Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

LUẬN VĂN: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (827.29 KB, 107 trang )

Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG………………






LUẬN VĂN


Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu
công nghiệp, khu chế xuất

















Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

2


1. Tính cấp thiết của đề tài:
Xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã tạo ra nhiều
cơ hội cũng như không ít thách thức lớn cho sự phát triển của nền kinh tế
của các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Trong nhiều thập kỷ trở
lại đây, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) đã và đang trở thành mục tiêu hàng đầu trong chiến lược
phát triển kinh tế của các nước trên thế giới nói chung và các nước đang
phát triển nói riêng. Theo kinh nghiệm các nước, muốn phát triển kinh tế,
Việt Nam hay bất kỳ một quốc gia nào đều phải tìm cho mình trọng điểm
ưu tiên, trong đó có khu công nghiệp va khu chế xuất (KCN, KCX). Một số
nước đang phát triển ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương trong thời gian
qua đã coi việc phát triển các KCN, KCX là một giải pháp quan trọng
nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phát triển nội lực, đẩy mạnh quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng về xuất khẩu. Rất nhiều nước thành
công trong việc xây dựng và triển khai mô hình kinh tế kiểu này để phát
triển đất nước. Tuy nhiên thực tế cho thấy không thể tiến hành cùng một
lúc và giống nhau về hình thức, nội dung, trình độ, quy mô các loại hình
phát triển trên toàn bộ lãnh thổ một quốc gia, đặc biệt đối với các nước
chậm phát triển, khả năng kinh tế, công nghệ, kỹ thuật còn yếu kém. Chính
vì vậy có một chính sách tập trung đầu tư cho một số vùng có chọn lọc với
mục đích tập trung vốn và lao động cho sự phát triển kinh tế, xã hội nhằm
kéo theo sự phát triển các vệ tinh khác, tạo đà phát triển cho toàn bộ nền
kinh tế là điều mà nước ta cần phải quan tâm.

Xuất phát từ mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế của đất nước và
những kinh nghiệm rút ra từ việc xây dựng và triển khai các KCN, KCX
của một số nước trong khu vực, từ năm 1997, Chính phủ ta đã cho phép
thành lập một số KCX ở các địa phương có điều kiện thuận lợi. Đây là chủ
trương kịp thời, đúng đắn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và thực
Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

3

tiễn ở nước ta. Tính đến tháng 10 năm 2002, chúng ta đã thành lập được72
KCN, KCX, KCNC tập trung ở ba vùng kinh tế trọng điểm trong cả nước
và đã có những đóng góp ban đầu quan trọng cho nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên thực tiễn cho thấy trong nhiều năm qua, hoạt động của các
KCN, KCX còn nhiều tồn tại và yếu kém: về quy hoạch tổng thể, cơ chế bộ
máy quản lý, thủ tục hành chính, nguồn nhân lực Những hạn chế này đã
và đang cản trở hiệu quả hoạt động của các KCN, KCX. Do vậy, nghiên
cứu một cách nghiêm túc những vấn đề lý luận, thực tiễn phát triển các
KCN, KCX và việc thu hút FDI ở nước ta thời gian qua cũng như việc đúc
rút những bài học kinh nghiệm phát triển KCN, KCX của các nước trong
khu vực để làm luận cứ khoa học cho việc đề ra các chính sách, biện pháp
phù hợp với tình hình hiện nay là hết sức cần thiết.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khoá luận là một số vấn đề cơ
bản về KCN, KCX, đánh giá những kết quả đã đạt được và phân tích những
tồn tại và nguyên nhân hạn chế sự phát triển của các KCN, KCX được hình
thành trên phạm vi cả nước trong 10 năm qua.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp, so sánh, phương pháp
chứng thực và dự báo. Cơ sở lý luận cho các phương pháp trên là các quan
điểm, đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta.

4. Mục đích nghiên cứu:
Em chọn đề tài: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp,
khu chế xuất” làm đề tài cho khoá luận của mình với mục đích nâng cao
hiểu biết của bản thân về những vấn đề lý luận chung về KCN, KCX, đánh
giá thực trạng phát triển KCN, KCX ở nước ta trong 10 năm qua, từ đó
phần nào nêu ra những giải pháp tăng cường thu hút vốn FDI nhằm phát
triển KCN, KCX ở nước mình.
Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

4

5. Bố cục của luận văn
Nội dung chính của khoá luận gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về KCN, KCX
Chương 2: Thực trạng thu hút FDI vào KCN, KCX ở Việt Nam thời
gian qua
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI để phát
triển KCN, KCX
Ngoài ra còn có phần lời nói đầu, mục lục, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục.
Là một sinh viên, trình độ hiểu biết còn hạn chế, kinh nghiệm chưa
tích luỹ được nhiều, thời gian nghiên cứu ngắn, đứng trước một đề tài hết
sức phức tạp này em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Em rất
mong được sự đóng góp ý kiến và chỉ bảo của thầy cô, bạn bè về nội dung
và hình thức của khoá luận này.
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của
TS Vũ Chí Lộc, giảng viên bộ môn đầu tư và chuyển giao công nghệ
trường Đại học Ngoại Thương, cùng sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú ở
Vụ Đầu tư - Bộ Thương mại, Ban quản lý KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và
Đầu tư đã giúp em hoàn thành khoá luận này.

