Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

LUẬN VĂN:HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.11 KB, 94 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
***



KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP


ĐỀ TÀI:

HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA Nể
ĐẾN THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ






Giáo viên hướng dẫn : PGS. NGƯT. Vũ Hữu Tửu
Sinh viờn thực hiện : Trần Bớch Thuỷ
Lớp : Phỏp 2 - K37




HÀ NỘI - 2002

MỤC LỤC
TRAN


G
LỜI NỂI ĐẦU

Trong xu thế hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trờn toàn thế giới,
phạm vi của chớnh sỏch thương mại cỏc quốc gia đang dần được mở rộng
nhanh chúng để đún lấy những luồng giú mới từ bờn ngoài. Hệ thống
chớnh sỏch kinh tế thương mại của cỏc quốc gia mở rộng trờn mọi lĩnh
vực, từ hàng hoỏ, dịch vụ đến đầu tư, cạnh tranh, tài chớnh, mụi trường và
điều mà ai cũng dễ dàng nhận thấy là thương mại quốc tế đang đem lại lợi
ớch cho mọi quốc gia. Vỡ thế, phấn đấu cho một nền thương mại tự do
toàn cầu đang là mục tiờu của nhiều quốc gia mà minh chứng rừ nột nhất
là sự ra đời và phỏt triển của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Tuy
nhiờn, do nhiều nguyờn nhõn, đặc biệt là do trỡnh độ phỏt triển kinh tế
khụng đồng đều, cỏc nước đều duy trỡ cỏc rào cản thương mại nhằm bảo
hộ nền sản xuất nội địa. Bờn cạnh hàng rào thuế quan, rất nhiều hàng rào
phi thuế đó ra đời. Mức độ cần thiết và lý do sõu xa dẫn đến việc bảo hộ
nội địa của từng quốc gia cũng khỏc nhau, đối tượng cần bảo hộ cũng khỏc
nhau càng khiến cho cỏc hàng rào phi thuế trở nờn đa dạng. Chớnh cỏc
hàng rào này đó đang và sẽ gõy ra những cản trở đối với sự phỏt triển của
thương mại quốc tế và phương hại đến ý tưởng xõy dựng và hoàn thiện
một nền thương mại tự do toàn cầu, cạnh tranh bỡnh đẳng. Bởi vậy, nhiệm
vụ đau đầu hơn của cỏc quốc gia hiện nay là làm sao xõy dựng được một
chớnh sỏch thương mại vừa cú khả năng hội nhập lại vừa cú thể bảo vệ
sản xuất trong nước. Cụng cụ thuế quan là một cụng cụ rất hữu ớch, tuy
nhiờn nú quỏ lộ liễu trong việc để cho người ta cảm nhận được nú và trờn
thực tế thỡ hiện nay, tất cả cỏc vũng đàm phỏn của mọi tổ chức thương
mại quốc tế đều quan tõm đặc biệt đến việc cắt giảm hàng rào thuế quan,
mở rộng hội nhập kinh tế. Chớnh vỡ thế mà mục tiờu hiện nay của cỏc
quốc gia là kiến thiết một hàng rào phi thuế quan thật tinh vi, vừa cú tỏc
dụng bảo hộ tốt lại khụng bị cỏc quốc gia khỏc lờn ỏn. Do đú, giờ đõy,

3
ngày càng cú nhiều cỏc hàng rào phi thuế mới ra đời với mức độ bảo hộ
tốt hơn và ngày càng tinh vi hơn, nhạy cảm hơn. Vấn đề đặt ra đối với Việt
Nam hiện nay là làm sao định hướng cho đỳng việc ỏp dụng cỏc NTM vừa
phỏt huy hữu ớch vai trũ của nú, vừa phự hợp với cỏc cam kết quốc tế. Đú
cũng chớnh là mục tiờu nghiờn cứu của cuốn luận văn này.
Trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp, em xin trỡnh bày một số hiểu
biết khiờm tốn của mỡnh về lĩnh vực đang rất nóng hổi này. Em xin chân
thành cảm ơn tất cả những người đó giỳp em hoàn thành luận văn này, và
đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo, Phó Tiến Sĩ-Nhà
giáo ưu tú Vũ Hữu Tửu, người đó tận tỡnh giỳp đỡ em từ khâu xây dựng ý
tưởng cho tới khi hoàn thành cụng trỡnh nhỏ này.



















4

CHƯƠNG I
CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI VÀ CÁC BIỆN PHÁP PHI THUẾ
QUAN

I. CÁC BIỆN PHÁP BẢO HỘ NỀN SẢN XUẤT TRONG NƯỚC

1. Sự cần thiết phải bảo hộ sản xuất trong nước

Bảo vệ nền kinh tế nước mỠNH Là NHU CẦU TẤT YẾU của mọi
quốc gia, dù mạnh hay yếu. Tuy nhiên, với mỗi nền kinh tế, mức độ cần
thiết cũng như lÝ DO SÕU XA DẪN TỚI VIỆC BẢO HỘ SẢN XUẤT
TRONG Nước lại khác nhau và được thể hiện qua sự khác biệt về đối
tượng được bảo hộ.
Đối với những nền kinh tế phát triển. đối tượng được bảo hộ chủ
yếu là các ngành có năng lực cạnh tranh và năng suất lao động tương đối
thấp so với các ngành khác. Mặc dù không tạo ra sức cạnh tranh chủ yếu
cho nền kinh tế nhưng lực lượng lao động trong những ngành này lại có
sức mạnh chính trị đáng kể, buộc các chính đảng được họ hậu thuẫn phải
quan tâm đặc biệt tới lợi ích của họ. Có thể nêu ví dụ điển hỠNH NHư
ngành nông nghiệp ở EU hay ngành thép ở Mĩ.
Trong khi đó, đối tượng bảo hộ ở những nước có trỠNH độ phát
triển kinh tế trung bỠnh và thấp lại chủ yếu là các ngành sản xuất quan
trọng và có nhiều tiềm năng trở thành ngành cạnh tranh trong tương lai của
họ, chẳng hạn như các ngành : sản xuất ô tô ở Malayxia; ngành điện tử, cơ
khí, đường ở Thái Lan hay các ngành ô tô, thép, thuốc lá Ở TRUNG
QUỐC.
NGOàI RA, VIỆC ỎP DỤNG CỎC BIỆN PHỎP BẢO HỘ CŨN
RẤT CẦN THIẾT để tránh cho các doanh nghiệp do nhà nước sở hữu

