.
2. Giai đoạn 2
Các nhân viên của chương trình dùng các công cụ đánh giá và các quy
trình khác nhau để xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân cho trẻ tham gia chương
trình. Việc xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân là bước nối tiếp của đánh giá
ban đầu trong chuỗi làm việc liên tục của chương trình can thiệp sớm. Quy trình
thực hiện kế hoạch cá nhân cũng tương tự như tất cả các chương trình can thiệp
sớm. Kế hoạch giáo dục cá nhân là sự xác định rõ mục tiêu giáo dục, biện pháp
thực hiện để đạt được những mục tiêu này.
Một vấn đề khác có trong giai đoạn 2 là sự đánh giá. Nội dung được thông
qua của chương trình tập trung vào trẻ thường đưa ra những kết quả đánh giá rộng.
4
Đánh giá này có hai nội dung chủ yếu: đánh giá để thấy rõ quy trình của trẻ với
mục đích định hướng và đánh giá kết quả trên toàn cầu để xác định tác động của
chương trình (chủ yếu những thay đổi trong chỉ số IQ hay mức độ phát triển).
3. Giai đoạn 3
Đây là giai đoạn chuyển sang môi trường kế tiếp của trẻ, giai đoạn này
thường rất ít khi nhận được sự quan tâm của nhà trường. Tuy nhiên giai đoạn
chuyển tiếp là giai đoạn liên quan đến các chương trình can thiệp sớm. Hơn thế
nữa việc chăm sóc trẻ trong thời gian chuyển tiếp có thể tạo ra sự khác biệt về sự
thành công hay thất bại trong các bước tiếp theo. Phần lớn những chương trình
can thiệp sớm thực hiện quy trình chuyển tiếp không chính thức nhưng cũng có
những chiến lược đáng kể. Những chương trình như thế có thể sẽ có ích trong
việc lập kế hoạch và thực hiện giai đoạn chuyển tiếp với cha mẹ và con cái giữa
các chương trình.
Tóm lại: Can thiệp sớm đối với trẻ khuyết tật là một quá trình bao gồm các giai
đoạn. Các giai đoạn này là: phát hiện (khám sàng lọc), chẩn đoán, các đánh giá ban đầu,
xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân, thực hiện theo kế hoạch, đánh giá và chuyển sang
các môi trường tiếp theo. Mặc dù các giai đoạn liệt kê ở đây là theo thứ tự logic, trong
thực tế chúng hoà nhập và đan xen lẫn nhau mà không thể tách biệt rõ rệt. Các giai đoạn
của chương trình can thiệp sớm có thể giống nhau. Tuy nhiên, có những khác biệt rất
lớn trong từng bước chi tiết. Các công cụ, các quy trình đánh giá được sử dụng để xây
dựng chương trình cá nhân, kỹ thuật đánh giá, chất lượng sử dụng nguồn nhân lực, sự
phối hợp các lực lượng… trong mỗi chương trình can thiệp sớm có thể khác nhau.
Câu hỏi ôn tập
1. Khái niệm can thiệp sớm cho trẻ khuyết tật.
2. Tại sao phải can thiệp sớm cho trẻ khuyết tật?
3. Công tác can thiệp sớm tại địa phương. Những thuận lợi và khó khăn. Đề
xuất kế hoạch thực hiện để có chương trình can hiệu đạt hiệu quả.
Phần II
CÁC KHUYẾT TẬT THƯỜNG GẶP Ở TRẺ MẦM NON
NGUYÊN NHÂN, CÁCH PHÒNG TRÁNH VÀ CÁC DẤU HIỆU
PHÁT HIỆN SỚM TRẺ KHUYẾT TẬT
5
I. Khái niệm về trẻ khuyết tật và các loại tật
1. Thế nào là trẻ khuyết tật?
Trẻ khuyết tật là những trẻ bị giảm hoặc mất một phần khả năng về nghe,
nhìn, nói, vận động, phát triển trí tuệ hoặc có những cấu tạo và hành vi bất thường
không giống những trẻ bình thường khác.
2. Các loại tật thường gặp ở trẻ Mầm non
- Trẻ có khó khăn về vận động.
- Trẻ có khó khăn về nghe: khiếm thính, điếc.
- Trẻ có khó khăn về nhìn: khiếm thị.
- Trẻ chậm phát triển về trí tuệ và hành vi không thích ứng.
- Trẻ khó khăn về nói và ngôn ngữ.
- Rối loạn tình cảm, không quản lý được hành vi.
- Trẻ tự kỷ.
- Trẻ có khuyết tật khác về sức khỏe.
- Trẻ khiếm thính kết hợp với khiếm thị.
- Trẻ đa tật.
- Trẻ có khó khăn trong học tập.
3. Khái niệm về các loại tật thường gặp
3.1. Tật vận động
Là tật của cơ quan vận động làm ảnh hưởng đến chức năng vận động đi
đứng, ngồi nằm, sờ mó, cầm nắm của cơ thể.
Trường hợp nặng: biểu hiện liệt toàn thân hoặc liệt tay chân, nằm ngồi, đi lại
khó khăn.
Trường hợp nhẹ: bị giảm chức năng vận động của một trong các bộ phận của
cơ thể, đi lại, vận động, cầm nắm khó khăn.
3.2. Tật về thính giác hay còn gọi là khó khăn về nghe: khiếm thính, điếc
Là tật ảnh hưởng đến bộ phận nhạy cảm, truyền dẫn và phân tích âm thanh
của con người. Có nhiều mức độ:
- Mức độ nặng (điếc): trẻ không nghe được tiếng động to như sấm, tiếng trống
cách tai 30-50cm; không nghe được tiếng thét gần tai và không nói được (câm).
- Mức độ nhẹ (nghễnh ngãng): trẻ điếc một tai, không nghe được tiếng nói
bình thường nhưng gọi to cách xa 1m có thể nghe được.
3.3. Tật thị giác - khó khăn về nhìn
Là tật làm ảnh hưởng đến chức năng nhìn của mắt.
Trường hợp nặng: mù cả hai mắt, không phân biệt được sáng tối.
Trường hợp nhẹ hơn: trẻ phân biệt được ánh sáng nhưng không phân biệt được
6
màu sắc, không nhận rõ hình dạng các vật, không đếm được ngón tay khi ở cách xa
30cm, đi lại dò dẫm, dùng tay lần sờ, không đọc được chữ viết bình thường.
Mức độ nhẹ hơn như mắt lác (lé); mắt có sẹo giác mạc che lấp đồng tử ảnh
hưởng đến chức năng nhìn; trẻ bị quáng gà do thiếu Vitamin A; tật sụp mi; tật giảm
thị lực một hoặc hai mắt Trong những trường hợp này trẻ còn nhìn được vật lờ
mờ, có thể phân biệt được màu, đọc được chữ khi ghé sát mắt.
3.4. Tật thiểu năng trí tuệ hay còn gọi là chậm phát triển trí tuệ
Là tật của hệ thần kinh trung ương làm ảnh hưởng đến chức năng nhận biết
và tư duy.
- Trường hợp nặng: trẻ có khó khăn về nhận thức và hiểu biết nên rất khó
khăn trong học tập. Thường tật này đi kèm với một số dị tật bẩm sinh khác: bại
não, não bé bẩm sinh
- Trường hợp nhẹ: trẻ nhớ khó khăn, khả năng tư duy kém, tư duy theo lối
trực diện, hay quên, học thường lưu ban do không tiếp thu được bài.
3.5. Tật ngôn ngữ - khó khăn về nói
Là tật gây ảnh hưởng đến khả năng nói của trẻ làm cho trẻ không thể diễn đạt
bằng lời nói về ý muốn của mình hoặc diễn đạt khó khăn do bộ phận phát âm có tật.
- Trường hợp nặng: mất ngôn ngữ, ngôn ngữ bị ảnh hưởng trầm trọng, khó
khăn trong giao tiếp.
- Trường hợp nhẹ: trẻ nói ngọng, nói lắp, diễn đạt khó khăn làm ảnh hưởng
đến khả năng giao tiếp.