Hà nội tháng 12 - 2002
Sinh viên: Nguyễn Thị Hoàng Hà



Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

5

MỤC LỤC
Chương 1

Những vấn đề lý luận chung về KCN & KCX

1

Khái quát chung về KCN & KCX

1.1

Khái niệm và đặc điểm về KCN& KCX

1.1.1

Khu chế xuất
1.1.2

Khu công nghiệp

1.2


Điểm giống và khác nhau giữa KCN & KCX

1.3

Quan hệ giữa FDI và sự phát triển của KCN & KCX

2

Kinh nghiệm xây dựng KCN & KCX của một số nước và bài học
đối với Việt Nam

2.1

Kinh nghiệm từ sự thành công

2.1.1

Đài Loan

2.1.2

Thái Lan

2.1.3

Trung Quốc

2.2


Kinh nghiệm từ sự thất bại

2.2.1

Philippin

2.2.2

Thái lan

Chương 2

Thực trạng thu hút FDI vào KCN & KCX ở Việt Nam

1

Tình hình thu hút FDI và phát triển KCN & KCX ở Việt Nam
thời gian qua

1.1

Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời gian
qua

1.1.1

Nhận xét chung

1.1.2


Kết quả thu hút FDI

1.2

Hoạt động của các KCN & KCX ở Việt nam

1.2.1

Số lượng các KCN & KCX đã hình thành

1.2.2

Thực trạng xây dựng hạ tầng các KCN, KCX

1.2.3

Tỷ lệ lấp đầy
1.2.4

Tình hình sản xuất kinh doanh

1.2.5

Vấn đề lao động

1.2.6

Vấn đề môi trường

1.3


Đóng góp của KCN & KCX vào nền kinh tế quốc dân

Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

6

2

Vài nét khái quát về các KCN & KCX ở ba vùng kinh tế động lực

2.1

Vùng kinh tế động lực Bắc Bộ

2.2

Vùng kinh tế động lực Trung Bộ

2.3

Vùng kinh tế động lực Nam Bộ

3

Công tác quản lý của nhà nước đối với việc phát triển KCN &
KCX

3.1


Về chính sách đối với các doanh nghiệp trong KCN & KCX
3.2

Về cơ chế quản lý các doanh nghiệp trong các KCN & KCX

3.3

Một số bất cập trong công tác quản lý của nhà nước

3.4

Hướng giải quyết các vấn đề quản lý KCN trước mắt

4

Một số vấn đề tồn tại chủ yếu

4.1

Vấn đề khung pháp lý

4.2

Vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước và thủ tục hành chính

4.3

Vấn đề liên quan đến tổ chức bộ máy của Ban quản lý

4.4


Vấn đề liên quan đến đất đai và cơ sở hạ tầng

4.5

Vấn đề liên quan đến dịch vụ

Chương 3

Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào KCN

1

Định hướng xây dựng và phát triển các KCN, KCX

1.1

Mục tiêu

1.2

Định hướng

2

Một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển KCN & KCX ở Việt
Nam

2.1


Về chính sách, luật pháp

2.2

Về phía cơ quan nhà nước Trung ương

2.3

Về phía Ban quản lý và các địa phương


Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

7

CHƯƠNG 1
KHU CÔNG NGHIỆP VÀ KHU CHẾ XUẤT
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN
1. KHÁI QUÁT VỀ KHU CÔNG NGHIỆP VÀ KHU CHẾ XUẤT
1.1. Khái quát chung về Khu công nghiệp và Khu chế xuất
Trong những thập kỷ gần đây, đầu tư nước ngoài đặc biệt là đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI), đã trở thành một đặc điểm nổi bật trong xu thế
khu vực hoà và toàn cầu hoà nền kinh tế thế giới. Quan sát “dòng chảy” của
thị trường vốn quốc tế vào đầu thế kỷ XX, người ta thấy đó là một “dòng
chảy thuận”, tức là từ các nước tư bản phát triển thiếu vốn nhằm mục tiêu
thu lợi nhuận tối đa. Nhưng vào những năm 60, 70 “dòng chảy nghịch” đã
xuất hiện. Tức là dòng vốn đầu tư ra nước của các nước ngoài lại chảy
“ngược” vào các nước công nghiệp phát triển. Chẳng hạn tại Mỹ, các nhà
kinh tế đã thống kê và cho thấy rằng, nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Mỹ
tăng rất nhanh vượt cả tốc độ đầu tư của Mỹ ra nước ngoài, làm cho Mỹ trở

thành nước tiếp nhận đầu tư trực tiếp lớn nhất thế giới. Đến năm 1989, tổng
vốn đầu tư của nước ngoài lớn gần gấp đôi (2.288 tỷ USD)
[11]
.
Sở dĩ có hiện tượng này là do cuộc cách mạng khoa học công nghệ
đã làm cho hàm lượng khoa học, trí tuệ trong sản phẩm làm ra đóng vai trò
quyết định đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng lợi nhuận, chứ
không phải là nguyên liệu và giá nhân công hạ như trước kia. Do đó, cuộc
“chiến tranh kinh tế” ắt phải diễn ra trên thương trường giữa các nước công
nghiệp phát triển để tranh thủ kỹ thuật và công nghệ của nhau thông qua
việc thu hút nguồn đầu tư. Vì vậy sự cạnh tranh thu hút FDI cho nhu cầu
tăng trưởng kinh tế ở các nước ngày càng gay gắt.
Trong bối cảnh đó, các nước đang phát triển phải tìm kiếm con
đường thích hợp để khuyến khích, thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài,

[11]
Tạp chí cộng sản, số 11 năm 1997
Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

8

đặc biệt là từ các nước công nghiệp phát triển, các nước NICs Châu Á và
tiếp theo là các nước ASEAN đã sớm nhận ra và khắc phục.
Để hấp dẫn đầu tư nước ngoài, các nước cần có một môi trường đầu tư
thuận lợi, bao gồm môi trường pháp lý hoàn thiện và môi trường kinh
doanh thuận lợi. Nhiều nước đang phát triển tìm kiếm, lựa chọn và thực tế
đã thành công ở nhiều nước là xây dựng các KCN và KCX cũng như các
mô hình tương tự khác, để qua đó thu hút FDI trong khi chưa tạo được môi
trường đâu tư hoàn chỉnh trên phạm vi cả nước.
1.1.1. Khu chế xuất

Khái niệm: Khu chế xuất (Export processing zone - EPZ) là từ gọi tắt
của khu chế biến xuất khẩu. Nó được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau,
thậm chí có cả định nghĩa khác nhau.
Theo khái niệm của Tổ chức phát triển Công nghiệp của Liên hiệp
quốc UNIDO thì: KCX là một khu tương đối nhỏ phân cách về địa lý trong
một quốc gia nhằm mục tiêu thu hút các doanh nghiệp (chủ yếu là doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) hướng về xuất khẩu, bằng cách cung cấp
cho các doanh nghiệp những điều kiện về đầu tư và mậu dịch đặc biệt
thuận lợi so với phần lãnh thổ còn lại của nước chủ nhà. Đặc biệt, KCX cho
phép nhập khẩu hàng hoá dùng cho sản xuất xuất khẩu miễn thuế
[20]
.
Ở nước ta, theo quy định trong Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997, ban
hành kèm theo Quy chế Khu công nghiệp, Khu chế xuất, khu công nghệ
cao quy định: Khu chế xuất là KCN tập trung các doanh nghiệp chế xuất
chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ phục vụ sản xuất
hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không
có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định
thành lập.