5
khỏi bị phá sản nhanh chóng. Tương tự như những nhóm người lao động
tại các ngành đang suy thoái hoặc có năng suất thấp (ví dụ như dệt may,
nông nghiệp) ở các nước phát triển, các doanh nghiệp sở hữu nhà nước có
sức mạnh chính trị to lớn tại những nước đang chuyển đổi. Nét nổi bật này
của các nền kinh tế chuyển đổi làm cho việc bảo hộ sản xuất trong nước có
ý nghĩa quan trọng đặc biệT.
Với nền kinh tế đang phát triển ở trỠNH độ thấp, lại đang trong quá
trỠNH CHUYỂN đổi, Việt Nam chúng ta cũng có nhu cầu lớn cần được
bảo hộ sản xuất trong nước do các yếu tố của kinh tế thị trường cŨN
CHưa được tạo lập đồng bộ và cŨN NHIỀU KHIẾM KHUYẾT, hệ thống
pháp luật, trong khi nhiều lĩnh vực chưa được điều chỉnh thỠ CỤNG CỤ
QUAN TRỌNG để quản lý nhà nước trong kinh tế thị trường lại trong
tỠNH TRẠNG CHỒNG CHỘO. DO VẬY, MỤI TRường pháp lÝ BỠNH
đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế chưa được hoàn
chỉnh. Các chính sách quản lÝ TàI CHỚNH TIỀN TỆ, XUẤT NHẬP
KHẨU CŨNG đang trong tỠNH TRẠNG Tương tự, năng lực yếu kém
của nhiều ngành sản xuất
Đứng trước xu thế tất yếu của tự do hoá thương mại và quá trỠNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ, NẾU KHỤNg có chiến lược bảo hộ
đúng đắn thỠ NHIỀU NGàNH SẢN XUẤT TRONG Nước sẽ không thể
đứng vững trước sức ép cạnh tranh gay gắt của hàng nhập khẩu. Những
ngành cần được bảo hộ chủ yếu là những ngành yêu cầu hàm lượng vốn
lớn, có khả năng cạnh tranh và phát triển dựa trên công nghệ hiện đại. Mặt
khác, đây lại là những ngành công nghiệp chiếm vị trí quan trọng, tạo nên
xương sống cho nền kinh tế như luyện kim, hoá dầu, xi măng Nếu được
hưởng những hỗ trợ nhất định và được bảo hộ bằng những chính sách
thích hợp trong một thời gian cần thiết, các ngành này dù gặp nhiều khó
khăn trước mắt trong việc cạnh tranh với hàng nhập khẩu nhưng trong
tương lai có thể có sức cạnh tranh cao.

6

2. Các biện pháp bảo hộ nền sản xuất trong nước

NHẰM MỤC TIỜU BẢO HỘ SẢN XUẤT TROng nước, nhiều
biện pháp khác nhau có thể được áp dụng. Tuy nhiên, về cơ bản có thể
chia làm hai nhóm lớn là CỎC BIỆN PHỎP THUẾ QUAN Và CỎC
BIỆN PHỎP PHI THUẾ QUAN.

2.1 CỎC BIỆN PHỎP THUẾ QUAN (TARIFF MEASURES)

Các biện pháp thuế quan có ưu điểm cơ bản là rỪ RàNG, ỔN định
và dễ đàm phán cắt giảm mức độ bảo hộ
Giả sử đối với một hàng hoá nhập khẩu nào đó ngoài thuế quan
không hề bị áp dụng bất kỠ MỘT BIỆN PHỎP HẠN CHẾ THương mại
nào khác thỠ LỢI THẾ VỀ GIỎ CỦA HàNG HOỎ SẢN XUẤT TRONG
Nước so với HàNG HOỎ NHẬP KHẨU CHỚNH Là MỨC THUẾ NHẬP
KHẨU. DO THUẾ QUAN CÚ TỚNH RỪ RàNG CAO NỜN TỔ CHỨC
THương mại thế giới (WTO) công nhận thuế quan là công cụ hợp pháp để
bảo hộ sản xuất trong nước.
QUA NHIỀU VŨNG đàm phán thương mại đa phương trong hơn
50 năm qua, hàng rào thuế quan trên thế giới ngày càng có xu thế ổn định
và dễ dự đoán. Sau vŨNG đàm phán Urugay, hầu như tất cả các nước
thành viên WTO đÓ RàNG BUỘC 100% CỎC DŨNG THUẾ đối với các
sản phẩm nông nghiệp (1) . Đối với các sản phẩm công nghiệp, các nước
phát triển đÓ RàNG BUỘC TỚI 99% SỐ DŨNG THUẾ, CỎC Nước đang
phát triển ràng buộc 73% và các nước có nền kinh tế chuyển đổi ràng buộc
tới 98%. Các con số này thể hiện cơ hội tiếp cần thị trường an toàn hơn
cho các nhà đầu tư và kinh doanh quốc tế
7

Nhờ đặc TỚNH RỪ RàNG NỜN TRONG CỎC CUỘC đàm phán
thương mại song phương và đa phương, thuế quan luôn là đối tượng dễ
đàm phán cắt giảm. Một điểm đáng chú Ý KHỎC Là TRONG KHUỤN
KHỔ đàm phán đa phương, thuế quan có thể được tiến hành cắt giảm theo
công thức. Trong Và SAU VŨNG đàm phán Uruguay, trong khuôn khổ
WTO cŨN NỔI LỜN XU Hướng cắt giảm thuế quan theo ngành (ví dụ :
mức thuế 0% áp dụng cho nhiều sản phẩm của các ngành dược phẩm, sắt
thép, sản phẩm công nghệ thông tin )
TUY NHIỜN, BIỆN PHỎP THUẾ QUAN CŨNG CÚ đặc điểm dễ
thấy là không tạo được rào cản nhanh chóng. Trước các tỠNH THẾ
KHẨN CẤP, KHI HàNG NHẬP KHẨU Tăng nhanh gây tổn hại hoặc đe
doạ gây tổn hại cho ngành sản xuất nội địa, các NTB như cấm nhập khẩu,
hạn ngạch nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu không tự động với khả năng
chặn đứng dŨNG NHẬP KHẨU NGAY LẬP TỨC LẠI TỎ RA HỮU
HIỆU Hơn.

2.2. CỎC BIỆN PHỎP PHI THUẾ QUAN ( NON-TARIFF
MEASURES)

Ngoài thuế quan, cỏc biện phỏp phi thuế quan bao gồm tất cả cỏc
biện phỏp khỏc, dự theo quy định phỏp lý hay tồn tại trờn thực tế đều ảnh
hưởng đến mức độ và phương hướng nhập khẩu. Mỗi biện phỏp cú thể cú
một hoặc nhiều thuộc tớnh như ỏp dụng tại biờn giới hay nội địa, được
duy trỡ một cỏch chủ động hay bị động, phự hợp hoặc khụng phự hợp với
thụng lệ quốc tế, nhằm bảo hộ hay khụng bảo hộ
Các biện pháp phi thuế quan có những ưu điểm cơ bản là phong phú
về hỡnh thức (2), đáp ứng nhiều mục tiêu và có thể áp dụng linh hoạt vỡ
nhiều biện phỏp chưa bị buộc phải cam kết hay loại bỏ.
8
Cỏc biện phỏp phi thuế trong thực tế rất phong phỳ về hỡnh thức

nờn
tác động, khả năng và mức độ đáp ứng mục tiêu của chúng cũng rất đa
dạng. Do đó nếu sử dụng các biện pháp phi thuế để phục vụ một mục tiêu

(1) Khi một dũng thuế đó cam kết ràng buộc ở thuế suất nào đó, ví dụ 10% thỡ thành viờn đó không có
quyền đánh thuế nhập khẩu cao hơn quá mức 10% này.