3.6. Tật về rối loạn tình cảm, hành vi bất thường
Trẻ có tổn thương não hoặc do cấu trúc gen làm cho trạng thái tâm lý, tình
cảm của trẻ quá hưng phấn hoặc trầm cảm. Nhiều trường hợp trẻ quá hưng phấn có
những hành vi bất thường, đứng, ngồi không yên, không kiểm soát được hành vi và
không thích ứng với môi trường làm cho trẻ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.
3.7. Trẻ tự kỷ
Là bệnh thuộc hệ thần kinh trung ương có thể do gen hoặc nguyên nhân khác
chưa được biết. Trẻ mắc bệnh này có biểu hiện rất khác nhau như: thờ ơ, lãnh đạm,
không quan tâm với môi trường xung quanh, không có giao tiếp bằng mắt và sống
trong thế giới riêng của mình, hoặc có những hoạt động vận động tăng động. Trẻ ưa
các hoạt động mạnh như: chạy nhảy, gõ tiếng động; hoạt động theo ý thích của riêng
mình. Trẻ tự kỷ chỉ thích âm nhạc, có trẻ chỉ thích màu đỏ…
3.8. Các tật khác về sức khỏe
Tật động kinh do tổn thương hệ thần kinh, gây co giật toàn thân hoặc một
vài bộ phận; co giật có thể thành cơn theo chu kỳ hoặc không theo chu kỳ.
7
Trẻ bị thiếu hụt một bộ phận nào đó của cơ thể gây ảnh hưởng đến chức
năng các cơ quan của cơ thể.
3.9. Trẻ khiếm thính kết hợp với khiếm thị
Đây là một khuyết tật nặng, trẻ đồng thời thiếu hụt chức năng của hai bộ
phận giác quan quan trọng nghe và nhìn nên trẻ sẽ có khó khăn hơn những trẻ chỉ
bị một loại tật.
3.10. Trẻ đa tật
Khi trẻ có từ hai tật trở lên.
3.11. Trẻ có khó khăn về học
Trẻ có chỉ số IQ thấp hơn mức bình thường và cao hơn mức bình thường đều
có thể đưa đến cho trẻ những khó khăn trong học tập và cuộc sống.
II. Nguyên nhân gây ra khuyết tật
1. Nguyên nhân trong thời kỳ mẹ mang thai
- Mẹ bị mắc một sô bệnh trong 3 tháng đầu của thời kỳ mang thai do siêu vi
trùng, cúm, sốt phát ban
- Mẹ dùng thuốc không đúng chỉ định.
- Ngộ độc thai nghén; ngộ độc hóa chất độc hại.
- Mẹ mắc một số bệnh nhiễm trùng, ký sinh trùng trong thời kỳ mang thai:
sốt rét, lao, nhiễm trùng cấp, viêm họng, viêm phế quản
- Mẹ bị ốm, dinh dưỡng kém.
2. Nguyên nhân trong khi sinh
- Mẹ đẻ khó, phải can thiệp bằng dụng cụ.
- Mẹ chuyển dạ lâu trẻ bị ngạt.
- Mẹ đẻ quá nhanh gây sang chấn cho trẻ trong khi sinh.
- Trẻ ngôi ngược; ngôi ngang sa tay, sa chân.
- Trẻ bị đẻ non, thiếu tháng.
- Trẻ thiếu cân dưới 2500gr.
3. Nguyên nhân sau khi sinh và quá trình nuôi dưỡng
- Trẻ bị vàng da tan máu kéo dài.
- Trẻ bị dị tật bẩm sinh.
- Trẻ bị suy dinh dưỡng do quá trình nuôi dưỡng: thiếu sữa mẹ, nuôi không
đúng cách, thiếu các vi chất dinh dưỡng
- Trẻ bị mắc các bệnh nhiễm trùng cấp tính: viêm phế quản cấp, ỉa chảy cấp,
bại liệt, lao, ho gà, uốn ván, bạch hầu, viêm não gây tổn thương não và các cơ
quan bộ phận.
- Trẻ bị tai nạn:
8
+ Ngã gãy xương, trật khớp, cứng khớp, cong vẹo tay chân do không được
xử trí kịp thời.
+ Tai nạn chấn thương não và nhiều bộ phận khác mà không được phán
đoán điều trị kịp thời.
Đặc biệt trong các tai nạn như đuối nước cấp cứu chậm gây tổn thương não.
+ Ngộ độc hóa chất, ngộ độc ăn uống gây tổn thương hệ thống thần kinh.
+ Trẻ bị bỏng sẹo dúm co cứng cơ xương khớp vùng sẹo bỏng gây hạn chế
cử động chân tay, đi đứng
III. Cách phòng tránh và hạn chế khuyết tật
1. Thực hiện chăm sóc bà mẹ trong thời gian mang thai
- Bà mẹ cần khám thai đúng quy định của y tế: 3 lần trong chín tháng
mang thai; theo dõi kiểm soát quá trình tăng cân trong thời kỳ mang thai; thực
hiện tiêm phòng uốn ván cho mẹ đầy đủ; hướng dẫn vệ sinh thai sản; nghỉ ngơi
lao động hợp lý.
- Bà mẹ mang thai cần chú ý chế độ dinh dưỡng hợp lý, đầy đủ, tăng
cường viên sắt, Vitamin A nhằm tránh suy dinh dưỡng cho trẻ từ trong bụng
mẹ.
- Bà mẹ cần được nghỉ ngơi hợp lý, lao động vừa sức tránh sinh non thiếu
tháng ảnh hưởng đến trẻ; sống khỏe mạnh, vui tươi trong tình cảm yêu thương của
gia đình và người thân.
2. Chăm sóc bà mẹ trong khi sinh
- Bà mẹ cần đến theo dõi và sinh tại các cơ sở y tế để giúp phát hiện sớm
những bất thường của thai nhi và sức khỏe của bà mẹ.
- Đặc biệt các bà mẹ cần sinh tại các trung tâm y tế sẽ giúp tránh được các
tai biến sản khoa có thể để lại những di chứng tật nguyền cho bé như ngạt, chấn
thương sọ não, đẻ khó, gãy tay, gãy chân, uốn ván rốn
3. Chăm sóc trẻ sơ sinh và bà mẹ sau khi sinh
- Trẻ sinh ra cần được kiểm tra, phát hiện sớm các dị tật. Nếu phát hiện trẻ bị
dị tật cần liên hệ với các trung tâm can thiệp sớm hoặc khoa nhi để được hỗ trợ can
thiệp kịp thời càng sớm càng tốt.
- Chăm sóc bà mẹ để đảm bảo nguồn sữa mẹ đủ cung cấp nuôi trẻ giúp
phòng tránh suy dinh dưỡng. Tăng cường đủ các vi chất dinh dưỡng vào khẩu phần
ăn của mẹ và trẻ.
- Tiêm phòng các loại vacxin trong chương trình tiêm chủng mở rộng.
- Yêu thương chăm sóc nuôi dưỡng và đáp ứng các nhu cầu của trẻ trong đó
có nhu cầu giao tiếp, tình cảm.
9
4. Phòng tránh tai nạn thương tích và bệnh tật cho trẻ
- Ngoài việc chăm sóc nuôi dưỡng đáp ứng các nhu cầu của trẻ, mọi gia đình
và trường lớp Mầm non cần đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ.
- Giường tủ trong gia đình, trường, lớp Mầm non phải được kê vững chắc,
có chấn song chắn và không kê cao tránh để trẻ bị ngã đau.
- Tiêm đủ các loại vacxin phòng bệnh cho trẻ.
- Không để trẻ chơi một mình những nơi gần sông suối, gần đường xe cộ,
gần các vật nhọn như dao, phích nước sôi, bếp lửa, lò sưởi, ổ cắm điện để xa tầm
với trẻ.
- Khi trẻ bị ngã, gẫy xương cần băng bó xử lý kịp thời để tránh sai lệch xương.
- Với các trẻ nhỏ dị tật bẩm sinh cần được cơ quan y tế quan tâm chăm sóc,
phục hồi sớm cho trẻ.
- Trẻ có bệnh cần được khám phát hiện và điều trị kịp thời không để kéo dài
mãn tính ảnh hưởng đến các bộ phận chức năng.
