Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Ths báo chí học tổ chức sản xuất chương trình phát thanh tiếng dân tộc trên đài phát thanh và truyền hình hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (499.25 KB, 118 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Ngay từ khi Nước Việt nam dân chủ cộng hòa ra đời vào ngày
2/9/1945, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và đặc biệt là vấn đề đại đoàn kết các dân tộc.
Từ đó đến nay, Đảng, Nhà nước ta ln coi trọng vấn đề đồn kết dân tộc và
chăm lo nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc
thiểu số.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục nhấn mạnh:
“Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam,
là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy
mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, độc
lập, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái
với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền
thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt
Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với
Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XVI cũng khẳng
định: Thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về dân tộc tơn giáo; vận động
quần chúng tín đồ, giáo dân tích cực tham gia vào các phong trào thi đua yêu
nước của địa phương, nâng cao cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn tuyên
truyền sai trái của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân
quyền để chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước ta.



2

Giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch tiếp tục gia tăng các hoạt động
"diễn biến hồ bình", tun truyền nhằm chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết
các dân tộc trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Tình hình tội phạm có yếu tố nước
ngồi, vấn đề xuất hiện các tơn giáo lạ, khơng có tư cách pháp nhân hay vấn
đề di cư tự do còn tiềm ẩn phức tạp. Đặc biệt, thời gian qua, các thế lực phản
động trong và ngoài tỉnh, trong và ngoài nước đã tăng cường không ngừng
thực hiện các thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc, bóp méo sự thật để kích động,
lơi kéo, chia rẽ khối đồn kết nhằm xây dựng Vương quốc Mơng riêng biệt,
kích động đối đầu giữa các dân tộc thiểu số Mơng – Tày – Dao… Đáng lưu ý,
do có cùng hệ ngôn ngữ nên các kênh Phát thanh bằng tiếng Mơng, tiếng Dao
đặt ở nước ngồi thường xun phát các chương trình có nội dung phản động,
kích động, xun tạc sự thật vào khu vực đồng bào dân tộc trong tỉnh Hà
Giang. Thực tế hiện nay cho thấy, khu vực đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Hà
Giang hiện đang thiếu thông tin, trở thành khu vực tranh chấp thơng tin và đó
chính là điều các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá, tuyên truyền các luận
điệu sai trái. Nhiều đài phát thanh nước ngoài phát chương trình tiếng Việt như:
Đài Châu Á Tự do (RFA), Đài VOA, BBC v.v... Đặc biệt là Đài Phát thanh
Manila của Philippin có riêng chương trình tiếng dân tộc Mơng phát thường
xuyên nhằm xuyên tạc đường lối, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.
Tại nhiều tỉnh khu vực miền núi phía Bắc đều có thể bắt được sóng để nghe
chương trình của đài này.
Những vấn đề cấp thiết trên đã đặt ra nhiệm vụ phải làm tốt công tác
thông tin tuyên truyền, chủ động đấu tranh trực diện và quyết liệt đối với âm
mưu của các thế lực thù địch trên lĩnh vực thông tin, tư tưởng.
Hà Giang là tỉnh miền núi thuộc khu vực giữa Đông Bắc và Tây Bắc,
phía đơng giáp tỉnh Cao Bằng, phía tây giáp tỉnh Yên Bái và Lào Cai, phía
nam giáp tỉnh Tun Quang, phía bắc giáp nước Cộng hịa Nhân dân Trung



3

Hoa. Hà Giang ở vị trí tột Bắc của tổ quốc có tổng diện tích trên 7.914 km2,
dân số hiện nay là 771.200 người với 19 dân tộc cùng sinh sống. Trong đó,
có ba dân tộc chiếm tỷ lệ lớn hơn cả là: Dân tộc Mông chiếm: 32,0%, Dân
tộc Tày chiếm 23,3 %, Dân tộc Dao chiếm 15,1 %... còn lại là thuộc các dân
tộc khác.
Hiện nay, công tác thông tin, tun truyền ln được Đảng bộ, Chính
quyền tỉnh quan tâm, diện tích phủ sóng các chương trình phát thanh truyền
hình của Đài PT-TH tỉnh Hà Giang đã đạt 100% diện tích tồn tỉnh. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy, các chương trình cả phát thanh và truyền hình chưa có
nhiều đổi mới về nội dung hay hình thức thể hiện. Chưa thực sự là kênh thông
tin hữu hiệu đối với nhân dân các dân tộc trong tỉnh trên các lĩnh vực thơng
tin thời sự, chính trị, kinh tế xã hội lẫn văn hóa, giải trí…
Riêng với chương trình Phát thanh tiếng dân tộc trên Đài Phát thanh và
Truyền hình Hà Giang cịn nhiều hạn chế, thiếu tính chun nghiệp, thiếu và
yếu cả về nguồn kinh phí tổ chức sản xuất cũng như nguồn nhân lực có chất
lượng. Vì vậy, hiệu quả của các chương trình chưa cao, chưa đáp ứng được
u cầu thơng tin thời sự, giải trí của đồng bào vùng dân tộc thiểu số. Do đó,
đã làm giảm hiệu quả của một kênh thông tin, truyền thông quan trọng với
đồng bào dân tộc thiểu số.
Thực trạng trên đã đặt ra yêu cầu cần thiết phải có sự thay đổi một cách
khoa học và hợp lý. Tập trung cải tiến trong kết cấu, nội dung chương trình
phát thanh tiếng dân tộc để nâng cao hiệu quả tuyên truyền với vùng đồng bào
dân tộc là mục tiêu Đài Phát thanh truyền hình Hà Giang hiện nay đang
hướng tới. Để làm được điều này, hoạt động tổ chức sản xuất chương trình
phát thanh tiếng dân tộc là một yếu tố quan trọng hàng đầu. Đánh giá, khảo
sát, nhận diện được những thành cơng cũng như hạn chế của quy trình tổ chức
sản xuất các chương trình phát thanh tiếng dân tộc trên Đài PT-TH Hà Giang