(2) Cú thể chia cỏc biện phỏp phi thuế thành cỏc nhúm lớn sau
- Các biện pháp hạn chế định lượng (như cấm, hạn ngạch, giấy phộp)
- Cỏc biện phỏp quản lý giỏ (như trị giá tính thuế quan tối thiểu, giá nhập khẩu tối đa, phí thay đổi, phụ
thu)
- Các biện pháp liên quan tới doanh nghiệp (như doanh nghiệp thương mại nhà nước)
- Các biện pháp kĩ thuật (như quy định tiêu chuẩn, kĩ thuật, yờu cầu về nhón mỏc, kiểm dịch động thực
vật, thủ tục xác định sự phù hợp)
- Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời (như tự vệ, trợ cấp và các biện pháp đối kháng, biện pháp
chống bán phá giá)
- Các biện pháp liên quan tới đầu tư (như thuế suất thuế nhập khẩu phụ thuộc tỉ lệ nội địa hoá, hạn chế
tiếp cận ngoại tệ, yêu cầu xuất khẩu, ưu đói gắn với thành tớch xuất khẩu)
Cỏc biện phỏp khỏc như tem thuế, biểu thuế nhập khẩu hay thay đổi, yờu cầu đảm bảo thanh toỏn, yờu
cầu kết hối, thủ tục hành chớnh, thủ tục hải quan, mua sắm chớnh phủ, quy tắc xuất xứ)
cụ thể thỡ sẽ cú nhiều lựa chọn mà khụng bị bú hẹp trong khuụn khổ một
cụng cụ duy nhất như thuế quan. Vớ dụ : để hạn chế nhập khẩu phõn
bún, cú thể đồng thời ỏp dụng cỏc biện phỏp hạn ngạch nhập khẩu, cấp
giấy phộp nhập khẩu khụng tự động, đầu mối nhập khẩu, phụ thu nhập
khẩu.
Một NTM có thể đồng thời đáp ứng được nhiều mục tiêu với hiệu
quả cao. Mỗi quốc gia đều theo đuổi nhiều mục tiêu trong chính sách kinh
tế, thương mại của mỡnh. Cỏc mục tiêu đó có thể là : (i) bảo hộ sản xuất
trong nước, khuyến khích phát triển một số ngành nghề; (ii) bảo đảm an
toàn sức khoẻ con người, động thực vật, môi trường; (iii) hạn chế tiêu

dùng; (iv) đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán; (v) đảm bảo an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xó hội, vv Cỏc NTM cú thể đồng thời phục vụ hiệu
quả nhiều mục tiêu khác nhau nêu trên trong khi việc sử dụng công cụ
thuế quan không khả thi hoặc không hữu hiệu bằng.
Ví dụ quy định về kiểm dịch đối với nông sản nhập khẩu vừa đảm
bảo an toàn sức khoẻ con người, động thực vật lại vừa gián tiếp bảo hộ sản
9
xuất nông nghiệp trong nước một cách hợp pháp. Hay cấp phép không tự
động đối với dược phẩm nhập khẩu vừa giúp bảo hộ ngành dược nội địa,
dành độc quyền cho một số đầu mối nhập khẩu nhất định, quản lý chuyên
ngành một mặt hàng quan trọng đối với sức khoẻ con người, phân biệt đối
xử với một số nước cung cấp nhất định.
Hỡnh thức thể hiện của cỏc NTM rất phong phỳ nờn nhiều biện
phỏp chưa chịu sự điều chỉnh của các quy tắc thương mại. Các NTM
thường mang tính "mập mờ", mức độ ảnh hưởng không rừ ràng như những
thay đổi mang tính định lượng của thuế quan, nên dù tác động của chúng
có thể lớn nhưng lại là tác động ngầm, có thể che đậy hoặc biện hộ bằng
cách này hay cách khác. Hiện nay các Hiệp định của WTO chỉ mới điều
chỉnh việc sử dụng một số NTM nhất định. Theo đó, tất cả các NTM hạn
chế định lượng (1) đều không được phép áp dụng, trừ trường hợp ngoại lệ.

Một số NTM khỏc tuy cú thể nhằm mục tiờu hạn chế nhập khẩu,
bảo hộ sản xuất trong nước nhưng vẫn được WTO cho phộp ỏp dụng với
điều kiện tuõn thủ những điều kiện cụ thể, rừ ràng, khỏch quan. Chẳng hạn
như cỏc tiờu chuẩn kĩ thuật, biện phỏp kiểm dịch động thực vật, tự vệ,
thuế chống bỏn phỏ giỏ, cỏc biện phỏp chống trợ cấp, thuế đối khỏng, một
số hỡnh thức hỗ trợ nụng nghiệp (dạng hộp xanh).
Thậm chí, với những NTM chưa được xác định là có phù hợp hay
không với các quy định của WTO, các nước vẫn có thể tiếp tục áp dụng
mà chưa bị yêu cầu cắt giảm hay loại bỏ. Những NTM này có thể do WTO

chưa có quy định điều chỉnh hoặc có quy định nhưng rất chung chung
hoặc trên thực tế rất khó có thể xác định được tính phù hợp hay không phù
hợp với quy định đó, hoặc chúng vẫn là một thực tế được thừa nhận
chung. Chẳng hạn như yêu cầu đặt cọc, trả thuế nhập khẩu trước, vv
Mặc dự cỏc NTM cú tỏc dụng bảo hộ cao song việc ỏp dụng chỳng
10
cũng có nhiều điểm bất lợi như khó dự đoán, khó quản lý và khụng đem
lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước.
Dự đoán việc áp dụng các NTM là rất khó khăn vỡ trờn thực tế
chúng thường được vận dụng trên cơ sở dự đoán chủ quan, đôi khi tuỳ tiện
của nhà chức trách về sản xuất và nhu cầu tiêu dùng trong nước. Chẳng
hạn để xác định hạn ngạch nhập khẩu phân bón trong một năm, người ta
dự tính khả năng các đơn vị sản xuất phân bón trong nước có thể đáp ứng
được tổng nhu cầu về phân bón của toàn ngành nông nghiệp.
Trong bối cảnh kinh tế phức tạp và thường xuyên biến động hiện
nay, việc đưa ra một dự đoán tương đối chính xác là rất khó khăn. Hậu quả
của việc dự đoán không chính xác sẽ rất nghiêm trọng như gây ra thiếu hụt
trầm trọng nguồn cung cấp phân bón khi sản xuất trong nước vào thời vụ,
đẩy giá tăng vọt (sốt nóng) hoặc trái lại dẫn đến tỡnh trạng cung vượt cầu