Ví dụ: Viêm tai mũi họng kéo dài và điều trị không kịp thời dứt điểm sẽ đưa
đến viêm tai xương chũm gây điếc, hạn chế sức nghe, trẻ bị điếc sẽ ảnh hưởng đến
tập nói.
IV. Phát hiện sớm trẻ khuyết tật
1. Mục tiêu của phát hiện sớm khuyết tật ở trẻ Mầm non
Phát hiện sớm khuyết tật ở trẻ nhằm giúp giáo viên Mầm non và gia đình trẻ
sớm nhận biết được các dấu hiệu bất thường ở trẻ và đưa đi khám phát hiện can
thiệp sớm kịp thời.
Phát hiện sớm khuyết tật và can thiệp sớm cho trẻ giúp tránh được các hạn
chế của khuyết tật làm ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ, giúp trẻ sớm được học
hòa nhập, sống hòa nhập với xã hội, không còn là gánh nặng của gia đình và xã
hội. Ví dụ: đối với một trẻ bị khiếm thính, nếu được phát hiện sớm ở giai đoạn sơ
sinh, trẻ được can thiệp sớm bằng cấy điện cực ốc tai hoặc cho đeo máy trợ thính
sớm. Đặc biệt trong giai đoạn trẻ học nói sẽ giúp can thiệp và hướng dẫn trẻ tập
nói kịp thời đúng lúc. Vì vậy, việc học nói và phát triển ngôn ngữ lời nói của trẻ
không bị chậm, không ảnh hưởng đến ngôn ngữ giao tiếp lời nói trong cuộc sống
sau này.
2. Phát hiện sớm trẻ khuyết tật Mầm non qua hình dạng và các dấu hiệu chỉ
điểm của các loại khuyết tật
2.1. Trẻ bị khó khăn về vận động
- Trẻ đẻ ra bị vàng da dẫn đến bại não: trương lực cơ giảm, phản xạ gân
xương yếu, trẻ không cử động nâng được tay, chân, đầu, cổ. Trẻ không thể lẫy,
10
trườn, bò được như các trẻ cùng độ tuổi. Hoặc trẻ bị co cứng cơ toàn thân bất
thường do bại não thể co cứng. Tay chân, một phần cơ thể bị co cứng, rung giật
từng cơn hoặc liên tục, có thể gặp trong bại não thể múa vờn. Trẻ đi lại khó khăn
nhón ngón chân do loạn dưỡng cơ, bại não thể co cứng.
- Trẻ 10 tháng tuổi không tự ngồi được một mình khi không có sự giúp đỡ.
Trẻ 2 tuổi không có khả năng tự đi một mình nếu không có sự giúp đỡ. Trẻ 3-4 tuổi
đi lại di chuyển khó khăn do teo cơ, cứng khớp.
- Trẻ đi lại bàn chân đơ do bại não liệt cứng nửa người.
- Trẻ bị dị tật tay, chân: khoèo tay, khoèo chân; dính ngón, dính khoeo chân;
chân tay cụt, teo nhỏ cơ do bẩm sinh hoặc do tai nạn tổn thương mắc phải trong
quá trình nuôi dưỡng.
- Trẻ bị dị tật vùng đầu cổ, tăng trương lực cơ, cơ co cứng trong một số di chứng
của bệnh có tổn thương não, trẻ không cử động được tay chân và thân mình.
- Trẻ đẻ ra có hai bàn chân hoặc một bàn chân bị xoay vào trong hoặc xoay
ra sau hoặc hai bàn tay bị cứng khớp xoay chệch vị trí bình thường.
- Trẻ có bàn chân khoèo và đốt sống có túi thần kinh hoặc không, có những trẻ
không cử động hoặc mất cảm giác bàn chân, bàn chân gập mu vào trong.
- Trẻ bị yếu một tay hoặc tư thế bất thường do tổn thương đám rối thần kinh
cánh tay trong khi sinh.
- Trẻ bị trật khớp háng, sơ cứng khớp, chân ở tư thế khác nhau, chi ngắn, chi
dài, bệnh do tổn thương trong thời kỳ bào thai.
- Trẻ bị liệt cơ mềm nhũn, đặt đâu nằm yên một chỗ không cựa quậy tay, chân
hoặc chỉ một nửa người cựa quậy được: có thể bị liệt do tổn thương thần kinh.
- Trẻ bị di chứng của bại liệt: liệt nhóm cơ ở gốc chi sau một cơn sốt, thường
liệt chân, tay không đối xứng.
- Tay chân hoặc một phần cơ thể có cử động bất thường không kiểm soát được,
có khi co giật, tím tái, sùi bọt mép sau vài phút trở lại bình thường gặp trong động kinh
- Trẻ bị giảm trương lực cơ, cơ teo nhẽo từ từ: do bệnh teo cơ, thường do di
truyền hoặc tổn thương tủy sống.
- Trẻ bị liệt tứ chi từ từ do lao màng não, lao đốt sống.
- Trẻ bị đau khớp, cứng khớp, đi lại vẹo lệch một bên do bại liệt, bại não,
viêm xơ cứng khớp.
- Trẻ đứng hoặc đi lại đầu gối chụm, bàn chân choãi xa nhau: chân chữ X do
còi xương nặng, biến dạng.
- Trẻ đi lại phải chống chân do bại liệt, loạn dưỡng cơ, viêm đau khớp.
- Cong vẹo cột sống, ưỡn cột sống, gù do bệnh viêm xương, viêm khớp,
11
viêm khớp đốt sống thay đổi tư thế nằm ngồi gặp khó khăn.
- Trẻ mất một phần hoặc một bộ phận cơ thể do tật bẩm sinh từ trong bụng mẹ.
- Trẻ bị tổn thương hoặc mất một phần các bộ phận cơ thể do bị tai nạn.
Để có thể phát hiện sớm trẻ khuyết tật vận động cần dựa vào các mốc phát
triển vận động của trẻ theo tuổi để xác định:
+ Khi trẻ 1 tháng: đặt nằm ngửa mà trẻ không có cử động chân, không co
đạp, nâng chân, đưa chân lên trên.
+ Khi trẻ 2 tháng: không thể ngẩng cất đầu khi đặt nằm sấp.
+ Khi trẻ 3 tháng: không giữ đầu tự ngẩng khi bế ngồi.
+ Khi trẻ 4 tháng: không thể ngồi thẳng khi được đặt tựa lưng và đầu ngẩng thẳng.
+ Khi trẻ 5 tháng: trẻ không biết đạp mạnh tay, chân trong bồn nước khi tắm.
+ Khi trẻ 6 tháng: trẻ không đưa tay ra với ra trước và bò bằng 4 chi, đặt
nằm trẻ không tự lật ngược.
+ Khi trẻ 7 tháng: trẻ không biết ngồi cứng một lúc khi không có người đỡ,
đứng trên hai chân không vững khi được đỡ.
+ Khi trẻ 8 tháng: trẻ không thể bước đi khi được giữ ở tư thế đứng.
+ Khi trẻ 10 tháng: trẻ không thể tựa vào bàn ghế để bước đi với sự giúp đỡ
của người lớn.
+ Khi trẻ 12 tháng: trẻ không tự đứng một mình và bò bằng hai tay, hai chân.
+ Khi trẻ 13 tháng: trẻ không tự mình đứng lên và đi vài bước xiêu vẹo.
+ Khi trẻ 15 tháng: trẻ không tự mình đi xiêu vẹo và trèo cầu thang.
+ Khi trẻ 18 tháng: trẻ không tự đi một cách vững vàng, ném được bóng, cúi
nhặt bóng mà không ngã.
+ Khi trẻ 21 tháng: trẻ không tự trèo lên ghế, không thể bước lên cầu thang
thẳng lưng, xuống thang phải bò.
+ Khi trẻ 24 tháng: không thể tự lên xuống cầu thang từng bậc bằng hai chân
và chạy vững.
+ Khi trẻ 33 tháng: trẻ không thể nhảy chụm chân, đi nhón chân trên đầu
ngón chân.