[20]
Tạp chí thông tin lý luận, số 6 năm 1994
Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

9

KCX là một mô hình đã có lịch sử phát triển từ lâu, song việc hình
thành các KCX với ý nghĩa là một công cụ thu hút FDI và khuyến khích
sản xuất xuất khẩu đã trở thành một quan điểm chính sách phát triển công
nghiệp được áp dụng khá rộng rãi tại hàng loạt các quốc gia đang phát triển

trong vài thập kỷ gần đây. Khu chế xuất là hình ảnh của một thể chế pháp
lý đơn giản rõ ràng, gói gọn trong một bộ luật của KCX, đảm bảo quyền lợi
của các nhà đầu tư một cách thoả đáng, tạo sự an toàn, yên tâm đầu tư cho
họ. Các nước tiếp nhận FDI, đều muốn duy trì hình thức này vì nó không
trực tiếp cạnh tranh với sản phẩm sản xuất trong nước.
Đặc điểm:
Mặc dù KCX ở từng nước có quy định cụ thể khác nhau, song những
đặc trưng sau đây được coi là đặc điểm của một khu chế xuất điển hình.
 KCX là một khu đất thuộc lãnh thổ của một nước được quy hoạch
riêng ra, thường được ngăn bằng tường rào kiên cố để tách biệt hoạt
động với phần nội địa.
 Mục đích hoạt động của các KCX là thu hút các nhà sản xuất công
nghiệp nước ngoài và trong nước định hướng sản xuất xuất khẩu
bằng những biện pháp đặc biệt ưu đãi về thuế quan, về các điều kiện
mậu dịch và các loại thuế khác.
 Hàng hoá, tư liệu sản xuất nhập khẩu vào KCX để sản xuất hàng
xuất khẩu được miễn thuế hải quan (nếu nhập khẩu từ KCX vào nội
địa phải nộp thuế nhập khẩu).
 Những hoạt động trong khu chế xuất được sử dụng cơ sở hạ tầng tốt
như đường giao thông, thông tin liên lạc, cung cấp điện, nước và
giảm thiểu các thủ tục hành chính.
 Hàng hoá làm ra ở KCX chủ yếu để phục vụ xuất khẩu.
Tuy nhiên, ở các nước khác nhau, trong các thời kỳ khác nhau, có thể
mô hình KCX được vận dụng một cách khác nhau và có thể gọi bằng
Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

10

những cái tên không giống nhau. Nhưng dù có được gọi là gì đi chăng nữa
thì KCX (theo cách gọi thông thường) cũng là một hình thức đặc biệt thu

hút vốn đầu tư nước ngoài được nhiều quốc gia áp dụng, phát triển hoặc cải
tiến cho phù hợp với điều kiện của quốc gia mình.
1.1.2. Khu công nghiệp
Khái niệm:
Khu công nghiệp (Industrial Zone; Industrial Park), hay còn gọi là
KCN tập trung, là một quần thể liên hoàn các xí nghiệp công nghiệp xây
dựng trên một vùng có thuận lợi về các yếu tố địa lý, tự nhiên, về kết cấu
hạ tầng, về xã hội để thu hút vốn đầu tư (chủ yếu là đầu tư nước ngoài) và
hoạt động theo một cơ cấu hợp lý các doanh nghiệp công nghiệp và các
doanh nghiệp dịch vụ, nhằm đạt hiệu quả cao trong sản xuất công nghiệp
và kinh doanh.
Ở nước ta, theo quy định trong Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997, ban
hành kèm theo Quy chế Khu công nghiệp, Khu chế xuất, khu công nghệ
cao quy định
[9]
: Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp KCN
chuyên sản xuất hàng công nghiệp, thực hiện các dịch vụ sản xuất hàng
công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do
Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
KCN về cơ bản cũng giống như KCX là địa bản sản xuất công nghiệp
mà phần lớn là công nghiệp tiêu dùng, đều gồm những doanh nghiệp vừa
và nhỏ và phần lớn là các khu vực không có dân cư sinh sống.
Tuy vậy, điểm khác nhau cơ bản giữa hai loại hình này là: sản phẩm
sản xuất ra trong KCX chủ yếu phải xuất khẩu, còn sản phẩm của KCN vừa
xuất khẩu vừa được tiêu thụ ở thị trường nội địa, quan hệ giữa doanh
nghiệp KCX và thị trường nội địa là quan hệ ngoại thương, còn quan hệ
giữa doanh nghiệp KCN và thị trường nội địa là quan hệ nội thương. Hơn

[9]
Hướng dẫn đầu tư các các KCN, KCX, KCNC ở Việt Nam, NXB Thống Kê 1998

Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

11

nữa, xét trên góc độ thị trường quốc tế, KCX có thể được coi là khu vực
thương mại tự do, vì không có thuế xuất nhập khẩu, lại ít ràng buộc bởi các
biện pháp phi thuế quan.
KCN và KCX nhằm mục tiêu thu hút vốn đầu tư, chủ yếu là đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào các ngành công nghiệp chế tạo, chế biên gia công
xuất khẩu. Bên cạnh đó, mục tiêu quan trọng của việc hình thành KCN,
KCX là để tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư hạ tầng, vì trong KCN, KCX
các doanh nghiệp dùng chung các công tình hạ tầng, nên giảm được chi phí
trên một đơn vị diện tích và đơn vị sản phẩm, thực hiện phát triển công
nghiệp theo một quy hoạch thống nhất kết hợp giữa quy hoạch phát triển
ngành với quy hoạch lãnh thổ. Mặt khác, việc tập trung các doanh nghiệp
trong KCN, KCX sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn trong việc xử lý chất thải
công nghiệp, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao hiệu quả sử dụng đất,
các doanh nghiệp công nghiệp có điều kiện thuận lợi liên kết, hợp tác với
nhau, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh.
Ngoài ra, KCN, KCX còn là một mô hình kinh tế năng động và
“không quan liêu” phù hợp với nên kinh tế thị trường. Bởi vì, trong việc
phát triển và quản lý các khu này, các thủ tục hành chính đã được giảm
thiểu đến mức tối đa thông qua cơ chế “một cửa” tập trung vào Ban quản lý
các khu đó, trong khi chưa thể vận dụng rộng rãi trong phạm vi toàn quốc
trong thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Những chính sách áp dụng trong
các KCN, KCX gắn quyền lợi và nghĩa vụ của nhà đầu tư trong một hợp
đồng, giảm thiểu thủ tục hành chính, cùng với hệ thống quy định hữu hiệu
cho sản xuất kinh doanh, đo đó để tạo ra được sự an toàn, yên tâm cho các
nhà đầu tư.
Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D