(1) Các NTM hạn chế định lượng như cấm nhập khẩu, hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu không tự động
vv gây cản trở, bóp méo thương mại và thường bị coi là các NTBs.
quỏ lớn trên thị trường làm giá sụt giảm (sốt lạnh). Điều này đồng nghĩa
nguồn thu nào cho ngân sách.
Các NTM đôi khi cũng làm nhiễu tín hiệu của thị trường mà người
sản xuất và người tiêu dùng trong nước thường dựa vào đó để ra quyết
định. Tín hiệu này chính là giá thị trường. Khi bị làm sai lệch, nó sẽ phản
ánh không trung thực lợi thế cạnh tranh thực sự, chỉ dẫn sai việc phân bổ
nguồn lực trong nội bộ nền kinh tế. Do đó, khả năng xây dựng kế hoạch
đầu tư, sản xuất, kinh doanh hiệu quả trong trung hạn và dài hạn của người

sản xuất bị hạn chế.
Tác động của NTM thường khó có thể được lượng hoá rừ ràng như
tác động của thuế quan. Nếu mức bảo hộ thông qua thuế quan đối với một
sản phẩm có thể xác định được một cách dễ dàng thông qua mức thuế suất
đánh lên sản phẩm đó thỡ mức độ bảo hộ thông qua NTM là tổng mức bảo
11
hộ của các NTM riêng rẽ áp dụng cho cùng một sản phẩm. Bản thân mức
độ bảo hộ của mỗi NTM cũng chỉ có thể được ước lượng một cách tương
đối chứ không thể lượng hoá rừ ràng như thuế quan. Cũng vỡ mức độ bảo
hộ của các NTM không dễ xác định nên rất khó xây dựng một lộ trỡnh tự
do hoỏ thương mại như với bảo hộ chỉ bằng thuế quan.
Khụng những thế, vỡ khú dự đoán nên các NTM thường đũi hỏi chi
phớ quản lý cao và tiờu tốn nhõn lực của nhà nước để duy trỡ hệ thống
điều hành, kiểm sát bằng NTMs.
Một số NTM lại thuộc thẩm quyền và phạm vi quản lý của nhiều cơ
quan với những mục tiêu khác nhau, đôi khi cũn mõu thuẫn nhau, nờn cú
thể gõy ra khú khăn cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý và
cỏc chủ thể tham gia hoạt động kinh tế trong việc xây dựng, sử dụng, tiếp
cận thông tin cũng như đánh giá tác động của các NTM này.
Các doanh nghiệp sản xuất chưa chú trọng đến việc tiếp cận thông
tin và chưa có ý thức xây dựng, đề xuất các NTM để bảo hộ sản xuất, cũn
trụng chờ vào nhà nước tự quy định. Do đó, thực tế là các doanh nghiệp
thường phải tốn kém chi phí vận động hành lang để cơ quan ra quyết định
áp dụng NTM nhất định có lợi cho mỡnh.
Ngoài ra việc quản lý cỏc NTM cũn khú khăn hơn nếu đó là những
NTM bị động, tồn tại trên thực tế ngoài ý muốn của cỏc nhà hoạch định
chính sách như bộ máy quản lý thương mại quan liêu, năng lực thấp của
các nhân viên hải quan, các văn bản pháp lý không được công bố công
khai
Việc sử dụng cỏc NTM nhằm hạn chế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất

trong nước hầu như không đem lại nguồn thu tài chính trực tiếp nào cho
nhà nước mà thường chỉ làm lợi cho một số doanh nghiệp hoặc một số
ngành nhất định được bảo hộ hoặc được hưởng ưu đói, đặc quyền như
được phân bổ hạn ngạch, được chỉ định làm đầu mối nhập khẩu. Điều này
12
cũn dẫn đến sự mất bỡnh đẳng giữa các doanh nghiệp trong nội bộ nền
kinh tế.
Các biện pháp thuế quan và các NTM là hai công cụ bảo hộ sản xuất
quan trọng đối với mọi quốc gia. Do mỗi công cụ đều có điểm mạnh, điểm
yếu đặc thù nên các biện pháp thuế quan và NTM thường được sử dụng
kết hợp, bổ sung lẫn nhau nhằm nâng cao hiệu quả bảo hộ sản xuất trong
nước. Mặc dù về lý thuyết, WTO và cỏc định chế thương mại khu vực
thường chỉ thừa nhận thuế quan là công cụ bảo hộ hợp pháp duy nhất
nhưng thực tế đó chứng minh rằng cỏc nước không ngừng sử dụng các
NTM mới, vừa đáp ứng mục đích bảo hộ, vừa không trái với thông lệ quốc
tế.
Mức độ hiệu quả của bảo hộ có tăng lên nhiều hay không là cũn phụ
thuộc vào tớnh linh hoạt cú chọn lọc, cú định hướng của chính phủ các
nước trong việc áp dụng NTMs bổ trợ cho biện pháp thuế quan. Nếu biết
kết hợp hài hoà và tinh tế hai công cụ này, sản xuất trong nước sẽ được
bảo hộ, hỗ trợ có thời hạn để nâng cao sực cạnh tranh nhằm từng bước
thích nghi với các định chế và nguyên tắc chung của môi trường thương
mại quốc tế.

II. KINH NGHIỆM ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP PHI THUẾ
QUAN Ở MỘT SỐ NƯỚC

1. Kinh nghiệm của Hoa Kỡ

Hoa Kỡ là một cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới và là một trong