4

đang thực hiện, từ đó, nêu và đề xuất các giải pháp tổ chức sản xuất khả thi,
hiệu quả hơn. Đó chính là lý do để tác giả chọn thực hiện đề tài “ Tổ chức sản
xuất Chương trình Phát thanh tiếng dân tộc trên Đài Phát thanh và Truyền
hình Hà Giang ”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, vấn đề thông tin tuyên truyền bằng tiếng dân tộc
và tuyên truyền bằng tiếng dân tộc trên sóng phát thanh có nhiều cơng trình
nghiên cứu và tìm hiểu, nhưng ở mỗi góc độ nghiên cứu, mỗi nhà khoa học lại
có cách nhìn và tiếp cận vấn đề khác nhau. Có thể kể ra một số cơng trình
nghiên cứu tiêu biểu sau:
+ Về các cuốn sách có nội dung liên quan đã xuất bản:
Các cuốn sách về lý luận, cơng trình nghiên cứu của các tác giả bao
gồm: “Cơ sở lý luận báo chí”, NXB Lao động, 2013 của P.GS TS Nguyễn
Văn Dững; “Lý luận báo phát thanh”, NXB Văn hóa thơng tin Hà Nội, 2003
của Đức Dũng; “Sách Báo phát thanh, lý thuyết và kỹ năng cơ bản”, NXB
Chính trị - Hành chánh Hà Nội, năm 2013 của TS.Đinh Thị Thu Hằng. Các
cơng trình này hệ thống cụ thể về đặc trưng của báo phát thanh, công chúng
phát thanh, các phương tiện tác động của báo phát thanh, viết và biên tập cho
báo phát thanh; các thể loại của báo phát thanh, nhất là nêu ra một quy trình
cơ bản trong tổ chức sản xuất chương trình phát thanh.
Tập bài giảng về truyền thơng chun biệt của PGS.TS Vũ Quang Hào
giúp nhận diện, phân tích xu hướng phát triển của truyền thông chuyên biệt và
nhận dạng bước đầu đối tượng truyền thông chuyên, đặc biệt là tâm lý tiếp
nhận thông tin, cách thức chuyển tải thông tin phù hợp và hiệu quả nhất cho
đối tượng truyền thông chuyên biệt.
Tác giả Phan Kim Loan, Khoa báo chí, Trường cao đẳng Phát thanh Truyền hình II chủ trì đề tài nghiên cứu “Sự đổi mới loại hình phát thanh của

một số Đài cấp tỉnh ở phía Nam (từ năm 1986 đến 2010). Đề tài này ghi nhận


5

khá đầy đủ diện mạo chung của Báo phát thanh phía Nam cũng như những
thay đổi phù hợp xu hướng phát thanh hiện đại đang diễn ra.
+ Các Khóa luận, Luận văn có liên quan đến đề tài:
Đối với phát thanh tiếng dân tộc thiểu số, cách đây nhiều năm cũng đã
có nhiều tác giả tiến hành các đề tài nghiên cứu, đáng chú ý có các đề tài sau:
La Vũ Quang (1993): Một số vấn đề về tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu
quả thông tin tuyên truyền với đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu số ở buổi phát
thanh đại gia đình các dân tộc Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp Đại học. Ở khóa
luận này, tác giả đã khảo sát và nêu những giải pháp để nâng cao chất lượng,
hiệu quả tuyên truyền thông qua một chương trình cụ thể của Đài TNVN.
Giàng Seo Pùa (1994): Những bước đi ban đầu của chương trình phát
thanh tiếng Mơng (Đài tiếng nói Việt Nam), tiềm năng và xu hướng phát triển,
Khóa luận tốt nghiệp Đại học. Qua cơng trình này, tác giả đã khảo sát đánh
giá quá trình hình thành, thực trạng sản xuất của chương trình Phát thanh
tiếng Mông của Đài TNVN và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng, thời
lượng của chương trình chuyên biệt này.
Nghiên cứu về chương trình phát thanh tiếng Khmer có Đề tài khoa học
“Nâng cao chất lượng chương trình phát thanh tiếng Khmer Nam bộ” (2004)
của Tô Ngọc Trân và những người tham gia Nguyễn Thị Minh Hạnh, Trần Thị
Hiếu. Đề tài giúp hình dung được lược sử về sự ra đời, quá trình phục vụ cách
mạng và phát triển của phát thanh tiếng Khmer Nam bộ. Đồng thời tham
khảo được cái nhìn của những người trực tiếp sản xuất chương trình phát
thanh tiếng Khmer về các yêu cầu phải đảm bảo của chương trình nhằm đáp
ứng nhu cầu của công chúng.
Đặng Thị Huệ, Ban Phát thanh tiếng dân tộc, Đài TNVN, có đề tài

“Nâng cao chất lượng và hiệu quả tuyên truyền vấn đề dân tộc thiểu số trên
sóng phát thanh quốc gia” (2005). Đối tượng của đề tài là các chương trình


6

phát thanh tiếng Mông, Ba na, Ê đê, Thái, Cơ Ho…, đề xuất các giải pháp
nâng cao chất lượng chương trình.
Qua đề tài “Phát thanh tiếng Dân tộc với nhiệm vụ bảo tồn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc” Ban Phát thanh tiếng dân tộc, Đài TNVN (2006),
Đặng Thị Huệ đã nghiên cứu vấn đề bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
trong 3 chương trình phổ thơng và 8 chương trình tiếng dân tộc của Đài TNVN.
Kim Ngọc Anh, Ban tổ chức cán bộ, Đài TNVN với đề tài “Các giải
pháp phát triển nguồn nhân lực làm phát thanh tiếng dân tộc ở nước ta hiện
nay” (2007) với đối tượng nghiên cứu là nguồn nhân lực trực tiếp sản xuất
các chương trình phát thanh tiếng dân tộc thiểu số.
Cơ quan thường trú Đài TNVN tại các khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên,
Miền Trung đã lần lượt chủ trì các đề tài: “Nâng cao chất lượng chương trình
phát thanh tiếng Thái” (2009), “Nâng cao chất lương chương trình phát
thanh tiếng Ê đê” (2010), “Nâng cao chất lượng chương trình phát thanh
tiếng Cơ tu” (2010). Các đề tài này giới hạn phạm vi nghiên cứu một chương
trình phát thanh cụ thể, đối tượng cụ thể và đề xuất giải pháp nâng cao chất
lượng chương trình.
Tác giả Thạch Tùng Linh, Đài PT-TH Sóc Trăng với đề tài “Nâng cao
chất lượng chương trình tiếng Khmer của các Đài PT-TH tỉnh ở khu vực
Đồng bằng Sông Cửu Long” (2010), đã khảo sát tại Đài PT-TH tỉnh Sóc
Trăng, Cà Mau, Trà Vinh và đề cập đến một phần thực trạng và đưa ra các giải
pháp, khuyến nghị.
Đề tài “Nâng cao chất lượng tuyên truyền các vấn đề dân tộc của Đài
TNVN trong giai đoạn hiện nay”, Hệ phát thanh Dân tộc, Đài TNVN thực

hiện (2011), đề cập thực tế chất lượng nội dung và các yêu cầu thực hiện công
tác tuyên truyền vấn đề dân tộc trong giai đoạn hiện nay của Đài TNVN.
Về các đề tài truyền hình cho đồng bào dân tộc thiểu số cũng có một số
cơng trình nghiên cứu như:


7

Đề tài “Thông tin về dân tộc miền núi trên VTV1 - Đài Truyền hình
Việt Nam” (2001) của Nguyễn Xuân An Việt, khảo sát chương trình về đề tài
dân tộc và miền núi trong giai đoạn từ 1991 – 2001, đề xuất các giải pháp
nâng cao chất lượng và hiệu quả thông tin về dân tộc, miền núi của Đài
Truyền hình Việt Nam.
Luận án Thạc sỹ của Phạm Ngọc Bách về “Chương trình dân tộc và
miền núi trên sóng VTV1 - Đài Truyền hình Việt Nam” (2005), đưa ra các
giải pháp nâng cao chất lượng chương trình trên cơ sở khảo sát từ tháng
1/2004 đến tháng 6/2005.
Luận văn “Vấn đề công chúng truyền thông chuyên biệt (khảo sát công
chúng Hà Nội)” (2011) của Vũ Thị Ngọc Thu, chuyên ngành Báo chí học,
học viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội đề cập cách thức tìm hiểu nhu cầu, vai trị của cơng chúng truyền hình
chuyên biệt.
Trần Thị Trang (2014): Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc trên
sóng Phát thanh – truyền hình. Luận văn Thạc sỹ Báo chí. Tác giả đã nghiên cứu
khảo sát chương trình phát thanh, truyền hình của 3 tỉnh: Hà Giang, Tuyên
Quang, Sơn La để đánh giá và đề xuất giải pháp tăng cường tuyên truyền, nâng
cao nhận thức về bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, hạn chế yếu tố văn
hóa ngoại lai, khơng phù hợp trong các chương trình phát thanh, truyền hình của
các Đài PT-TH : Hà Giang, Tuyên Quang, Sơn La hiện nay.
Lê Thế Biên (2015): Hiệu quả tun truyền về biến đổi khí hậu trên

sóng phát thanh của Đài PTTH Hà Giang. Luận văn Thạc sỹ Báo chí. Tác
giả đã khảo sát, đánh giá về hoạt động tun truyền, biến đổi khí hậu trên
sóng phát thanh của Đài PT-TH Hà Giang từ tháng 1/2014 đến tháng 6 năm
2015. Trên cơ sở đó, nêu giải pháp nâng cao chất lượng, hình thức tuyên


8

truyền về biến đổi khí hậu đối với địa phương có đặc thù tự nhiên khắc
nghiệt như Hà Giang.
Điều này cho thấy, đến thời điểm hiện tại đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu có liên quan đến báo chí, truyền thông và truyền thông đại chúng bằng
tiếng dân tộc, ngôn ngữ dân tộc ở cả Báo in, Phát thanh và truyền hình. Mỗi
tác giả, mỗi một cơng trình nghiên cứu đã đề cập rõ ràng tới những khía cạnh
khác nhau của lĩnh vực báo chí, tun truyền và truyền thơng bằng tiếng dân
tộc với những góc nhìn, những gợi mở, đề xuất sát với thực tiễn tuyên truyền,
truyền thông bằng tiếng dân tộc nói nói riêng.
Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu riêng trong lĩnh vực tuyên truyền
thông tin thời sự bằng tiếng dân tộc trên sóng phát thanh cịn khá khiêm tốn.
Địa bàn nghiên cứu của các cơng trình nghiên cứu trước đều tập trung ở tầm
khu vực và chưa có cơng trình nghiên cứu nào chun sâu đề cập đến chương
trình phát thanh tiếng dân tộc phát trên sóng phát thanh của Đài PT-TH tỉnh
Hà Giang, chủ yếu là về nâng cao chất lượng chương trình mà chưa đề cập
sâu đến quy trình, cách thức tổ chức sản xuất chương trình phát thanh tiếng
dân tộc. Đây chính là điểm khác biệt quan trọng nhất và cũng là nhiệm vụ
xuyên suốt của đề tài nghiên cứu mà tôi lựa chọn là: “Tổ chức sản xuất
Chương trình Phát thanh tiếng dân tộc trên Đài Phát thanh và Truyền hình
Hà Giang”, thời gian khảo sát từ tháng 6/2015 đến tháng 6/2016.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn về tổ chức sản xuất
chương trình phát thanh tiếng dân tộc của Đài Phát thanh - truyền hình Hà
Giang, luận văn chỉ ra thực trạng còn tồn tại, những hạn chế trong công tác tổ
chức sản xuất, biên - phiên dịch và phát sóng hiện nay. Từ đó đề xuất giải
pháp nhằm cải tiến quy trình, hình thức tổ chức sản xuất chương trình phát


9

thanh tiếng dân tộc, góp phần tăng cường vai trị tác động của chương trình
phát thanh tiếng dân tộc trong việc tuyên truyền nâng cao nhận thức cho đồng
bào các dân tộc thiểu số ở tỉnh Hà Giang.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau:
Phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức sản xuất các
chương trình phát thanh tiếng dân tộc của Đài PT-TH Hà Giang hiện nay để
có đánh giá khách quan, chính xác cũng như có hướng đề xuất khoa học nhằm
tăng cường hiệu quả tuyên truyền đối với đồng bào các dân tộc thiểu số trên
địa bàn tỉnh.
Làm rõ những thuận lợi và khó khăn trong tổ chức sản xuất, biên dịch,
phiên dịch và phát sóng các chương trình phát thanh tiếng dân tộc ở Đài Phát
thanh - truyền hình Hà Giang hiện nay.
Khảo sát hoạt động tổ chức sản xuất chương trình phát thanh tiếng dân
tộc ở Đài Phát thanh - truyền hình Hà Giang từ tháng 6/2015 đến tháng
6/2016. Tập trung chú trọng đến hoạt động sản xuất tin, bài, biên dịch và thu
âm, phát sóng các chương trình phát thanh tiếng dân tộc.
Nhận diện một số vấn đề còn vướng mắc, tồn tại trong quá trình tổ
chức sản xuất chương trình phát thanh tiếng dân tộc của Đài PT-TH Hà
Giang; đưa ra các nhóm giải pháp nhằm cải tiến tổ chức sản xuất chương trình
phát thanh tiếng dân tộc trên Đài PT-TH Hà Giang trong thời gian tới.

4. Đối tương và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tác giả tập trung vào đối tượng nghiên cứu là hoạt động tổ chức sản
xuất chương trình phát thanh tiếng dân tộc trên Đài PT-TH Hà Giang. Cụ
thể là tổ chức sản xuất các chương trình phát thanh tiếng Mơng, tiếng Tày,
tiếng Dao.