12
Tiêu thức
so sánh
Khu chế xuất Khu công nghiệp Khu công nghiệp cao
Khái niệm
(Theo pham vi hoạt
động)
Hẹp nhất Rộng hơn khu chế xuất, nhưng hẹp
hơn khu công nghệ cao.
Khái niệm rộng nhất hiện nay.
Mục tiêu hoạt động Thu hút vốn đầu tư (chủ yếu là
FDI ), phát triển xuất khẩu, tăng
nguồn thu ngoại tệ, tạo công ăn
việc làm, tiếp thu chuyển giao
công nghệ.
Thu hút vốn đầu tư (chủ yếu là FDI ),
giải quyết vấn đề phát triển công
nghiệp, phát triển kinh tế, tạo công ăn
việc làm, tiếp thu chuyển giao công
nghệ.
Kết hợp giữa sản xuất và nghiên cứu
khoa học- triển khai, đào tạo, làm đòn
bẩy cho việc nâng cao trình độ công
nghệ, đáp ứng nhu cầu chiến lược công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thu
hút FDI.
Thị trường phục vụ Chủ yếu phục vụ thị trường
ngoài nước.
Thị trường trong nước cũng như ngoài

nước.
Thị trường trong nước cũng như ngoài
nước.
Nhân lực Sử dụng nhiều lao động, có ưu
tiên cho những người có trình
độ cao.
Sử dụng nhiều lao động, có ưu tiên cho
những người có trình độ cao.
Tập trung cho những người có năng lực
nghiên cứ và trình độ tay nghề cao.
Ngành hoạt
động
Các ngành truyền thống (nông
nghiệp, công nghiệp, hàng tiêu
Các ngành truyền thống và các ngành
công nghệ mới.
Các ngành mới và công nghệ cao : Sản
xuất định hướng R&D, công nghệ sinh
1.2 Điểm giống và khác nhau giữa Khu công nghiệp và Khu chế xuất
Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

13
dùng ) mà trong nước có lợi
thế so sánh và các ngành công
nghệ mới.
học, vật liệu mới, quang học, cơ khí
chính xác, điẹn tử vi mạch.
Cơ sở hạ tầng

Được cung cấp đầy đủ các yếu

tố hạ tầng kỹ thuật hiện đại
(điện nước, thông tin, xử lý chất
thải ), đạt các tiêu chuẩn quy
định cho hoạt động của các
doanh nghiệp.
Được cung cấp đầy đủ các yếu tố hạ
tầng kỹ thuật hiện đại (điện nước,
thông tin, xử lý chất thải ), đạt các
tiêu chuẩn quy định cho hoạt động của
các doanh nghiệp.
Hiện đại theo các tiêu chuẩn tiên tiến
nhất của thế giới, bao gồm các thuận lợi
về điện nước, mạng lưới bưu chính viễn
thông, môi trường phát triển công nghệ
cao.
Sản phẩm Sản phẩm công nghiệp chế tạo,
gia công, lắp ráp, chế biến xuất
khẩu và dịch vụ phục vụ sản
xuất công nghiệp xuất khẩu.
Sản phẩm công nghiệp chế tạo, gia
công, chế biến, dịch vụ sản xuất công
nghiệp. Các sản phẩm tạo ra bởi các
doanh nghiệp trong khu được dùng cho
xuất khẩu cũng như tiêu dùng trong
nội địa.
Sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao
được tiêu thụ trong và ngoài nước, bản
thân sản phẩm công nghệ cao được dùng
để ứng dụng vào sản xuất của các doanh
nghiệp trong khu hoặc được chuyển giao

ra bên ngoài.
Mật độ xây dựng xí
nghiệp
Diện tích xây dựng xí nghiệp
chiếm trên 70% diện tích toàn
khu.
Diện tích xây dựng xí nghiệp chiếm
trên 70% diện tích toàn khu.
Có nhiều công viên cây xanh, diện tích
dành cho xí nghiệp chiếm không quá
60% diện tích toàn khu.
Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

14
Điều kiện ưu đãi Được miễn thuế xuất nhập
khẩu, các thủ tục mua bán được
giải quyết nhanh gọn. Các
doanh nghiệp KCX nộp thuế
thu nhập doanh nghiệp là 10%
và được miễn thuế trong 4 năm
đối với doanh nghiệp sản xuất,
nộp 15% và được miễn trong 2
năm đối với doanh nghiệp dịch
vụ
Được miễn giảm thuế xuất nhập khẩu
đối với nguyên liệu phục vụ cho sản
xuất hàng xuât khẩu. Các doanh
nghiệp KCN nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp là 15% lợi nhuận đối với doanh
nghiệp xuất khẩu dưới 50% sản phẩm

và được miễn trong 2 năm, nộp 10%
đối với doanh nghiệp xuất khẩu trên
80% sản phẩm và được mễn thuế trong
2 năm.
Được miễn giảm thuế xuất nhập khẩu,
các doanh nghiệp KCNC nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp là 10% và được miễn
trong 8 năm, được ưu tiên trong xét
duyệt hưởng vốn ODA, vốn ngân sách,
có chính sách khuyến khích phát triển
riêng.
Quan hệ với thị
trường nội địa
Như đối với thị trường xuất
khẩu
Như đối với thị trường nội địa thông
thường. Đối với doanh nghiệp chế xuất
được hưởng ưu đãi như doanh nghiệp
KCX
Như đối với thị trường nội địa thông
thường. Đối với doanh nghiệp chế xuất
được hưởng ưu đãi như doanh nghiệp
KCX
Thành phần dân cư Không có dân cư trong lãnh thổ
của KCX, tại đây chỉ có các
doanh nghiệp hoạt động. KCX
đơn thuần chỉ là khu sản xuất.


(Giống như KCX)

Có thể có dân cư sinh sống. Thực chất
KCNC giống như một thành phố thu
nhỏ.

Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

15

1.3. Quan hệ giữa FDI và sự phát triển KCN, KCX
1.3.1. FDI là nguồn vốn chủ yếu để phát triển các KCN Việt Nam
Để phát triển kinh tế với mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hóa, dần
bắt kịp các nước công nghiệp phát triển, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ
trương rất đúng đắn là cho phép ra đời các KCN. Để phát triển các KCN,
KCX, ngoài việc xây dựng cơ sở hạ tầng thật tốt, hiện đại thì cần phải có
các doanh nghiệp đầu tư vốn, công nghệ, kỹ thuật tiên tiến để huy động
trong các KCN đó, hay nói cách khác là lấp đầy các KCN, KCX. Tuy nhiên
nguồn vốn trong nước luôn luôn hạn chế, phải xuất khẩu mới có tiền để
mua sắm thiết bị phát triển các KCN, KCX. Nước ta lại có kim ngạch xuất
khẩu nhỏ bé nên khả năng nhập khẩu thiết bị, máy móc, nhất là máy móc
hiện đại không nhiều. Nhà nước hay doanh nghiệp Nhà nước không thể
kham nổi việc này. Chính vì vậy mà cần phải có vốn đầu tư nước ngoài.
Các nguồn vốn nước ngoài có thể vào Việt Nam qua hai con đường:
đường chính thức và đường tư nhân hoặc vay nợ nước ngoài. Hình thái chủ
yếu trong con đường chính thức là viện trợ, bao gồm viện trợ không hoàn
lại và cho vay dài hạn với lãi suất thấp từ các tổ chức quốc tế hoặc chính
phủ các nước. Viện trợ không hoàn lại tất nhiên rất tốt cho chúng ta vì nó
không trở thành nợ, nhưng những khoản này thường chỉ ở quy mô nhỏ và
thường giới hạn ở các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, cứu trợ Ngoài ra, nguồn
vốn viện trợ dành cho các nước phát triển thường kèm theo các điều kiện cả
về kinh tế lẫn chính trị. Do đó nếu chúng ta dùng nguồn vốn này thì sẽ phải

chịu ràng buộc hay sứ ép từ các nhà đầu tư cấp vốn. Còn việc vay dài hạn
với lãi suất thấp từ các tổ chức quốc tế, chính phủ các nước thì rất dễ trở
thành gánh nợ cho nền kinh tế nếu quản lý, sử dụng không hiệu quả. Do
vậy việc đầu tư để phát triển các KCN Việt Nam bằng nguồn vốn nước
ngoài theo con đường chính thức không có tính khả thi.
Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

16

Nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam qua con đường tư nhân hoặc vay
nợ thương mại có thể từ đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đầu tư gián tiếp
hay đầu tư chứng khoán (Portfolio) và cho vay với lãi suất thương mại trên
thị trường (vay thương mại). Với vốn vay thương mại thì lãi suất thường
cao nên nguồn vốn vay dễ trở thành gánh nợ về nợ nước ngoài trong tương
lai nếu dùng để phát triển các KCN không hiệu quả. Đầu tư gián tiếp tự nó
không trở thành gánh nặng về nợ nước ngoài, nhưng sự thay đổi đột ngột
trong hành động của nhà đầu tư nước ngoài (bán chứng khoán về nước) sẽ
ảnh hưởng mạnh đến thị trường và gây biến động tới tỷ giá, mức độ lạm
phát và các mặt khác của nền kinh tế vĩ mô. Hơn nữa thị trường chứng
khoán Việt Nam còn quá non trẻ nên việc thu hút vốn qua kênh đầu tư gián
tiếp để phát triển KCN có thể có hiệu quả trong tương lai chứ không phải
thời điểm này.
FDI cũng là hình thái không trở thành nợ nhưng khác với đầu tư gián
tiếp, đây là vốn có tính chất bén rễ ở nước nhận đầu tư nên không dễ bị rút
ra trong một thời gian ngắn. Điều này hết sức quan trọng cho nước ta để có
thể lập kế hoạch dài hạn cho việc phát triển các KCN, KCX, ít nhất là về
mặt nguồn vốn. Ngoài ra một điều đáng chú ý nữa là, FDI không chỉ tiếp
nhận vốn mà còn tiếp nhận cả công nghệ và tri thức kinh doanh, FDI góp
phần xây dựng một đội ngũ lao động có tình độ cao hơn nên dễ dàng thúc
đẩy các KCN phát triển lên một trình độ cao hơn.

Mỗi hình thái của vốn đầu tư nước ngoài đều có những đặc tính riêng,
song có thể thấy rằng, ở giai đoạn này, cơ cấu tư bản nước ngoài có lợi nhất
để phát triển các KCN là FDI.
Như vậy, chính vì các yếu tố trên mà FDI có thể được coi là nguồn
vốn quan trọng nhất để phát triển các KCN của nước ta, có ảnh hưởng lớn
đến sự thành công hay thất bại của KCN, KCX.
1.3.2. KCN, KCX là nơi thu hút FDI
Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

17

Về cơ bản, KCN và KCX nhằm mục tiêu thu hút vốn đầu tư, chủ yếu
là đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành công nghiệp chế tạo, chế biên
gia công xuất khẩu. Theo thống kê đến hết tháng 12 năm 1999, FDI chiếm
một tỷ trọng khá lớn trong các KCN, KCX, với 41,14% tổng vốn phát triển
hạ tầng, 81,13% tổng vốn của các doanh nghiệp trong KCN, 65,3% tổng số
dự án và 86,8% tổng vốn đầu tư của các dự án trong KCN Việt Nam.
Thu hút FDI là mục tiêu quan trọng nhất của KCN. Với tính chất là
"vùng lãnh thổ" hoạt động theo một qui chế riêng trong môi trường đầu tư
chung của cả nước, KCN trở thành công cụ hữu hiệu thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh trong khu và
thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của cả nền kinh tế.Ttrong nhiều
trường hợp, KCN được xem như một cầu nối trung gian để thu hút vốn đầu
tư nước ngoài vào các phần lãnh thổ khác của đất nước.
Trong phạm vi bài khoá luận này, khái niệm KCN bao gồm KCN,
KCX, KCNC.
II. KINH NGHIỆM XÂY DỰNG KCN, KCX CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI
HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
2.1. Kinh nghiệm từ sự thành công
2.1.1. Đài Loan

Có thể nói, Đài Loan là một trong những quốc gia vừa đi tiên phong
nhưng lại vừa có thành công trong việc phát triển KCN, KCX. Từ cuối
những thập kỷ 50, các nhà hoạch định chính sách kinh tế Đài Loan đã nhận
định vị thế của Đài Loan trong hệ thống kinh tế khu vực. Theo họ, Đài
Loan thuộc loại hình kinh tế hải đảo, đất hẹp, người đông, tài nguyên
khoáng sản nghèo nàn, mức độ phục thuộc của nền kinh tế trong nước vào
hoạt động Ngoại thương rất lớn. Vì vậy, để tồn tại và phát triển thì việc
hình thành một cơ cấu kinh tế hướng ngoại mang ý nghĩa sống còn đối với
Đài Loan.
Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