+ Khi trẻ 48 tháng: trẻ không thể chạy theo và dùng chân đá bóng, chạy trên
đầu ngón chân và trèo lên xe ba bánh.
+ Khi trẻ 54 tháng: không thể tự lên xuống cầu thang bằng hai chân đổi nhau
ở mỗi bậc.
+ Khi trẻ 60 tháng: trẻ không thể đập nẩy bóng, nhảy lò cò, lên xuống cầu
thang dễ dàng.
Khi thấy trẻ có những dấu hiệu như trên, giáo viên và gia đình cần cho trẻ đi
12
khám và can thiệp sớm cho trẻ.
2.2. Trẻ khó khăn về nghe (khiếm thính, điếc)
Đó là những trẻ không đáp ứng với tiếng động, đến 3 tuổi chưa biết nói, có
thể trẻ bị điếc, chậm phát triển hoặc bại não nặng.
Trẻ không đáp ứng với âm thanh, tiếng động có thể do tai có vấn đề; có thể
viêm tai giữa chảy mủ; có thể tổn thương vành tai, ống tai, bộ phận dẫn truyền âm
thanh; tổn thương bộ phận tiếp nhận phân tích âm thanh trong não.
- Tai bị tật: Nhìn bên ngoài tai của trẻ có thể bị sẹo vành tai, mất vành tai,
chỉ có lỗ tai, sẹo tắc ống tai Những trường hợp này đều làm cho trẻ hạn chế tiếp
nhận âm thanh.
Có trường hợp do viêm nhiễm chảy mủ ống tai lâu ngày gây sẹo tắc, xơ
cứng các xương tai trong của bộ phận truyền âm cũng là nguyên nhân làm cho trẻ
hạn chế hoặc không tiếp nhận được âm thanh. Trong những trường hợp này ta thấy
trẻ có biểu hiện ngơ ngác không có phản ứng với nguồn tiếng động.
Trẻ trên hai tuổi không nói được nhất là đối với trẻ lớn khi nghe người khác
nói trẻ nhìn miệng người nói ngơ ngác, không có phản ứng, có thể nói rất to hoặc
nói rất lạ lùng.
- Trẻ bị điếc do tổn thương thần kinh: thường do bị các bệnh có tổn thương
hệ thần kinh như viêm não cấp, viêm màng não, do ngộ độc làm cho hệ thống thần
kinh tiếp nhận, phân tích, tổng hợp, âm thanh bị tổn thương, kết quả trẻ không nghe
được âm thanh và hoàn toàn không có phản ứng với âm thanh. Những trường hợp
này gọi là điếc sâu. Theo mốc thời gian ta có thể xác định trẻ có thể bị khiếm thính:
+ Sau khi sinh đến 3 tháng: trẻ không bị giật mình hay tỉnh giấc khi có tiếng
động to gần trẻ, không biết hóng chuyện và ầu ơ bắt chước, không phản ứng với
tiếng xúc xắc lắc di chuyển.
+ Trẻ 3-6 tháng: trẻ không quay đầu tìm nguồn phát ra tiếng nói của người
xung quanh, không quay đầu khi nghe gọi tên.
+ Từ 6 tháng, 9 tháng đến một năm: Trẻ chỉ “nghe” một người mà không
biết nghe những người khác. Trẻ tách mình ra khỏi cuộc sống không nghe và
không biết làm theo bạn và người khác.
+ Từ 1,5 năm đến 2 tuổi: Trẻ ít nói hoặc chậm biết nói. Trẻ sợ tiếp cận phía
sau. Không hiểu ngôn ngữ lời nói và không làm theo được 2 yêu cầu của cha mẹ,
người thân và cô giáo
+ Trẻ từ 2,5 đến 4 tuổi: Không nghe và hiểu được lời nói, không nhắc lại
chuyện kể ngắn. Nói thầm cách xa 0,5m không để trẻ nhìn miệng, trẻ không nhắc
lại được các từ đã nói thầm.
13
+ Trẻ 5 tuổi: Trẻ không hiểu các câu chuyện trong gia đình; nghe được rất
ít, phải nhắc đi nhắc lại trẻ mới nghe thấy, thường nhìn hình miệng mới nhận được
ra lời nói. Trẻ gặp khó khăn trong giao tiếp: không thể diễn đạt được câu và chuyện
phù hợp với ngữ cảnh; hoặc có thể nói to
Khi thấy trẻ có những biều hiện bất thường như trên nên khuyên gia đình đưa
trẻ đi khám tai mũi họng để được đo thính lực đồ, kiểm tra đeo máy trợ thính.
2.3. Trẻ bị tật thị giác (khiếm thị)
- Khi trẻ không đáp ứng với ánh sáng, không nhìn theo ánh sáng, không
nhìn theo dải tua màu sắc: mắt có thể bị màng giáp mạc che hoặc tổn thương bên
trong đáy mắt gây giảm thị lực hoặc mù.
- Trẻ không quay đầu nhìn theo đồ vật, không với tay theo đồ vật, mắt
không bình thường có thể mù.
+ Sẹo giác mạc (thường gọi là mộng mắt): Mắt có hình dạng bên ngoài
bình thường, bên trong tròng mắt có sẹo, vệt sẹo trắng, hồng che phủ một phần
hoặc toàn bộ tròng đen làm cho trẻ nhìn hạn chế. Sẹo này thường do suy dinh
dưỡng, thiếu vitaminA gây khô loét giác mạc để lại sẹo. Có thể sẹo do tai nạn
cây, que chọc vào mắt hoặc bị bỏng. Biểu hiện chòng đen mắt bị vệt mờ che
khuất một phần hoặc toàn bộ làm cho trẻ nhìn khó khăn, đầu phải nghiêng, nghé
khi nhìn. Trẻ đi lại phải lần sờ và hay va chạm vào đồ vật xung quanh, tìm kiếm
đồ chơi, đồ vật khó khăn.
+ Mắt lác (còn gọi là mắt lé): Nhìn mắt bên ngoài bình thường tròng đen mắt
bị kéo lệch vào bên trong hay lệch ra bên ngoài. Nếu tròng đen bị kéo lệch vào trong
gọi là lác trong, tròng đen bị kéo lệch ra bên ngoài gọi là lác ngoài. Lác có thể bị một
mắt hoặc cả hai mắt, mắt lác làm giảm thị lực và hạn chế tầm nhìn của mắt. Nguyên
nhân do các cơ bám giữ thăng bằng cho nhãn cầu mắt bị liệt.
+ Mắt cận thị (tật khúc xạ ánh sáng): Trẻ khó khăn khi nhìn xa, thường phải
nhìn sát vào vật cần nhìn. Tật này do màng thuỷ tinh thể bị dày. Cận thị có thể do
bẩm sinh hoặc mắc phải.
+ Sụp mi: Nhiều trường hợp trẻ bị sụp mi một bên hoặc hai bên, cơ nâng mi
mắt trên của trẻ bị liệt, mi sụp che khuất tầm nhìn của con ngươi, khi nhìn phải
nghiêng ngửa đầu, dướn mắt mới nhìn được. Nếu không được điều trị lâu ngày đưa
đến giảm thị lực.
+ Tật bên trong mắt có gây biến dạng mắt: Trẻ bị teo nhãn cầu một bên
hoặc hai bên, có thể do bẩm sinh hoặc do tai nạn làm xẹp nhãn cầu, hoàn toàn
không nhìn được; mi mắt và con ngươi di động nhanh, có biểu hiện rung giật hoặc
có cử động bất thường: có thể mù, bại não, động kinh.
14
+ Sẹo bỏng dính mắt: mắt bị sẹo bên ngoài do bỏng gây co kéo che phủ làm
cho mắt không nhìn được.
+ Một số tật khác của mắt có thể gặp: đục thủy tinh thể, đục thủy tinh dịch,
tật nhãn cầu, teo gai thị thần kinh Nhìn bên ngoài mắt có thể có dạng bình thường
nhưng nhìn các vật mờ, không phân biệt được mầu sắc và nặng hơn là không nhìn
thấy gì trong trường hợp teo gai thị, bong võng mạc.
+ Trẻ không có sự tiếp xúc bằng mắt, nhìn lờ đờ.