10

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động, quy trình tổ chức sản xuất chương trình phát thanh tiếng
Mơng, tiếng Tày, tiếng Dao trên Đài PT-TH Hà Giang trong thời gian từ tháng
6 năm 2015 đến tháng 6 năm 2016.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng, về cơng tác tun truyền và văn hóa
truyền thống các dân tộc thiểu số. Những quan điểm, đường lối, chủ trương
của Đảng và Nhà nước về hình thức, cách thức tuyên truyền hiện nay đối với
đồng bào các dân tộc thiểu số.
Hệ thống lý luận báo chí - truyền thơng và cơ sở lý luận báo chí cũng
góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu lý luận trong thực hiện đề tài.
Đề tài cũng dựa vào lý thuyết, đặc điểm, bản sắc văn hóa và trình độ
dân trí của đồng bào các dân tộc Mơng, Tày, Dao để nghiên cứu đánh giá về
tổ chức sản xuất chương trình phát thanh tiếng dân tộc.
Việc nghiên cứu lý luận có vai trị quan trọng trong việc cung cấp
những lý thuyết cơ bản, khái niệm cần thiết để làm nền tảng cho việc khảo sát
thực tiễn được cụ thể hơn, phù hợp với thực tiễn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.

Các phương pháp cụ thể được áp dụng trong đề tài là:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Thơng qua việc tìm kiếm và tập hợp
tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau, tác giả làm rõ các khái niệm liên quan đến
đề tài, khẳng định vai trị của chương trình phát thanh tiếng dân tộc đối với
thính giả là đồng bào các dân tộc Mông, Tày, Dao trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
Đồng thời, làm rõ mộ số vấn đề về lĩnh vực dân tộc, văn hóa dân tộc và bản
sắc văn hóa dân tộc cũng như các yêu cầu, điều kiện để tổ chức sản xuất
chương trình phát thanh tiếng dân tộc đạt hiệu quả.


11

Phương pháp quan sát thực tế: Nhằm nắm bắt, kiểm chứng qui trình,
cách thức tổ chức sản xuất chương trình phát thanh tiếng dân tộc trên Đài PTTH Hà Giang thơng qua các hoạt động của ê kíp thực hiện hằng ngày. Trên cơ
sở đó, luận văn sẽ có những đánh giá cụ thể về thành công, hạn chế trong q
trình thực hiện.
Phương pháp phân tích: Tác giả sử dụng phương pháp này để phân tích
về tổ chức sản xuất chương trình phát thanh tiếng dân tộc ở Đài PT-TH Hà
Giang hiện nay. Trong đó, tập trung chỉ rõ quy trình và cơng tác biên phiên
dịch. Từ đó, rút ra những đánh giá cụ thể về tổ chức sản xuất, đồng thời, đề
xuất những nhóm giải pháp để cải tiến tổ chức sản xuất chương trình phát
thanh tiếng dân tộc ở Đài PT-TH Hà Giang.
Phương pháp phỏng vấn sâu: Tác giả sử dụng phương pháp này để
phỏng vấn các nhóm đối tượng sau:
+ Nhóm đối tượng thuộc lĩnh vực quản lý báo chí ( 03 người): Đánh giá
hiệu quả tuyên truyền của các chương trình phát thanh tiếng dân tộc của Đài
PT-TH Hà Giang trong thời gian qua. Quan điểm, chính sách, sự hỗ trợ và
định hướng phát triển chương trình phát thanh tiếng dân tộc trên Đài PT-TH
Hà Giang trong thời gian tiếp theo
+ Nhóm đối tượng là phóng viên, biên dịch viên, kĩ thuật viên của

Trung tâm sản xuất chương trình phát thanh – truyền hình tiếng dân tộc trực
tiếp tham gia hoạt động tổ chức sản xuất chương trình phát thanh tiếng dân
tộc (03 người): Tìm hiểu hoạt động cụ thể của từng bộ phận tham gia tổ chức
sản xuất, lấy ý kiến đánh giá, chia sẻ kinh nghiệm cũng như các ý kiến, ý
tưởng liên quan đến tổ chức sản xuất chương trình phát thanh tiếng dân tộc ở
Đài PT-TH Hà Giang.
+ Nhóm đối tượng là cơng chúng, thính giả người dân tộc (03 người):
Tìm hiểu về thói quen nghe đài, khả năng, mức độ tiếp nhận thông tin qua các


12

chương trình phát thanh tiếng dân tộc. Những ý kiến nhận xét phản hồi, đánh
giá và mong muốn đối với việc tổ chức sản xuất các chương trình phát thanh
tiếng dân tộc của Đài PT-TH Hà Giang.
6. Cái mới của luận văn
Thực tế hiện nay cho thấy, việc tổ chức sản xuất chương trình phát thanh
tiếng dân tộc trên Đài Phát thanh – truyền hình Hà Giang cịn nhiều vấn đề
tồn tại, hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của thính giả là đồng bào các dân
tộc: Mơng, Tày, Dao trên địa bàn.
Trong quá trình nghiên cứu về quy trình sản xuất chương trình phát thanh
tiếng dân tộc của Đài Phát thanh truyền hình Hà Giang, tác giả luận văn sẽ đi
sâu tìm hiểu các vấn đề: Việc bố trí nhân sự, phân cơng cơng việc, việc sử
dụng ngun liệu cho chương trình phát thanh tiếng dân tộc; sản phẩm có kết
cấu, chất lượng ra sao…
Trên cơ sở đó, điểm mới của luận văn là chỉ ra những giải pháp chung
cũng như giải pháp cụ thể để cải tiến sản xuất chương trình phát thanh tiếng
dân tộc trên Đài Phát thanh – truyền hình Hà Giang.
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
7. 1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn khái quát và đưa ra cái nhìn, đánh giá tổng thể về tổ chức sản
xuất chương trình phát thanh tiếng dân tộc trong gia đoạn hiện nay. Kết quả
nghiên cứu của đề tài sẽ bổ sung một phần lý thuyết về tổ chức sản xuất
chương trình phát thanh nói chung, tổ chức sản xuất chương trình phát thanh
tiếng dân tộc nói riêng. Qua đó, luận văn cũng chỉ rõ vai trị, tầm quan trọng
của chương trình phát thanh tiếng dân tộc trong tổng thể hoạt động tuyên
truyền và truyền thơng hiện nay. Điều này có ý nghĩa lớn về việc hoạch định
chiến lược, kế hoạch tuyên truyền của các Đài PT-TH địa phương đối với
công tác thông tin, tuyên truyền bằng tiếng dân tộc. Đặc biệt là việc phát huy