18

Để có một cơ cấu kinh tế hướng ngoại, tất nhiên không thể dựa vào
phát triển nông nghiệp, ngư nghiệp mà phải dựa vào phát triển công nghiệp.
Đài Loan đã chọn cho mình một phương thức thích hợp để phát triển công
nghiệp và tiến hành công nghiệp hoá. Xuất phát từ đặc điểm trong nước và
tình hình thế giới từ những năm 50 và thập kỷ 60, Đài Loan đã chủ trương
phát triển các ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng
nhiều lao động.
Các xí nghiệp mới được xây dựng với quy mô vừa và nhỏ là phổ biến
và được xây dựng tập trung ở các khu vực nhất (là KCN và KCX) theo quy
định của chính quyền, các xí nghiệp ở trong các KCN có nhiều thuận lợi:
điều kiện kỹ thuật hạ tầng (điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc )
hoàn hảo, được hưởng nhiều ưu đãi về tài chính như được miễn, giảm thuế
một số năm, được hưởng thuế rất thấp
Trong 30 năm qua, hoạt động của các KCX, KCN đã đóng vai trò rất
quan trọng đối với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa, chuyển đổi cơ
cấu kinh tế Đài Loan. Đại bộ phận giá trị hàng xuất khẩu là được sản xuất
trong các KCX, KCN. Kể từ năm 1966, khi thành lập KCX đầu tiên, đến

nay ở Đài Loan đã tạo dựng được 3 KCX, 80 KCN, 2 KCNC. Riêng 3
KCX, và 2 KCNC hàng năm đã xuất khẩu 22 tỷ USD
[13]
. Phần lớn các
KCN, KCX ở Đài Loan do Nhà nước trực tiếp đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ
thuật, còn lại do tư nhân và các tổ chức đoàn thể đầu tư xây dựng
[13]
.
Ở Đài Loan có một điều mà chúng ta thấy rõ: hầu như huyện nào cũng
có KCN, mỗi KCN là một “hạt nhân” thúc đẩy mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh trong vùng. Trong những năm tới, ở Đài Loan cùng với đổi mới thiết
bị kỹ thuật, thay đổi ngành nghề các xí nghiệp và hiện đại hoá hạ tầng kỹ
thuật các KCN hiện có, sẽ tiếp tục xây dựng một số KCN để đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế của Đài Loan trong thế kỷ 21.

[13]
Tạp chí thông tin Khu công nghiệp Việt Nam, số 6 tháng 3 năm 1998
Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

19

Phải chăng đây là một kinh nghiệm chúng ta nên tham khảo: muốn
công nghiệp hoá, hiện đại hoá với tốc độ cao và hiệu quả, nhất thiết phải
đẩy mạnh việc xây dựng và phát triển các KCN (bao gồm cả KCX và
KCNC) tuỳ theo điều kiện cụ thể mỗi tỉnh có thể có một vài KCN, thậm chí
huyện cũng nên có KCN điều cốt lõi là phải làm tốt công tác qui hoạch
phát triển công nghiệp nói chung và qui hoạch hình thành các KCN trên
phạm vi cả nước đảm bảo tính thống nhất và mối liên hệ liên hoàn, tương
hỗ trong phát triển giữa các KCN với hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp và quá trình đô thị hoá, phải đạt được mỗi KCN là một trung tâm có

tác dụng thúc đẩy mọi hoạt động kinh tế xã hội trong vùng theo chiều
hướng kinh tế mở.
1.1.2. Thái Lan:
Quá trình hình thành và phát triển các KCN và KCX
Ý tưởng xây dựng KCN của Thái Lan được hình thành từ những năm
đầu 60, 15 năm sau Luật KCN được hình thành. Ở Thái Lan nhà nước quy
hoạch các vùng phát triển KCN dựa trên quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế xã hội của đất nước. Đối với các KCN xây dựng theo quy hoạch được
Nhà nước bảo trợ, có trường hợp xây dựng KCN bị lỗ nhưng vẫn tiến hành
xây dựng vì để đảm bảo cân bằng trong phát triển, như các KCN ở phía
Bắc Thái Lan. Bên cạnh đó do cơ chế thị trường, tư nhân có thể xin phép
xây dựng KCN tại các vùng không nằm trong quy hoạch, miễn là họ có thị
trường.
Đặc điểm của KCN, KCX của Thái Lan
Khác với mô hình các KCN, KCX của Đài Loan hay Malaysia, các
KCN của Thái Lan không nằm tách biệt mà là một bộ phận nằm trong
KCN tập trung (tiếng Anh gọi là “Industrial - Estate”). Mỗi “Industrial -
Estate” của Thái Lan thường gồm 2 khu - KCN tổng hợp (General

[13]

Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

20

Industrial Zone), gồm xí nghiệp sản xuất hàng tiêu thụ trong nước và hoặc
làm hàng xuất khẩu; KCX (Export Processing Zone) chỉ sản xuất hàng xuất
khẩu.
Chính sách ưu đãi dành cho đầu tư vào KCN của Thái Lan khá rộng
rãi, (đầu tư vào KCN cũng được ưu đãi như vào KCX, trừ miễn thuế xuất

nhập khẩu hàng hoá), đặc biệt là Thái Lan cho phép nhà đầu tư nước ngoài
có quyền sở hữu đất trong KCN (Malaysia chỉ “bán” có thời hạn tới 99 năm,
Indonesia cho thuê tối đa là 60 năm, Trung Quốc cho “quyền sử dụng đất”
tối đa là 50 năm nhưng được quyền chuyển nhượng và thế chấp
[12]
.
Tổ chức quản lý
Trước đây, các nhà đầu tư Thái Lan tự mua đất để xây dựng nhà máy,
Nhà nước không quản lý được, nhất là về mặt bảo vệ môi trường. Năm
1972, IEAT được thành lập và được giao nhiệm vụ quản lý Nhà nước thống
nhất về phát triển KCN ở Thái Lan. Ngoài ra, Cục còn có chức năng kinh
doanh, trong trường hợp này IEAT như là một doanh nghiệp Nhà nước.
Tất cả cán bộ công nhân viên chức của IEAT làm việc tại các KCN là
do IEAT tuyển dụng, bổ nhiệm và trả lương, IEAT tự chi trả lương cho cán
bộ công nhân viên chức trên kết quả hoạt đông kinh doanh của IEAT.
Trường hợp kinh doanh thua lỗ thì nhà nước không đứng ra bù lỗ, không
trả lương thay mà đứng ra bảo lãnh cho vay để trả lương, năm tiếp theo
kinh doanh tốt hơn hơn để trả nợ.
Chính sách phát triển
Đối với xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng, Nhà nước không ưu
đãi cho vay vốn, tuy nhiên Nhà nước đứng ra bảo lãnh cho các công ty Nhà
nước vay mà không phải thế chấp. Mọi ưu tiên dành cho các doanh nghiệp
trong KCN. Mục tiêu là lấp đầy KCN và phát triển công nghiệp cân bằng
trong cả nước. Nhằm thực hiện mục tiêu đó, Thái Lan phân 3 vùng phát