những thành viên sáng lập của GATT (WTO ngày nay). Mặc dù có tiềm
năng to lớn trong hầu hết mọi lĩnh vực sản xuất, nhưng theo quy luật về lợi
thế cạnh tranh tương đối, trong những năm qua, Hoa Kỡ đang phải đối mặt
13
với những thách thức rất lớn nhằm bảo hộ cho những ngành sản xuất đó
suy giảm sức cạnh tranh trờn thị trường thế giới.
Thực tiễn ỏp dụng cỏc NTM của Hoa Kỡ cú thể được minh hoạ rừ
nột khi nghiờn cứu cỏc biện phỏp được áp dụng để bảo hộ các ngành dệt
may, nông nghiệp và sắt thép.
Dệt may là một ngành sử dụng nhiều lao động không đũi hỏi kỹ
năng cao. Hoạt động sản xuất của ngành này có tác động lớn tới thu nhập,
việc làm và ổn định xó hội của Hoa Kỡ. Do đó, ngành dệt may luôn được
các nhà hoạch định chính sách thương mại của Hoa Kỡ tỡm mọi cỏch để
bảo hộ, trong đó công cụ bảo hộ chính là hạn ngạch. Theo Hiệp định Dệt
May của WTO, Hoa Kỡ phải loại bỏ hạn ngạch đối với các sản phẩm dệt
và may vào năm 2005 theo một lộ trỡnh gồm 3 giai đoạn. Tuy nhiên, Hoa
Kỡ đó tỡm nhiều cỏch để lẩn trốn các nghĩa vụ, chẳng hạn như rất nhiều
sản phẩm chỉ được loại bỏ hạn ngạch vào giai đoạn cuối cùng của Hiệp
định này.
Một NTM khác là quy tắc xuất xứ đó được Hoa Kỡ sử dụng khỏ
tinh vi để hạn chế nhập khẩu sản phẩm dệt may từ Trung Quốc và Ấ n Độ.
Nền nụng nghiệp của Hoa Kỡ cú năng suất lao động đứng đầu thế
giới, có sức cạnh tranh rất lớn cả về chất lượng và giá cả nhờ điều kiện
thiên nhiên thuận lợi cộng với trỡnh độ khoa học công nghệ cao. Tuy
nhiên, Hoa Kỡ vẫn phải ỏp dụng nhiều NTM nhằm bảo hộ cho một số
nhúm sản phẩm nụng nghiệp, đặc biệt là sữa và đường. Hai biện pháp nổi
bật được áp dụng để bảo hộ ngành sữa và đường là biện pháp hạn ngạch
thuế quan và hỗ trợ giá. Chỉ tính riêng khoản hỗ trợ trong nước của Hoa
Kỡ vi phạm Hiệp định Nông nghiệp của WTO và thuộc diện phải cam kết
cắt giảm trong năm 1996 đối với ngành sữa đó lờn tới 4,7 tỷ USD và đối

với ngành đường là 0,9 tỷ USD.
Chỉ vài thập kỉ trước đây, ngành sắt thộp của Hoa Kỡ đứng đầu thế
giới. Nhưng những năm gần đây ngành công nghiệp này của Hoa Kỡ phải
14
đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt của các nước khác như Nga, Nhật Bản,
Hàn Quốc và Trung Quốc.
Để bảo hộ ngành công nghiệp sắt thép, Hoa Kỡ đó tăng cường và
thường xuyên sử dụng biện pháp thuế chống bán phá giá. Ngoài ra, với
những nước chưa phải là thành viên WTO, Hoa Kỡ cũn tỡm cỏch gõy sức
ộp buộc phải kớ với Hoa Kỡ thoả thuận hạn chế xuất khẩu tự nguyện một
số loại sắt thộp.
Gần đây, Hoa Kỡ đang cố gắng tỡm mọi cỏch để có thể sử dụng các
biện pháp gắn với tiêu chuẩn môi trường và lao động để hạn chế nhập
khẩu.
Hai trường hợp điển hỡnh về việc Hoa Kỡ đơn phương áp dụng các
tiêu chuẩn về môi trường của mỡnh để hạn chế nhập khẩu là trường hợp cá
hồi và tôm. Trong trường hợp thứ nhất, Hoa Kỡ cấm nhập khẩu cỏ hồi từ
những nước mà Hoa Kỡ cho rằng phương pháp đánh bắt của họ làm ảnh
hưởng xấu đến cá heo. Trong trường hợp thứ hai, việc nhập khẩu tôm từ
những nước sử dụng lưới quét có hại cho rùa biển cũng bị cấm.
Một đặc điểm nổi bật là Hoa Kỡ đó ban hành luật và ỏp dụng trờn
thực tiễn nhiều biện phỏp đơn phương có tác dụng hạn chế thương mại rất
lớn. Có thể kể ra một số biện pháp đáng chú ý nhất như sau :
- An ninh quốc gia : Hoa Kỡ đó hạn chế nhập khẩu từ cỏc
nước bị coi là có thể đe doạ đến an ninh của Hoa Kỡ, chẳng hạn như Cu
Ba, Angola, Ruanda
- Các hành động thương mại đơn phương : Theo các điều 301
luật thương mại Hoa Kỡ (1974), Super 301, Special 301, Hoa Kỡ tự cho
phộp mỡnh ỏp dụng cỏc biện phỏp đơn phương hạn chế thương mại với
các nước mà Hoa Kỡ cho là cú phương hại tới lợi ích của mỡnh. Luật

Helm - Burton hạn chế khụng chỉ cỏc cụng ty Hoa Kỡ mà thậm chớ cỏc
cụng ty và thể nhõn cỏc nước khác tiến hành đầu tư buôn bán với Cu Ba.
15
Hoa Kỡ cũng thực thi và ban hành cỏc biện phỏp hạn chế thương mại với
Iran.

2. Kinh nghiệm của Thỏi Lan

Thái Lan đó đạt được sự phát triển kinh tế khá ngoạn mục trong vài
thập kỉ gần đây. Mặc dù nhiều lĩnh vực sản xuất của Thái Lan có khả năng
cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế nhưng Thái Lan vẫn áp dụng nhiều
NTM với mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước.

Hạn ngạch nhập khẩu

Hạn ngạch nhập khẩu được Thỏi Lan sử dụng đối với mỏy múc,
giấy, hoỏ chất, mỏy nụng nghiệp, bỡnh chứa gas để nấu nướng, mỏy cưa
đĩa. Thỏi Lan cũn chuyển biện phỏp cấp phộp sang hạn ngạch thuế quan
và thuế hoỏ cỏc NTM đối với 23 nhúm nụng sản. Chỳng hầu hết là
nguyờn liệu thụ (nụng sản chưa chế biến) bao gồm sữa chưa cụ đặc, khoai
tõy, hành tỏi, cà phờ, hạt tiờu, ngụ, gạo, đậu tương, lỏ thuốc lỏ. Thuế suất
ngoài hạn ngạch thay đổi từ 40% đến 242%.

Cấp phộp nhập khẩu

Thái Lan đó giảm số nhúm hàng nhập khẩu cần có giấy phép từ 42
(năm 1995 - 96) xuống cũn 23 (năm 1997). Các mặt hàng phải có giấy
phép mới được nhập khẩu bao gồm nguyên vật liệu, dược phẩm, xăng dầu,
hàng công nghiệp, hàng dệt, nông sản và tất cả các loại lương thực thực
phẩm phục vụ tiêu dùng của con người.

Giấy phép nhập khẩu không tự động cũng được áp dụng đối với
động cơ, bộ phận, phụ tùng đó qua sử dụng của xe mỏy cú dung tớch đến
16
50cc, và bánh xe có bán kính không quá 10 inches. Đặc biệt, giấy phép
nhập khẩu chỉ cấp cho các doanh nghiệp nhà nước.
Bên cạnh yêu cầu về cấp phép nhập khẩu thuộc thẩm quyền của Bộ
thương mại, nhập khẩu các sản phẩm lương thực, thực phẩm, thuốc men,
mỹ phẩm, chất độc hại, chất gây nghiện, chất kích thích, các dụng cụ và
trang bị y tế cũn phải được sự chấp thuận của Cơ quan quản lý Thuốc và
Thực phẩm của Thỏi Lan. Nhỡn chung, cỏc quy định về lương thực thực
phẩm thuốc men là một rào cản lớn đối với nhập khẩu do thủ tục chậm trễ,
kéo dài trước khi được chấp thuận đưa vào thị trường và hệ thống giấy
phép nhập khẩu độc quyền.