13

vai trị của sóng phát thanh, hệ thống truyền thanh cơ sở trong việc tuyên
truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước
đến được sâu rộng với đồng bào các dân tộc. Đồng thời, cũng từng bước
chuyển tải, nâng cao nhận thức và hiểu biết cho đồng bào về văn hóa, thơng
tin, nâng cao đời sống tinh thần cũng như góp phần vào quá trình phát triển
kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo tại vùng đồng bào dân tộc sinh sống.
Những nhóm giải pháp chung và giải pháp cụ thể của luận văn sẽ góp phần
thực hiện tốt cơng tác thơng tin, tun truyền bằng tiếng dân tộc trên sóng
phát thanh. Qua đó, góp phần quan trọng trong việc giao lưu văn hóa, nhân
rộng những mơ hình hay, điển hình tiên tiến và chia sẻ cách làm sáng tạo
trong cộng đồng .
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn này là cơng trình nghiên cứu đầu tiên về tổ chức sản xuất
chương trình phát thanh tiếng dân tộc trên Đài Phát thanh và truyền hình tỉnh
Hà Giang. Kết quả nghiêm cứu của đề tài có ý nghĩa thiết thực đối với đối
tượng lãnh đạo, quản lý báo chí địa phương, với Đài Phát thanh và truyền
hình tỉnh Hà Giang và cụ thể hơn, là Trung tâm sản xuất chương trình phát

thanh – truyền hình tiếng dấn tộc để hiểu hơn về vai trị, vị trí, thực trạng của
hoạt động tổ chức sản xuất các chương trình phát thanh tiếng dân tộc hiện
nay. Từ đó, có những chính sách, sự điều chỉnh cũng như sự đầu tư phù hợp
nhằm lãnh đạo, quản lý cũng như thúc đẩy phát triển cơng tác báo chí, tun
truyền bằng tiếng dân tộc trên sóng phát thanh hiệu quả hơn
Với bản thân tác giả luận văn, q trình hồn thành nghiên cứu này là
sự vận dụng hệ thống lý luận báo chí – truyền thơng đã được tiếp thu trong cả
khóa học để nghiên cứu một vấn đề cụ thể. Đó cũng là q trình tự hồn thiện
thêm về phương diện lý thuyết và các vấn đề thực tiễn đang đặt ra ở cơ sở, từ


14

đó tạo cơ sở nền tảng cho hoạt động tuyên truyền của tác giả luận văn sau này
tại địa phương .
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
phần nội dung của luận văn gồm 03 chương, 8 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức sản xuất chương trình phát thanh
tiếng dân tộc.
Chương 2: Thực trạng sản xuất chương trình phát thanh tiếng dân tộc
trên Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Giang.
Chương 3: Một số vấn đề đặt ra và giải pháp cải tiến quy trình tổ chức
sản xuất chương trình phát thanh tiếng dân tộc trên Đài Phát thanh - Truyền
hình Hà Giang.


15

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC SẢN XUẤT
CHƯƠNG TRÌNH PHÁT THANH TIẾNG DÂN TỘC
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1 Tổ chức sản xuất và chương trình phát thanh
Tổ chức là hoạt động sắp xếp một cách có hệ thống những người được
nhóm lại với nhau nhằm để đạt được những mục đích nhất định. Công tác tổ
chức bao hàm hai nội dung cơ bản là Tổ chức cơ cấu (tổ chức cơ cấu quản lý
và tổ chức cơ cấu sản xuất kinh doanh) và Tổ chức quá trình ( tổ chức quá
trình quản trị và tổ chức quá trình chuẩn bị cho sản xuất sản phẩm).
Mỗi tổ chức đều hình thành trên một cấu trúc nhất định nào đó và cùng
hoạt động để đạt được mục đích mà từng cá thể, cá nhân đơn lẻ khơng thể
thực hiện được. Như vậy, có thể thấy, sự khác biệt về mục đích chính là yếu tố
phân biệt giữa tổ chức này với tổ chức khác.
Như vậy, các tổ chức là những tập hợp bao gồm nhiều cá thể, nhiều
thành viên và rõ ràng, những thành viên này sẽ đưa ra các quyết định và xác
định mục đích hướng đến. Và chính các thành viên này cũng sẽ thực hiện
hàng loạt hành động, hành vi để hiện thực hóa các mục tiêu, mục đích đã đề
ra theo sự phân công công việc và phân công nhiệm vụ.
Từ những điều trên, có thể khẳng định, tổ chức sản xuất là sự bố trí các
cơng đoạn, các khâu trong một q trình khép kín từ đầu đến cuối để đạt mục
tiêu, mục đích sản xuất đã đề ra.
Do đó, mục tiêu của hoạt động tổ chức sản xuất là sự bố trí các cơng
đoạn, các khâu nhằm đạt hiệu quả cao hơn, tận dụng, huy động tối đa các
nguồn lực vật chất vào sản xuất, giảm chi phí sản xuất một đơn vị đầu ra tới
mức thấp nhất, rút ngắn thời gian sản xuất sản phẩm hoặc cung cấp dịch
vụ. Do đó quyết định lựa chọn tổ chức sản xuất theo dây chuyền, tổ chức sản


16


xuất theo nhóm hay tổ chức sản xuất đơn chiếc là tuỳ thuộc vào quy mơ sản
xuất, trình độ nguồn nhân lực, chủng loại hay kết cấu của sản phẩm.
Có nhiều tài liệu của nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra các khái niệm về
phát thanh khác nhau. Trong cuốn Truyền thơng đại chúng, Tạ Ngọc Tấn (chủ
biên) thì chương trình phát thanh là sự tổ chức các tin tức, bài vở, tài liệu
cùng các chất liệu khác trong phát thanh theo thời lượng nhất định, mục đích
nhất quán và nhằm vào đối tượng công chúng cụ thể.“Thông thường một
chương trình phát thanh mở đầu bằng nhạc hiệu và kết thúc bằng lời chào
tạm biệt. Ngay sau nhạc hiệu là lời xướng của phát thanh viên, chỉ ra tên
hoặc đặc trưng của chương trình” [19,tr117-118].
Ths Vũ Thúy Bình trong cuốn Báo phát thanh cho rằng: “Chương trình
phát thanh là sự liên kết, sắp xếp hợp lý tin, bài, bảng tư liệu âm nhạc trong
một thời lượng nhất định được mở đầu bằng nhạc hiệu, kết thúc với lời chào
tạm biệt nhằm đáp ứng yêu cầu tuyên truyền của cơ quan báo phát thanh,
đồng thời mang lại hiệu quả cao nhất đối với người nghe.”
Theo PGS.TS Đức Dũng, “Chương trình phát thanh là sự sắp xếp một
cách hợp lý các thành phần tin, bài, băng âm thanh trong một chỉnh thể với
khoảng thời gian xác định nhằm đáp ứng nhiệm vụ tuyên truyền của cơ quan
phát thanh và mang lại hiệu quả cao nhất đối với người nghe”. [9, tr 103].
Theo TS Đinh Thị Thu Hằng, “Chương trình phát thanh là một chỉnh
thể trong đó các thành phần tin bài, âm nhạc, lời dẫn…được bố trí, sắp xếp
một cách hợp lý trong một khoảng thời gian xác định nhằm đáp ứng nhiệm vụ
của cơ quan truyền thông và mang lại hiệu quả cao nhất đối với người nghe”.
[14, tr 153]
Từ các quan niệm, khái niệm nêu trên, tác giả luận văn cho rằng
“Chương trình phát thanh là một chỉnh thể âm thanh hay một tập hợp lời đọc
các tin bài, bản nhạc, nhạc hiệu… được sắp xếp theo một trật tự chủ quan, có