[12]
Tạp chí thời báo kinh tế Sài Gòn, số 24 năm 1993
Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

21


triển KCN với những ưu đãi khác nhau để khuyến khích đầu tư vào những
khó khăn xa Băng cốc, cụ thể như sau:
 Thuế thu nhập công ty: Vùng 1 được miễn trong 3 năm, vùng 2 được
miễn trong 7 năm, vùng 3 được trong 7 năm và được giảm 50%
trong 8 năm tiếp theo.
 Thuế nhập khẩu thiết bị máy móc: Vùng 1 và vùng 2 được giảm giá
50% và vùng 3 được giảm hoàn toàn.
 Thuế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất: Trường hợp cả vùng 3 xuất
khẩu ít nhất 30%, vùng 1 và vùng 2 được miễn 1 năm, vùng 3 được
miễn trong 5 năm
[13]
.
Ngoài những ưu đãi chung, KCX còn được hưởng những ưu đãi khác
như được miễn hoàn toàn thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị và nguyên liệu
sản xuất, miễn hoàn toàn các loại thuế khác như thuế giá trị gia tăng, thuế
tiêu thụ, thuế phụ thu.
Dịch vụ một cửa
Mọi khách hàng muốn đầu tư vào KCN chỉ cần đến IEAT là có đủ các
thông tin cần thiết. Họ sẽ được giới thiệu mạng lưới KCN, ngành nghề
khuyến khích được đầu tư, vị trí các KCN, các ưu đãi, các thủ tục giấy tờ
cần giới thiệu. Sau một ngày họ được hướng dẫn chu đáo và làm mọi thủ
tục và một tuần sau họ sẽ nhận được giấy phép và có thể bắt tay vào xây
dựng nhà xưởng.
Trong trường hợp ở xa, nhà đầu tư chưa đến Thái Lan được, họ thông
qua mạng Internet tìm hiểu KCN mình quan tâm, lô đất mình lự chọn. Sau
đó fax cho IEAT, khi được IEAT chấp thuận họ sẽ đến Băng cốc ký hợp
đồng, tự hoàn thiện để giải quyết yêu cầu của khách hàng. Bởi vì, một cửa
nhung nhà đầu tư phải chờ đọi lâu cũng có nghĩa như nhiều cửa.
Bảo vệ môi trường



Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

22

Một trong năm mục tiêu xây dựng KCN của Thái Lan là đảm bảo môi
trường trong sách thông qua Luật KCN và các quy chế bắt buộc để bảo vệ
môi trường. Thái Lan đưa ra nguyên tắc công bằng - Người gây ô nhiễm
môi trường phải đền bù thiệt hại. Do vậy, khi thành lập KCN phải có dự án
thiết kế xây dựng hệ thống xử lý nước thải và được cơ quan có thẩm quyền
về môi trường xem xét và phê duyệt. Mọi chất thải phải được xử lý và giải
phóng triệt để, nhà đầu tư phải chi trả chi phí xử lý chất thải. IEAT là cơ
quan được uỷ quyền đặt đại diện tại các KCN để giám sát, kiểm tra môi
trường. Theo định kỳ lấy các mẫu chất thải dể phân tích và có các quyết
định kịp thời khi phát hiện các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường bị vi phạm. Vì
vậy, các KCN của Thái Lan được coi là các KCN xanh, sạch, đẹp.
Bài học kinh nghiệm
Trong vòng khoảng 2 thập kỷ gần đây, Thái Lan đã duy trì được tốc
độ tăng trưởng cao từ 8 - 9%/năm. Đến nay Thái Lan đã trở thành một số
nước có nền công nghiệp tương đối phát triển trong khu vực. Một nhân tố
quan trọng đóng góp vào thành công của Thái Lan là các KCN và KCX
Từ cơ chế, chính sách và thực tiễn hoạt động của các KCN, Thái Lan
đã rút ra một số bài học kinh nghiệm.
Việc thu hút đầu tư nước ngoài vào các KCN, KCX đang là cuộc cạnh
tranh ngày càng khó khăn, gay gắt. Trong khi đó, những lợi thế tương đối
mà Thái Lan đã có trước đây như lao động, đất đai ngày càng giảm đi; tài
nguyên gỗ, thiếc, cao su, hải sản thì cạn kiệt; giá đất và lao động tăng cao.
Để thu hút đầu tư trong tình hình mới, Thái Lan cần phải có mô hình
KCN hợp lý, đặc biệt chính sách, luật lệ, thủ tục đơn giản, thực hiện “chế

độ một cửa”. Theo một công trình nghiên cứu mới đây của IEAT, mô hình
KCN như hiện nay vừa thiếu sức cạnh tranh vừa khó đạt được mục tiêu đề
ra, vì hình hình thực tế đã có nhiều thay đổi. IEAT đang có đề án trình

[13]
Tạp chí Thông tin Khu công nghiệp Việt Nam, số 6 tháng 3 năm 1998
Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