Xác định trị giá tính thuế hải quan

Trong giai đoạn 1996 - 1999, Cục Hải quan Thái Lan thường sử
dụng hoá đơn cao nhất của sản phẩm cùng loại nhập khẩu từ bất kỡ nước
nào trong thời gian trước đó để xác định trị giá tính thuế. Các nhân viên
hải quan Thái Lan sử dụng công thức giá CIF để tính giá trị chịu thuế,
hoặc công thức giá FOB + 10% cước vận tải + 5% phí bảo hiểm.
Như vậy có thể thấy rằng các thủ tục và phương pháp xác định trị
giá tính thuế hải quan của Thái Lan khá tuỳ tiện, phụ thuộc vào cách áp
dụng của nhân viên hải quan. Tuy nhiên, từ tháng 5 - 2000, Thái Lan đó sử
dụng phương pháp xác định trị giá tính thuế nhập khẩu theo trị giá giao
dịch như quy định trong Hiệp định về xác định trị giá thuế quan của
WTO.

Chương trỡnh nội địa hoá


Thái Lan đưa ra yêu cầu về hàm lượng nội địa đối với sản xuất ô tô
con (54%), xe tải nhẹ (65 - 80%), xe tải và xe buyt (40 - 50%), xe máy
17
(70%) và sản phẩm sữa (phải mua tối thiểu 50 tấn sữa nguyên liệu địa
phương/ngày trong năm hoạt động đầu tiên). Tuy nhiên, Thái Lan đó cam
kết loại bỏ hoàn toàn cỏc yờu cầu về nội địa hoá vào cuối năm 1999 theo
quy định của Hiệp định TRims của WTO. Thái Lan đó tiến hành sửa đổi
các văn bản pháp luật trong nước để loại bỏ dần yêu cầu về hàm lượng nội
địa hoá trong năm 1999, phù hợp với thời hạn quá độ cho phép trong Hiệp
định TRIMs.

Khuyến khích đầu tư

Uỷ ban Đầu tư (Board of Investment) của Thái Lan đưa ra những
ưu đói và khuyến khớch đầu tư đối với các công ty nước ngoài đạt những
mục tiêu cụ thể về tỉ lệ xuất khẩu hoặc chấp nhận các yêu cầu về cân bằng
thương mại. Hỡnh thức khuyến khớch cú thể là miễn, giảm phớ, thuế nhập
khẩu, quỹ khuyến khớch xuất khẩu và cỏc hỡnh thức ưu đói thuế khỏc.
Nhằm khuyến khớch đầu tư nước ngoài, khắc phục hậu quả của cuộc
khủng hoảng kinh tế khu vực vừa qua, BOI đó tạm thời nới lỏng nhiều
điều kiện về miễn thuế và phí.
Chương trỡnh khuyến khớch xuất khẩu đưa ra các hỡnh thức ưu đói
chủ yếu sau : miễn thuế nhập khẩu đối với các nguyên liệu nhập khẩu để
sản xuất hàng xuất khẩu, khấu trừ 5 % phần tăng lên của thu nhập năm
trước do xuất khẩu khỏi phần thu nhập chịu thuế, vv Tuy nhiên, Luật
khuyến khích đầu tư không quy định tiêu chuẩn cụ thể để đựơc hưởng
những ưu đói, khuyến khớch này.

Trợ cấp


Ngân hàng Trung ương Thái Lan được giao nhiệm vụ hỗ trợ tài
chính đối với các dự án ưu tiên thông qua chương trỡnh tỏi tài trợ tớn dụng
18
cụng nghiệp. Mỗi cụng ty, với tổng tài sản cố định không vượt quá 200
triệu bath, đều được phân bổ mức tín dụng để phát hành lệnh phiếu. Tổng
trị giá tái tài trợ là 50% mệnh giá lệnh phiếu. Uỷ ban quốc gia về Xúc tiến
đầu tư và xuất khẩu chịu trách nhiệm quản lý chương trỡnh này. Chương
trỡnh này hướng mục tiêu vào hỗ trợ tài chính cho các ngành công nghiệp
phục vụ phát triển nông thôn. Tuy nhiên, theo điều tra của một số nước
khác, chương trỡnh này cũng hỗ trợ một số ngành xuất khẩu.
Thỏi Lan khụng duy trỡ trợ cấp xuất khẩu cho nụng sản trừ Chương
trỡnh tớn dụng cả gúi và cho rằng chương trỡnh này rất phự hợp với cỏc
quy định của WTO.

3. Kinh nghiệm của Trung Quốc

Sau 16 năm kiên trỡ, Trung Quốc cuối cựng đó trở thành thành viờn
của WTO. Gia nhập WTO được coi là một nhân tố thúc đẩy cạnh tranh,
thu hút FDI và nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp Trung Quốc.
Trung Quốc đó tăng trưởng mạnh trong hơn hai thập kỉ qua và có nhiều
dấu hiệu cho thấy nước này sẽ có thể duy trỉ sự tăng trưởng ổn định trong
nhiều năm tới.

Cỏc biện phỏp hạn chế định lượng

Trong quỏ trỡnh đàm phán gia nhập WTO, Trung Quốc đó cú
những bước tiến đáng kể trong việc loại bỏ các biện pháp hạn chế định
lượng. Nước naỳ đó giảm số nhúm hàng thuộc danh mục chịu điều chỉnh
của các biện pháp này từ 53 nhóm năm 1993 xuống cũn 35 nhúm năm
1999. Tuy nhiên, trong cam kết gia nhập WTO, Trung Quốc vẫn bảo lưu

được quyền cấp phép nhập khẩu và áp dụng hạn ngạch nhập khẩu với 260
mặt hàng gồm hàng tiêu dùng, nguyên liệu thô và một số thiết bị sản xuất
19
như dầu thực vật, cao su tự nhiên, săm lốp xe máy, xe máy và phụ tùng, ô
tô các loại, xe tải và ti vi màu Trong số các mặt hàng này, 112 mặt hàng
sẽ được loại bỏ giấy phép và hạn ngạch ngay sau khi Trung Quốc gia nhập
như đường, len, bông, sợi tổng hợp, máy điều hoà, tủ lạnh những mặt
hàng cũn lại sẽ được tăng 15% hạn ngạch sau mỗi năm và đến 01/01/2005
sẽ loại bỏ hoàn toàn việc áp dụng hai biện pháp này. Cơ quan quản lý việc
cấp phộp nhập khẩu là Bộ Ngoại Thương và Hợp tác Kinh tế (MOFTEC).
Ngoài ra Trung Quốc đó đạt được cam kết duy trỡ việc đấu thầu
nhập khẩu cho 117 mặt hàng máy công cụ, thiết bị điện tử như máy in,
máy fax Tuy nhiên, biện pháp này cũng cú lộ trỡnh cắt giảm rừ ràng và sẽ
loại bỏ hoàn toàn vào năm 2004.