17


ý đồ rõ ràng, có nội dung phù hợp theo định hướng, đáp ứng yêu cầu tuyên
truyền của cơ quan truyền thơng,có thời lượng xác định, phát sóng trong một
khoảng thời gian cố định, nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cho thính giả.
Với một chỉnh thể được tổ chức, sắp xếp và bao gồm nhiều công đoạn
nên hiển nhiên, chương trình phát thanh phải là một sản phẩm của một tập
thể, chứ không phải một sản phẩm mang cá nhân. Với các cơng việc khác
nhau, họ góp phần tạo nên các chương trình phát thanh theo một kế hoạch có
sẵn hoặc đột xuất, hướng đến mục tiêu thơng tin, tuyên truyền ngắn hạn và dài
hạn. Các chương trình phát thanh vừa thể hiện năng lực, vai trò, trách nhiệm
của cơ quan báo chí, truyền thơng vừa đáp ứng nhu cầu thơng tin của cơng
chúng thính giả.
Trong thực tế tuỳ theo tiêu chí phân loại, mỗi chương trình phát thanh
có đối tượng tác động riêng, có nội dung phản ánh cũng như phương thức
hoạt động riêng nhưng có chung các đặc điểm sau:
- Thời lượng có tính ổn định và thời điểm có tính xác định: Thời lượng
của chương trình giới hạn khoảng thời gian để truyền tải thông tin. Thời điểm
phát sóng có ý nghĩa mang lại sự tiếp nhận tiện lợi và góp phần tạo thói quen
tiếp nhận cho công chúng. Việc xác định thời lượng, thời điểm phải căn cứ
vào thói quen, thị hiếu, đặc điểm sinh hoạt của nhóm cơng chúng mà chương
trình hướng tới. Vì vậy thời lượng và thời điểm phát sóng chương trình có
tính ổn định, chỉ có thay đổi trong trường hợp đặc biệt nào đó.
- Hướng đến một nhóm đối tượng nhất định: Việc hình thành các
chương trình phải ln dựa trên nhu cầu của đối tượng, nhằm phục vụ một
nhóm đối tượng. Nhóm đối tượng đó có vai trị quyết định tới quá trình tổ
chức sản xuất một chương trình, quyết định nội dung và hình thức truyền tải
thơng điệp. Chương trình phát thanh ln mang tính đối tượng, thậm chí,
nhiều chương trình cịn thể hiện tính đối tượng ngay trong tên chương trình.



18

- Phạm vi nội dung xác định. Do tính đối tượng quy định nên phạm vi
nội dung chương trình cũng được giới hạn. Phạm vi nội dung được quy định
ngay trong chức năng, nhiệm vụ của mỗi chương trình phát thanh, theo đó các
chương trình phát thanh tổ chức thơng tin, định hướng có chiều sâu, có hiệu
quả cho nhóm cơng chúng của mình.
- Có cấu trúc tương đối ổn định. Ngồi nhạc hiệu chương trình, lời
chào, phần giới thiệu nội dung chính, phần chào kết thì các phần, mục,
chun mục, trang trong chương trình phát thanh thường được duy trì nhằm
tạo ra sự sáng tỏ, mạch lạc về nội dung đồng thời tạo thói quen tiếp nhận cho
thính giả.
- Thường gắn một nhạc hiệu và một phong cách thể hiện. Nhạc hiệu
được xem là gương mặt của chương trình, là cái đầu tiên phân biệt giữa
chương trình này với chương trình kia. Nội dung một số chương trình phát
sóng là khác nhau nhưng cùng chung một nhạc hiệu. Những người xây dựng
chương trình ln cố gắng tìm một nhạc hiệu vừa phù hợp, vừa gây được ấn
tượng và tạo ra nét khác biệt cho chương trình. Phong cách thể hiện chương
trình cũng vậy, có những nét khác nhau có tính đối tượng và tính chất thơng
tin quyết định. nghe chương trình thời sự, người nghe cảm nhận được tính
chất quan trọng, quy thức. Một trong những yếu tố tạo nên phong cách thể
hiện chương trình chính là người dẫn, họ với vai trò giới thiệu, dẫn dắt, khâu
nối các phần nội dung, giáo tiếp với thính giả… đã để lại phong cách của
mình lại và góp phần vào việc khẳng định phong cách của chương trình.
Trong một chương trình phát thanh, bố cục chương trình rất quan trọng.
Mục tiêu của chương trình phát thanh là thu hút, lơi cuốn thính giả bằng
những thơng tin mà nó đem đến cho họ. Một chương trình phát thanh ln cố
gắng tạo ra bản sắc riêng ở giọng đọc, thể loại, ngôn ngữ, giọng điệu, đối



19

tượng tiếp nhận, đồng thời nó cũng hỗ trợ, phối hợp với các chương trình khác
nhằm mục đích tăng cường sức tác động tới cơng chúng.
Chương trình phát thanh nên được cấu trúc theo hướng linh hoạt, kết cấu
mở để có thể nhanh chóng cập nhật thơng tin một cách chân thực, sống động
nhất. Chương trình phát thanh hiện đại đang có xu hướng xóa nhịa ranh giới
giữa những người thực hiện với thính giả, ngày càng tăng tính chất gần gũi,
tính tương tác hai chiều trực tiếp để tăng hiệu quả truyền thông. Sự ra đời của
Internet cũng là một lợi thế để các chương trình phát thanh đến với thính giả
hiệu quả hơn, tiện lợi hơn, vừa có thể nghe trực tiếp, vừa có khả năng nghe lại
bất cứ lúc nào mà thính giả muốn.
1.1.2 Tổ chức sản xuất chương trình phát thanh tiếng dân tộc
Hiện nay, Dân tộc là một khái niệm rất hay được sử dụng trên báo chí
truyền thơng, tuy nhiên, ở nhiều trường hợp khái niệm này được sử dụng theo
thói quen, khơng đúng với thực tế. Để phân biệt các dân tộc, người ta căn cứ
vào ít nhất ba yếu tố “ tiếng nói”, “ chữ viết” và “lãnh thổ cư trú”, bên cạnh
đó, cịn có các yếu tố khác như: tập qn sinh hoạt, bản sắc văn hóa, chế độ
hơn nhân – gia đình… Khái niệm dân tộc thiểu số hiện nay theo quan điểm
của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng HCM, xuất phát từ nguyên tắc bình
đẳng dân tộc, thì khái niệm “dân tộc thiểu số” không mang ý nghĩa phân biệt
địa vị, trình độ phát triển của các dân tộc. Tiêu chí để xác định thành phần dân
tộc nước ta là:
- Sự cộng đồng về mặt ngơn ngữ
- Có các điểm chung về sinh hoạt – văn hóa
- Có ý thức tự giác tộc người
Đảng cộng sản Việt Nam ln khẳng định quan điểm nhất qn của
mình: Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc thành viên, với
khoảng 97 triệu người. Trong tổng số các dân tộc nói trên thì dân tộc Việt