+ Trẻ phải điều chỉnh, nghiêng đầu, xoay cổ, hoặc cố định một bên mặt, để
nhìn bằng mắt còn lại.
+ Trẻ với tay không chính xác khi với lấy các đồ vật.
+ Hai mắt chuyển động không đều hay một mắt di chuyển.
+ Mắt chuyển động ngang hay thẳng đứng quá nhanh (rung giật nhãn cầu)
+ Không có đồng tử mắt trong veo, đen (giác mạc bị mờ, con ngươi trắng,
hai mắt có tròng đỏ nhiều, hiện tượng phản sáng khi chụp ảnh có đèn flat).
+ Thường xuyên ướt nước mắt khi trẻ không khóc do trẻ bị tắc lệ đạo.
+ Có phản ứng không thoải mái với ánh sáng mạnh (chứng sợ sáng).
+ Kết mạc của mắt thường xuyên bị đỏ.
+ Hình dáng, cỡ và cấu tạo mắt thường rõ rệt.
Trẻ bị khuyết tật thị giác ít nhiều cũng sẽ ảnh hưởng đến tư duy bị chậm do
thiếu các hình mẫu giúp trẻ tư duy trực quan trong quá trình hình thành các khái niệm.
+ Nếu được phát hiện và khắc phục sớm các biểu hiện của tật khiếm thị
chúng ta sẽ giúp trẻ tránh được chậm phát triển tư duy rất nhiều.
2.4. Trẻ chậm phát triển trí tuệ và hành vi không thích ứng
- Trẻ đẻ ra yếu, mềm nhẽo có kèm theo đẻ khó, đẻ ra không khóc ngay, trẻ bị
xanh tím, trẻ đẻ non trước 36 tuần: có thể trẻ bị bại não hoặc chậm phát triển.
- Trẻ chậm biết ngẩng đầu và cử động chân tay, mặt tròn, mắt xếch, lưỡi
dày, lưỡi đùn: hội chứng Down do rối loạn nhiễm sắc thể gene.
+ Trẻ đẻ ra có đầu bé, nhọn: biểu hiện của bệnh não bé (ngu đần).
+ Trẻ đẻ ra không bú được, khó nuốt, hay trào sữa ra miệng, hay sặc, khó
nuốt: có thể do bại não.
+ Đầu to, mắt ngày càng bị lấn ép xuống dưới có biểu hiện mặt trời lặn: não
úng thủy.
- Trẻ có biểu hiện chậm phát triển hơn các trẻ khác về các mặt:
+ Vận động, phản ứng với ngoại cảnh, phản ứng với âm thanh tiếng nói.
+ Phản ứng với ánh sáng, hoặc không thể hiện ý thích mong muốn của
mình, thờ ơ với ngoại cảnh. Thường đây là dấu hiệu của trẻ có biểu hiện tổn
15
thương não, gây chậm phát triển trí tuệ.
- Trẻ có đầu to, da khô, trán rô, lưỡi đùn, tóc mọc thấp xuống trán, mí mắt
sụp: hội chứng đần độn do tổn thương tuyến giáp, thiếu Iot.
- Nhìn hình dáng bên ngoài trẻ có thể bình thường như những trẻ cùng tuổi
song có những biểu hiện như: trẻ 1 tuổi không biết được tên mình; trẻ 3 tuổi không
nhận biết được các bộ phận của cơ thể; trẻ 4 tuổi không hiểu được câu hỏi đơn
giản; trẻ có hiểu biết khó khăn hơn trẻ bình thường khác. Nói cách khác trẻ có biểu
hiện tuổi trí tuệ kém hơn tuổi thực. Trẻ học thiếp thu chậm, hay quên. Mọi hoạt
động của trẻ không hòa nhập thích ứng kịp với môi trường xung quanh. Thường
gặp trong bại não, động kinh.
- Trẻ chậm phát triển do bại não; do tật nặng về thính giác, về thị giác hoặc
về vận động:
+ Trẻ chậm lẫy, chậm ngồi, chậm biết đi so với trẻ khác.
+ Trẻ có trí nhớ kém, khó tập trung vào một công việc hay một hoạt động,
hoặc đi vơ vẩn một mình, hoặc chạy nhảy leo trèo hiếu động.
+ Trẻ không biết chơi với đồ chơi, hay đập phá; không biết chơi với bạn.
+ Trẻ cư xử, nói năng chậm chạp, kém so với tuổi.
+ Sinh hoạt hàng ngày không giống trẻ khác.
+ Trẻ biết nói muộn, nói câu ngắn đơn giản, từ ngữ nghèo nàn.
+ Trẻ đi học: học chậm, nhớ kém.
+ Trẻ không thích ứng với môi trường, khó hòa nhập với bạn bè.
Khi thấy trẻ có những biểu hiện trên cần đưa trẻ đi khám để được tư vấn và
can thiệp sớm.
2.5. Trẻ khó khăn về nói và ngôn ngữ
Trẻ bị dị tật vùng mũi, miệng: sứt môi hở hàm ếch, họng bị dị tật bẩm sinh
hoặc mắc phải nên khi khóc cười không phát ra âm thanh hoặc phát ra âm thanh
không tròn tiếng, ngọng.
Trẻ bị tổn thương trung khu thần kinh tiếp nhận điều hành bộ phận âm
thanh tiếng nói.
Khi bị tổn thương trung ương thần kinh tiếp nhận, trẻ sẽ không tiếp nhận
phân tích được âm thanh lời nói và cũng không thể điều hành được các bộ phận
phát âm và nói.
Thường gặp ở trẻ bị tổn thương não bẩm sinh hay mắc phải, trẻ không thể
nói được hoặc nói lắp. Biểu hiện trẻ 18 tháng không phát âm được từ “mẹ”; trẻ 2
tuổi không gọi được tên một người nào trong nhà; trẻ 3 tuổi không nhắc được câu
đơn giản; trẻ 4 tuổi không nói được câu đơn giản đủ nghĩa; trẻ 5 tuổi không nói
16
chuyện, giao tiếp được với người trong gia đình. Khi nói trẻ diễn đạt không mạch
lạc, lắp bắp
2.6. Trẻ bị rối loạn tình cảm, không quản lý được hành vi
- Trẻ có những biểu hiện tình cảm bất thường, lúc cười, lúc khóc không có
nguyên nhân.
- Hoạt động của trẻ không hòa nhập, thích ứng với môi trường xung quanh,
biểu hiện tăng động, đứng ngồi không yên, thích đánh đấm người khác và bản thân,
thích la hét, chạy nhảy
2.7. Trẻ tự kỷ
Với trẻ bé khó phát hiện, khi trẻ được 2-3 tuổi không giao tiếp, lúc đó người
thân mới chú ý và phát hiện được. Trẻ không giao tiếp bằng mắt, không biết chơi
cùng bạn, chỉ thích chơi một mình, ưa gây tiếng ồn, thích những màu sắc đặc trưng
hoặc trẻ không nói, không biểu đạt và đáp ứng tình cảm khi có sự kích thích: vui
buồn hay khi không đồng ý.
2.8. Trẻ có khuyết tật khác về sức khỏe
- Sứt môi, hở hàm ếch.
- Biến dạng và có dị tật bẩm sinh một hay nhiều bộ phận cơ thể.
- Đáp ứng với tiếng động chậm, hoặc nhìn chậm có thể do điếc, mù, bại não
- Trẻ tím tái biểu hiện của thiếu oxy do dị tật bẩm sinh, trẻ dễ bị ngất, tổn
thương não
- Trẻ luôn có cử động bất thường; chân tay co cứng, đầu cổ co, có thể cả
điếc, mù, suy dinh dưỡng
- Trẻ bị xuất huyết màng não.
- Trẻ bị ỉa chảy, mất nước, viêm não cấp, viêm phế quản phổi, ho gà, uốn
ván, bại liệt, co giật để lại di chứng
- Có vấn đề trong ứng xử: tự cắn xé, giật tóc, đập dầu tổn thương não.
- Trẻ bị viêm tai giữa cấp và mãn tính chảy mủ kéo dài gây điếc làm cho trẻ
không nói được, nói ngọng, nói không rõ.