Quyền kinh doanh thương mại

Các doanh nghiệp nhà nước của Trung Quốc được ưu tiên quyền
kinh doanh thương mại đối với 7 nhóm hàng nhập khẩu gồm ngũ cốc, dầu
thực vật, đường, thuốc lá, phân hoá học, bông, dầu thô, dầu chế biến và 19
nhóm hàng xuất khẩu như chè, gạo, bông, đậu tương, than, bạc
Khỏc với việc quản lý trực tiếp cỏc cụng ty ngoại thương nhà nước
như trước đây, hiện nay, MOFTEC không cũn can thiệp vào hoạt động
kinh doanh của các công ty này nữa. Trung Quốc khẳng định rằng tất cả
các doanh nghiệp sở hữu nhà nước hoặc doanh nghiệp do nhà nước đầu tư
sẽ chỉ tiến hành các hoạt động mua, bán theo tiêu chí thương mại. Các
doanh nghiệp và cá nhân của các nước thành viên WTO (dù không đầu tư
hoặc đăng ký kinh doanh tại Trung Quốc) cũng sẽ được hưởng đối xử
quốc gia về quyền kinh doanh thương mại.
Trung Quốc cũng đó đưa ra lịch trỡnh về quyền kinh doanh xuất

nhập khẩu cho cỏc doanh nghiệp cú vốn đầu tư nước ngoài. Theo đó, trong
vũng 3 năm kể từ ngày Trung Quốc gia nhập WTO, toàn bộ các doanh
20
nghiệp thuộc sở hữu nước ngoài sẽ được nhập khẩu và phân phối hầu hết
các sản phẩm .

Cỏc biện phỏp liờn quan đến đầu tư

Trước đây, Trung Quốc quy định rất chặt chẽ tiêu chuẩn về hàm
lượng nội địa, thành tích xuất khẩu và yêu cầu cân đối thương mại để hạn
chế hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra
nước này cũn cú những yờu cầu mua hàng giỏn tiếp khi ký hợp đồng mua
sắm với các công ty nước ngoài (ví dụ : để ký được hợp đồng bán máy
bay thỡ cỏc nhà cung cấp nước ngoài có thể phải mua một số hàng hóa
khác của Trung Quốc).
Để gia nhập WTO, tuân thủ Hiệp định TRIMs, Trung Quốc đó cam
kết loại bỏ hoàn toàn cỏc yờu cầu cõn đối ngoại tệ, yêu cầu về hàm lượng
nội địa, thành tích xuất khẩu. Bên cạnh đó, việc cấp phép nhập khẩu, hạn
ngạch nhập khẩu và hạn ngạch thuế quan sẽ không căn cứ vào các yêu cầu
về hàm lượng nội địa, chuyển giao công nghệ, thành tích kinh doanh hay
tiến hành hoạt động nghiên cứu và phát triển tại Trung Quốc.

Xỏc định trị giỏ tớnh thuế hải quan

Trước đây, ngoài việc xác định trị giá tính thuế hải quan theo hoá
đơn bán hàng, hải quan Trung Quốc vẫn sử dụng bảng giá tham khảo
không chính thức hoặc bảng giá ước tính của Phũng Thương mại. Cách
tính mập mờ và không công khai này đó gõy ra tỡnh trạng một sản phẩm
cú thể chịu cỏc mức thuế suất khụng giống nhau tại cỏc cửa khẩu khỏc
nhau.

21
Đến nay, Trung Quốc đó cam kết tuõn theo những quy định của
WTO về trị giá tính thuế hải quan, tiến tới xoá bỏ hoàn toàn việc áp dụng
các bảng giá tối thiểu và các bảng giá tham chiếu như trước đây.

Trợ cấp

Trung Quốc sử dụng nhiều hỡnh thức trợ cấp xuất khẩu như cho nhà
sản xuất hưởng gía điện thấp, cho phép doanh nghiệp nhà nước và công ty
thương mại nhà nước vay ngân hàng với những điều kiện và lói suất ưu
đói. Ngoài ra, để được vay ưu đói và cung cấp một số phương tiện nghiên
cứu, phát triển, các doanh nghiệp phải đáp ứng một số chỉ tiêu xuất khẩu
nhất định. Những doanh nghiệp hoạt động trong các đặc khu kinh tế và
vùng ven biển được hưởng ưu đói về thuế. Trung Quốc cũn tiến hành trợ
cấp tài chớnh cho cỏc chương trỡnh phỏt triển sản phẩm xuất khẩu cuối
cựng.

Các cam kết phi thuế quan trong thương mại nông sản

Trung Quốc đó cam kết giới hạn tổng lượng trợ cấp tính gộp bằng 0
trên cơ sở mức hỗ trợ tối thiểu là 8,5% cho cả hỗ trợ chung và hỗ trợ theo
sản phẩm cụ thể. Nước này được áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với lúa
mỡ, ngụ, gạo, dầu đậu tương, dầu cọ, dầu hạt cải, đường, len và bông. Tuy
nhiên, hạn mức quota cho những mặt hàng này tăng khá mạnh trong giai
đoạn thực hiện (trung bỡnh khoảng 60%). Riờng mặt hàng đường, Trung
Quốc không những cam kết tăng mức hạn ngạch từ năm 2001 đến năm
2004 lên 15,77% mà cũn cam kết giảm thuế trong hạn ngạch trong giai
đoạn tương ứng từ 20% xuống cũn 15%.
22
Biện pháp hạn ngạch thuế quan với hầu hết các mặt hàng nông sản

sẽ được loại bỏ từ 01/01/2004. Những mặt hàng cũn lại như dầu đậu
tương, dầu hạt cải, dầu cọ sẽ loại bỏ hạn ngạch sau đó một năm.
Cơ chế phân bổ và tái phân bổ hạn ngạch thuế quan của Trung Quốc được
công bố công khai, tuân theo các thủ tục và tiêu chí minh bạch. Mọi chủ
thể được phân bổ hạn ngạch thuế quan đều được quyền uỷ thác nhập khẩu
thông qua doanh nghiệp thương mại nhà nước và/hoặc thông qua các chủ
thể có quyền kinh doanh khác, kể cả trực tiếp nhập khẩu theo quy định tại
văn bản cấp hạn ngạch.
Các nông sản không thuộc danh mục phải nhập khẩu qua doanh
nghiệp thương mại nhà nước như ngũ cốc, dầu thực vật, đường, thuốc lá,
bông có thể được nhập khẩu thông qua bất kỳ doanh nghiệp nào cú quyền
kinh doanh.

III. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP
PHI THUẾ QUAN

1. Những cơ sở khoa học của việc áp dụng

Việc nghiên cứu các biện pháp phi thuế quan nhằm mục tiêu cao
nhất là để tránh những tác động xấu của chỳng tới tỡnh hỡnh nhập khẩu và
phỏt triển kinh tế xó hội của một nước, đồng thời xây dựng một hệ thống
phi thuế quan hiệu quả hơn để vừa bảo hộ một cách chọn lọc các ngành
sản xuất trong nước lại vừa phù hợp với thông lệ quốc tế trong quá trỡnh
hội nhập kinh tế thế giới. Nhưng song song với việc đó, người ta không
thể không nghiên cứu những cơ sở khoa học của việc áp dụng các biện
pháp này.

1.1. Việc ỏp dụng mang tớnh khỏch quan
23


Trong môi trường cạnh tranh quốc tế ngày càng tăng, các NTM đó
và đang được sử dụng như một xu thế tất yếu để bảo hộ những ngành sản
xuất mới và có tiềm năng phát triển. Hơn nữa, nền kinh tế xó hội của bất
kỳ quốc gia nào cũng cú thể chao đảo vỡ sự thõm hụt cỏn cõn thanh toỏn
hay sự thương tổn của các ngành sản xuất nội địa do hàng hoá được trợ
cấp hay bị bán phá giá nhập khẩu ồ ạt vào thị trường trong nước. Trong
những tỡnh huống như vậy, việc áp dụng các NTM như thuế đối kháng,
thuế chống bán phá giá để hạn chế nhập khẩu hay triệt để tác dụng của
trợ cấp, bán phá giá hàng hoá và ổn định tỡnh hỡnh kinh tế xó hội là một
nhu cầu khỏch quan. Bờn cạnh cụng cụ thuế quan là một cụng cụ cú tớnh
cứng nhắc và bảo thủ cao, cỏc biện phỏp phi thuế quan đó và đang phát
huy vai trũ của nú như một công cụ nhanh nhạy và hiệu quả trong việc
đảm nhận nhiệm vụ như một tấm lá chắn tiên phong bảo vệ những ngành
sản xuất non trẻ và nền kinh tế xó hội núi chung trước những biến động
không ngừng của thị trường thế giới.

1.2. Việc ỏp dụng mang tớnh phổ biến

Mặc dự thuế quan là cụng cụ bảo hộ hợp pháp duy nhất được WTO
thừa nhận nhưng hiện nay các NTM đang được áp dụng một cách phổ biến
trên thế giới, tại các nước dù hùng mạnh hay kém phát triển, để bảo hộ cho
nhiều lĩnh vực sản xuất từ giản đơn như sản xuất lúa gạo ở Philippin đến
phức tạp như sản xuất máy bay công nghệ cao tại Pháp.

1.3. Việc ỏp dụng mang tớnh dài hạn

Hiện đang tồn tại một nghịch lý là một mặt, các quốc gia trên thế
giới đang cố gắng loại bỏ dần các NTM thỡ mặt khỏc người ta lại không
24
ngừng sáng tạo ra các NTM mới như các NTM liên quan đến tiêu chuẩn

môi trường, tiêu chuẩn lao động hay công nghệ biến đổi gen. Theo đà này,
trong tương lai, NTM sẽ là người bạn đồng hành dài hạn với thương mại
quốc tế.

2. Cần chỳ ý khi ỏp dụng cỏc biện phỏp phi thuế quan

Việc sử dụng các NTM có nhiều nét ưu việt như vậy song cần phải
cân nhắc một cách thận trọng khi xây dựng và sử dụng chúng trong chính
sách thương mại.

2.1. Sự lạm dụng cỏc biện phỏp phi thuế quan

Áp dụng các NTM là cần thiết song bài toán đặt ra cho các nhà
hoạch định chính sách thương mại là phải xây dựng được một hệ thống
NTM khoa học, đồng bộ, không tràn lan, chồng chéo. Sự lạm dụng các
NTM không chỉ gây khó khăn cho công tác quản lý mà đôi khi cũn gõy ra
những tỏc động tiêu cực như triệt tiêu cạnh tranh, kớch thớch buụn lậu

2.2. Cần loại bỏ các NTM cổ điển và xây dựng các NTM hiện đại

Hiện nay, cần phải thừa nhận rằng các NTM cổ điển đó bộc lộ
những nhược điểm của nó trong các hoạt động thương mại quốc tế và ảnh
hưởng không nhỏ đến tiến trỡnh hội nhập kinh tế của các quốc gia trên thế
giới. Bởi vậy, các quốc gia đó khụng ngừng tạo ra và ỏp dụng triệt để các
NTM mới và phát huy các ưu việt của nó, đó là tính tinh vi hơn, bảo hộ
nhạy bén hơn và có hiệu quả hơn trong chính sách phân biệt đối xử. Đối
lập với việc áp dụng thái quá các NTM cổ điển, các nước chậm phát triển
như Việt Nam lại rất ít sử dụng các NTM hiện đại. Nguyên nhân của thực
25
trạng này là trỡnh độ sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế các nước

này cũn thấp. Thờm vào đó năng lực khoa học kĩ thuật và trỡnh độ quản lý
hạn chế đó gõy ra những khú khăn không nhỏ. Ví dụ như hiện nay, Việt
Nam không đủ điều kiện kiểm dịch để hạn chế nhập khẩu những hoa quả
tươi bị nghi là sử dụng chất bảo quản gây hại cho sức khỏe con người.

2.3. Lựa chọn đúng đắn lĩnh vực sản xuất cần bảo hộ

Là yếu tố quyết định đối với việc xây dựng hệ thống NTM. Do hạn
chế về nguồn lực, các nước không thể bảo hộ tất cả các ngành sản xuất nội
địa nhưng để chọn đúng các ngành cần được bảo hộ qủa thực không đơn
giản. Người ta sẽ phải cân nhắc đến nhiều yếu tố chủ quan và khách quan
về định hướng phát triển nền kinh tế nội địa, khả năng cạnh tranh của từng
ngành và xu thế phát triển trên thế giới bởi sau khi loại bỏ các NTM bảo
hộ, nhiều ngành sản xuất sẽ không thể đứng vững trong cuộc cạnh tranh
khốc liệt hiện nay.
Nói tóm lại, nhu cầu bảo hộ nền sản xuất trong nước đối với mỗi
quốc gia là nhu cầu không thể thiếu. Vỡ vậy, việc ỏp dụng cỏc biện phỏp
phi thuế quan là điều tất yếu đối với mọi nền kinh tế. Tuy nhiên, việc áp
dụng này cần được xem xét một cách cẩn thận, dựa trên các cơ sở khoa
học của nó và không được đi ngược lại với các cam kết quốc tế trên con
đường hội nhập.







×