20

(Kinh) chiếm 86,2% dân số, được quan niệm là “dân tộc đa số”, 53 dân tộc
còn lại, chiếm 13,8% dân số được quan niệm là “dân tộc thiểu số”. Do lịch sử
phát triển của mỗi dân tộc, cộng với điều kiện tự nhiên và địa bàn cư trú, trình
độ phát triển của các dân tộc thiểu số nói chung so với dân tộc đa số còn thấp,
sự phát triển giữa các dân tộc cũng không đồng đều. Việc nhận thức và xác
định rõ khái niệm dân tộc là để thực hiện tốt hơn q trình thơng tin tun
truyền cho thính giả ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay.
Do đó, theo quan điểm của tác giả luận văn, chương trình phát thanh
tiếng dân tộc về bản chất vẫn là một chương trình phát thanh với đầy đủ
các đặc điểm của loại hình này nhưng có tính chun biệt, dành cho một
nhóm đối tượng nhất định và được thể hiện bằng ngơn ngữ mẹ đẻ của nhóm
đối tượng chun biệt mà chương trình hướng đến ( tiếng Mơng cho đồng
bào dân tộc Mông, tiếng Tày cho đồng bào dân tộc Tày, tiếng Dao cho
đồng bào dân tộc Dao...). Điều này có nghĩa, khác biệt duy nhất của
chương trình phát thanh tiếng dân tộc là ở ngôn ngữ thể hiện, chuyển tải
thơng tin đến với thính giả.
Từ các khái niệm về tổ chức sản xuất và khái niệm về chương trình
phát thanh đã nêu ở phần trên, theo tác giả luận văn: “ Tổ chức sản xuất
chương trình phát thanh tiếng dân tộc chính là thực hiện q trình phân cơng
nhiệm vụ của các thành viên, điều hịa các quan hệ phối hợp hoạt động của
các thành viên trong nhóm và quản lý tiến độ hồn thành sản phẩm, ở đây là
chương trình phát thanh tiếng dân tộc”. Trong q trình đó, để đảm bảo
chương trình hồn thành về mặt thời gian, chất lượng, đảm bảo mục tiêu đề
ra, người làm tổ chức sản xuất phải lên kế hoạch và tiên đốn, trù liệu trước
những tình huống có thể xảy ra (trong phát thanh trực tiếp) để chuẩn bị kế
hoạch, phương án tốt nhất.



21

Như vậy, có thể thấy, ngồi việc đảm bảo những yếu tố của một chương
trình phát thanh chuẩn thì chương trình phát thanh tiếng dân tộc cịn phải
đảm bảo các u cầu:
- Hướng tới 1 nhóm đối tượng cơng chúng nhất định: Việc hình thành
chương trình phải dựa trên nhu cầu của đối tượng, nhằm phục vụ một nhóm
đối tượng xác định. Vì thế, với các chương trình phát thanh tiếng dân tộc,
nhóm đối tượng xác định phải là đồng bào dân tộc thiểu số cho nên, việc xác
định trình độ, nhận thức, tâm lý tiếp nhận của công chúng cần được xác định
rõ, từ đó có phương án lên maket chương trình cho phù hợp.
- Phạm vi xác định: Do tính đối tượng quy định nên phạm vi nội dung
của chương trình cũng được giới hạn. Phạm vi nội dung được quy định ngay
trong chức năng, nhiệm vụ của mỗi chương trình phát thanh, theo đó, các
chương trình phát thanh tổ chức thơng tin, định hướng có chiều sâu, có hiệu
quả cho nhóm cơng chúng của mình.
- Kết cấu tương đối ổn định: Kết cấu của các Chương trình phát thanh
tiếng dân tộc phải được xây dựng theo những khn mẫu chuẩn, trong đó quy
định phần tin, phần phóng sự, mục, chuyên mục sao cho phù hợp với tâm lý
tiếp nhận của đồng bào dân tộc thiểu số, tạo ra sự sáng tỏ, mạch lạc về nội
dung. Bên cạnh đó, các chương trình phát thanh tiếng dân tộc đều phải đảm
bảo thời lượng thích hợp, lịch phát sóng chuẩn, giờ phát sóng hợp lý với đặc
điểm sinh hoạt hằng ngày của đồng bào dân tộc để họ có thể dễ dàng tiếp cận,
lắng nghe và tiếp nhận thông tin một cách hiệu quả nhất.
Đối với tổ chức sản xuất chương trình phát thanh tiếng dân tộc hiện
nay, như đã phân tích và trình bày, thì khơng có sự khác biệt lớn so với tổ
chức sản xuất chương trình phát thanh.
1.1.3 Văn hóa dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc
Đến nay, có nhiều khái nhiệm về văn hóa được đưa ra bởi các nhà

nghiên cứu về văn hóa, các tổ chức quốc tế liên quan đến văn hóa. Mặc dù có


22

thể có những khác biệt nhất định song, về cơ bản là các khái niệm này mang
bản chất đồng nhất. Do đó, xét một cách chung nhất thì: “Văn hóa là tổng thể
các hệ thống giá trị - cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng
tạo ra trong hoạt động thực tiễn và lịch sử xã hội của mình”.
Suy ra, “ Văn hóa dân tộc là tổng thể các giá trị vật chất và giá trị tinh
thần của một dân tộc được tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn và điều
kiện lịch sử xã hội, quá trình phát triển của dân tộc đó”.
Trong khi đó, thuật ngữ bản sắc văn hóa thường được sử dụng gắn
với văn hóa và dân tộc. Nói đến dân tộc là nói đến văn hóa, bản sắc văn
hóa và nói đến văn hóa cũng là nói đến dân tộc, bản sắc dân tộc. Như vậy,
có thể hiểu “Bản sắc văn hóa dân tộc là hệ thống các giá trị đặc trưng, bản
chất nhất của một nền văn hóa được hình thành, xác lập, tồn tại và phát
triển trong lịch sử của một dân tộc và được biểu hiện thơng qua các sắc thái
văn hóa”.
Trong bản sắc văn hóa, các giá trị đặc trưng bản chất là cái trừu tượng,
tiềm ẩn bên trong, có tính bền vững, cịn các sắc thái là biểu hiện bên ngồi
nên có tính tương đối cụ thể, bộc lộ và có sự biến đổi nhiều hơn. Tuy nhiên,
nếu chỉ nhận thức như trên thì khái niệm bản sắc văn hóa vẫn là một khái
niệm vơ định, vì nói tới văn hóa là nói tới con người và nói đến những dân tộc
cụ thể, điều kiện lịch sử cụ thể đã sinh ra và ni dưỡng, duy trì, phát triển
văn hóa. Chính vì thế, chỉ khi tiếp cận đến bản sắc văn hóa của dân tộc thì ý
nghĩa của nó mới có thể nhận thức được một cách trọn vẹn, đầy đủ.
Nếu tiếp cận văn hóa theo nghĩa rộng nhất như đã nêu trên, bao hàm
toàn bộ những giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra
trong lịch sử thì bản sắc văn hóa dân tộc là hệ thống các giá trị vật chất, tinh

thần được dân tộc sáng tạo ra trong lịch sử, là những nét độc đáo rất riêng của
dân tộc này với dân tộc khác, đây là dấu hiệu để phân biệt giữa các dân tộc.