- Trẻ có khó khăn trong phát âm và giao tiếp do các tổn thương của cơ
quan thính giác và bộ phận phát âm gây ảnh hưởng đến ngôn ngữ lời nói.
2.9. Trẻ bị khiếm thính kết hợp với khiếm thị
Trẻ không nghe và tìm tiếng động, không có phản xạ với tiếng động, mặt
khác mắt có biểu hiện mù, không nhìn theo ánh sáng, đồ chơi màu sắc. Mắt có thể
bị teo nhãn cầu, xẹp cầu mắt, mắt bị kéo màng trắng
2.10. Trẻ đa tật
Cùng trên một trẻ xuất hiện đồng thời nhiều tật: tật vận động, tật về mắt, tật
17
về tai thường gặp trong trẻ bại não.
2.11. Trẻ có khó khăn trong học tập
Biểu hiện nhận biết mọi vật chậm, không có phản ứng với những tác động
của bên ngoài. Thường gặp ở trẻ động kinh, bại não.
Câu hỏi ôn tập
1. Hãy cho biết khái niệm về trẻ khuyết tật và các dạng khuyết tật thường
gặp ở trẻ.
2. Hãy cho biết các nguyên nhân gây khuyết tật ở trẻ. Cách phòng tránh.
3. Các dấu hiệu giúp phát hiện sớm trẻ khuyết tật.
4. Hãy xây dựng một buổi tuyên truyền cho cha mẹ và cộng đồng về các dấu
hiệu phát hiện sớm của một trong các loại khuyết tật hay gặp ở trẻ lứa tuổi Mầm
non. Cách xử trí khi phát hiện được các dấu hiệu đó.
Phần III
TỔ CHỨC CAN THIỆP SỚM VÀ GIÁO DỤC HOÀ NHẬP
CHO TRẺ KHIẾM THÍNH TỪ 0-6 TUỔI
I. Những vấn đề chung
1. Cấu tạo tai
Tai người có cấu trúc phức tạp và được chia làm 3 phần: tai ngoài, tai giữa
và tai trong.
Tai ngoài gồm vành tai và ống tai có nhiệm vụ thu nhận và hướng sóng âm
đến màng nhĩ.
Tai giữa là một hốc không khí thông với khoang mũi - hầu qua vòi Eustachi
(vòi nhĩ), bắt đầu từ màng nhĩ và kết thức ở màng cửa sổ bầu dục. Ở đây có ba
xương thính giác nhỏ (xương búa, xương đe và xương bàn đạp) tạo thành một chiếc
đòn bẩy để chuyển đổi sóng âm từ màng nhĩ đến chất dịch lỏng chứa ở tai trong qua
một cửa sổ bầu dục. Vòi Eustachi bình thường đóng, chỉ mở khi ta nuốt hoặc ngáp
để tạo sự cân bằng áp suất không khí ở hai bên màng nhĩ.
18
Tai trong có cấu tạo rất phức tạp vì nó có nhiệm vụ hết sức quan trọng là làm
biến đổi các dao động cơ học của âm thanh thành những xung điện thần kinh. Những
xung điện thần kinh này được truyền lên khu vực nghe ở vỏ não qua những sợi của
dây thần kinh số 8. Tai trong có cấu trúc hình xoắn ốc, và nhỏ như hạt đậu (gọi là ốc
tai) chứa những tế bào cảm giác làm nhiệm vụ chuyển đổi tín hiệu âm thanh.
2. Khái niệm tật điếc
Trong ngôn ngữ phổ thông, điếc thường được hiểu là mất thính giác hoàn
toàn, không nghe được chút nào cả hoặc giảm sút nhiều về thính giác nghe
không rõ. Đó cũng là định nghĩa trong các từ điển phổ thông. Trong ngành y,
điếc có nghĩa là giảm sút hoặc mất toàn bộ hay một phần sức nghe. Trong giáo
dục đặc biệt ta cũng có thể sử dụng thuật ngữ này. Thay cho thuật ngữ điếc ta
còn gặp những thuật ngữ như: khiếm thính hay khuyết tật thính giác.
Trung bình trong 1.000 trẻ sinh ra thì có 2 em bị điếc bẩm sinh từ mức nặng
đến mức sâu, trong số 1.000 trẻ đó có thêm 2 em bị điếc mắc phải (điếc sau khi
sinh). Đây là tỉ lệ trung bình, ở mỗi xã hội trẻ bị điếc có thể cao hoặc thấp hơn.
Đối với một số trẻ bị giảm sức nghe, âm thanh mà trẻ nghe được chỉ nhỏ hơn so
với bình thường. Đối với một số trẻ bị giảm sức nghe khác, âm thanh mà trẻ nghe
được có thể và bị nhỏ hơn hoặc vừa bị méo mó. Chỉ có rất ít trẻ bị điếc sâu mà không
còn nghe được chút nào cả (con số này nhỏ hơn 5% trẻ bị khiếm thính).
Một số trẻ bị giảm sức nghe có thể:
- Mức độ giảm nghe ở hai bên tai là như nhau.
- Mức độ giảm sức nghe ở hai bên tai là khác nhau.
- Một tai bị giảm sức nghe và một tai nghe bình thường.
3. Các loại điếc
Nếu một trẻ bị giảm sức nghe thì điều đó có nghĩa là một bộ phận nào đó của
bộ máy thính giác bị tổn thương. Sự tổn thương đó có thể xẩy ra ở tai ngoài, tai
giữa hoặc tai trong.
3.1. Điếc dẫn truyền
Nếu việc giảm sức nghe là do bị tổn thương ở phần tai ngoài hay tai giữa
người ta gọi là điếc dẫn truyền. Do bị tổ thương mà việc dẫn truyền âm thanh tới tai
trong bị ảnh hưởng.
3.2. Điếc tiếp nhận
Việc giảm sức nghe có thể do bị tổn thương ở phần tai trong, khi đó ta gọi là
điếc tiếp nhận. Nếu một trẻ bị giảm sức nghe nhưng không có vấn đề gì ở tai ngoài
19
hay tai giữa thì thường là do tổn thương ở tai trong nơi mà các xung động điện
được phát ra và sau đó được chuyển lên não.
3.3. Điếc hỗn hợp
Một số trẻ vừa bị điếc tiếp nhận vừa bị điếc dẫn truyền. Trong trường hợp
này người ta gọi là điếc hỗn hợp.
4. Những nguyên nhân gây điếc ở trẻ em
4.1. Những nguyên nhân trước khi sinh
Di truyền, nhiễu loạn về gen. Điếc di truyền là nguyên nhân tương đối phổ
biến. Điếc di truyền có khi chỉ biểu hiện một tật điếc, có khi tật điếc chỉ là một
phần của hội chứng. Ngày nay người ta tìm được khoảng 130 hội chứng trong đó
có tật điếc. Ví dụ: Hội chứng Usher (điếc và viêm võng mắc sắc tố). Hội chứng
Bardet - Biedle (trí tuệ trì độn, viêm võng mặc sắc tố, nhiều ngón tay, điếc). Hội
chứng Waardenburg (chỏm tóc bạc, tóc bạc sớm, mắt xanh, điếc).
- Mắc bệnh trong thời kỳ thai nghén: cúm, sởi, giang mai
- Nhiễm độc trong thời kỳ thai nghen do thuốc, hoá chất (strepto-mycin ).
- Đối kháng nhóm máu Rh giữa mẹ - con.
4.2. Những nguyên nhân trong khi sinh
- Đẻ non, đẻ khó, ngạt đẻ.
- Sang chấn khi đẻ, foóc-xep lấy thai.
4.3. Những nguyên nhân sau khi sinh
- Các nhiễm khuẩn, nhiễm virut như viêm màng não, viêm não, quai bị, sởi
- Các viêm tai - xương chũm.
- Nhiễm độc do sử dụng thuốc, đặc biệt lưu ý tới streptomycin.
- Ngoài ra còn rất nhiều trường hợp điếc không rõ nguyên nhân.