23

Chính phủ về chiến lược và kế hoạch xây dựng KCN và KCX của Thái Lan,
trong đó có việc bổ sung sửa đổi Bộ luật năm 1979 về KCN, định hướng
xây dựng một số ngành công nghiệp then chốt (trong đó có sắt thép, hoá
dầu, điện tử, dệt, công nghiệp giấy và chế biến nông sản). Quy hoạch xây
dựng 9 trung tâm công nghiệp mới ở các tỉnh và địa phương.
2.1.3. Đặc khu kinh tế của Trung Quốc
Mô hình đặc khu kinh tế của Trung Quốc cũng có những đặc trưng cơ
bản giống như các KCN, KCX ở các nước khác (về vị trí địa lý, về cơ sở hạ
tầng, các chính sách, chế độ ưu đãi ), nhưng mục tiếu đặt ra lớn hơn và
lĩnh vực hoạt động kinh doanh rộng hơn nhiều so với KCN, KCX, từ: công
nghiệp, nông nghiệp đến dịch vụ, du lịch, tài chính, ngân hàng được triển
khai trên một quy mô rộng lớn (hàng trăm km
2
) và rất đông dân. Tuy nhiên
những thành công của mô hình phát triển các đặc khu kinh tế của Trung
Quốc cùng là một kinh nghiệm có thể áp dụng trong phát triển các KCN,
KCX.
Dựa trên kinh nghiệm phát triển khu mậu dịch tự do, KCX và cảng tự
do của các nước trên thế giới và điều kiện thực tế của nước mình, Trung
Quốc đã tiến hành thử nghiệm để cải cách và việc đẩu tiên là chọn một số

khu vực ven biển thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế với nước ngoài xây
dựng thành các đặc khu kinh tế. Đến nay Trung Quốc đã xây dựng 5 đặc
khu kinh tế là: Thẩm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu (tỉnh Quảng Đông), Hạ
Môn (tỉnh Phúc Kiến) và tỉnh Hải Nam.
Mục tiêu của việc hình thành đặc khu kinh tế: Đó là cửa ngõ mở ra
bên ngoài, thu hút vốn đầu tư, kỹ thuật, công nghệ và kinh nghiệm quản lý
kinh tế tiên tiến của nước ngoài. Đặc khu kinh tế là nơi thực hiện các chính
sách thể chế mới của Trung Quốc, nếu thành công sẽ áp dụng cho các khu
vực khác trong nước là đầu tầu kích thích lôi kéo nội địa cùng phát triển.
Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

24

Sau gần 20 năm phát triển, các mô hình đặc khu kinh tế của Trung
Quốc tỏ ra rất thành công, được các nước đánh giá cao. Khi mới thành
thành lập xuất phát điểm của 5 đặc khu kinh tế rất thấp kém, nhưng đến
cuối năm 1996, 5 khu đặc khu kinh tế có diện tích 35.000 km
2
và dân số
10,2 triệu người, chiếm 0,36% diện tích nước và 0,78% dân số đã đạt được
giá trị xuất nhập khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài xấp xỉ bằng 1/3 của
cả nước
[14]
.
Những nguyên nhân dẫn đến thành công của các đặc khu kinh tế của
Trung Quốc có thể tổng hợp như sau:
 Trước hết được sự quan tâm đặc biệt và quyết tâm cao của Đảng,
Nhà nước và các địa phương trong việc xây dựng các đặc khu.
 Thực hiện nhất quán chính sách đầu tư nước ngoài, coi các doanh
nghiệp có vốn đầu tư ngước ngoài đặt trên đất Trung Quốc là của

Trung Quốc. Trong thu hút đầu tư nước ngoài, lấy lợi ích cơ bản và
lâu dài làm chủ yếu, không tham một dĩa bỏ cả mâm mà nuôi gà đẻ
trứng; chính vì vậy, các chính sách ưu đãi về tài chính rất rộng rãi
cho các đặc khu. Đa dạng hoá các loại hình thức đầu tư nước ngoài.
Ngoài các hình thức đầu tư trực tiếp của nước như hợp doanh, liên
doanh, 100% vốn nước ngoài, Trung Quốc còn có thêm các hình
thức: liên doanh cùng khai thác, chuyển giao kỹ thuật, vay vốn, mua
trái phiếu, cổ phiếu
 Trung Quốc tiến hành thực nghiệm cơ chế quản lý kinh tế và hành
chính mới theo nguyên tắc: “một cửa, mộ đầu mối”, đơn giản hoá thủ
tục hành chính, bộ máy quản lý gọn nhẹ, đối xử bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế trong đặc khu trên tất cả các mặt: thuế, thương
mại, ngoại hối, xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh

[14]
Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam, Số 8 tháng 5 năm 1998

Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D

25

 Hình thức huy động vốn để phát triển hạ tầng rất phong phú. Ngoài
các hình thức huy động vốn như ở nước ta như vay ngân hàng, hợp
tác với nước ngoài, phát hành trái phiếu, Trung Quốc còn có các
chính sách sau: cho đặc khu giữ lại quyền sử dụng đất trong 10 năm
đầu và đến năm 1989 được giữ lại tiền thu ngân sách vượt chỉ tiêu
trung ương giao để phát triển hạ tầng. Ngoài ra người nông dân được
quyền góp vốn bằng giá trị hoa lợi và tái sản trên mảnh đất của họ để
hưởng cổ tức thay vì theo cách làm cổ điển là nhận đền bù.
 Việc lựa chọn đúng địa điểm, sau đó là công tác quy hoạch phải làm

trước; xác định bước đi ban đầu cho phù hợp từ nhỏ rồi mở rộng ra,
từ đơn giản đến phức tạp (ban đầu ở Thâm Quyến là gia công lắp ráp,
tới năm 1992 mới phát triển công nghiệp chế tạo và sản phẩm có
hàm lượng kỹ thuật cao), có chính sách đúng và kiên trì tổ chức thực
hiện.
Tuy nhiên, tác động tiêu cực của các đặc khu thể hiện ở một số mặt:
thẳm lậu hàng hoá từ đặc khu vào nội địa, buôn bán trốn thuế, gian lân
thương mại, làm hàng giả, lối sống thực dụng phát triển, tệ nạn xã hội theo
đà phát triển kinh tế tăng lên, do phát triển nhanh nên gặp khó khăn trong
quá trình đô thị hoá. Thực tiễn cho thấy, tác động xấu nói trên là không
tránh khỏi, muốn xoá bỏ hoàn toàn là không hiện thực, Trung Quốc đã có
nhiều biện pháp nhằm hạn chế tới mức thấp nhất những tiêu cực đó.
2.2. Kinh nghiệm từ sự thất bại
2.2.1. Philippin
Năm 1960, Philippin quyết định chuyển đô thị Mariveles thành một
cảng nhập cảnh và thành lập cơ quan chịu trách nhiệm về Ngoại thương để
lập kế hoạch phát triển và quản lý KCX. Đến tháng 12 năm 1972 đổi tên
thành KCX Bataan (BEPZ).

×