23

Xét về bản chất, bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện tinh thần, linh hồn, cốt cách,
bản lĩnh, truyền thống của dân tộc đó. Đặc trưng của bản sắc văn hóa dân tộc
bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ phong
tục tập quán, lối sống, sinh hoạt, tín ngưỡng cho đến kiến trúc, cơng trình xay
dựng, các sản phẩm tinh vi, hiện đại về khao học cơng nghệ… Do đó, bản sắc
văn hóa dân tộc được xem là “thẻ căn cước”, là giấy thông hành của một dân
tộc trên phương diện ngoại giao cũng như trong quan hệ về kinh tế,xã hội.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, bản sắc văn hóa là yếu tố mang lại
sức mạnh dân tộc, tinh thần dân tộc để vượt qua những thử thách của lịch sử.
Bản sắc văn hóa dân tộc là tổng thể những phẩm chất cao đẹp, tính cách,
khuynh hướng cơ bản thuộc sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo, lao động,
chiến đấu của một dân tộc. Giúp cho dân tộc đó được tính duy nhất, thống
nhất, nhất qn trong q trình phát triển. Bởi lẽ, mất văn hóa là mất tất cả.
Chính vì vậy, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ln và mãi là điều
vô cùng quan trọng đối với bất kỳ quốc gia nào trong q trình phát triển.
Văn hóa dân tộc Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh
hoa được vun đắp qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tạo
thành những nét đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, con người Việt
Nam. Xét về bản chất, lịch sử dân tộc ta ngay từ thời dựng nước đã không
ngừng đấu tranh chống ngoại xâm để dành và giữ nền độc lập, tạo nên phẩm
chất cao cả và thiêng liêng nhất của văn hóa dân tộc ta, đó là tinh thần yêu
nước, thương nịi. Chủ nghĩa u nước của văn hóa dân tộc Việt Nam khơng
chỉ biểu lộ ở lịng dũng cảm, đức hy sinh mà cịn ở tinh thần đồn kết, nhân
ái, yêu thương con người, ý thức bảo vệ nhân phẩm, giữ gìn đạo lý.

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, văn hóa Việt Nam đã vượt qua thế bị
động để tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu thêm bản sắc của mình.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi trọng


24

mặt trận văn hóa mà cốt lõi của nó là bản sắc văn hóa dân tộc. Nghị quyết hội
nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành TW khóa VIII đã đánh dấu bước phát triển
mới về đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng. Với phương hướng chung của
sự nghiệp văn hóa nước ta là: “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm
cho văn hóa thấm sâu vào tồn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng
ngườitạo nên trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí
cao…” Tinh thần Nghị quyết TW5 thực sự là động lực, nâng cao tinh thần
của nhân dân ta bước vào thế kỷ mới, làm cho văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển của đất nước.Nghị quyết cũng chỉ rõ “Nền văn hóa
Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam”.
Đảng và Nhà nước ta ln có những chủ trương, chính sách nhằm ưu
tiên, phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi với quan điểm chỉ đạo
xuyên suốt: Các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam bình đẳng,
đồn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Tuy nhiên,
khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa vùng dân tộc thiểu số và
miền núi với các khu vực khác trong cả nước đang ngày càng có xu hướng gia
tăng cách biệt, vùng miền núi và dân tộc thiểu số đang cịn những khó khăn,
thách thức rất lớn, trong đó văn hố truyền thống các dân tộc thiểu số đang
đặt ra vấn đề cần giải quyết hài hoà giữa bảo tồn và phát triển, giữa kinh tế và
văn hố.
Bên cạnh đó, nhiều di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu

số chưa được nghiên cứu, đánh giá một cách bài bản khoa học. Do đó, đang
đứng trước nguy cơ biến mất theo xu hướng hịa tan, hiện đại hố hoặc do tác
động mặt trái của cơ chế thị trường rất cần phải nhanh chóng được hướng
dẫn, hỗ trợ để bảo tồn, phát huy trong cuộc sống đương đại.


25

Những năm qua, thực hiện đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân
tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020”, Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền
và ngành chức năng đã có những nhìn nhận, đánh giá về thực trạng còn tồn tại
trong việc bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu. Trong đó, vấn đề đặc
biệt cấp bách đặt ra là bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số của khơng ít
dân tộc ít người đang bị mai một nhanh chóng. Thậm chí, có dân tộc khó có
thể tìm được các nét văn hóa đặc trưng. Đó là kết quả của việc hội nhập văn
hóa, tồn cầu hố và hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu, khách quan, vừa
là quá trình hợp tác để phát triển, vừa là quá trình đấu tranh bảo vệ lợi ích
quốc gia. Bản sắc văn hố dân tộc là vấn đề trọng đại, sống cịn của mỗi quốc
gia. Trong bối cảnh tồn cầu hố, văn hố là một lĩnh vực dễ bị tổn thương,
trong đó bản sắc văn hoá, văn hoá truyền thống dễ bị tổn thương hơn cả, đặc
biệt là văn hoá các dân tộc thiểu số. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo vệ
bản sắc văn hoá dân tộc với tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hố nhân loại sẽ
làm phong phú cho văn hoá đất nước, thúc đẩy văn hố phát triển bền vững.
1.2. Vai trị của chương trình phát thanh tiếng dân tộc và quan
điểm của Đảng, Nhà nước về công tác thông tin, tuyên truyền bằng tiếng
dân tộc
Chương trình phát thanh tiếng dân tộc khơng chỉ có ý nghĩa mang thơng
tin, giải trí đến với bà con dân tộc thiểu số mà cịn góp phần tun truyền chủ
trương, đường lối, các chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Góp phần
đấu tranh chống lại các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù

địch nhằm hịng chia rẽ khối đại đồn kết tồn dân tộc. Do đó, để tun truyền
được hiệu quả thì phải xác định rõ vai trị của chương trình phát thanh tiếng
dân tộc cũng như quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác thông tin,
tuyên truyền bằng tiếng dân tộc.


×