5. Ảnh hưởng của tật điếc ở trẻ em
Ảnh hưởng chính là tới khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ nói của trẻ. Mức độ
phát triển ngôn ngữ nói của trẻ bị ảnh hưởng phụ thuộc vào những yếu tố sau:
Mức độ điếc sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển ngôn ngữ và lời nói của trẻ:
Thông thường, điếc càng nặng thì càng ảnh hưởng tới sự phát triển ngôn ngữ
của trẻ. Mức độ điếc được biểu hiện trên thính lực đồ.
- Nghe bình thường: một người nghe bình thường thì rất dễ tiếp nhận âm
thanh lời nói.
- Điếc nhẹ (điếc mức I (21-40dB): nếu không đeo máy trợ thính, một trẻ điếc
mức I có thể không nghe thấy được một số âm thanh lời nói - đặc biệt là các phụ
âm nhỏ. Nếu nói rất nhỏ trẻ sẽ không nghe thấy một số âm thanh.
20
- Điếc trung bình (điếc mức II (41-70dB): nếu không có máy trợ thính, trẻ
điếc mức độ II sẽ không nghe thấy một số âm thanh lời nói.
- Điếc nặng (điếc mức III (71-90dB): nếu không đeo máy trợ thính, trẻ điếc
mức III sẽ không nghe được phần lớn âm thanh của ngôn ngữ nói trong giao tiếp
thông thường.
- Điếc sâu (điếc mức IV (> 90dB): nếu không đeo máy trợ thính, một trẻ
điếc mức IV sẽ không nghe thấy chút nào của âm thanh lời nói trong giao tiếp
thông thường, thậm trí ngay cả khi nói to trẻ cũng không nghe thấy.
Thời gian bị điếc (tật điếc xuất hiện trước hay sau thời kỳ phát triển ngôn
ngữ) sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển ngôn ngữ lời nói:
Ngay từ sau khi sinh trẻ đã phải học để hiểu những âm thanh mà ta nghe
thấy. Lúc mới sinh trẻ chưa hiểu được lời nói nhưng trẻ có thể hiểu được ý nghĩa
khái quát lời nói dựa vào cường độ, nhịp điệu và trọng âm của lời nói. Trẻ có thể
nhận ra giọng nói của người mẹ. Nhưng nếu sinh ra trẻ đã bị điếc sẽ không hiểu
được ý nghĩa của lời nói.
Nếu trẻ nghe được bình thường và trong môi trường học - ngôn ngữ bình
thường, môi trường dường như bất cứ bà mẹ nào cũng có sẵn, trẻ dần dần hình
thành những mối liên hệ giữa âm thanh lời nói mà bé nghe được với thế giới xung
quanh. Tới khoảng 12 tháng tuổi trẻ đã hiểu được lời nói rất nhiều. Chúng ta gọi
đây là ngôn ngữ tiếp nhận. Nhưng ở độ tuổi này trẻ mới chỉ nói rõ được rất ít từ.
Như vậy ngôn ngữ biểu đạt rất giới hạn cho với ngôn ngữ tiếp nhận. Bao giờ cũng
tồn tại sự khác biệt này ở người lớn chúng ta hiểu được ngôn ngữ phức tạp nhiều
hơn là chúng ta có thể nói.
Ngôn ngữ biểu đạt của trẻ nghe được bình thường phụ thuộc vào sự tích
luỹ ngôn ngữ tiếp nhận ban đầu. Trẻ bị điếc bẩm sinh sẽ bị mất đi tiến trình học
ngôn ngữ ngay từ đầu tiên. Nếu không đeo máy trợ thính và không có những chỉ
dẫn cho cha mẹ thì việc hiểu ngôn ngữ của bé sẽ ngày càng bị chậm trễ, việc biết
nói cũng bị chậm lại và rất khó khăn. Tuy nhiên, nếu một trẻ bị điếc do bệnh tật
hay bị tổn thương thính giác khi trẻ đã phát triển ngôn ngữ tiếp nhận và ngôn
ngữ biểu đạt một cách bình thường thì chỉ bị ảnh hưởng mức độ. Những trẻ này
khi bị điếc có khả năng gắn ý nghĩa cho những âm thanh nghe được hơn là trẻ bị
điếc bẩm sinh rất nhiều ngay cả khi âm thanh có nhỏ hơn hoặc bị nhiễu. Khả
năng này còn tốt hơn rất nhiều nếu trẻ được đeo máy trợ thính ngay sau khi bị
điếc cùng với việc gia đình nhận được sự hỗ trợ về chuyên môn để vượt qua
được thời gian khó khăn; được cung cấp những thông tin chính xác và được hỗ
21
trợ để tiếp tục tạo ra môi trường phát triển tốt nhất mà họ có thể. Trẻ càng có
nhiều thời gian “tắm mình” trong ngôn ngữ thì trẻ càng có khả năng tiếp tục phát
triển ngôn ngữ.
Chất lượng hiệu chỉnh máy trợ thính sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển ngôn
ngữ và lời nói:
Cũng như việc chỉ định đeo kính cho những người có vấn đề về thị giác là
phải đo thị giác, việc chỉ định máy trợ thính cho trẻ có vấn đề về nghe phải dựa vào
kết quả của việc đo sức nghe một cách chính xác (Điều này không có nghĩa là việc
hiệu chỉnh máy trợ thính sẽ bù lại sức nghe cũng như cách mà kính có thể bù đắp
cho thị lực. Máy trợ thính chỉ làm cho âm thanh to lên chứ không sửa chữa được sự
méo mó của âm thanh mà trẻ điếc có thể nghe thấy. Tuy nhiên, độ khuyếch đại của
máy trợ thính có thể được điều chỉnh ở các tần số khác nhau để phù hợp với sự mất
thính lực của mỗi trẻ).
Sẽ không có nghĩa gì nếu lựa chọn máy trợ thính với những lí do khác
mà không xem máy trợ thính đó có phù hợp với sức nghe của trẻ hay không.
Đôi khi máy trợ thính được chỉ định dựa vào giá máy hay là chỉ cho rằng máy
trợ thính “kỹ thuật số” chắc chắn sẽ tốt hơn, có khi máy trợ thính thông thường
và rẻ hơn lại phù hợp hơn.
Việc can thiệp sớm hay muộn (hay không can thiệp chút nào) sẽ ảnh hưởng
tới sự phát triển ngôn ngữ và lời nói:
Ngôn ngữ có thể phát triển tốt nhất đối với trẻ điếc nếu gia đình nhận được
sự hỗ trợ, thông tin và tư vấn (can thiệp) từ rất sớm. Nếu can thiệp sớm được thực
hiện trước 6 tháng tuổi thì kết quả thu được sẽ tốt nhất. Nếu gia đình nhận được sự
hỗ trợ và hướng dẫn càng muộn thì sự phát triển ngôn ngữ nói của trẻ càng bị hạn
chế. Nếu gia đình không nhận được sự hỗ trợ nào thì trẻ điếc khó mà có thể phát
triển ngôn ngữ nói tốt được.
Chất lượng của can thiệp sớm sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển ngôn ngữ và
lời nói của trẻ:
Không chỉ can thiệp sớm là quan trọng mà quan trọng hơn cả là can thiệp có
chất lượng. Một khía cạnh quan trọng nhất của can thiệp sớm là việc hỗ trợ và
hướng dẫn của người thực hiện chương trình để tạo ra cho trẻ một môi trường tốt
nhất. Nếu người thực hiện chương trình cung cấp những thông tin tốt và gia đình
thực hiện theo thì trẻ sẽ phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất. Như vậy làm thế nào
để biết một chương trình can thiệp sớm có chất lượng hay không? Nếu người thực
hiện chương trình nói rằng chương trình can thiệp của họ là có chất lượng thì không
22
thích đáng. Chúng ta sẽ tìm hiểu về những đặc điểm của một chương trình can thiệp
sớm cho trẻ khiếm thính có chất lượng ở phần sau.
Trí tuệ của trẻ sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển ngôn ngữ và lời nói của trẻ:
Trẻ chậm phát triển trí tuệ hay trẻ có những khuyết tật khác thì việc phát
triển ngôn ngữ có thể bị trì trệ. Trí tuệ càng bị ảnh hưởng nặng thì ngôn ngữ càng
có khó khăn. Trẻ khiếm thính kèm theo chậm phát triển trí tuệ thì có thể rất có khó
khăn trong việc phát triển ngôn ngữ.
Thái độ của trẻ có thể ảnh hưởng đến sự phát triển ngôn ngữ và lời nói
của trẻ:
Nếu trẻ khiếm thính có được sự chấp nhận, hỗ trợ của gia đình và gia đình hiểu
được tầm quan trọng vai trò của học trong việc cung cấp môi trường học ngôn ngữ tốt
nhất thì trẻ có cơ hội tốt nhất để phát triển ngôn ngữ.
II. Can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính từ 0-3 tuổi
Can thiệp sớm đơn giản chỉ là làm một cái gì đó để giúp trẻ và gia đình càng
sớm càng tốt. Tại Việt Nam đã có hơn 20 tỉnh triển khai làm can thiệp sớm cho trẻ
khiếm thính với số lượng trên 30 chương trình. Hầu hết các chương trình này hầu
hết được đặt ở trường dạy trẻ điếc với nhiệm vụ giúp đỡ gia đình trẻ điếc. Bí quyết
can thiệp sớm thành công là hãy bắt đầu sớm, càng sớm càng tốt.
1. Nội dung can thiệp sớm
Có nhiều trường hợp nội dung can thiệp sớm chỉ bắt đầu làm việc với gia
đình khi trẻ đã được phát hiện và chuẩn đoán là bị điếc. Tuy nhiên phát hiện sớm
và chuẩn đoán sớm là một phần của công tác can thiệp sớm. Có thể nói, đó là
những bước đi đầu tiên của cả tiến trình giúp đỡ gia đình và trẻ.
1.1. Phát hiện sớm
Trong nhiều trường hợp cha mẹ và gia đình là những người đầu tiên nghi
ngờ sự bất ổn về thính giác của con mình. Gia đình có nhiều cách để nhận biết rằng
con mình có vấn đề về thính giác hay không.
- Có một số cơ sở y tế kiểm tra thính giác của trẻ sơ sinh bằng khám sàng lọc
thính giác.
- Gia đình có thể đang sống trong khu vực mà cơ quan y tế địa phương đã tổ
chức khám sàng lọc cho trẻ từ 6-12 tháng.
- Trẻ được khám sàng lọc khi học ở trường Mầm non.
- Đưa trẻ đi khám ở các bệnh viện tai - họng hoặc bác sĩ khi thấy trẻ đau
hoặc viêm tai. Nếu cần, bác sĩ sẽ đề nghị kiểm tra thính lực.
1.1.1. Những dấu hiệu có nguy cơ bị điếc
23
- Tiền sử gia đình có người bị điếc từ nhỏ.
- Mẹ bị cúm trong thời kỳ thai nghén hoặc nhiễm khuẩn trước khi sinh.
- Điểm Apgar test: 0-4 sau khi sinh 1 phút, 0-6 sau khi sinh 5 phút.
- Khi sinh cân nặng dưới 1500gam.
- Bệnh vàng da, đầu và cổ bất thường sau khi sinh.
- Sử dụng thuốc có ảnh hưởng tới tai: aspirin liều cao, thuốc kháng sinh
erythromycin và streptomycin.
- Những nhân tố phát sinh về sau: viêm màng não, phát triển thể chất chậm,
sởi, quai bị
- Cha mẹ hoặc người chăm sóc lo lắng trẻ có vấn đề trong giao tiếp hay
chậm phát triển.
1.1.2. Phương pháp theo dõi sức nghe và phát hiện điếc ở trẻ em
Có nhiều cách phát hiện điếc ở trẻ em. Chúng ta có thể tham khảo một
cách được giới thiệu trong cuốn “Những vấn đề về điếc và nghễnh ngãng, Nội
trú tai mũi họng - số 2 - Bộ môn tai mũi họng, ĐH Y dược Thành phố Hồ Chí
Minh - 1992”.
Nghe hiểu Tuổi Nói
- Trẻ có chú ý nghe tiếng nói không?
- Trẻ có giật mình hoặc khóc khi
nghe tiếng ồn không ?
- Trẻ có tỉnh giấc lúc có tiếng
động không?
Mới đẻ - Trẻ có biết từ “à”, “ứ” không?
- Trẻ có quay về phía có người
nói không?
- Trẻ có cười với người nói
chuyện không?
- Trẻ có ngừng chơi hoặc có tỏ
ra nhận biết tiếng mẹ đẻ không?
3 tháng - Trẻ có bập bẹ không?
- Trẻ có tiếng khóc khác nhau để
biểu hiện các yêu cầu khác nhau
không?
- Trẻ có lặp lại nhiều lần một số
tiếng nào đó không?
- Trẻ có đáp ứng khi gọi tên không?
- Trẻ có chú ý hoặc tìm nguồn
phát âm không?
- Trẻ có quay đều về phía có
nguồn âm không?
6 tháng - Trẻ có bập bẹ theo tiếng mẹ tuy
không rõ không?
- Trẻ có phát ra nhiều âm khác
nhau không?
- Trẻ có đáp ứng được vài câu
đơn giản không?
- Trẻ có quay đầu hoặc nhìn lên
9 - 12 tháng - Trẻ có nói một vài từ (tuy
không rõ) không?
- Trẻ có thích thú khi học nói
24
khi gọi không?
- Trẻ có tìm hoặc nhìn quanh khi
có tiếng ồn lạ không?
- Trẻ có hóng chuyện không?
theo không?
- Trẻ có phát ra từ lí nhí như
tiếng nói không?
- Trẻ có phát ra âm thanh gì để
mẹ chú ý không?
- Trẻ có 2-3 từ lúc 1 tuổi.
- Trẻ có làm theo được 2 yêu cầu
không? (lấy quả bóng và đặt lên bàn)
1,5 đến 2 tuổi - Trẻ có được 8-10 từ lúc 1,5
tuổi, 10-15 từ lúc 2 tuổi.
- Trẻ có lặp lại các yêu cầu không?
- Trẻ có đặt câu hỏi 2 từ không?
- Trẻ có dùng câu ghép 2 từ không?
- Trẻ hiểu dễ dàng khi nói
chuyện không?
- Trẻ vẫn nghe được khi ta ngoảnh
lưng lại trong lúc nói không?
- Trẻ có biết quay núm vặn đài
to nhỏ vừa phải không?
- Có phân biệt các từ đối lập
nghĩa không?
- Trẻ có thể chỉ đúng, gọi tên
hình trong tranh không?
- Trẻ có chú ý đến các tiếng
động khác nhau (mèo, chó )
2,5 đến 4 tuổi - Trẻ đã nói được đủ tiếng
không? (có thể thiếu các phụ âm
s, d, l, r )
- Trẻ có nói lặp lại một vài từ
trong câu không?
- Trẻ có vốn từ 200-300 từ không?
- Trẻ có nói được câu 2-3 từ trở
lên không?
- Trẻ đặt câu hỏi tại sao, như thế
nào không?
- Kiểu nói sai từ và nói lắp đã hết chưa?
- Trẻ thích gọi tên các đồ vật không?
- Trẻ nghe và hiểu hầu hết các câu
chuyện trong gia đình không?
- Trẻ nghe và trả lời ngay các
câu hỏi không cần lặp lại không?
- Trẻ nghe được giọng nói bình
thường không?
- Mọi người thân thuộc đều nghĩ
trẻ nghe bình thường không?
5 tuổi - Trẻ phát âm đúng mọi thứ
tiếng không?
- Trẻ dùng các cấu trúc câu như
mọi người trong gia đình không?
- Giọng của trẻ rõ ràng trong
sáng như trẻ khác không?
1.2. Chẩn đoán sớm
Ngay khi nghi ngờ rằng trẻ có vấn đề về thính giác hãy sớm đưa trẻ đi kiểm
tra (đo sức nghe) tại một trung tâm thính học. Tuỳ theo điều kiện và độ tuổi người
ta thực hiện những test đo sức nghe khác nhau: quan sát hành vi, đo phản xạ định
25